43 năm thời gian qua mau.
Tôi vẫn nghỉ mình còn là lính và nghỉ gì về những người lính.
.......
Phần thiệt thòi luôn luôn về phía người lính và gia đình.
Chúng ta đã biết đến những khải hoàn môn vĩ đại, những nghĩa trang thẳng đều những mộ bia san sát, những đài Chiến Sĩ Trận Vong, những ngày lễ lớn với đầy đủ lễ nghi quân cách, những vòng hoa tang, những bản nhạc buồn hay tiếng kèn truy điệu làm não lòng người. Nhưng những người lính đã chết không bao giờ sống lại và những tham vọng của giới cầm quyền vẫn còn tiếp diễn trên trái đất này.
Nhìn lại cuộc chiến Việt Nam mới đây, Nam Bắc có hơn triệu người tử trận, một triệu rưỡi người bị thương tật, bạn bè hai bên không dưới vài trăm nghìn chết trên một mặt trận xa nhà. Cộng Sản miền Bắc xô đẩy hằng triệu người “xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mỹ,” để có cái kết cuộc hôm nay với chính thể xa dân, phản bội lại lời thề “cứu nước” để lại trên đất nước này những bà mẹ hy sinh năm bảy đứa con, những thương binh nghèo khó và một dất nước đầy dẫy tham ô, đạo đức băng hoại. Chỉ còn là bọn sâu mọt cầm quyền, tàn phá đất nước tan hoang. Cuối cùng người lính vô danh tràn lên trong những trận biển người, thực sự đã chết cho ai?
Chúng ta, những người Việt bỏ nước ra đi, không quên 58,200 thanh niên ưu tú của nước Mỹ đã bỏ mình cho miền Nam, và xấp xỉ 1 triệu người lính VNCH,cao cả, đã hy sinh nằm xuống hay lưu lạc xứ người, dù nhiệm vụ chưa tròn!...
The Following 3 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
Lan Anh bỏ vô phần mềm chỉnh sửa lỗi chính tả, có khoảng vài trăm lỗi, ko biết vì lí do gì. Ở dưới là đã sửa lại rồi đó cụ Hoàng Lan.
Bác thấy lỗi chính tả nhiều mà LA . Có điều tôn trọng nên copy lại nguyên văn và đơn giản dễ hiểu . Tác giả viết có thể đúng chính tả nhưng nhà in sách ....thường sắp lộn chữ thành ra chính tả hỏi ngã sai hơi nhiều
Mến
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
43 năm thời gian qua mau.
Tôi vẫn nghỉ mình còn là lính và nghỉ gì về những người lính.
.......
Phần thiệt thòi luôn luôn về phía người lính và gia đình.
Chúng ta đã biết đến những khải hoàn môn vĩ đại, những nghĩa trang thẳng đều những mộ bia san sát, những đài Chiến Sĩ Trận Vong, những ngày lễ lớn với đầy đủ lễ nghi quân cách, những vòng hoa tang, những bản nhạc buồn hay tiếng kèn truy điệu làm não lòng người. Nhưng những người lính đã chết không bao giờ sống lại và những tham vọng của giới cầm quyền vẫn còn tiếp diễn trên trái đất này.
Nhìn lại cuộc chiến Việt Nam mới đây, Nam Bắc có hơn triệu người tử trận, một triệu rưỡi người bị thương tật, bạn bè hai bên không dưới vài trăm nghìn chết trên một mặt trận xa nhà. Cộng Sản miền Bắc xô đẩy hằng triệu người “xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mỹ,” để có cái kết cuộc hôm nay với chính thể xa dân, phản bội lại lời thề “cứu nước” để lại trên đất nước này những bà mẹ hy sinh năm bảy đứa con, những thương binh nghèo khó và một dất nước đầy dẫy tham ô, đạo đức băng hoại. Chỉ còn là bọn sâu mọt cầm quyền, tàn phá đất nước tan hoang. Cuối cùng người lính vô danh tràn lên trong những trận biển người, thực sự đã chết cho ai?
Chúng ta, những người Việt bỏ nước ra đi, không quên 58,200 thanh niên ưu tú của nước Mỹ đã bỏ mình cho miền Nam, và xấp xỉ 1 triệu người lính VNCH,cao cả, đã hy sinh nằm xuống hay lưu lạc xứ người, dù nhiệm vụ chưa tròn!...
HL cảm tác bài của bác nên viết vài câu thơ
Này em nhé quê hương mình đâu nhỉ
Khi giặc cộng vào nước mất nhà tan
Em ở đâu hay lui về chốn cũ
Chiếc gông cùm mang nhiều nỗi chiêm bao
Rừng xa rồi hỏa châu đâu rực sáng
Mơ giày saut mà ngỡ bạn còn bên
Chợt thức dậy sao hồn đang nặng chĩu
Áo chiến y ngày đó đã bạc màu ...
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Đến Kinh Cai Tổng Cang, một con kinh cắt ngang Rạch Bà Đầm-Thát Lát, Tiểu Đoàn chia làm hai cánh. Cánh A: Tiểu Đoàn trừ (-), trách nhiệm bờ Nam. Cánh B: Đại Đội I, bờ Bắc. Hai cánh quân song song lục soát về hướng quận lỵ Thuận Nhơn, một quận lỵ đang bị áp lực rất nặng của Cộng quân khiến trục giao thông đường thủy từ quận lỵ ra Cần Thơ gần như bị cắt đứt hoàn toàn từ ba hôm trước. Xuất phát lúc 7:00 giờ sáng từ gần Kinh Ranh Hạt và Kinh số 7, với khoảng cách trên dưới năm cây số, Tiểu Đoàn di chuyển nhanh và không gây tiếng động
Đúng 11:00 giờ sáng, Đại Đội 1 của tôi vượt qua con rạch Bà Đầm-Thát Lát, một con rạch mỗi lần đọc đến tên tôi lại liên tưởng đến Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 42 BĐQ đã hy sinh tại đây gần hai năm về trước. Bình bátt, một loại cây thuộc họ mãng cầu, "lựu lê, bình bát, mãng cầu", có trái bằng nắm tay khi chín vàng rực, thơm lừng nhưng ăn chẳng ra gì cả. Tuy cùng họ nhưng mãng cầu mọc trên bờ còn bình bát mọc dưới nước. Bình bát thuộc họ trầm thủy, nên rễ đâm thành cây con, cây con nhô lên thành cây lớn... cứ thế bình bát nhảy bạt ngàn dày đặc hơn cả rừng nhiệt đới bên.... Mã Lai. Một địa hình kỳ lạ, tôi chưa thấy qua.
Cho Đại Đội dừng quân và bố trí, tôi đứng quan sát chung quanh... Nhất thời, tôi chưa hình dung được cách dàn quân như thế nào nếu ngay bây giờ địch khai hỏa? Đất gần như hoang địa, có thể trước đây có người ở, nhưng bỏ phế đã lâu, những bờ và mương đã "lạn" hết! Bình bát mọc thành rừng, không gò cao, không trũng sâu, nhưng địa thế cũng không bằng phẳng và nhất là không thể đào hố cá nhân được vì dưới chân chẳng hề có đất mà chỉ có rễ và cây bình bát nằm ngổn ngang sấp lớp! Suy nghĩ một lúc tôi tìm ra... chân lý: mình vô kế khả thi thì thằng địch cũng thế, chẳng lẽ ở đây nó biến thành chuột biết đào hang?
Quyết định thật nhanh, tôi mời ba ông Trung Đội Trưởng đến và phân công: Thiếu úy Đại, Trung Đội Trưởng Trung Đội 1 kiêm Đại Đội Phó, bên trái, Chuẩn úy Liêm, Trung Đội Trưởng Trung Đội 3, bên phải, hai trung đội bắt tay nhau, đội hình hàng ngang. Liêm phải rải em út sát bờ sông, phải nhớ kiểm soát được bờ sông và đừng quên bên kia bờ Nam là Tiểu Đoàn, là bạn! Chuẩn úy Cần, Trung Đội Trưởng Trung Đội 2 làm cái râu cạnh sườn trái. Lưu ý nếu chạm địch, Cần giữ cạnh sườn, hướng tác xạ bên trái. Ba anh em bắt tay thật chặt chẽ, di chuyển chậm, giữ khoảng cách hợp lý, quan sát phải thấy nhau. Tôi lặp lại cho anh em là phải thấy nhau vì với địa hình này cách xa hơn hai thước là không ai thấy ai nữa. Do đó khi chạm địch, đội hình hàng ngang không còn, có khi anh em phía sau bắn bừa lên đồng đội mình ở phía trước, ở bên hông.
Ba ông sĩ quan Trung Đội Trưởng nhận lệnh và bắt đầu dàn quân tiến lên phía trước. Tôi quay qua Thượng Sĩ Bình, Thường Vụ Đại Đội, TSI Hiển Trung Đội Trưởng Trung Đội 4, dặn hai ông trách nhiệm mặt sau lưng không được lơ đãng vì địch có thể bọc hậu sát bên, mình vẫn không phát giác.
Đúng như dự đoán của tôi, địa hình thật quái dị: dưới chân đất không cứng hẳn, có đoạn phập phồng vì nước ngập lên khỏi lớp rễ khá cao. Có đoạn đất lại khô cứng trải dài. Những đoạn đường như vậy bình bát rất rậm, che khuất cả mặt trời buổi trưa, giống như hoàng hôn ở vùng rừng núi. Tầm nhìn hết sức hạn chế. Đại Đội đến chậm vì phải quan sát và giữ khoảng cách. Cây cối chằng chịt, ngoằn ngoèo rất khó đi; sơ ý vướng rễ cây là té sấp. Do đó anh em đi đầu luôn luôn phải hú hí nhau cho khỏi lạc.
Bên kia bờ sông cũng có bình bát nhưng thưa thớt hơn nhiều. Tiểu Đoàn di chuyển dễ dàng và nhanh. Ông Tiểu Đoàn Trưởng cũng biết chúng tôi không sao đi kịp được nên Tiểu đoàn tiến lên một khoảng rồi dừng lại chờ, rồi lại tiến...!
Hai giờ chiều, sau ba giờ di chuyển, đối chiếu lại với bản đồ, tôi biết chúng tôi vượt điểm xuất phát không hơn bốn cây số, quân, chúng tôi chưa khám phá được gì quan trọng ngoài mấy cái chòi nhỏ bỏ hoang.
Bắt đầu nản, tôi vừa có ý xin Tiểu Đoàn cho đơn vị dừng quân để anh em ăn cơm vắt. Chưa kịp gọi Tiểu Đoàn thì Binh I An, âm thoại viên mang máy nội bộ, bước lại đưa ống liên hợp cho tôi:
- Ông Trường Thành 3 xin gặp Mười Một.
Tôi bấm ống liên hợp:
- Trường Thành 3 có gì nói đi!
Tiếng Chuẩn Úy Liêm gấp gáp:
- Trình Mười Một! Trình Mười Một! Cỏ cái trạm xá của VC chứa nhiều thương binh... Mười Một cho biết... cho biết... biện pháp.
Chuẩn Úy Liêm là một sĩ quan trẻ độc thân, mấy tuần qua chứng tỏ anh cũng cố làm quen với chiến trường, rất gan dạ và dễ thương, có điều gặp chuyện gì cấp bách là Liêm hay... cà lăm!
Tôi cắt ngang:
- Anh đã kiểm soát được trạm xá chưa?
- Dạ rồi, Mười Một!
- Bố trí em út cẩn thận. Tôi sẽ tới anh ngay
Gọi luôn các trung đội còn lại, tôi chỉ thị:
- Trường Thành 1 và 2 nghe rõ chưa? Các anh dừng lại bố trí tại chỗ chờ lệnh. Riêng Trường Thành 1 lưu ý yểm trợ thằng 3.
- Trường Thành 1 nghe rõ 5.
- Trường Thành 2 nghe rõ 5.
Tôi vỗ vai Lữ, âm thoại viên mang máy liên lạc Tiểu Đoàn, bảo:
- Anh thông báo cho Tiểu Đoàn biết; Đạt Đội phải dừng quân vì khám phá trên. Yêu cầu Tiểu Đoàn sẵn sàng yểm trợ.
2
Chưa đầy một phút sau tôi đã tới... trạm xá. Chuẩn Úy Liêm đón ở góc ngoài trạm và lưu ý tôi một số lựu đạn nội hóa chất chung quanh.
Quan sát một vòng, tôi lấy làm lạ khi thấy các chến sĩ Trung Đội 3 đứng dang ra khá xa vách trạm và ai nấy đều đưa tay bịt mũi. Mấy ông lính mình bữa nay lại làm duyên làm dáng gì nữa đây? Tôi bước nhanh tới và thật là khủng khiếp!!! Một mùi hôi thối nồng nặc bao trùm cả trạm xá! Mùi của tử thi? Nhưng, có lẽ cũng không giống như vậy vì mùi xác chết sình tụi tôi cũng "thưởng thức" khá quen mũi hôn Tết Mậu Thân khi phải nằm nhiều ngày cạnh xác chết VC trong mấy con hẻm của thành phố mà không làm sao có thì giờ tống khứ đi chỗ khác hoặc tìm ra đất để chôn. Phải dùng đến mền, mùng, chiếu, ni- lông, hay bất cứ thứ gì để đắp, đậy tạm cho đỡ khổ cái lỗ mũi rồi tiếp tục... chiến đấu. Nhưng cái này thì không phải! Tôi nhìn Chuẩn ủy Liêm. Liêm hiểu ý tôi, nhăn mũi lắc đầu:
- Không có tử thi nào cả. Mười Một nhìn vào trạm xá sẽ hiểu!
Tôi bước tới trạm và nhìn vào...
Tôi không tin rằng đây là một cái trạm xá!
Trạm xá, dù là dã chiến đi nữa, ít ra cũng phải có cái tiện nghi tối thiểu của nó, nghĩa là phải có giường kê lên cao, có tấm trải giường, (hay chiếu, cói), có mền để đắp, có mùng tránh muỗi, nhất là ở giữa rừng. Đàng này! Tôi không sao tưởng tượng và hình dung được!
Đây phải gọi là cái chòi thì đúng hơn, có khi còn thua cả cái chòi giữ vịt của nông dân miệt Cần Thơ, Sóc Trăng.
Trạm hình chữ nhật dài khoảng 8 mét, ngang 4 mét.
Trong trạm trống trơn, không một chiếc giương, một bộ ván nào cả. Nền nhà không ngập nước nhưng ẩm ướt vì mới dứt mùa mưa dầm, ánh nắng lại không soi rọi tới, đất chưa kịp khô... Mái trạm lợp bằng lá dừa nước, vách cũng lá dừa nước, bốn bề từ ngực trở lên để trống. Toàn khu nền nhà được rải một lớp rơm khá dầy. Đó là tất cả những "tiện nghi" của một trạm xá VC! Phía góc trong của căn trạm có bốn thương binh Việt Cộng đang nằm. Bốn anh giương mắt nhìn tôi, ánh mắt vừa tò mò vừa lo sợ. Cả bốn còn tỉnh, mặc dù thương tích có vẻ rất trầm trọng.
Tôi bước qua khung cửa để vào chỗ các anh đang nằm. Mùi hôi thối đúng là phát ra từ đây! Cả bốn anh mình mẩy đều bê bết máu tươi và khô, nước vàng, mủ nung núc. Vương vãi khắp nơi là những loại quần áo cũ, khăn rằn quấn cổ, bị xé ra làm băng, làm vải thấm thay cho compress, trộn lẫn tất cả các thứ xú uế kể trên, được ném khắp nền nhà. Vì cơ thể bốn anh liên tục phóng thích những chất kinh khủng đó suốt ngày nên quyến rũ hằng đàn, hằng đống ruồi, nhặng vo ve. Mùi hôi thối của những chất này còn khủng khiếp hơn cả thây ma. Ghê tởm hơn nữa, dưới nền nhà, những con giòi trắng bò lễn nghễn.
Tôi thật tình không thể tin rằng bốn anh tính của "Bác" có thể sinh tồn nhiều ngày trong điều kiện như vậy được.
3
Đang suy nghĩ, bỗng chiếc loa nhỏ gắn sau các máy PRC.25 phát ra. Tiếng gọi của ông Tiểu Đoàn Trưởng. Có lẽ ông muốn biết tình hình vì báo cáo ban nãy:
- Trường thành! Đây số Sáu gọi.
Tôi nhặt ống liên hợp gắn sau lưng Lữ và đáp ngay:
- Mười Một tôi nghe số Sáu!
- Anh đến chỗ trạm xá chưa và thấy thế nào?
- Đã đến hơn ba phút. Đang quan sát tìm hiểu, chưa tìm thấy gì cụ thể. Sẽ báo cho số Sáu sau.
- Cố khai thác nó xem: thằng nào, tên gì, đang đóng quân ở khu vực này? Bóp cổ nó tìm củi đuốc1 coi có được gì không? Nửa tháng nay, không có chấm mút gì ráo!
Nói xong ông buông một tràng cười. Tính ông hay pha trò nhưng là con người rất nguyên tắc. Ông là một Tiểu Đoàn Trưởng giỏi nhưng cũng có nhiều tật lạ đời như là: quy y Phật, không bao giờ chửi thề, nhưng, khi giận, ông là vua nói tục! Có khi đang tụng kinh lâm râm vậy mà nghe bắt sống được VC thì bảo lính đem "cất" liền khỏi cần giải giao về Trung Đoàn hay Tiểu Khu cho mất công. Lính như thiên lôi, có lệnh là làm. Ở đơn vị hành quân, trong vùng địch, không dân cư, đối diện với những sinh tử bất chợt, luật lệ ở đây là họng súng. Đó là một hệ quả tất nhiên của sự rình rập ngày đêm giữa hai mãnh thú săn mồi. (Cái này dù có mười ông nhiếp ảnh viên Eddie Adams, người chụp bức hình nổi tiếng Tướng Nguyễn Ngọc Loan trong vụ xử bắn tên đặc công CS tại Sài Gòn trong Tết Mậu Thân, cũng không có điều kiện để bấm máy). Mỗi lần đem "cất" như vậy ông tâm sự với tôi: tụi nó là quỷ vương, giết cho sạch ma quỷ để Phật xuất thế! (Ông chỉ thị cho sĩ quan truyền tin ghi trong Đặc Lệnh Truyền Tin danh xưng của ông là số 6, Tiểu Đoàn Phó số 7, Đại Đội Trưởng Đại Đội I số 11, Đại Đội Trưởng Đại Đội 2 là 22... Ông còn nói thêm số 6 là Lục Tự Di Đà đó, ông biết không?)
Tôi không có ý kiến về cách tu hành và pháp môn niệm Phật của ông, nhưng quả tình tôi với ông có những quan điểm rất dị biệt về cách đối xử với tù, hàng, thương binh của địch...
Dù mùa hôi thối có thế nào tôi cũng phải đến tận chỗ nằm của bốn anh thương binh.
Người nằm sát chân tôi là một thanh niên trẻ, cũng chừng tuổi tôi, nghĩa là trên dưới 25. Anh mặc một chiếc áo sơ mi
Người thứ hai trên ba mươi tuổi, một chân bị cưa khỏi đầu gối, chắc có lẽ vết cắt chưa lâu lắm nên máu và nước vàng thấm ướt cả vải băng.
Người thứ ba tôi không tài nào đoán được tuổi vì gương mặt bị cháy xém nhiều chỗ, khắp thân hình anh nhăn nhúm và loang lổ. Chỗ nào da đã tuột mất thì phơi bày máu mủ bầy nhầy, nước vàng kinh khiếp. Chỗ nào còn da thì đổi màu đen và nhăn nhúm lại. Khắp người không có mảnh vải nào để che đắp vì những vết phỏng nhầy nhụa. Bộ phận sinh dục, xin lỗi, bị cháy teo không còn hình thù. Anh cho tôi biết anh bị napalm hơn tuần lễ trước.
Ngươi thứ tư có lẽ rất nguy kịch vì anh bị trúng pháo binh nên phần ngực và bụng bị rách và bể nhiều chỗ. Anh đắp trên bụng một cái mùng vải tám, màu vải nguyên thủy là màu trắng ngà, bây giờ không biết gọi màu gì sau khi nó thấm, nhuộm đủ thứ nào là máu, mủ nước vàng, đất v.v... Hạ Sĩ I Thạch Chêm, Trưỏng Toán Quân Báo Đại Đội dùng đầu súng M16 hất cái mùng ra để kiểm tra bên dưới. Tôi đã suýt kêu lên: Một đoạn ruột của anh lòi ra khỏi bụng và đã ngã màu đen!
Lòng tôi nặng nề chùn xuống. Là con người, là đồng loại, tôi ngỡ ngàng thương cảm cho các anh! Không phải bây giờ tôi mới thương các anh mà đã tư lâu rồi, từ Tết Mậu Thân kia, khi lôi chứng kiến những em bé bộ đội miền Bắc 15, 16 tuổi, miệng mếu máo, mặt mày dáo dác như con lạc mẹ, lạc cha, lúc đơn vị các em bị đánh tan tác; hoặc từng chùm hai người gục chết với cây đại liên phòng không, chân còn bị xích cứng với càng súng....! Nhưng chưa bao giờ lòng thương cảm của tôi đối với các anh lại biến thành nỗi đau xót cùng tột như bây giờ. Người lính miền Nam, đối diện với lực lượng xâm lăng miền Bắc, chỉ để tự vệ và giữ gìn cuộc sống êm ấm cho đồng bào. Quân Lực VNCH không dạy người chiến sĩ mang trong lòng sự thù hận nào. Không có quốc gia văn minh, có truyền thống nhân bản nào lại dạy người lính của họ bài học nhập môn là Lòng Thù Hận. Quân đội miền Nam, được đào tạo để bảo vệ xứ sở, bảo vệ chủ quyền, chứ không bảo vệ chủ... thuyết, nhất là loại chủ thuyết ngoại lai hảo huyền.
Tôi thương các anh, tôi không chịu nổi hình ảnh người thương binh, dù là thương binh ở hàng ngũ nào, bị đối xử còn thua con vật. Nhưng tôi làm được gì? Quyền lực của tôi rất giới hạn. Tôi sẽ giúp được các anh nếu các anh thật lòng và tạo điều kiện để tôi thực hiện được sự giúp đỡ đó.
Nhìn gần hai chục quả lựu đạn, đa số là nội hóa, nằm rải rác quanh trạm xá, tôi hỏi:
- Ai trang bị và xử dụng mấy quả lưu đạn này?
Sáu đôi mắt đổ dồn về người thương binh cụt chân, lớn tuổi. Tôi biết anh là người lãnh đạo của nhóm, một thứ "bí thư chi bộ". Tôi nhìn anh chờ đợi. Anh liếc chung quanh: Lính Sư 21 bố trí dày đặc khắp trạm. Anh sợ sệt nhìn tôi, giọng run run:
- Thưa, thưa... ông! Bốn anh em chúng tôi ngồi còn không nổi, không ai xử dụng được vũ khí, có lẽ các anh bảo vệ bỏ lại.
- Các anh Bảo Vệ? Bao nhiêu anh và xử dụng vũ khí gì?
Thưa ông, tất cả có sáu anh với 5 khẩu AK47. Tên thương binh cụt chân đáp. Hắn thêm luôn:
- Các anh ấy đã chạy chừng mười phút, trước khi ông chỉ huy này đến, vừa nói hắn vừa chỉ Chuẩn Úy Liêm....
Tôi nói thật với các anh, và cũng nói thật với lương tâm của mình, rằng:
- Tôi muốn cứu các anh được sống bằng cách xin chuyển các anh về Quân Y Viện của chúng tôi để được điều trị. Nhưng để thực hiện được điều đó, các anh cũng phải thực tâm khai báo tin tức về những đơn vị đang trú đóng quanh đây hoặc là ít ra, các anh cũng phải chỉ cho chúng tôi vũ khí đạn dược đã chôn giấu.
Tên thương binh lớn tuổi có vẻ khổ sở, y thề thốt bán mạng với tôi rằng y không biết được gì vì thương tích quá nặng, mê man nhiều ngày. Hơn nữa, các anh giờ đây đã trở thành gánh nặng cho đồng đội, đâu còn được giao công tác gì mà biết được kế hoạch, đơn vị, và vũ khí?
Sau hơn 30 phút tiếp xúc và tra hỏi, tôi đánh giá có lẽ y chẳng biết gì thật. Tôi chạnh lòng nên thật tâm muốn cứu các anh nhưng không phải là không có điều kiện bởi vì quyền quyết định không phải do tôi. Trong cuộc đổi chác, các anh không có gì để trao nên cũng chẳng nhận được gì. Đó là sự trao đổi bình đẳng. Tôi rất lấy làm tiếc...
Tôi vừa định bảo An ra lệnh cho các Trung Đội tiếp tục lên đường thì chiếc loa nhỏ lại phát ra tiếng nói của ông Tiểu Đoàn Trưởng:
- Trường thành, Trường thành! Số Sáu gọi!
An bấm máy:
- Dạ Trường thành nghe số Sáu!
- Cho ông thầy anh đầu máy.
Tôi nhặt ống liên hợp trên tay An:
- Mười Một tôi nghe số Sáu!
- Có khai thác được gì không, Tango?
- Chẳng có gì cả, số Sáu, ngoại trừ gần 20 trái bình bát nội hóa.
- Mở chốt, thảy vô cho nó xài! Sau câu nói là một tràng cười Ngừng mấy giây, ông dứt khoát:
- Thôi bỏ ! Chiều lắm rồi! Cho em út tiếp tục zulu 2. Nhớ trước khi đi, đem "cất" hết bốn thằng đó nhé!
- Nhận rõ, số Sáu!
Chiếc loa nhỏ, âm thanh yếu, nhưng rõ ràng. Trong bán kính 3, 4 mét, bất cứ ai cũng nghe không sót tiếng nào. Đó là lệnh của cấp chỉ huy. Lệnh tại chiến trường: Lệnh Xử Bắn!
Loại mệnh lệnh này chỉ có thi hành chứ không có bàn cãi.
4
Bọn thương binh Việt cộng nằm ngay dưới chân tôi. người mang máy lại luôn luôn di chuyển sát cạnh Đại Đội Trưởng, nên từ chiếc loa đến cả bốn anh chỉ cách khoảng từ một mét đến hơn hai mét. Nghĩa là họ nghe rõ ràng!
Động từ "cất" là một tiếng lóng của chúng tôi, nhưng tiếng lóng này không khó hiểu, ai nghe cũng đoán được nghĩa.
Hạ Sĩ I Thạch Chêm gỡ súng M 16 ra khỏi vai trong tư thế sẵn sàng. Anh là Tiểu Đội Trưởng Quân Báo, một đơn vị thuộc loại trinh sát của Đại Đội, có nhiệm vụ, nếu cần, sẽ thi hành những mission như vậy.
Trong khi ấy, cả bốn thương binh đều cố ngồi dậy, nhưng chỉ có hai anh gãy chân là ráng ngồi được, hai anh còn lại, dù cố gượng, nhưng quá đau đớn phải quỵ trở lại. Bốn anh, kẻ nằm người ngồi, giương bốn cặp mắt trắng dã, cặp mắt đứng tròng không còn thần sắc nhìn tôi. Khóe miệng thì co giật liên hồi. Đó có phải là phản xạ của cơ thể con người khi hay tin mình bị xừ chết chăng?
Mãi nhiều năm sau này trong trại cải tạo, chứng kiến sự gào thét, nhục mạ, hành hạ, hăm dọa, thủ tiêu của cán bộ quản giáo đối với người tù cải tạo sa cơ, tôi thường liên tưởng đến những đôi mắt này, đôi mắt đỏ, đôi mắt rưng rưng không còn thần sắc, và tôi hình dung lại thật rõ ràng.... đôi mắt rã rời của bốn người... thua cuộc ngày xưa, nay đã thuộc về... dĩ vãng!
Tôi nhìn từng anh từ đầu đến chân.
Tôi không có ý bỏ lên bàn cân để tính thử trọng lượng cuộc sống của một con người.
Tôi cũng không hề có ý đánh giá hoặc so sánh sinh mạng con người ở hai giới tuyến khác nhau, vì khi sinh ra vạn vật muôn loàí, tạo hóa ban cho họ tất cả một giá trị bình đẳng như nhau! Chỉ có cái chết vô nghĩa, sự hy sinh bị lợi dụng, chứ không có cuộc sống nào là bỏ đi cả.
Tia nhìn của tôi dừng lại ở anh thương binh lớn tuổi. Tôi bắt gặp anh cũng đang nhìn tôi. Tôi thấy hai hàng nước mắt của anh chảy dài tư hố mắt trũng sâu. Tôi chớp mắt lại một giây. Mắt tôi không cay nhưng lòng tôi chua xót! Chua xót cho một kiếp con người! Chua xót cho những thân phận đầu thai lầm.... chủ thuyết!
Dưới chân tôi có vật gì nhúc nhích. Tôi nhìn xuống: một con cóc ruộng thật lớn ở dưới lớp rơm, nhoi ra nhảy và ngồi trên mũi giày tôi. Cóc đang lè lưỡi.... cuốn mấy con giòi trắng bò lễnh nghễnh trên nền trại. Tôi rùng mình hất nhẹ cho cóc nhảy đi. Cùng lúc, một hình ảnh vô cùng tội nghiệp của giống vật lưỡng thể lưỡng cư, vừa sống được dưới nước cũng sống được trên cạn này, gây xót xa trong lòng tôi. Đó là hình ảnh mấy chú cóc, mấy chú ếch khi bị cắt cổ làm thịt, chúng luôn luôn dùng hai chân chõi mạnh lưỡi dao để đẩy ra, chõi cho đến khi đầu bị cắt lìa, hai chân vẫn còn chõi. Thật thảm thương!
Tôi đã có quyết định.
Tôi nói với... bốn cặp mắt thất thần đang nhìn tôi:
- Các anh đã nghe rõ rồi, tôi được lệnh phải bắn các anh trước khi di chuyển. Nhưng, tôi không làm điều đó vì hai lý do sau đây: thứ nhất, tôi không có thói quen đánh người bị trói, nên cũng không giết người đã bị thương nặng, bị loại khỏi vòng chiến. Lương tâm và truyền thống đạo đức không cho phép tôi thực hiện điều đó. Người chiến sĩ chân chính không bắn đối phương khi đối phương đã xuôi tay không còn vũ khí! Hơn nữa, hình ảnh thê lương của các anh gây ra một sự hụt hẫng thảm hại trong suy tư của tôi. Tôi không thể tin rằng: là con người với nhau, tầng lớp này lại có thể gạt gẫm và đọa đày tầng lớp kia và tầng lớp kia lại mù quáng, điên dại, lao thân vào chỗ chết để phục vụ cho một tham vọng, một chủ thuyết mơ hồ, xa vời và không tưởng! Tôi không hề làm công tác Chiến Tranh Chính Trị trong lúc này và cũng không có ý tranh luận với các anh về chủ thuyết, cái nào ưa việt, cái nào tệ hại. Công tác đó thuộc bộ phận khác, không hiện diện với đơn vị tác chiến. Tôi chỉ muốn bày tỏ với các anh một điều hết sức giản di rằng: là người lính, khi sức lực còn khang kiện, chúng ta cống hiến sức lực đó cho quốc gia, cho lý tưởng. Chẳng may khi bị thương tật, chúng ta đòi hỏi phải được chăm sóc và điều trị tới nơi tới chốn. Thứ hai, hoàn cảnh của các anh làm chúng tôi kinh tởm, kinh tởm trước hết cho những người lãnh đạo các anh, và cũng kinh tởm cho chính các anh nữa! Tôi đã từng chứng kiến nhiều gia đình nuôi những loại gia cầm như: mèo, chó, trâu, bò... Khi khỏe mạnh chúng giúp đỡ cho chủ, nhưng khi chúng bị bệnh hoạn hay thương tật, người chủ cũng tận tụy săn sóc chữa chạy cho chúng như đã săn sóc một thành viên thân thiết trong gia đình, có khi còn vất vả hơn vì con vật vốn không biết... nói! Tôi thành thật xin lỗi bốn anh khi phải đưa ra sự so sánh này, một sự so sánh tôi biết dù ít dù nhiều cũng làm thương tổn đến sự tự ái của các anh, nhưng tôi mong có dịp các anh sẽ suy nghĩ về lời tôi. Tôi không có bất cứ điều kiện nào khi tha cho các anh, kể cả điều kiện dạy... đời các anh. Tôi phải nói hết như thế để bốn anh hiểu và cũng để các chiến hữu của tôi hiểu về quyết định của tôi.
Nói xong, tôi day qua Thạch Chêm, chỉ tay ra góc vườn:
- Anh bước ra góc kia và bắn hai băng M16 vào bụi bình bát đó! Còn Lư, chú mày báo cho ông số Sáu biết là mình đã cất xong mấy tên VC và chuẩn bị lên đường đây.
Sau khi chứng kiến Chêm trút hết hai băng M16 vào bụi bình bát xử bắn giả, bốn tên thương binh VC mới tin rằng tôi tha chúng thật. Tên lãnh đạo nói với tôi trong nỗi xúc động nghẹn ngào:
- Thưa ông, tôi biết ông là người chỉ huy cánh quân này. Tôi không thấy ông đeo lon nên không hiểu cấp bậc của ông, nhưng chắc chắn ông phải là sĩ quan, một tầng lớp mà chúng tôi vừa thù, vừa sợ. Tôi được học tập rằng sĩ quan Quốc Gia gặp chúng tôi là tàn sát, trẻ không tha, già không thương...! Đây là lần đầu tiên tôi gặp được một sĩ quan bằng xương bằng thịt và thấy rằng ông đã không phải con người ghê gớm như vậy. Ông không giống với hình ảnh những sĩ quan sắt máu mà chúng tôi đã có trong ý tưởng lâu nay. Xin thay mặt cho ba anh em, tôi chân thành đội ơn ông...
Đưa tay ngăn anh lại, tôi đáp:
- Tôi không dám nhận sự cảm ơn! Tôn chỉ làm điều mà lương tâm và bổn phận hướng dẫn tôi phải làm. Khi tha chết cho các anh, tôi đã vi phạm vào Huấn Lệnh Quân Sự của quân đội tôi tại mặt trận. Có thể tôi sẽ bị kỷ luật, hoặc bị đưa ra Tòa Án Binh không chừng, nhưng tôi vẫn làm vì tôi chưa đánh mất nhân tính và vẫn tin ở chủ trương: "Đem đạo nghĩa để thắng hung tàn" của Quân Đội tôi. Tôi đã suy nghĩ chín chắn, đã cân nhắc nặng nhẹ giữa đạo đức và lương tâm con người với trách nhiệm mà quân đội giao phó và tôi hoàn toàn chấp nhận mọi hậu quả do quyết định của mình. Tôi chỉ mong rằng các anh có dịp hiểu biết rõ hơn về chúng tôi và quân đội Quốc Gia, như anh vừa nói, để đối chiếu với những điều các anh đã được học. Chỉ có vậy! Thôi nhé! Xin chào. Chúng tôi cần phải đi.
Tên cán bộ ráng nói thêm:
- Xin cho tôi một câu chót...
Tôi dừng lại nhìn anh:
- Anh nói đi!
Tên cán bộ câu hai tay để trước bụng, nói nhỏ:
- Chúng tôi xin thành tâm cầu mong mọi điều may mắn, bình an cho ông suốt cả cuộc đời (!?!)
Có lẽ đây là câu nói xúc động phát ra từ tấm lòng chân thật của anh
Tôi gật nhẹ đầu cảm ơn và chào anh ta! Tôi mỉm cười khi suy nghiệm về câu cầu chức của anh ta. Tôi may mắn bình an mỗi lần "tao ngộ" với phía các anh, thì các anh sẽ ra sao?
5
Đến đây, tôi nghĩ mọi chuyện đã xong, đã mất rất nhiều thời giờ. Buổi chiều cũng sắp về, buổi chiều ở vùng rừng rậm xuống rất nhanh và chỗ trú quân đêm, trong vùng đất xa lạ này, phải được quan sát khi trời còn sáng. Tôi báo cáo lên Tiểu Đoàn: công tác đã thi hành xong và xin tiếp tục di chuyển.
Chúng tôi theo lộ trình cũ. Đi chưa được 50 mét thì ông số Sáu lại gọi tôi: anh dừng lại cho em út bố trí giữ an ninh. Hai "thằng" cố vấn đang lội sông qua bên anh đó. Nó muốn ngắm nghía trạm xá của VC.
Tôi... chới với ngẩn người. Vậy là bể rồi! Nhưng không còn cách nào khác! Cho các trung đội dừng quân xong, tôi và BCH đứng ở bờ sông đợi hai ông... Cố. Khúc sông này của con rạch Cai Tổng Cang lạ đời thật: sông rộng hơn 40 mét, nước trôi lững lờ, vậy mà khúc cạn, khúc sâu như chính lòng dạ đổi thay khi vầy, khi khác của con người. Khó đo, khó đoán, khó lường! Dò sông dò biển dễ dò!
Nhìn mấy người lính đang lội qua, mực nước chỉ tới vai, còn hai ông Mẽo thì chỉ tới ngực. Phải chi nước ngập khỏi đầu như khúc trên kia thì đâu có chi rắc rối!
Thiếu Tá Calvin, Cố Vấn Trưởng, và Trung Úy Hayes, Cố Vấn Phó, lên bờ và bước lại phía tôi. Tôi đứng dậy bắt tay hai ông. (Gặp nhau hằng ngày và ở vùng hành quân, chúng tôi ít khi chào kính). Tôi bảo Thạch Chêm dẫn hai ông đi đến chỗ đó. Tôi vẫn ngồi yên ở bờ sông hút thuốc. Tôi biết sẽ có... chuyện, nhưng tôi vẫn giữ quyết định vừa rồi. Tôi thấy không cần giải thích gì thêm.
Các Cố Vấn Mỹ ở đơn vị tôi họ cũng rất lịch sự và hiểu vị trí của mình.. Từ ngày về đơn vị đến giờ, tôi chưa từng thấy họ tham gia bàn thảo kế hoạch hành quân, điều động hay chỉ huy ai cả. Họ chỉ được yêu cầu "cố vấn" chúng tôi xin trực thăng võ trang, xin phi tuần, xin tản thương, xin hỏa châu....v.v... Nghĩa là chỉ có xin dùm đủ thứ! Công tác đó họ làm kết quả nhanh gấp mấy lần mình! Ít nhất thì ở đơn vị tác chiến cấp Tiểu Đoàn, Cố Vấn đã không dám phát huy vai trò "chủ Mỹ" của mình một cách lộ liễu?
Sau khi quan sát, chụp hình mấy vị trí, hai ông quay trở về. Khi đến chỗ tôi, Thiếu Tá Calvin đưa ngón tay cái lên trời và nói:
- Hi, Commander! You did a good job!
Tôi mĩm cười chào ông và nói vỏn vẹn hai tiếng: Thank You. (Tôi không hiểu ý ông qua hai chữ "good job" là good ở khía cạnh nào? Good khi khám phá ra trạm xá VC, hay good vì bắn mấy loạt M16 mà bốn tên thương binh địch vẫn còn sống nhăn?)
Đằng kia, bốn ánh mắt tê dại nhìn về hướng tôi.
Các anh tin rằng lần này mới là chết thật! Ông "chủ" Mỹ đã đến, làm sao còn sống được nữa? Sĩ quan Ngụy, được mấy cái đầu, mà dám cãi?
Mấy anh thật chẳng hiểu gì về Quân Đội VNCH cả. Khi được tiếp xúc với chúng tôi, mắt các anh sẽ mở trừng trừng, ngạc nhiên từng chập, mở cho đến độ rách cả khóe mắt!
Tôi biết bốn anh rất muốn nói chuyện với tôi trong giờ phút thời gian như dừng lại này. Nhưng tôi không có gì để nói thêm với các anh. Chuyện các anh tôi đã quyết định xong!
Tôi là "Tư Lệnh" của mặt trận bờ Bắc này, là một tư lệnh nhỏ xíu thôi nhưng là người có quyền quyết định cao nhất tại đây. Không ai có quyền quyết định thay cho tôi, khi tôi chưa rời đơn vị.
Tôi ngồi chờ... bên kia sông. Tôi biết thế nào cũng sẽ có bão táp tới. Tôi chờ nghe tiếng... "đức" của ông Tiểu Đoàn Trưởng.
Năm phút sau, "bão" tới:
- Tango! Nói cho tôi biết: anh hát cái bản gì đây? Mấy thằng Tây về báo cáo rằng bốn thằng VC còn ngồi hút Quân Tiếp Vụ bên ấy. Vậy là sao? anh chống lệnh tôi? Anh chỉ huy ở đây hay tôi. Nói nghe?
Tôi làm thinh để cho ông xì bớt hơi.
Trong bốn Đại Đội Trưởng, tôi là người có cấp bậc thấp nhất, Thiếu Úy, nhưng tôi cũng là người tương đồng với ông nhiều vấn đề, trong đó phải kể cả những vấn để gay go nguy hiểm mà ai cũng chê, nhưng tôi nhận! Có gì đâu! Mình chẳng có chi bận bịu! Tử sanh hữu mạng mà! Tôi chỉ lo các anh em tôi trong Đại Đội sẽ phản đối những cái gật đầu hơi nhiều của tôi thay vì bắt thăm chia đều. Thế nhưng chuyện đó chưa xảy ra vì họ tin tôi, thương tôi. Họ cũng biết tôi rất thương họ và cũng không đến đỗi... ngu lắm!
Mấy mươi giây trôi qua, không nghe tôi trả lời, ông số Sáu hỏi lớn:
- Tango đâu rồi! Anh có nghe tôi không??
Tôi cầm ống liên hợp, thẳng thắn và chân tình đáp:
- Tôi đang nghe số Sáu. Trước hết, tôi rất tiếc phải nói câu xin lỗi, nhưng thật tình tôi không hề có ý qua mặt hay chống lại lệnh của số Sáu! Đây chỉ là vấn đề lương tâm và đạo đức con người, một con người có lẽ không đủ nhẫn tâm để giết đồng loại đang bị thương tích trầm trọng. Ngoài ra, tôi cũng không dám quên những bài học ở Quân Truờng, quy định về cách đối xử với thương binh địch. Do đó, xin số Sáu cho phép tôi giữ quyết định đã ban hành về số phận của bốn thương binh địch. Tuy nhiên, nếu số Sáu cho rằng việc bắn bỏ họ là điều không thể đảo ngược được, thì đó là thẩm quyền của số Sáu. Tôi không chống đối. Đại Đội tôi xin chờ và xin số Sáu cho vài Trinh Sát hay Quân Báo Tiểu Đoàn qua đây thực hiện công tác hành quyết. Tôi muốn rằng cho đến chết người lính CS vẫn giữ hình ảnh người chiến sĩ QLVNCH luôn luôn bảo tồn chữ tín.
Nói xong tôi giữ combinet để chờ ông.
Nhiều phút trôi qua, có lẽ ông đang suy tư hoặc đang chỉ thị cho Trinh Sát, Quân Báo.
Tôi trả ống liên hợp lại cho Lữ. Lữ vừa cài cái móc của ống liên hợp lên giây ba chạc thì tiếng ông Tiểu Đoàn Trưởng chỉ thị cho âm thoại viên với giọng dịu nhẹ hơn:
- Thôi, Lê Lai, nói với Thầy anh: số Sáu đồng ý cho Mười Một mua cái đức cho vợ con sau này. Nhưng mà... bắn... thêm vài loạt đạn nữa, rồi zulu. Lưu ý: Vị trí đã bị lộ!
Lữ nhìn tôi, tôi nhìn Lữ. Hai thầy trò trao đổi nụ cười nhẹ nhỏm! Lữ le lưỡi:
- Có lẽ chỉ có ông Thầy là được số Sáu chìu và nể như vậy mà thôi.
6
Tôi nhìn sang bên kia sông, hướng Tiểu Đoàn. Chiều xuống thật nhanh. Những tia nắng yếu ớt cuối cùng còn rơi rớt trên ngọn rặng bình bát bạt ngàn. Gió lay nhè nhẹ. Xa xa bên kia bờ, chỗ rặng cây cao, đàn cò bay về nơi trú đêm, điểm trắng cả chòm cây xanh như những bông hoa dại, âm thầm nở, âm thầm tàn trong ngôi vườn bỏ hoang không người tới lui săn sóc.
Chúng tôi lại lên đường. Không như đàn cò về lại chòm cây cao, chúng tôi không có chỗ trú nhất định cho mỗi đêm..., có thể là một vùng bình bát, có thể là một khu vườn hoang, có thể là một đám rẫy, hay cũng có thể là một bãi... tha ma. Ba mươi ngày trong tháng thì hơn hai phần ba số đêm đó chúng tôi ngủ hoang, ngủ bậy như vậy cho người dân lành được ngon giấc trong chăn ấm, nệm êm. Chúng tôi không có ý so sánh những hình ảnh đối ngược của hai nếp sống để kể lể công lao, hay cay đắng ngậm ngùi, nhưng chúng tôi mong rằng sự hy sinh của người chiến sĩ trong cuộc chiến vừa qua không bị mỉa mai và quên lãng.
Phần Phụ Chú:
Sau biến cố đó, tôi không bị bất cứ một biện pháp chế tài kỷ luật nào, nhưng một tuần lễ sau, khi tập trung ra lằn chỉ đỏ, ông Tiểu Đoàn Phó xuống Đại Đội tôi chủ tọa lễ bàn giao chức vụ Đại Đội Trưởng Đại Đội 1 cho một sĩ quan khác! Sự trừng phạt, nếu đúng, chỉ có tính cách tượng trưng. Có điều cho đến nay, sau đúng 32 năm, mỗi khi nhớ lại chuyện này, tôi vẫn không kết luận dứt khoát được là trong hai quyết định của ông Tiểu Đoàn Trưởng và của tôi: Ai đúng, ai sai - Đúng sai trong hai lãnh vực: giữa lương tâm và truyền thống nhân ái của dân tộc với sự tha chết cho giặc, "dưỡng hổ di họa"?
Cuộc chiến đã chấm dứt đúng 1/4 thế kỷ. Sau nhiều năm bị đọa đày trong trại cải tao, sau hiểm nguy của gia đình qua chuyến vượt biên bằng đường biển, sau những tháng năm bình tỉnh nhìn lại cuộc chiến mà mình đã đổ máu xương để trang trải và đã bị phản bội, bị bỏ rơi thê thảm...., nếu một mệnh lệnh như xưa được ban hành, tôi vẫn lấy cái quyết định như đã từng quyết định trong rặng bình bát! Đó là lương âm, là phẩm giá của người lính Việt Nam Cộng Hòa!
Tiểu Đoạn này được viết rất bất ngờ, sau khi người viết đọc được bài "Đôi Thoại Với Nhà Văn Trong Hàng Ngũ Thắng Trận" của Trần Hoài Thư trên trang Internet, viết "kỷ lục" chỉ trong hai ngày để phổ biến trên truyền thông nhân buổi ra mắt tác phẩm "Về Hướng Mặt Trời Lặn" của anh Trần Hoài Thư tại Houston. Không ngờ, sau khi BNS Dân Ta, BNS Việt Báo ở Houston, rồi Nhật Báo Người Việt, Đặc San KBC ở Nam California, Đặc San Võ Khoa Thủ Đức Washington DC, phổ biến rộng rãi bài này, một vài cuộc hội thảo đã diễn ra quanh một vài chủ đề mà người viết đã "đụng" tới trong tác phẩm!
Nay, nhân khi bài viết này được đặt đúng vị trí thời gian trong tác phẩm để xuất bản, người viết muốn minh xác: tác giả không có ý định dùng mẩu chuyện thật trên đây để phản bác lại những điều hoang tưởng, xuyên tạc chiến sĩ QLVNCH của hai nhà văn "lớn" CS là Dương Thu Hương và Bảo Ninh. Dương Thu Hương với tác phẩm ồn ào một dạo "Tiểu Thuyết Vô Đề" đã mô tả người lính Thám Báo QLVNCH như sau:
"... Tới vực cô hồn, gặp sáu cái xác truồng, xác đàn bà, vú và cửa mình bị xẻo ném vung vãi khắp đám cỏ xung quanh... Cũng có thể họ đi kiếm măng... rồi vấp bọn thám báo. Chúng đã hiếp các cô tàn bạo trước khi giết.." (TTVĐ, trang 16)
Còn Bảo Ninh với tác phẩm "Nỗi Buồn Chiến Tranh" cũng gán cho Thám Báo cái tội bắt ba cô gái trong mật khu rồi hãm hiếp, sau đó giết họ, vất xuống sông:
"Ba nhỏ đó, trình quý anh, tụi này làm thịt cúng hà bá rồi. Mấy nhỏ khóc quá trời" (NBCT, trang 52)
Tôi không hiểu sao các nhà văn VC lại luôn gán ghép người lính miền Nam vào hành động thích hãm hiếp và "lắt xẻo" mấy bộ phận của đàn bà?
Hai mươi lăm năm sau cuộc chiến, đã đến lúc phải trả lại cái gì thật sự của lịch sử cho lịch sử. Tôi không nói người lính miền Nam là một thứ Khổng Tử, nhưng tôi biết chắc rằng không một quân nhân nào của chúng tôi đủ hứng thú để làm cái trò dị hợm, kỳ cục (hãm hiếp dã man con lắt xẻo) tại chiến trường như Dương Thu Hương đã mô tả. Tôi mong đọc được những bài viết nói lên sự thật của những người cầm bút, ở cả hai phía, không bị chi phối bởi bất cứ mặc cảm, dù là tự tôn hay tự ti; bởi sự cám dỗ vật chất hay bởi bất cứ thế lực nào.
Tôi mong bà Dương Thu Hương và ông Bảo Ninh đọc được truyện này. Tôi lặp lại lần nữa là tôi không hề có ý đinh viết chuyện để bênh vực người lính Miền Nam, hoặc để phản bác lại hai tác phẩm của ông và bà vì một lý do rất đơn giản là: tôi không hề là một nhà văn, nên cũng không có tham vọng tranh danh, đoạt lợi bằng ngòi bút, theo lập luận đời thường: "đánh" một người nổi danh để được nổi danh hơn!
Tôi chỉ là người lính chiến trong cuộc, chứng kiến sự thật, kể lại sự thật, một sự thật nhỏ bé, trong vô vàn sự thật to tát, từ cuộc-chiến-tự-vệ của Miền Nam, một cuộc chiến bị bóp méo, bị xuyên tạc, bị sỉ vả vô tội vạ bởi những ngòi bút đứng trong hàng ngủ của kẻ thắng trận!
Ông Đại Đội Trưởng và Tiểu Đoàn Trưởng trong truyện này hiện nay đều định cư tại thành phố Houston sau nhiều năm trong Trại Cải Tạo (viết hoa). Còn bốn anh thương binh trong truyện có lẽ hiện vẫn còn sống, nếu không đủ cả bốn, cũng còn hai, hay ba. Đây là một ấn tượng sâu sắc trong đời các anh nên, chắc chắn, các anh phải nhớ. Nếu truyện này được phổ biến trong nước và thật sự các anh là người có chút liêm sỉ, các anh sẽ không thể quay lưng lại với sự thật của "một thời" quá khứ.
Nguyễn Bửu Thoại
Trở Lại Mật Khu Sình Lầy
(In lần thứ 2, tháng 12-2000, trang 363)
1) củi đuốc = vũ khí.
2) zulu = d = di chuyển.
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Có đọc 2 tác phẩm của kịu đại úy Nguyễn Bửu Thoại này.
Trở lại mật khu sình lầy.
Trong cánh cửa ngoài chân mây.
Rất sống động và thấm mùi lính. Ko dài dòng, ko cầu cưa, đọc rất thích.
Bây giờ tuổi già chúng ta mới ngồi ôn lại một thời lính chiến .Nếu tôi tính không lầm khoảng 25 năm nữa có lẽ sẽ không còn những người lính VNCH mà chỉ có những hậu duệ của chúng ta mà thôi:hand shake:
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
LNÐ: Gần 30 năm sau chiến tranh Việt Nam, những tài liệu mật về cuộc chiến bên ngoài lãnh thổ Miền Nam lần lượt được chánh phủ Hoa Kỳ phổ biến. Do đó người ta được biết nhiều hơn về những chiến sĩ vô danh trong những trận chiến vô danh, nhưng thật khốc liệt. Ðây là câu chuyện kể lại của một người trong cuộc về những chuyến bay thả biệt kích dọc theo "Ðường Mòn Hồ Chí Minh" của Phi Ðòan 219. Phi Ðoàn này được các biệt kích và các phi công của cả Việt Nam và Hoa Kỳ biết dưới danh hiệu "King Bee".
Khởi thủy của Phi Ðoàn là một Biệt Ðội Trực Thăng sử dụng 3 chiếc trực thăng H34 được thành lập ở Nha Trang để thi hành công tác xâm nhập và triệt xuất các toán biệt kích Delta thuộc Lực Lượng Ðặc Biệt Việt Nam hoạt động sâu trong lòng địch ở Vùng II và III Chiến Thuật. Vài tháng sau đó Biệt Ðội thứ hai cũng được thành lập ở Ðà Nẵng để họat động trong Vùng I Chiến Thuật. Phi hành đoàn đầu tiên T/U Phan Thế Long, T/U Nguyễn Bảo Tùng và Th/S Bùi Văn Lành đã hy sinh vì công vụ ngày18/10/1965 tại vùng Khâm Ðức trên đó có Th/T Larry Thorne của Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ (Green Berets). Sau hơn 30 năm tìm kiếm, di hài của 4 người đã được tìm thấy, và tháng 8 năm 2003 vừa qua, Hoa Kỳ đã long trọng làm lễ mai táng cả 4 người trong cùng một quan tài ở Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington, Washington D.C. với lễ nghi quân cách, như một hành động nhìn nhận sự chiến đấu hào hùng của Phi Ðòan 219 "King Bee", nói rộng ra là của các chiến sĩ Không Quân cùng các chiến sĩ thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Biệt Ðòan 83 "Thần Phong" được thành lập vào năm 1964 với Chỉ Huy Trưởng là Ðại Tá Nguyễn Cao Kỳ, gồm các Biệt Ðội Khu Trục nổi tiếng với các phi vụ "Bắc Phạt", Biệt Ðội Vận Tải thi hành những phi vụ tối mật thả dù điệp viên và các toán biệt kích ra Bắc, và Biệt Ðội Trực Thăng đảm trách phi vụ mật, thả các toán biệt kích dọc theo "Ðường Mòn Hồ Chí Minh" xuất phát từ các căn cứ Khe Sanh, Tà Bạt, A Shau, Khâm Ðức thuộc Vùng I, Dakpek, Ben Het, Dakto, Ðức Cơ, Plei Jereng, Tieu Atar, Bandon, Ðức Lập thuộc Vùng II, và BuPrang, Quản Lợi, Sông Bé thuộc Vùng III.
Những phi vụ mật này chỉ mới được phổ biến gần đây sau thời gian 25 năm mà luật pháp Hoa Kỳ định cho thời kỳ bảo mật hồ sơ. Tuy nhiên các hành động oai hùng của các anh hùng trong Biệt Ðoàn cũng đã được nhắc nhở tới từ thập niên 60 cho đến nay về các huyền thọai của cuộc chiến Việt Nam như các phi công Phạm Phú Quốc, Vũ Khắc Huề của các phi vụ Bắc Phạt, Luân Cowboy, Hùng Mustachio (Hùng Râu Kẽm), Khôi Ðen, An Cào Cào, Tưởng Khùng v.v... của những phi vụ dọc theo Ðường Mòn HCM...
Biệt Ðội Khu Trục thi hành các phi vụ "Bắc Phạt", được ít lâu phải đình chỉ vì áp lực từ phía Hoa Kỳ. Các phi vụ xâm nhập miền Bắc do Biệt Ðội Vận Tải (Cò Trắng) thực hiện cũng giảm sút khi OPLAN 34A bị thay thế bằng OPLAN 35 của Hoa Kỳ. OPLAN 35 nhằm kiểm sóat sự xâm nhập của Bắc quân theo "Ðường Mòn Hồ Chí Minh", do đó hai Biệt Ðội Trực Thăng được sát nhập lại vào năm 1966 dưới sự chỉ huy của Ð/U Hồ Bảo Ðịnh để thành lập Phi Ðòan 219 "Thần Phong Long Mã", và thêm vào đó một số các nhân viên phi hành từ các Phi Ðòan 211, 213, 215, 217 tình nguyện về phục vụ để đưa tổng số nhân viên theo đúng cấp số Phi Ðòan.
Ðợt cải tổ toàn diện lần thứ hai khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh giải tán Biệt Ðoàn để cô lập hóa Tướng Kỳ, các Biệt Ðội Khu Trục và Vận Tải được trả về đơn vị gốc, và Phi Ðoàn 219 được đưa về trực thuộc Không Ðòan 41 tại Ðà Nẵng vào tháng 5 năm 1968 và tiếp tục giữ nguyên nhiệm vụ yểm trợ OPLAN 35. Ð/U Hồ Bảo Ðịnh được thay thế với Th/Tá Ðặng Văn Phước (cấp bậc và chức vụ sau cùng là Ðại Tá Không Ðòan Trưởng KÐ 51).
Lần cải tổ toàn diện lần thứ ba xảy ra vào mùa Hè 1972, Th/Tá Nguyễn Văn Nghĩa được lệnh di chuyển Phi Ðoàn về Nha Trang, trực thuộc Sư Ðòan II Không Quân, khi đó Hoa Kỳ đã chấm dứt OPLAN 35. Trong 2 năm cuối Phi Ðoàn có 3 vị PDT lần lượt là Tr/Tá Nguyễn Văn Nghĩa, Th/Tá Huỳnh Văn Phố, Tr/Tá Phạm Ðăng Luân. Từ khi về Nha Trang, nhiệm vụ Phi Ðoàn thay đổi, không còn thi hành nhiệm vụ hoạt động ngoại biên nữa mà lãnh trách nhiệm họat động trong Vùng II Chiến Thuật. Tuy nhiều phi công đàn anh rời Phi Ðoàn vào lúc này, nhưng các phi công trẻ mới về phục vụ cũng không để mất đi truyền thống hào hùng của một đơn vị huyền thọai.
Gần 30 năm sau cuộc chiến, tôi mới có dịp ngồi ôn lại dĩ vãng để ghi lại những dòng chữ này, nhớ đến các Anh trong Phi Ðòan 219, từ những người đã anh dũng hy sinh nơi chiến trận, cho đến những người còn lại quê nhà cũng như những người đang sống xa quê hương trên cùng khắp mặt địa cầu này. Các Anh luôn sống mãi trong tim tôi. Những vui buồn, đau thương, mất mát của những năm sống bên "nỗi chết không rời", bây giờ nhìn lại quả thật là những năm "đẹp" nhất trong đời mà tôi không bao giờ quên được.
Tôi về trình diện Phi Ðoàn 219 vào giữa tháng 5 năm 1968 sau khi hoàn tất khóa Cơ Phi tại Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang cùng với 5 người bạn cùng khóa. Khi đó Phi Ðoàn vừa hoàn tất đợt cải tổ lần thứ hai, được tái phối trí trực thuộc Không Ðòan 41 vì Biệt Ðoàn 83 được lệnh giải tán.. Sau khi trình diện Th/Tá Phi Ðoàn Trưởng Ðặng Văn Phước, chúng tôi được giao lại cho hai vị Trưởng Toán Cơ Phi (Chief Mévos) là Ch/u Phan Văn Tưởng & Ch/u Hồ Văn Nguyên để được hướng dẫn về cách làm việc của Phi Ðòan. C/U Tưởng tuy đã lớn tuổi và có rất nhiều giờ bay nhưng ông vẫn không sờn lòng bay bổng, ông rất vui vẻ và thương mến chỉ dẫn chúng tôi, trong khi đó C/U Nguyên ít nói khó tính và không còn đi bay nữa.
Qua hôm sau chúng tôi được đi cắt đi bay ngay vi lúc đó Phi Ðoàn đang thiếu Cơ Khí Viên Phi Hành (gọi tắt là Cơ Phi hay "Mevo" từ tiếng Pháp "Mécanique de Vol", trong khi đó người Mỹ dung danh từ "Flight Engineer"), sau một tuần đi bay liên lạc và huấn luyện, chúng tôi được cho thả hành quân.
Hơn 4 năm đồn trú tại Ðà Nẵng, tôi không thể nào quên những cơn nắng cháy da và những cơn gió Lào nóng như cát rang trong chảo của mùa hè ở Miền Trung, rồi khi mùa mưa tới, những cơn bão với gió thổi mạnh đến cả trăm cây số giờ thổi bay tất cả nhà, và những trận mưa dầm gây lụt lội khắp nơi. Bay ở trên cao tôi nhìn xuống thấy nước ngập che phủ nhà cửa, cây cối, lâu lâu có một vài căn nhà trên đồi còn sót lại trơ trọi như những hòn đảo nhỏ. Khi mùa rét tới, bầu trời trần mây thấp, che kín ảm đạm u sầu, ai nấy co ro trong những cơn gió lạnh ẩm sũng nước, luồn qua áo quần như cắt da, cắt thịt.
Kỷ niệm đầu đời đi bay của tôi là phi vụ liên lạc với anh Ðinh Quốc Thinh. Tôi chưa biết đọc phi lệnh, nên không biết là phi vụ cất cánh thật sớm nên cứ tà tà "xây chừng sịt tẩy" cho đến khi Nghiêm chạy ra báo phi cơ sắp cất cánh chỉ thiếu cơ phi. Tôi hoảng hồn chạy ra bỏ quên cả ấn tín (hộp quẹt Zippo và bao thuốc Capstan). Ra tới nơi cánh quạt phi cơ đang được "engaged" từ từ lấy trớn quay. Tôi sợ quá cứ bài vở thi hành, trước khi bay phải làm tiền phi, bèn mở nắp nhớt ra để kiểm tra, thì lập tức nhớt trong bình phun ra đầy mặt và quần áo, rất may mà mới mở máy chứ không bị phỏng nặng rồi. Anh Thinh vội leo xuống và đẩy tôi lên máy bay, trong lúc trời còn tối, rồi nói: "Ði lên nhanh lên, Kỹ Thuật nó ra, trông thấy nó cười chết!", và anh Thinh bay thẳng sang căn cứ Non Nước của Biệt Kích Lôi Hổ nằm gần hòn núi Ngũ Hành Sơn ngó ra bãi biển Mỹ Khê. Trong lúc mọi người vào ăn sáng, tôi ở ngoài "parking" cởi quần áo tắm giặt bằng xăng, nên cũng chỉ trong chốc lát thôi là sạch và khô ngay, sau đó tôi mới vào "mess hall" (phòng ăn) ăn sang chờ phi vụ. Tôi nhìn quanh thấy có nhiều người nhìn tôi vì người tôi bốc lên toàn mùi xăng và tay tôi thì khô mốc trắng lên.
Thời đó một Phi Hành Ðoàn H-34 "Choctow" chỉ có 3 người, Trưởng Phi Cơ, Hoa Tiêu Phó, và Cơ Phi kiêm nhiệm Xạ Thủ Phi Hành sử dụng Ðại Liên M60, về sau khoảng giữa năm 1972, Phi Ðoàn mới chuyển sang bay UH-1 "Huey", lúc đó có thêm Xạ Thủ Phi Hành thủ một khẩu M60 ở cửa bên kia. Phi Ðoàn 219 chuyển sang UH-1 sau các Phi Ðoàn khác 2 năm, vì Trực Thăng H-34 tuy nặng nề, cồng kềnh, khó bay nhưng lại rất thích hợp với các phi vụ đặc biệt này vì nó có thể chịu đạn được, nhiều khi phi cơ bị trúng đạn nặng nề mà vẫn có thể đáp khẩn cấp an toàn được để chiếc bay "air cover" (còn gọi là "chase ship") nhào xuống cứu kịp.
Tai nạn đầu tiên xảy ra cho tôi vào ngày 5 tháng10 năm 1968 khi đi bay chiếc số 2 trong Phi Hành Ðoàn (PHÐ) với hai anh Nguyễn Tấn Trọng và Phạm Ngọc Sâm, sau chiếc "lead" của PHÐ Anh Phan văn Thanh, và trước chiếc số 3 của PHÐ anh Nguyễn Tấn Hiền. Các Trưởng Phi Cơ vào Phòng Hành Quân "briefing", còn chúng tôi ăn sáng trong "Club" chờ. Ngày hôm đó chúng tôi được lệnh thả 1 toán 7 người phía Tây A Shau. Anh Thanh bay chiếc đầu thả 4 còn Anh Trọng chiếc thứ nhì thả 3 "troops". Anh Hiền bay "air cover". Khi Anh Thanh xuống, ở dưới địch quân bắn lên dữ dội, nhưng Anh Thanh chẳng nghe gì cả tiếp tục thả (mọi người vẫn thường gọi anh là Thanh Ðiếc), rồi tới lượt chiếc thứ nhì tiếp tục xuống thả 3 "troops" còn lại. Khi anh Trọng thả xong, vừa cất cánh bay vòng để lấy hướng đi lên thì tôi thấy rõ ràng có mấy tên địch chạy ra bắn theo, và phi cơ bị bắn trúng mấy phát nghe bộp... bộp... Lúc đó tôi thấy chùm giây điện trước cửa phòng hành khách bị cháy, tôi vội tháo một găng tay ra đập còn một găng kia tôi chụp vào chùm giây dập tắt nó ngay, nhưng chưa kịp mừng thì ở dưới tiếp tục bắn lên, trúng ngay trước chân tôi. Tôi trông thấy rõ ràng sàn tàu mở ra trong khoảnh khắc, rồi xăng phụt lên, tôi vội đạp lên chặn không cho xăng phụt ra cháy, thì tầu liền bị thêm một phát đạn nữa, tôi thấy bộ phận "transmission" truyền lực cho cánh quạt ở trên đầu bắt đầu chảy nhớt. Tôi báo cáo tình trạng cho anh Trọng biết, anh nói: "Bịt nó lại!!!", nhưng làm sao bịt được lỗ đó, vừa to lại vừa nóng. Anh Trọng tìm hướng đáp khẩn cấp, khi xuống tới đất, cỏ voi cao hơn cả máy bay. Anh Trọng từ trên "cockpit" cao nhảy xuống và chạy rất nhẹ nhàng (hình như anh có võ thì phải), còn anh Sâm nhảy xuống vội chụp cây đại liên và kêu tôi ôm giây đạn chạy theo anh. Thật là khó chạy vì cỏ rất dầy và cao mà giây đạn thì có khía nên cứ giật người lại, lại còn nghe địch bắn theo cóc... cóc... cóc... và tiếng đạn bay trên đầu nghe rào... rào... rào... Anh Hiền bay trên theo dõi chúng tôi chạy và lao xuống rước. Trời ơi máy bay cao thế mà anh Trọng nhảy lên dễ dàng (đúng là anh có võ thật), còn tôi và anh Sâm leo lên mãi không được. Anh chàng "Medic" người Mỹ trên máy bay và thằng Năng bèn lôi tôi và anh Sâm lên. Anh Sâm lập tức nhảy đến bên hông cửa sổ rút súng "rouleau" ra chỉa xuống, thấy vậy tôi cũng bắt chước núp bên cửa sổ trên móc Colt 45 ra lên đạn và cũng chỉa xuống, nhưng khi lên đạn, cơ bẩm chạy ra giữa, thôi chết hết đạn rồi. Tôi quê quá tiu nghỉu ngồi xuồng ghế, thật là lính mới tò te. Sau đó Anh Thanh gọi khu trục đến oanh tạc phá hủy máy bay. Khi về đến Phi Ðoàn, Th/Tá Ðặng Văn Phước Phi Ðòan Trưởng và Ð/T Nguyễn Văn Khánh Không Ðoàn Trưởng ra bắt tay ba người về từ đỉnh núi, rồi thưởng mỗi người một ly rượu mạnh. Buổi chiều Th/Tá Phước dẫn toàn bộ Nhân Viên Phi Hành trong Phi Ðoàn ra nhà hàng Việt Nam bên bờ sông Hàn khoản đãi. Sáu tháng sau, ngày 31 tháng 12 năm 1968 tôi nhận được một huy chương Phi Dũng Bội Tinh với Cánh Chim Ðồng theo Quyết Ðịnh số 1108/TTM/TQT tử phi vụ này. Sau tai nạn này tôi được thăng cấp Hạ Sĩ kể từ ngày 09 tháng 08 năm 1968 do Quyết Ðịnh số 13903/PCHC ngày 26 tháng 11 năm 1968.
Tai nạn thứ hai đến với tôi ngày 30 tháng 11 năm 1968 khi đi bay với PHÐ anh Nguyễn Văn Minh và anh Hướng Văn Năm. Chúng tôi 4 chiếc King Bees do anh Huỳnh Văn Phố chỉ huy với các Trưởng Phi Cơ (TPC) 3 chiếc sau theo thứ tự anh Nguyễn Văn Minh, anh Tôn Thất Sinh, anh Nguyễn Kim Huờn. Trong lúc "stand by" tôi đi vào nhà vệ sinh, nói là nhà vệ sinh cho sang, nhưng thật ra chỉ có hai miếng gỗ bắc ngang thùng phuy để ngồi chồm hổm lên, phía dưới đựng dung dịch hóa học cho bớt hôi đi, chung quanh có mấy tấm ván che ngang vai lòi đầu ra ngòai. Tôi ngồi trút bầu tâm sự thì anh Năm vào phòng cầu kế bên, thò dầu ra nói chuyện với tôi. Hai anh em tâm sự nhiều. Anh Năm hỏi nhiều về gia đình tôi, tôi không ngờ đây là lần tâm sự cuối cùng của anh Năm. Ðang nói chuyện thì chợt nghe thấy tiếng H.34 sành... sạch... Ngoài đường, Anh Năm la lên: "Chết rồi! Bay! Bay!". Thế là hai anh em vội vàng ngưng việc vệ sinh, vội kéo áo bay lên, rồi thật lẹ làng phóng ra phía cổng. Anh Năm người dong dỏng cao và chay thật nhanh, thế là Phi Vụ bắt đầu.
Lượn một vòng 4 chiếc C H.34 lần lượt đáp xuống Phi Trường Cam Lộ, gọi là PT nhưng đây chỉ là một đường đất mới làm phẳng và hai bên còn đang đào cống rãnh ngổn ngang. Sau một lát "leader" vào Bộ Chỉ Huy (BCH) họp và lấy lệnh hành quân trở ra, các Trưởng Phi Cơ chụm nhau lại bàn tính, cuối cùng quyết định để Anh Tr/u Nguyễn Kim Huờn ở lại, chỉ có 3 chiếc đi thôi, vì đây là một phi vụ đặc biệt, thả một tù binh Bắc Việt về đơn vị gốc của họ, và phía Mỹ đã "contact" với địch quân, họ đã đồng ý sắp xếp vị trí đáp ở khu vực gần đường mòn 922 Hạ Lào. Anh Huờn ở lại theo yêu cầu của anh Minh (còn gọi là Minh Bánh Bèo). Khoảng 14 giờ ba chiếc H-34 lần lượt cất cánh và trong giây lát chỉ còn là những chấm nhỏ rồi mất hút tận chân trời... Còn lại ba thầy trò Huờn - Long (đen) - Mẫn, anh Huờn tâm sự: "Tôi là bạn thân của thằng Minh, vì tôi mới ra Phi Ðoàn có vài ngày, và đây cũng là phi vụ đầu tiên ở 219 nên thằng Minh nó không muốn tôi đi nên nó đã tình nguyện bay thế chỗ của tôi".
Cho tới khoảng 16 giờ 30, chúng tôi bắt đầu nghe tiếng H-34 và chỉ thấy có một chiếc bay về, mọi người giật mình và cảm thấy hoang mang, lúc đó mây bắt đầu xuống thấp, và chúng tọi cứ nghĩ là hai chiếc còn lại đang ở trên mây, nhưng chỉ có anh Phố đáp xuống, anh cho biết khi anh đáp xuống thả tù binh, hai chiếc H-34 của anh Minh & Sinh bay "air cover" ở trên trời. Vì anh Minh và anh Sinh bay vòng chờ quá xa LZ (Landing Zone - Bãi Ðáp), đi ra ngòai vùng ấn định, vì lý do bảo mật nên khu vực khác của địch quân không biết sự giao ước này, vì thế họ bắn phòng không lên và trúng phi cơ của anh Minh. Anh Phố nhìn thấy phi cơ anh Minh xịt khói trắng và đâm nhào xuống đất gẫy làm ba khúc, và chỉ trông thấy một nón trắng văng ra. Anh không nhận nghe một tín hiệu cấp cứu nào cả, ở dưới địch quân bắn lên như đan lưới. Biết không thể làm gì được, anh ra lệnh bay về, nhưng anh Sinh không chịu, nhất định ở lại tìm kiếm. Mọi người chờ đợi ở căn cứ Cam Lộ, thật là sốt ruột và lo lắng. Mãi đến 17 giờ 30, trời vừa hơi sẩm tối, chúng tôi mới nghe tiếng máy bay từ xa vẳng lại, nhưng vì mây phủ nên không thấy đâu cả. Anh Phố vội lên mở vô tuyến và liên lạc, thi thấy anh Sinh mờ mờ trong đám khói mây, vừa kịp chui xuống thì mây bít lại. Anh Sinh tỏ vẻ rất "upset" vì đã không cứu được PHÐ anh Minh, anh Năm.
Anh Sinh kể lại khi anh Minh bị bắn rớt, anh bay lượn nhiều vòng lúc xuống thấp, lúc lên cao, cố gắng xem có ai còn sống sót, ở dưới đạn bắn lên cứ như mưa, anh liên lạc vô tuyến cứ gọi rồi lại gọi xem anh Minh hoặc anh Năm có còn ai trả lời không, nhưng vẫn bặt vô ấn tín, cuối cùng thất vọng anh đành quay trở về. Nhưng khi trở về thì mây đã kéo ra bít kín, cứ thế anh cưỡi mây nhắm hướng trở về. Anh Sinh cũng may mắn thoát chết nhờ một lỗ hổng nhỏ chui xuống đáp, nếu không xăng đã gần cạn vì bay quá lâu tìm kiếm và mây phủ không thấy đất thì không biết sẽ như thế nào. Khi về tới Ðà Nẵng, anh Huờn vừa kịp ký "Circuit d'Arrivée" về Phi Ðòan 219 lại vội vã ký "Circuit de Départ", anh đi để tránh nỗi ám ảnh đau thương mà một người bạn vì thương anh đã thế chỗ cho anh, chắc hẳn anh còn phải nhớ mãi điều này.
Ðầu năm 1969, PHÐ Nguyễn Thanh Liêm, Bạch mạnh Hùng, Lợi bị bắn cháy máy bay tại vùng hành quân A Shau - A Lưới. Khi rơi xuống, anh Liêm và anh Hùng bị phỏng nhẹ, địch quân phát hiện máy bay rơi bèn đến ngay lập tức. Họ dùng mã tấu phát cỏ để truy tìm. Mevo Nguyễn Văn Lợi chạy một nẻo, hai Pilots chạy một nẻo. Hai anh bị mã tấu phát cỏ ngang đầu, cố nằm rạp xuống để tránh bị phát hiện, vì cỏ cao và dày nên địch quân không tìm được, chỉ nghe họ chửi đổng: "Mẹ bố nó! Mới rơi đây mà chúng nó đã chạy đâu mất rồi!". Rồi họ cũng sợ bị phát hiện và bị máy bay oanh kích, nên bỏ đi ngay. Cũng chính vì điều này khi máy bay vòng chờ suốt buổi sáng cho đến trưa để tìm hai anh mà không thấy, mãi mới đón được hai anh "pilots", nhưng vẫn chưa thấy Mevo Lợi đâu cả. Cho đến gần xế chiều mới tìm ra Mevo Lợi. Sau chuyến này hai "pilots" được đưa về nằm bệnh viện dưỡng thương, rồi sau đó về Bộ Tư Lệnh Không Quân nhận nhiệm vụ mới, còn Mevo Lợi được nghỉ phép vài ngày để ổn định tinh thần vì không bị thương. Nhưng Mevo Lợi đã đi phép đến vài tháng, sau phải rời Phi Ðoàn.
Tháng 3 năm 1969, PHÐ Nguyễn Văn Du - Lê Long Sơn - Hồ Ðắc Bình bị bắn rơi gần đỉnh "Leghorn", một căn cứ truyền tin điện tử bí mật đặt trên đỉnh núi cheo leo, rất khó tấn công nằm trên đất Lào phía Ðông cao nguyên Bolovens, ngó xuống trục lộ chính của hệ thống Ðường Mòn HCM. Bị địch quân đuổi bắt, anh Du chạy và bị bắn chết, còn anh Sơn (Sơn đen), và Mevo Bình bị bắt. Họ sợ hai người này chạy nên bắt cởi bỏ giầy đi chân không, trời ơi đau vô cùng. Chuyến này Anh Trần Văn Phước (Phước Ðạo Dừa) làm "leader".
Ngày 4 tháng 4 năm 1969, PHÐ Tôn Thất Sinh - Vũ Tùng - Phương nhận phi vụ vào tiếp tế cho một Team ở Ngã Ba Biên Giới qua khỏi Leghorn. Tin tình báo cho biết địch quân rất đông nằm chắn ngang đường bay, vì thế chỉ có một đường vào là phải bay vòng qua một dãy núi rất xa mới đáp tiếp tế được. Khi tiếp tế xong, anh Sinh quyết định bay thẳng không đi vòng nữa, khi bay ngang nơi địch quân như đã được báo, ở dưới bắn phòng không lên như mưa, cuối cùng anh báo trên vô tuyến: "Tao bị thương rồi", và máy bay anh đâm nhào xuống đất, cháy ngay lập tức. Hỏa lực địch quân rất mạnh không thể nào tiến sát chỗ anh rơi được, phải chờ cho đến khi phi tuần khu trục phản lực F4 Phantom của Mỹ đến giải tỏa bớt được hỏa lực địch, các máy bay đi cứu cũng chỉ bay lại gần thôi, vì hỏa lực địch quân vẫn chống trả, trên cao quan sát thấy máy bay của anh chỉ còn lại phần động cơ phía trước như cái cùi bắp, còn lại hoàn toàn cháy rụi.
Tháng 5 năm 1969, PHÐ Trần Văn Phước (Ðạo Dừa) - Copilot? - Trần Tuấn Năng thả "team" gần Leghorn khi đáp xuống bị bắn, Mevo Năng bi thương nơi cánh tay và bàn tay trái, may mắn một viên đạn trợt ngang mắt kinh Rayban làm gãy gọng, nhưng nhờ vậy nên viên đạn trợt ra ngoài, Năng được giải ngũ từ dạo đó. Trong thời gian này, những phi công Hoa Kỳ của Phi Ðoàn Trực Thăng Võ Trang Cobra 361 PINK PANTHER đi theo hộ tống (escort) yểm trợ hỏa lực đã chứng kiến tận mắt, nên đã hết lời tán dương Phi Ðoàn 219 KINGBEE và Ð/U Trần Văn Phước trong bài viết trên tạp chí HAWK của Không Lực Lục Quân Hoa Kỳ (Army Aviation).
Tháng 5 năm 1969, PHÐ Crossman - Thái - Toàn bị tai nạn ở vùng Bạch Mã. Major Crossman là một phi công phản lực của KQ/HK, ông không rành về bay trực thăng, nhưng khi về làm cố vấn Phi Ðoàn 219, ông được các Anh Huấn Luyện Viên tập bay. Ông rất thông minh nên tiếp thụ rất nhanh, sau một thời gian gần một năm trời, ông bay tập chuyên cần và đã ra được Trưởng Phi Cơ. Ông bay vững, và phải nói ông là người rất tốt, và có đạo đức, được mọi người quý mến và nhớ mãi. Th/u Thái cũng vừa về Phi Ðoàn chưa bao lâu, và đến Mevo Tr/s I Toản, cũng vừa chân ướt chân ráo từ Phi Ðoàn 215 ra. Nhân có một phi vụ rước "Team Local", ông Crossman muốn đi thử một chuyến, nhưng khi nhận được chi tiết và địa điểm ở Núi Bạch Mã thì anh Nghĩa và anh Phố khuyên ông không nên đi vì vùng này gió xoáy và "turbulence" đánh dữ lắm. Nhưng ông Crossman cứ khăng khăng đòi đi, đúng như dự đoán khi ông bay đến nơi vừa "hover" để Mevo Toản thả thang giây xuống cho "team" leo lên, thì "turbulence" đánh dữ dội. Ông không còn điều khiển phi cơ được, phi cơ bị gió hút xuống, ịn ngay tại chỗ. Mevo Toản vì mới ra Phi Ðoàn nghe nói là đi hành quân thường bị bắn, nhưng anh cũng không biết đây là "team local" ít đụng địch, nên anh không đứng mà nằm xuống sàn tàu, khi tầu đập xuống đất anh bị dập ngực xuông sàn và chết ngay. Sau đó Phi Ðoàn yêu cầu Không Quân Hoa Kỳ mang máy bay CH-53 Jolly Green, loại này rất mạnh và to lớn hơn H-34, đến lấy hai "Pilots và Team" ra. Khi chiếc CH-53 đến nơi, họ "hover" thả "hoist" (máy thả giây) xuống kéo từng người một lên, ông Crossman nhường cho Th/u Thái lên trước nhưng khi "hoist" kéo anh Thái gần lên đến máy bay thì chiếc CH.53 này cũng không chịu nổi gió xoáy nên cũng bị rớt xuống ngay, thật không may cho anh Thái, phi cơ rơi xuống và đè chết anh. Lúc đó buộc lòng Major Crossman phải theo "Team" đi đường bộ về, sau này ông Crossman rất ân hận vì đã không nghe lời anh Phố, ông xin về nước với nỗi ân hận khôn nguôi. (Còn Tiếp).
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Năm 1969 qua đi với nhiều đổi thay. Bên Hoa Kỳ, Tổng thống Nixon đã thắng cử và nhậm chức Tổng thống từ đầu năm 1969, và bắt đầu chương trình Việt hóa chiến tranh, để xoa dịu phong trào phản chiến trong nước Mỹ.
Về mặt chính trị, hòa đàm Paris vẫn cù cưa sau hơn một năm chưa qua khỏi giai đọan sơ khởi tranh luận về hình thể bàn họp hình tròn hay hình vuông. Trong khi đó ngoài chiến trường, binh lính hai bên vẫn tiếp tục ngã xuống để các nhà ngoại giao trong bàn họp có thể nói trong thế mạnh, một thủ đọan đàm phán được mệnh danh là "vừa đánh vừa đàm".
Mức họat động của Bắc quân trên đường mòn Hồ Chí Minh gia tăng mãnh liệt. Hà Nội đưa quân bổ xung và đồ tiếp liệu khởi đi từ miền Bắc qua cầu Hàm Rồng vào miền Trung để đến Ðèo Mụ Già, điểm xuất phát của đường mòn Hồ Chí Minh vào Lào Quốc. Ðoàn quân này sẽ đi theo lộ trình cả ngàn cây số để xâm nhập vào miền Nam qua ba ngõ chính: Ðường 9 Nam Lào qua Khe Sanh, Tà Bạt, A Shau, A Lưới để vào vùng I Chiến Thuật; ngõ thứ hai là từ vùng Ba Biên Giới đi vào Cao Nguyên Trung Phần qua ngã Ben Het, Daktô để vào Kontum, Pleiku của Vùng II Chiến Thuật; và ngõ thứ ba để vào Vùng III Chiến Thuật là đường mòn Bùi Gia Mập. Trung Ương Cục Miền Nam (Cục R) đầu não chính trị và quân sự của Cộng quân điều khiển chiến trường miền Nam thường xuyên di động trong vùng Ðông Bắc Cao Miên sát biên giới Miên-Việt trong các tỉnh Tung Streng, Mondol Kiri, Snoul, Kratié. Do đó Phi Ðoàn 219 được lệnh phải thành lập thêm hai biệt đội cho hai căn cứ xuất phát mới là Ban Mê Thuột và Quản Lợi (Bình Long) để đáp ứng nhu cầu chiến trường.
Những năm hoạt động tại biên giới vùng I, chúng tôi làm việc chung với các phi công trực thăng võ trang của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ, một đơn vị rất tinh nhuệ và có truyền thống gan dạ của Quân Ðội Mỹ, họ nổi tiếng trong Thế Chiến Thứ II tại chiến trường Thái Bình Dương qua các trận lừng danh như Saipan, Okinawa v.v... Các phi công của Phi Ðoàn Scarface (Mặt Thẹo) rất gan dạ, họ lấy biểu hiệu cho PÐ này là "hover cover" (bay đứng một chỗ để bắn yểm trợ). Nhưng họ đã phải nghiêng mình bái phục trước hành động quả cảm của "An Cào Cào" như trong bài trích dưới đây của Mike Brokovich trong hồi ký "A Few Good Men" kể lại một cuộc hành quân phối hợp giữa King Bees và Scarface về trường hợp một chiếc "gunship" của Scarface bị bắn rơi trong một cuộc hành quân bên Lào:
" ...Chiếc trực thăng võ trang UH-1B của TQLC Mỹ bị bắn trúng, bốc cháy và rơi xuống dòng sông. An đang bay, chiếc King Bee H-34 bèn nhào xuống vớt được Thiếu tá Hill và Hạ sĩ Dean đang trôi trên sông cách chỗ máy bay rớt 100 thước, rồi giao lại cho một chiếc UH khác của Hoa Kỳ, sau đó An không cần bay lên cao, cứ là là bay ngược lại chiếc phi cơ đang cháy để tìm hai người còn lại là Ron Janousek và Bruce Kane, hai bên sông, địch quân bắn theo như mưa. An bay đứng tại chỗ trên chiếc phi cơ đang cháy, thò đầu ra ngoài cửa sổ ngó tìm. Rồi An đưa chiếc bánh đáp của H-34 móc vào càng chiếc UH-1B đang cháy kéo lên để nhìn vào trong xem có ai còn sống bị kẹt trong đó không? Trong khi đó lợi dụng chiếc H-34 bay đứng một chỗ địch quân lại càng bắn mãnh liệt hơn. Nhưng An không thấy có ai trong đó cả, khi đó An mới bay lên. Chúng tôi không tin ở mắt mình khi thấy An làm vậy vì ngoài việc bị địch quân bắn xối xả, chiếc H-34 có thể bị dính vào chiếc phi cơ bị nạn và bốc cháy theo. Ðây là một trường hợp trong nhiều trường hợp về những hành vi anh dũng của An nói riêng và của các phi công King Bees nói chung".
Các phi công Panthers trực thăng võ trang Cobra của Lục Quân Mỹ làm việc chung với King Bees ở vùng II và phi công Green Hornets của Không Quân Hoa Kỳ bay trực thăng võ trang UH-1N ở vùng III cũng đều có những nhận xét tương tự về các phi công King Bees. Sau hơn 20 năm, gần đây Tổng thống Hoa Kỳ đã ký một bản tuyên dương PÐ 219, và gửi tới Thiếu tá Nguyễn Quí An (An Cào Cào) hiện cư ngụ tại San José, California. An bị bắn cháy trên trời tháng 9 năm 1970, nhưng vẫn điều khiển được chiếc H-34 đáp khẩn cấp và thoát ra trước khi phi cơ nổ. Nhưng hai tay anh bị cháy quá nặng, nên bị cưa, và An được giải ngũ. Sau năm 1975, T/T An bị kẹt lại và vì khuyết tật nên không bị cải tạo lâu, cho nên khi phong trào HO cho các SQ có ít nhất 3 năm tù cải tao qua tỵ nạn thì T/T An không thuộc diện này. Nhưng những quân nhân Mỹ ngày trước được An cứu, ngày nay có nhiều người ra làm chính trị trở nên Thượng Nghị sĩ và Dân biểu Liên Bang. Họ đã tìm cách đưa T/T An qua Hoa Kỳ chữa bệnh, và đệ nạp môt sắc luật đặc biệt lên Quốc Hội để T/T An trở thành thường trú nhân, và T/T An đã có thẻ xanh với nỗ lực của cộng đồng VN (10 ngàn chữ ký) và của các người bạn Hoa Kỳ còn nhớ tới ân tình ngày trước.
Những phi vụ biệt kích được coi là nguy hiểm vì luôn luôn phải đi sâu vào lòng đất địch với hỏa lực yểm trợ tối thiểu. Các phi công bị bắn rớt, nếu không được cứu liền để qua ngày hôm sau thì sẽ không còn nhiều cơ hội để cứu nữa. Ngoài ra, một kẻ thù nguy hiểm hơn thế nữa là thời tiết. Rặng Trường Sơn phân chia biên giới Việt Lào, nhưng cũng là nơi phân chia biên giới sống và chết của các phi công tài ba. Mùa mưa gió Nồm thổi từ phía Nam lên mang theo mưa giông và mây mù che phũ đường về. Thời tiết có thể tương đối còn tốt trên đường xuất phát vượt rặng Trường Sơn qua phía Tây,nhưng khi hoàn tất phi vụ trở về phía Ðông Trường Sơn, mây đã bít kín đường về. Núi non chập chùng không có "radar" hướng dẫn, bay trong mây như hiệp sĩ mù nghe gió kiếm, nhiều khi xuống sát ngọn cây mới thấy đất, hú hồn thấy mình còn sống. "Hùng Râu Kẽm" đã mất tích không tìm thấy xác trong trường hợp này khi báo cáo lần cuối là chỉ còn 15 phút nữa là đáp. Trong năm 1970, PÐ 219 bị thiệt hại nặng nề khi hai PHÐ số 1 và số 2 của một phi tuần 3 chiếc bị thiệt mạng vì thời tiết xấu tại vùng Kontum. Ðây là nột kỷ niệm trong đời mà tôi sẽ không bao giờ quên được.
Ngày 11 tháng 05 năm 1970, Biệt Ðội 219 làm việc tại B.15 Kontum chỉ có 4 PHÐ gồm có Flight Leader là anh Nguyễn Văn Tưởng và Trưởng phi cơ 3 chiếc còn lại là anh Ngô Viết Vượng & anh Ðặng Văn Cung đều là I.P. (Instructor Pilot) của Phi Ðoàn, còn anh Trần Văn Long lúc đó vừa mới ra Hoa Tiêu Chánh. Vì chỉ có 4 Crews và đến 3 người là I.P. nên anh Tưởng chi cho mỗi ngày bay 3 Crews để anh em còn có thời gian nghỉ ngơi. Hàng ngày, 3 PHÐ bay lên Ðức Cơ trực ở đó, thời gian này chiến trường Cambốt đang sôi động với cuộc hành quân vượt biên đánh qua Miên để tảo thanh an toàn khu Lưỡi Câu và Mỏ Vẹt của Cộng quân do Ðại tướng Ðỗ Cao Trí chỉ huy. Tổng Tham Mưu ra lệnh Phi Ðoàn đưa một Biệt Ðội từ Ðà Nẵng vào nằm chờ lệnh tại trại Biệt Kích Quyết Thắng để thi hành phi vụ mật vào Nam Vang, để nếu cần yểm trợ Tướng Lon Nol mới đảo chánh nhà vua Cao Miên Sihanouk.
Sáng sớm ngày 11 tháng 05 năm 1970, anh Tưởng đến phiên được nghỉ, còn lại ba Phi Hành Ðoàn làm việc sửa soạn lên đường bay lên Ðức Cơ. Lúc này vì là mùa mưa nên trời ẩm thấp mây mù lất phất chưa tan mặc dù đã hơn 8 giờ sáng, ba chiếc lần lượt cất cánh bay thẳng về hướng Ðức Cơ, khi gần đến làng Toumorong trời bắt đầu mưa, anh Cung yêu cầu tất cả bay lên cao để có thể tránh mưa ở dưới thấp. Trời mỗi lúc lại càng mưa lớn hơn, mây mù khắp nơi, càng lên cao trời càng đen. Anh Trần văn Long biết tài năng của mình có giới hạn nên gọi vô tuyến VHF báo cáo trưởng đoàn là anh Vượng xin quay trở về. Anh Vượng đồng ý và nói nếu anh Cung muốn về thì dẫn anh Long về. Anh Long được lệnh bèn hạ thấp xuống bay về, trong phi cơ này tôi bay cơ phi với anh Long. Nhưng anh Cung không về.
Anh Long cho phi cơ xuống nhưng mây mưa càng lúc càng nhiều, không thấy đâu là trời đất cả, và bất thình lình tôi trông thấy những thửa ruộng vuông vuông phía dưới càng lúc càng dâng lên. Tôi vội la lên: "Coi chừng tới đất!". Anh Long vội kéo phi cơ khựng lại, vừa chấm mái nhà của người Thượng tại đây. Trời vẫn còn mưa như trút, anh Long phải vừa bay vừa Hover từ từ quay về KonTum, trong khi đó, trên vô tuyến của máy bay tôi nghe được giọng của anh Cung nhắc nhở: " Qua trái! Núi!... Qua phải! Núi!", rồi một lát sau tôi nghe tiếp cũng giọng của anh Cung: "Vượng ơi! Ði như vậy là giết hết anh em rồi!". Và đó là tiếng nói cuối cùng của anh mà tôi đã được nghe.
Nói về anh Long sau đó gọi nhiều lần cho anh Vượng và anh Cung nhưng không nghe ai trả lời cả, anh vội vàng lầm lũi bay về, nhưng thật tình không biết tâm trạng anh lúc đó như thế nào, chỉ có anh Yên là có thể đoán được thôi, vì anh Yên ngồi kế bên, còn tôi thì không nghe anh nói gì cả. Khi bay về tới KonTum, anh bay thẳng ra phố và cứ thế vòng vòng chung quanh phố chính đường Lê Thánh Tôn nhiều vòng xong anh quay về đáp xuống Parking B.15, chờ một lát thì qủa thật PHÐ anh Tưởng vội vã quay về trại. Anh chạy ngay ra "parking" hỏi: "Chuyện gì vậy Long?" Anh Long mếu máo: "Anh Vượng & Cung bay vô mây và không liên lạc được!" Anh Tưởng nói: " Chắc tụi nó bay tới Ðức Cơ rồi chứ gì?". Rồi anh Tưởng lên máy bay không mở máy mà chỉ mở vô tuyến gọi thử cũng không nghe trả lời, anh Tưởng vội vào Bộ Chỉ Huy của Chiến Ðoàn nhờ gọi thẳng lên Ðức Cơ hỏi xem hai chiếc đã đáp chưa, và được biết chưa có chiếc nào đến Ðức Cơ cả. Bấy giờ anh mới hoảng chạy thẳng ra phi cơ mở máy và tiếp tục gọi. Trời bắt đầu sáng và nắng bắt đầu tỏa xuống vạn vật, Anh Tưởng và anh Long mỗi người một chiếc bay lên và thi nhau gọi: "Vượng nghe không Vượng? Cung nghe không Cung? " và cứ thế hai anh thi nhau gọi, sau đó anh Tưởng gọi về phi trường Cù Hanh ( PleiKu ) hỏi xem có chiếc nào đáp không, nhưng ở đó họ cũng trả lời không thấy, rồi anh Tưởng hỏi các đài không lưu ở khắp nơi, nơi nào có thể liên lạc được anh đều hỏi, nhưng vô vọng không ai phát hiện thấy hai chiếc TT này cả. Hai anh cứ tiếp tục hỏi và bay vòng trên núi cao ngăn đôi giữa KonTum và Ðức Cơ , nói rõ hơn dãy núi này ngăn cách giữa làng Toumorong và làng Plei Jereng (Ðồn của LL.ÐB gọi là Lệ Minh) và cứ thế mà bay vòng cho đến trưa. Khoảng gần 12 giờ, đang bay trên đỉnh núi thì bất chợt tôi nhận thấy có một vài nhánh cây mới gẫy trên ngọn và còn tươi, Tôi vội báo ngay cho anh Long: "Anh Long ơi! Hướng ba giờ có nhánh cây bị gẫy". Anh Long hỏi ngay: "Ðâu đâu?", và lập tức anh quay lại và anh bay từ từ theo dấu nhánh cây gẫy một đoạn xa, lúc này nhìn xuống phía dưới thấy một máy bay bị gẫy làm ba, mà máy bay thì rất nhỏ, như vậy cây ở đây rất cao. Anh Long gọi ngay cho anh Tưởng và hai anh cứ từ từ bay vòng và lấy rộng ra lần lần, chúng tôi 6 người cứ thế mà dán mắt xuống dưới rừng tìm kiếm, cuối cùng anh Tưởng trông thấy một người đang cầm miếng vải đỏ ở dưới thung lũng sâu cách xa chỗ rơi máy bay nhiều cây số, đàu đội nón nâu như lính Nhảy Dù hay Biệt Ðộng quân, và đang ra tín hiệu, anh Tưởng nghĩ không biết người này đang ra dấu cái gì, vì nếu là lính hay là NVPH ít nhất cũng phải biết sử dụng miếng vải "si-nhan" (Signal). Anh ta là ai và muốn gì? Vì Anh ta sử dụng miếng vải đưa lên đưa xuống như vẩy nước ở trong khăn cho khô. Nhưng anh Tưởng cũng phải xuống gần xem. Anh cũng biết vì thung lũng này bao quanh là núi nếu có gì rất khó phản ứng. Xuống gần đến nơi anh nhận ra Mevo Trần Văn Liên. Anh la lên: "Long ơi, Long! Thằng Liên, Long ơi!". Liên là em ruột anh Long, bay cơ phi chiếc anh Cung. Anh Long xúc động quá thảng thốt kêu lên: "Thằng Liên hả Ð/U?", rồi anh quay qua anh Yên nói trong nghẹn ngào: "Yên ơi! Yên mày bay đi tao chắc chết!", rồi anh buông cần lái, không nói thêm được gì nữa. Trong khi đó anh Tưởng không thể xuống được nữa vì dưới đó quá sâu, anh nói với Mevo Nguyễn Thanh Cần ra dấu cho Liên ở đó chờ, anh bay đi xả bớt xăng cho nhẹ Tàu rồi mới xuống được. Anh bay thẳng về Toumorong đáp xuống ruộng xả bớt hai bình xăng, sau đó anh bay lên và nói với Mevo Cần buộc giây ba chạc vào Hoist và thả xuống, ra dấu cho nó luồn hai chân vào giây ba chạc và ôm vào sợi giây, Liên lúc đó cũng quá căng thẳng rồi nên anh ta chỉ sỏ một chân rồi ôm cứng lấy sợi giây, và Liên cũng đã được đưa lên tàu. Hai PHÐ bay trở về B.15 và được Liên thuật lại diễn tiến tai nạn:
"Lúc vào trong mây chỉ thấy núi và cây, anh Cung chỉ "hover" lết theo ngọn cây mà bay, sau đó anh quẹt vào cây, và máy bay cứ lao thẳng tới, và vào những nhánh cây lớn và rơi thẳng xuống. Liên chỉ đeo cái Headset mà không đội nón bay, thật là may mắn Liên không bị thương chỉ sây sát sơ sơ trên đầu, Anh dùng băng cá nhân màu nâu quấn ngang đầu, lúc rơi xuống anh Cung còn tỉnh táo, leo ra khỏi máy bay, và Liên dìu anh Cung ra xa khỏi nơi tai nạn. Anh mệt quá vá yêu cầu Liên cho anh ngồi nghỉ dưới một gốc cây, sau đó anh nói Liên móc trong túi anh lấy ra cái bóp và cái hộp quẹt Zippo. Anh nói Liên đem về cho vợ con anh, và anh nói là anh bị tức ngực, một lát sau anh Cung nẩy người lên và rút hai chân, hai tay cũng co lại trong tư thế ngồi bay, rồi trút hơi thở cuối cùng , Anh Ð/U ÐẶNG VĂN CUNG đã hy sinh ngày 11/05/1970. Trước khi Anh vĩnh viễn lìa bỏ gia đình và đồng đội anh đã tức chính bản thân mình "Tại sao không "control" được lại để cho rơi!" và anh đã nấc lên co vào tư thế bay để rồi lịm đi. Liên thấy bất lực trước cái chết của vị chỉ huy của mình, không làm gì được, anh cứ thế đi theo triền dốc, càng đi cây cối càng rậm rạp, nghe tiếng máy bay mà không có cách nào ra hiệu cho máy bay thấy cả, vì cây cao và tàng cây che kín. Sau cùng anh ta xuống đến gần cuối chân núi mới có một khoảng trống, cũng may vừa chạy đến đó thì anh sắp lả vì đói và mệt, thì được máy bay anh Tưởng kịp kéo lên đưa Liên về.
Tiếp tục anh Tưởng, anh Long cùng máy bay quan sát từ Pleiku đua nhau đi tìm chiếc anh Vượng, đồng thời anh Tưởng yêu cầu cho thả Team xuống để đưa xác anh Cung và Th/U Ðạt về. Khi thả Team thì cây quá cao "hoist" và thang giây không thể xuống tới nơi được, phải cho Team tuột giây Thụy Sỉ, khi Team vào đến nơi bị tai nạn, thì không thể nào lấy được xác của Th/U Ðạt vì Transmission đã đè lên Th/U Ðạt chỉ còn thấy có nửa mặt phải. Sáng hôm sau, trực thăng đã câu được anh Cung về, cũng vẫn còn tư thế ngồi bay, làm mọi người vẫn tưởng anh chết trên máy bay, lập tức xác Anh được đưa vào trại tắm rửa và nắn lại tư thế nằm ngủ. Anh đã cài nịt bụng nhưng quên cài giây choàng vai nên bị cần lái đập vào ngực và mặt, làm mặt anh sưng lên và ngực bầm tím. Thi hài anh được đưa về Ðà Nẵng và gởi tại Bệnh viện Duy Tân. Anh Tưởng liên lạc với Trực Thăng. CH-53 của Quân Ðội Hoa Kỳ đến thả giây xuông móc vào Main Rotor kéo Transmission lên để Team lôi xác anh Th/U Ðạt ra, và thi hài Th/u Ðạt đã được mang về, vì anh đã bị vùi xuống đất và nửa mặt phải ở phía trên nên nửa phần mặt nổi lên trên bị tím đen.
Cuộc tìm kiếm vẫn còn tiếp diễn, PÐ 219 cho thêm TT lên tăng cường tìm kiếm, đến ngày thứ ba thì phi cơ quan sát đã tìm gặp xác máy bay CH-34 ở phía Tây Bắc của nơi anh Cung bị rơi và cách nơi anh Cung khoảng mười mấy cây số, một thung lũng cây thưa thớt. Máy bay đã bị cháy thành tro, trên cao nhìn xuống như ai đã vẽ lại chiếc may bay của anh Vượng. Với nơi trống trải này thì chắc anh Vượng đã bị Vertigo rồi. Thả Team xuống chỉ còn hốt tro ba người và chia đều ra ba túi là :
Anh Ð/U NGÔ VIẾT VƯỢNG -
Tr/U SQ.ÐL LÊ VĂN SANG -
Th/S PHẠM VĂN TRUẬT.
Anh Truật là người có tín ngưỡng rất cao, anh theo đạo Công giáo và mỗi lần khi đi xe ngang qua nhà thờ, anh đều xuống xe dẫn bộ, mỗi khi đi bay trông thấy một chiếc TT câu một chiếc khác, anh đều làm dấu và cầu nguyện ơn trên phù hộ cho những người bị nạn tai qua nạn khỏi. Bây giờ ngày 11/05/1970, các anh đã ra đi. Chúng tôi toàn thể anh em PÐ 219 Ðồng Ðội của các anh luôn luôn mặc niệm và tưởng nhớ đến các anh cùng cung kính cầu nguyện cho các anh sớm về cõi Vĩnh Hằng.
Sau khi thi hài của ba anh được đem về ÐNG thì Phi Ðoàn phân công chia nhau đưa các anh về với thân nhân gia đình. Tôi và một số sĩ quan trong Phi Ðoàn được phân công đi theo anh Lộc đưa thi hài anh Phạm Văn Truật về với gia đình anh ở Giáo Sứ Bùi Môn, gần T.T.H.L. Quang Trung. Khi quan tài anh được đặt đúng chỗ trong nhà theo yêu cầu của gia đình anh, anh Lộc cho làm lễ truy điệu và mặc niệm trước linh cửu anh Phạm Văn Truật. Khi anh Lộc hô to: "Một phút mặc niệm bắt đầu!", thì tôi thấy người nhà bưng một cái rổ to tướng từ ngoài cửa đi vào trong nhà, trong rổ là hai chú chó to lớn đã được thui sẵn vàng rụm và bóng lưỡng, lúc đó dù không khí đau buồn và trang nghiêm, nhưng tôi cố bấm bùng nhịn cười vì chưa bao giờ tôi thấy như thế này, chắc anh Lộc cùng các anh em khác cũng vậy. Nhưng tới ngày nay mỗi năm vào ngày một Tết, tôi đều đến viếng mộ anh Truật. Còn về thi hài anh Vượng thì tôi được nghe nói đến ngày đưa đám anh có 4 chiếc CH. 34 bay lượn trên bầu trời Huế tiễn đưa anh Ngô Viết Vượng đi về nơi an nghỉ cuối cùng. Anh Sang thì có anh Ngọ và một số anh em khác đưa về Saigon với thân nhân.
Nhưng cái số anh Long và Liên bị thời tiết xấu đeo đuổi, cả hai thoát chết ngày 11 tháng 5 năm 1970, nhưng họ lại chết chung với nhau ngày 09 tháng 10 năm 1971, cũng vì thời tiết xấu trên đường từ Quản Lôi về Sài Gòn.
Trước đó một ngày, Trưởng trại Quản Lợi yêu cầu anh Vũ Ðức Thắng Kingbee Lead cho tăng cường máy bay để đi đón một đại đội về, anh Thắng điện ra Ban Mê Thuột yêu cầu anh Trần văn Long cho tăng cường một chiếc (lúc này anh Trần văn Long cũng đã là Leader ở Biệt Ðội BMT), sáng sớm hôm sau phải có mặt tại sân bay Lộc Ninh. Chiều hôm đó, PHÐ Vũ Ðức Thắng - Nguyễn Ngọc An - Nguyễn Văn Mai và PHÐ Nguyển Hải Hoàn - Nguyễn Văn Kim (Kim méo) - tôi bay về Saigon. Khi về đến nhà thì Nguyễn Thanh Cần tình nguyện bay thế tôi.
