Trong lịch sử hàng ngàn năm của Phật giáo Việt Nam, tinh thần “hộ quốc, an dân” là một ḍng chảy xuyên suốt. Từ ngàn năm trước, Khuông Việt Quốc sư đă đóng góp to lớn trong việc chống giặc ngoại xâm, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, mở ra một thời đại mới cho dân tộc Việt, tạo nên nền móng văn hoá Thăng Long tiến tới văn minh Đại Việt thời Lư - Trần.
Tiếp đến, Phật hoàng Trần Nhân Tông dù đă mặc áo cà sa, nhưng vẫn trấn thủ một vùng biên cương phên giậu của tổ quốc. Nay, trong hai cuộc chiến tranh chống thực dân xâm lược, các nhà sư chùa Cổ Lễ (Nam Định) lại một lần nữa minh chứng cho tinh thần nhập thế “hộ quốc” của Phật giáo Việt Nam.
Chùa Cổ Lễ nh́n từ tháp Liên Hoa. Ảnh: Chí Tùng
V́ nước quên thân hiến máu đào
Chiều cuối thu, tại một căn gác nhỏ ở khu tập thể Thanh Xuân Bắc, nguyên Chính uỷ Trung đoàn 542, Bộ Tư lệnh Trường Sơn rồi Binh đoàn 32 - đại tá Đinh Thế Hinh - hết sức bất ngờ khi chúng tôi t́m hỏi nhà sư Thích Nguyên Hồng (Pháp Lữ). Như chạm vào phần sâu thẳm, ánh mắt của vị đại tá già gần 90 tuổi đă kinh qua hàng trăm trận đánh ở khắp các chiến trường Việt Nam bỗng bừng lên lấp lánh. Cụ hỏi, “anh đang t́m đến tôi?”.

Đại tá Đinh Thế Hinh.
Khi cánh cửa mở ra, chủ khách yên vị, câu chuyện của 64 năm về trước đă dần trở về. Cụ bồi hồi nhớ lại: Mùa đông năm 1946, thực dân Pháp bội ước, xé bỏ hiệp ước ngừng bắn được kư vào ngày 6.3.1946 giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Jean Sainteny - đại diện Chính phủ Cộng hoà Pháp, nổ súng tấn công Hải Pḥng, Hà Nội, Nam Định... với dă tâm quyết chiếm Việt Nam một lần nữa.
Thế nước lâm nguy, Hồ Chủ tịch đă ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” hiệu triệu toàn dân tộc bất kể tôn giáo đứng lên chống giặc ngoại xâm cứu nước. Trước t́nh h́nh đó, hoà thượng Thích Thế Long - trụ tŕ chùa Cổ Lễ (sau này là Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam khoá VII) đă cho gọi 2 đệ tử thân thích là đại đức Thích Trí Không và đại đức Thích Nguyên Hồng (pháp danh của cụ Đinh Thế Hinh khi chưa gia nhập quân đội) lên thư pḥng hỏi: “Giặc dữ hoành hành, cơ đồ tiên rồng nghiêng ngả, muôn vạn sinh linh lâm cảnh tang thương. Phật dạy “việc đạo không rời việc đời”, hai vị có cao kiến ǵ không?”.
Do đă được nhiều lần đi theo hoà thượng thuyết pháp ủng hộ Việt Minh và tham gia cùng Tổng bộ Việt Minh phá kho thóc của Nhật cứu đói cho dân nghèo nên cả hai đă hiểu tâm nguyện của hoà thượng. Thích Trí Không đă nhanh nhẹn đáp: “Bạch sư phụ, đất nước lâm nguy, giặc dă giày xéo, muôn vạn sinh linh rên xiết th́ đường tu không trọn, v́ vậy xin sư phụ kêu gọi tăng, ni t́nh nguyện ra chiến trường, xả thân cứu nước”.
Trí Không nói xong, Nguyên Hồng tiếp lời: “Bạch sư phụ, xin sư phụ cho thành lập đội nghĩa sĩ phật tử, giao cho Thích Tường Minh đi quan hệ với các tổ chức để huấn luyện quân sự và tiếp nhận đội quân phật tử. Đệ tử muốn khi đoàn quân phật tử xuất chinh, phải tổ chức lễ phát nguyện thật trang trọng để khích lệ ḷng yêu nước của mọi người dân Việt hăy cùng nhau xông ra trận tuyến cứu nước”.
Nghe xong, hoà thượng Thích Thế Long chắp tay niệm Phật, nói: “Một ư tưởng sâu xa, đáng làm lắm. Ta giao cho Trí Không lo việc đối ngoại quan hệ với các cơ quan tổ chức lễ ra quân, Nguyên Hồng lo việc đối nội vận động tăng, ni tới chấp tác, sửa soạn trai nghi thiết khách...”.
Đúng 8h30 ngày 27.2.1947, chùa Cổ Lễ náo nhiệt khác thường, băngrôn, khẩu hiệu, cổng chào, cờ đỏ sao vàng bừng bừng kéo lên. Nhân dân khắp nơi nô nức đổ về. Ban tổ chức tuyên bố mở đầu buổi lễ: “Cởi áo cà sa khoác chiến bào”. Sau lễ chào cờ trang trọng, mặc niệm các anh hùng đă quên thân v́ tổ quốc, là hồi chuông, trống gióng giả vang lên từ trong chùa chính, trang trọng nghênh đón đoàn nhà sư gồm 27 vị đến từ các chùa trong khu vực, khoác áo cà sa đi chân đất, đầu trần, tay cầm mũ vải xếp hàng ba do đại đức Tường Minh chỉ huy đi ra, cuối hàng là hai ni cô Đàm Nhung, Đàm Lân khoác túi hồng thập tự, tiến ra xếp hàng ngang trước bàn thờ Tam bảo nơi thiếp lập lễ đài.
Hoà thượng Thích Thế Long đọc diễn văn khai mạc, ngài nói: “Giặc ngoại xâm đe doạ chủ quyền đất nước, bọn ác quỷ lăm le quấy phá cửa Phật, Phật pháp bất ly thế gian pháp. Khi sơn hà nguy biến, dân chúng điêu linh, các phật tử tham gia đánh giặc cứu nước là đạo lư thiền tông...”. Hoà thượng dứt lời trong tiếng hoan hô vang dậy.
Đáp lại, Nguyên Hồng thay mặt chư tăng sắp nhập thế phát nguyện: “Chúng con xin dốc ḷng phát nguyện/ Cởi áo cà sa khoác chiến bào/ Tuốt gươm bồng súng dẹp binh đao/ Ra đi quyết rửa thù cứu nước/ V́ nghĩa quên thân hiến máu đào”. Không thua kém các nam đồng đạo, ni cô Thích Đàm Nhung cũng phát nguyện; lời nguyện đầy nữ tính, nhưng hào hùng, uy lẫm không kém: “Cởi áo cà sa khoác chiến bào/ Việc quân đâu có quản gian lao/ Gậy thiền quét sạch loài xâm lược/ Theo gót Trưng Vương tỏ nữ hào”.
Một hồi chuông vang lên, Tường Minh hướng dẫn đồng đạo hành lễ bái biệt cửa thiền. Sau khi cử lễ “Tam bảo”, “Tứ ân” theo điển thức lễ trọng. 27 tăng, ni đồng loạt ngồi toạ thiền, rồi đồng thanh tụng một bài kinh Bát nhă và đọc 4 câu nguyện của chư phật, bồ tát. Khi câu kệ vừa dứt, các nhà sư nam giới đứng lên cởi áo cà sa, để lộ những thân h́nh trai tráng rắn rỏi trong bộ đồng phục màu cỏ úa. Hoà thượng Thích Thế Long đỡ các tấm áo cà sa đặt trước bàn thờ Phật; sư Tường Minh hô: “Đội mũ!”. Đồng loạt các tăng, ni đội mũ có gắn sao vàng lên đầu. Thế là 27 nhà sư đă biến thành 27 chiến sĩ vệ quốc đoàn, không gian ngôi chùa như nổ tung bởi các tiếng ḥ reo, vỗ tay như sấm dậy của bà con đến chứng kiến lễ phát nguyện.
“Ngay sau đó Trung đoàn 34, do Tư lệnh Quân khu III Hà Kế Tấn chỉ huy đă tiếp nhận chúng tôi vào thẳng chiến dịch bảo vệ thành Nam Định và chùa Non Nước (Ninh B́nh). Trong trận đánh bảo vệ chùa Non Nước, 12 nghĩa sĩ phật tử đă hy sinh” - ông Hinh rưng rưng kể.
Ni trưởng Thích Đàm Thành - một trong những nữ tu đă tham gia quân đội.
Ngôi chùa của kháng chiến
Dẫn chúng tôi đi ṿng quanh khuôn viên ngôi cổ tự có nhiều nét kiến trúc gothic khá lạ mắt, đại đức Thích Thanh Hùng (Mật Duy) cho biết: Ngay sau khi 27 nhà sư gia nhập vệ quốc đoàn, thượng toạ Thích Thế Long cũng đă cho người đem giấu quả chuông 9 tấn xuống ao sen rồi đóng cửa chùa đi kháng chiến. