Trận Bạch Đằng năm 938 là một trận đánh giữa quân dân Tĩnh Hải quân do Ngô Quyền lănh đạo đánh với quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Kết quả, người Việt giành thắng lợi nhờ kế sách cắm cọc nhọn dưới ḷng sông Bạch Đằng của Ngô Quyền. Nghệ thuật đóng cọc gỗ trên sông Bạch Đằng thật tài t́nh.
Các kết quả nghiên cứu trong ṿng 25 năm, đặc biệt là từ năm 2009 đến nay đă đưa đến nhiều thông tin quư báu về di tích băi cọc Bạch Đằng.
Cùng với băi cọc Yên Giang (TX Quảng Yên, Quảng Ninh), sự phát hiện thêm các băi cọc mới ở cánh đồng Vạn Muối và cánh đồng Má Ngựa (xă Nam Ḥa, Yên Hưng) cùng các ḍng chảy cổ, cũng như địa h́nh, địa mạo chiến trường xưa đă cung cấp những bằng chứng có sức thuyết phục cao cho chiến lược và chiến thuật của danh tướng Trần Hưng Đạo.
Băi cọc Bạch Đằng.
Tuy nhiên, các ư kiến về ư đồ chiến lược và diện mạo chiến trường vẫn mới chỉ là giả thiết. Hăy thử nh́n nhận lại chiến trường xưa, dựa trên việc phân tích các tư liệu khảo cổ học.
Nhận diện địa h́nh trận Bạch Đằng
Từ năm 1988, các cuộc khảo sát và nghiên cứu đă mang đến những hiểu biết cơ bản về địa h́nh, địa mạo và thủy văn vùng chiến trường Bạch Đằng. Đặc biệt, các kết quả khảo sát năm 2009 và khoan mẫu nghiên cứu địa chất năm 2011 của đoàn nghiên cứu quốc tế cũng nhận thấy khá rơ các đặc điểm địa mạo và sông ng̣i ở khu vực Quảng Yên và đảo Hà Nam (huyện Yên Hưng). Kết hợp các tài liệu lịch sử, địa chất và khảo cổ học, cảnh quan vùng chiến trường xưa có thể thấy nó bao gồm một vùng rộng lớn từ núi U Ḅ đến ghềnh Cốc, dài chừng 5km, rộng chừng 2 - 4 km, tính từ bờ tây sông Bạch Đằng sang khu vực có các băi cọc đồng Vạn Muối và đồng Má Ngựa ở đảo Hà Nam. Những dấu vết c̣n lại của sông Kênh trên các cánh đồng lúa hiện nay và ḍng chảy cổ trong các hố đào và các mũi khoan chính là một phần của các ḍng chảy đó. Như vậy, sông Bạch Đằng xưa là hết sức rộng lớn và hiểm trở. Khi nước triều lên, cảnh quan khu vực sóng nước mênh mông hùng vĩ xem kẽ các chỏm đá vôi cao vút đúng như Trương Hán Siêu - môn khách của Trần Hưng Đạo, mô tả trong "Bạch Đằng giang phú”: "Bát ngát sóng ḱnh muôn dặm/ Thướt tha đuôi trĩ một màu/ Nước trời một sắc/ Phong cảnh ba thu”...
Những băi cọc phát hiện được gần đây cho thấy Trần Hưng Đạo đă tận dụng tối đa địa h́nh tự nhiên này và tính toán để chặn được tất cả những lối thoát có thể theo các ḍng chảy này, mà chốt chặn xa nhất hiện biết về phía nam là băi cọc đồng Má Ngựa.
Nghệ thuật đóng cọc gỗ trên sông Bạch Đằng
Việc khai quật và nghiên cứu các băi cọc Bạch Đằng cho thấy: Ở di tích Yên Giang, hàng ngàn cọc đă được nhân dân phát hiện. Trong các hố khai quật, ít nhất 43 cọc đă được lấy lên. Nhiều cọc được bảo tồn trong hố trưng bày tại chỗ, một số cọc hiện nay c̣n nh́n thấy trong các hồ nuôi cá. Các nhà nghiên cứu nhận định băi cọc đă xuất lộ có diện tích 115/120 x 20/25m (khoảng 3000 m2), chạy theo chiều đông bắc - tây nam. Phần lớn các cọc được cắm thẳng đứng vào lớp phù sa màu hồng, cách nhau chừng 1m. Khi nghiên cứu độ mớn nước của thuyền chiến Nguyên và quy luật thủy triều trên sông Bạch Đằng, các cọc ở khu vực khai quật được cho là để làm hẹp ḍng sông và chặn thuyền quân Nguyên vào lúc nước triều cao nhất. Khi nước triều xuống thấp nhất, các cọc sâu hơn ở ḷng sông có thể đă tham chiến, nhưng hiện nay đă mất hoặc chưa xác định được.
Việc khảo sát và khai quật khu di tích băi cọc đồng Vạn Muối đă xác định phạm vi phân bố của các cọc hiện c̣n trong khu vực có chiều bắc - nam là hơn 150m và chiều đông - tây là hơn 40m (khoảng hơn 6000m2), phát triển về phía nam doi đất cao Đồng Cốc. Tuy nhiên, có thể nói rằng diện tích và số lượng cọc c̣n lại có khả năng lớn hơn nhiều, mà do mức nước sâu nên chúng ta khó có thể phát hiện hết bằng phương pháp khảo sát trên bề mặt. Sự phân bố của khu vực này có xu thế ăn lan ra phía nhánh sông Rút. Như vật, có khả năng nó được xây dựng nhằm thu hẹp ḍng chảy này và tạo chướng ngại vật cho vùng băi lầy trên đảo Hà Nam.
Kết quả khảo sát và khai quật di tích đồng Má Ngựa cộng với các dữ kiện hiện biết cho thấy băi cọc c̣n lại có quy mô khoảng 70m theo chiều đông tây, 30m theo chiều bắc-nam (khoảng 2.100 m2). Kết quả khảo sát và khoan thăm ḍ cho thấy địa h́nh khu vực này gồm nhiều g̣ đá, là sự tiếp tục của ghềnh Cốc trên sông Bạch Đằng, xen lẫn với các ḍng chảy lớn nhỏ.
Mặc dù các băi cọc đều không c̣n nguyên vẹn, nhưng với các kết quả nghiên cứu mới nhất từ đồng Vạn Muối và đồng Má Ngựa, có thể thấy các băi cọc được tổ chức rất khoa học và áp dụng nhiều kinh nghiệm trong nhân dân. Các cọc lớn (đường kính 20 - 30cm) thường được sử dụng ở khu vực có ḍng chảy (ḷng các sông nhánh nhỏ), cắm đứng vào lớp cát bùn đáy sông. Các cọc nhỏ hơn (phổ biến có đường kính 8 - 15cm) thường được đóng ven bờ, trong băi triều, theo nhiều hướng khác nhau, nhưng thường là hướng ngược với ḍng chảy. Các cọc ven bờ thường bố trí thành cụm, có hướng ngược nhau hoặc ken thêm cọc nhỏ dưới chân. Các cụm cọc được bố trí dích dắc (đồng Vạn Muối) hoặc tạo thành một dăy tường thành dày đặc (đồng Má Ngựa).
Dấu tích một số mẩu gỗ nhỏ cho thấy có khả năng dây néo, chốt gỗ được sử dụng trong quá tŕnh dộng lắc nơi nước sâu. Gỗ sử dụng gồm nhiều loại. Các cọc lớn đóng trong ḷng sông có thể đă sử dụng gỗ tứ thiết (đinh, lim, sến, táu) như các nghiên cứu trước đây đă nhận định. Và cả 3 băi cọc đă phát hiện đều cho thấy quy mô rất rộng lớn, có tính chất pḥng thủ chiến lược cao, được bố trí ở những vị trí rất hiểm yếu, vừa có khả năng thu hẹp các ḍng chảy, vừa phối hợp với các ghềnh đá tạo vật cản cho thuyền và gây khó khăn cho tác chiến trên bờ, trong trường hợp đổ bộ. Ngược lại, rơ ràng lối bố trí dích dắc và tạo thành rào cản ở một số vị trí có tác dụng hỗ trợ các thuyền nhỏ và quân bộ của Đại Việt.
Với một trận địa được bố trí tài t́nh như vậy, nhà Trần đă tính toán rất chính xác để đón lơng được thuyền quân Nguyên. Chúng hoặc sẽ phải chen chúc vào khu vực giữa ḍng sông đă bị thu hẹp và vướng các ghềnh đá hoặc bị đẩy vào những cái bẫy đă đặt ra.
Cho đến nay, ngoài các truyền thuyết và di tích hiện c̣n, nhiều dấu vết của trận chiến đă hé lộ từ những kết quả khảo sát và khai quật khảo cổ học ở khu vực Yên Giang, trên đảo Hà Nam và trong phạm vi rộng hơn của chiến trường. Những dấu tích này chứng thực và làm rơ hơn những ǵ đă được ghi chép và c̣n lưu lại trong trí nhớ của nhân dân.