Buổi sáng tinh mơ hôm đó, thứ Bảy ngày cuối tuần, hai PHÐ của anh Thắng và Hoàn bay lên Quản Lợi và lên trực ở sân bay Lộc Ninh và anh Long đã chờ ở đó với Ðại Uý Miller trưởng ban điều động hành quân. Phi vụ ngày hôm đó hoàn tất trễ, đến 20 giờ tối mới cất cánh về Saigon. Trời Quản Lợi tuy không được trong lắm, nhưng mọi người cũng quyết định bay về Saigon với ba PHÐ THẮNG - AN - MAI, LONG - THÀNH - LIÊN & HOÀN - KIM - CẦN. (Ðúng ra thì Mevo đi với anh Trần văn Long là Trần Mạnh Nghiêm vì Nghiêm là Mevo trước Liên với lại Phi Ðoàn không cho anh em bay chung nhưng anh Long lên BMT lại là Leader và khi về Quản Lợi sẽ nghỉ đêm ở Saigon nên rủ Liên cùng về). Khi ba chiếc bay đến xã Minh Hưng cách thị trấn Chơn Thành khoảng 20 cây số thì trời bắt đầu đổ mưa, và mưa mỗi lúc một to thêm. Ban đêm trời mưa nên không còn trông thấy gì nữa cả, hai chiếc đầu của anh Thắng và anh Long bay lạc hướng về phía xã Minh Lập, còn anh Hoàn cứ bò theo đường Quốc Lộ 13 về đến sân bay Chơn Thành, một sân bay nhỏ nằm gần lề đường ngay đầu thị trấn. Anh Hoàn không thể bay được nữa đã đáp xuống đây sát đồn Cảnh Sát Dã Chiến, vào khoảng nửa đêm được tin địch quân có thể tấn công nên trưởng đồn cảnh sát đã phát cho ba chàng Không Quân ba khẩu M.16 và yêu cầu ra vòng đai nằm gác, thế là ba chàng vừa thoát tai nạn này lại ập đến tai nạn khác, cứ thế mà nằm ngoài giao thông hào cho đến sáng.
Sáng Chủ nhật, tôi được Cần đến nhà trả Headset và mếu máo cho biết hai chiếc anh Thắng và anh Long chết hết rồi. Tôi bàng hoàng trước tin tức này, vội chụp Headset mà Cần trả mặc vội quần áo nhờ chú em cũng Không Quân chở vào phi trường Tân Sơn Nhất và gặp anh Phạm Ngọc Sâm, và được biết hai chiếc đã bị Vertigo. Tôi bay theo anh Sâm lên Chơn Thành và lùng tìm hai chiếc bị mất tích, sau đó tìm gặp hai chiếc rớt ở hai nơi cũng khá xa nhau nhưng đều thuộc xã Minh Lập, nơi đây thuộc rừng chồi, nhưng cây cũng đã cao khỏi nóc nhà, hai chiếc đều bị cháy. Ban đầu tìm ra xác chiếc của anh Thắng ba người VŨ ÐỨC THẮNG - NGUYỄN NGỌC AN - NGUYỄN VĂN MAI, đều bị cháy đen. Sau mới tìm ra chiếc của anh Long PHÐ gồm TRẦN VĂN LONG - NGÔ VĂN THÀNH - TRẦN VĂN LIÊN, hai người bị cháy đen là Thành và Liên còn anh Long chỉ bị xém sơ thôi nhưng mất cái đầu, tìm mãi vẫn không thấy đâu cả. Chúng tôi cứ đi tìm mãi tới trưa thì thấy ở trên cây, chắc là anh Long đã nhảy ra và bị cánh quạt chặt như một tai nạn xảy ra ở Cần Thơ trước nay. Chúng tôi đáp máy bay đáp ngay lề một đường mòn nhỏ và các Biệt Kích lôi ra những cái Poncho trong đó là ba xác Long, Thành, Liên. Xác anh Long thật là nặng vì anh rất mập mạp. Lính Biệt Kích để dưới đất rồi đi, thành ra một mình tôi ì ạch khiêng ba chàng lên máy bay, đưa thẳng về Tử sĩ Ðường Tân Sơn Nhất gần cổng sau của trại Nhảy Dù Hoàng Hoa Thám.
Như vậy là Phi Ðoàn 219 đã tổn thất 6 người vào đêm thứ Bảy ngày 21 tháng 08 năm Tân Hợi tức là ngày 09 tháng 10 năm 1971. Thật là đau thương khi về đến gia đình anh Trần Văn Long, hai quan tài để song song, mẹ già khóc cho hai con.
Từ năm 1971 đến 1975, PÐ 219 trải qua biết bao đổi thay, biết bao nhiêu anh em đã ra đi. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc chiến chấm dứt, một số may mắn ra đi vào thời điểm này, số còn lại đi tù cải tạo. Sau này các Sĩ Quan được đi Hoa Kỳ theo diện HO, chúng tôi Hạ Sĩ Quan không được xét tới, nên ở lại. Nhưng tình đồng đội giữa chúng tôi không phai mờ. Gần 30 năm sau cuộc chiến, tôi vẫn còn nhớ rõ từng chi tiết để ghi lại đây. Những kỷ niệm của một thời sống chết bên nhau sẽ luôn luôn sống mãi trong tôi.
KingBeeMan & Lãng Tử
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
43 năm thời gian qua mau.
Tôi vẫn nghỉ mình còn là lính và nghỉ gì về những người lính.
.......
Phần thiệt thòi luôn luôn về phía người lính và gia đình.
Chúng ta đã biết đến những khải hoàn môn vĩ đại, những nghĩa trang thẳng đều những mộ bia san sát, những đài Chiến Sĩ Trận Vong, những ngày lễ lớn với đầy đủ lễ nghi quân cách, những vòng hoa tang, những bản nhạc buồn hay tiếng kèn truy điệu làm não lòng người. Nhưng những người lính đã chết không bao giờ sống lại và những tham vọng của giới cầm quyền vẫn còn tiếp diễn trên trái đất này.
Nhìn lại cuộc chiến Việt Nam mới đây, Nam Bắc có hơn triệu người tử trận, một triệu rưỡi người bị thương tật, bạn bè hai bên không dưới vài trăm nghìn chết trên một mặt trận xa nhà. Cộng Sản miền Bắc xô đẩy hằng triệu người “xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mỹ,” để có cái kết cuộc hôm nay với chính thể xa dân, phản bội lại lời thề “cứu nước” để lại trên đất nước này những bà mẹ hy sinh năm bảy đứa con, những thương binh nghèo khó và một dất nước đầy dẫy tham ô, đạo đức băng hoại. Chỉ còn là bọn sâu mọt cầm quyền, tàn phá đất nước tan hoang. Cuối cùng người lính vô danh tràn lên trong những trận biển người, thực sự đã chết cho ai?
Chúng ta, những người Việt bỏ nước ra đi, không quên 58,200 thanh niên ưu tú của nước Mỹ đã bỏ mình cho miền Nam, và xấp xỉ 1 triệu người lính VNCH,cao cả, đã hy sinh nằm xuống hay lưu lạc xứ người, dù nhiệm vụ chưa tròn!...
Quote:
Originally Posted by hoanglan22
HL cảm tác bài của bác nên viết vài câu thơ
Này em nhé quê hương mình đâu nhỉ
Khi giặc cộng vào nước mất nhà tan
Em ở đâu hay lui về chốn cũ
Chiếc gông cùm mang nhiều nỗi chiêm bao
Rừng xa rồi hỏa châu đâu rực sáng
Mơ giày saut mà ngỡ bạn còn bên
Chợt thức dậy sao hồn đang nặng chĩu
Áo chiến y ngày đó đã bạc màu ...
:haf ppy: trích từ túy hà trong một thời lính lác từ xuân thu có phong thần bảng
truyền kiếp hóa thành tường đá đen
ghi tên tuổi những hồn tử sĩ
còn bao người chưa được đề danh
chính chiến tận vẫn là chưa tận
vì loài người còn mãi đua tranh
The Following 4 Users Say Thank You to cha12 ba For This Useful Post:
:haf ppy: trích từ túy hà trong một thời lính lác từ xuân thu có phong thần bảng
truyền kiếp hóa thành tường đá đen
ghi tên tuổi những hồn tử sĩ
còn bao người chưa được đề danh
chính chiến tận vẫn là chưa tận
vì loài người còn mãi đua tranh
Bài thơ hay quá cha12 ba
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Vậy thì bạn mở cái thread khác để vạch trần gì đó thì vạch…tôi hoan hô và ủng hộ bạn chăm phần chăm chớ bạn không thể cấm người ta viết “tào lao xích đế” trong cái thread của người ta được…bạn hiểu chứ!
Tui đang chờ bạn viết ra cái “chỉ nghĩ tới thôi” mà bạn đã sôi máu lên rồi…! Cám ơn trước
Mong đọc được những điều hay tư tưởng cao xa…để tui học hỏi
Tao éo có rảnh rang đớp welfare như tụi ba-que bay đâu mà mở thread này thread nọ mậy. Hơn nữa, tao cũng éo chủ trương "đào ngũ trước địch quân" nên uýnh giặc trong hang ổ "địch" khoái hơn nhiều chứ lị. Còn "tư tưởng cao xa" của tao thì 44 năm nữa mày cũng chưa học được 1 phần 10....
Tao éo có rảnh rang đớp welfare như tụi ba-que bay đâu mà mở thread này thread nọ mậy. Hơn nữa, tao cũng éo chủ trương "đào ngũ trước địch quân" nên uýnh giặc trong hang ổ "địch" khoái hơn nhiều chứ lị. Còn "tư tưởng cao xa" của tao thì 44 năm nữa mày cũng chưa học được 1 phần 10....
Ha…ha…ha…! Ông biết tôi là ai mà nói bừa! Mình nói người ta là gì...gì…đó mà chứng minh được…là người có trí thức đáng khen! Khâm phục! còn không chứng minh được mà nói càn là người “trí ngủ” chuyên đi chụp mũ…tui coi đó là tiếng tru của chó!
Cái gì! trong forum mà có “uýnh giặc” nữa sao trời! có ai bị thương hay chết không? ông có đu dây điện hông vậy!? mau mau tuột xuống cho tui nói cái nầy nó mắc cười té ghế lắm nè…
Tôi có viết “tư tưởng cao xa” nghĩa là biếm nhẽ đó! Người viết và người đọc muốn hiểu sao thì hiểu…riêng tui người viết thì tui cho đó là bãi phân! Ông chạy lăng xăng mấy ngày nay đi vạch…vạch gì đó không có…thôi thì copy đại cái tui viết rồi bê luôn nguyên xi 4 chữ “tư tưởng cao xa” về xí phần cho ông đã không biết nhục mà còn khoe 44 năm nữa cũng chưa học được 1 phần 10…
Nói nôm na là ông giống như con chó chạy quanh quẩn trong forum tìm gì đó không thấy… thời may thấy cục cứt tbbt ỉa ra thì mừng quá nhào vô xí phần đớp…đớp…ngon quá xá quà xa…còn khoe cho mọi người biết là 44 năm nữa chưa có ai đớp ngon lành bằng một phần mười ông hiện giờ!!! Hô…hô…hô…:ha fppy:
Tui té ghế…không ngờ cục cứt ỉa của tbbt cũng có giá quá đi chớ!
Xin lỗi hoanglan22 trong phần post nầy!!!
The Following 3 Users Say Thank You to tbbt For This Useful Post:
Ha…ha…ha…! Ông biết tôi là ai mà nói bừa! Mình nói người ta là gì...gì…đó mà chứng minh được…là người có trí thức đáng khen! Khâm phục! còn không chứng minh được mà nói càn là người “trí ngủ” chuyên đi chụp mũ…tui coi đó là tiếng tru của chó!
Cái gì! trong forum mà có “uýnh giặc” nữa sao trời! có ai bị thương hay chết không? ông có đu dây điện hông vậy!? mau mau tuột xuống cho tui nói cái nầy nó mắc cười té ghế lắm nè…
Tôi có viết “tư tưởng cao xa” nghĩa là biếm nhẽ đó! Người viết và người đọc muốn hiểu sao thì hiểu…riêng tui người viết thì tui cho đó là bãi phân! Ông chạy lăng xăng mấy ngày nay đi vạch…vạch gì đó không có…thôi thì copy đại cái tui viết rồi bê luôn nguyên xi 4 chữ “tư tưởng cao xa” về xí phần cho ông đã không biết nhục mà còn khoe 44 năm nữa cũng chưa học được 1 phần 10…
Nói nôm na là ông giống như con chó chạy quanh quẩn trong forum tìm gì đó không thấy… thời may thấy cục cứt tbbt ỉa ra thì mừng quá nhào vô xí phần đớp…đớp…ngon quá xá quà xa…còn khoe cho mọi người biết là 44 năm nữa chưa có ai đớp ngon lành bằng một phần mười ông hiện giờ!!! Hô…hô…hô…:ha fppy:
Tui té ghế…không ngờ cục cứt ỉa của tbbt cũng có giá quá đi chớ!
Xin lỗi hoanglan22 trong phần post nầy!!!
Chuyện bình thường thôi, bạn không có lỗi gì cả . Sự thực đều trình bày cho rõ :handshake :
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
cái này làm tui cười văng cả trái bắp cơm chiều đang gặm
copy nguyên văn
Nói nôm na là ông giống như con chó chạy quanh quẩn trong forum tìm gì đó không thấy… thời may thấy cục cứt tbbt ỉa ra thì mừng quá nhào vô xí phần đớp…đớp…ngon quá xá quà xa…còn khoe cho mọi người biết là 44 năm nữa chưa có ai đớp ngon lành bằng một phần mười ông hiện giờ!!! Hô…hô…hô…
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Bây giờ tuổi già chúng ta mới ngồi ôn lại một thời lính chiến .Nếu tôi tính không lầm khoảng 25 năm nữa có lẽ sẽ không còn những người lính VNCH mà chỉ có những hậu duệ của chúng ta mà thôi:hand shake:
Lão nghĩ 10 năm nữa là tất cả chỉ còn là kí ức và hoài niệm, buồn.
20 năm nữa thì giỏi lắm là còn chừng 1% = những tân binh mới ra trường ngay năm 75.
The Following 2 Users Say Thank You to ez4me For This Useful Post:
Bà mẹ nó, đang đọc lại nghe mùi thum thủm. Ông ước gì có nó bên cạnh, sẽ ngọt nào rút chốt trái cà na M67 rồi nhét vào cái mỏm thúi của nó. Chuyện gì sẽ xảy nhỉ? hehehehehehehe .....
The Following 3 Users Say Thank You to ez4me For This Useful Post:
Bà mẹ nó, đang đọc lại nghe mùi thum thủm. Ông ước gì có nó bên cạnh, sẽ ngọt nào rút chốt trái cà na M67 rồi nhét vào cái mỏm thúi của nó. Chuyện gì sẽ xảy nhỉ? hehehehehehehe .....
Đúng là cái nick ez4me:tha nkyou:
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.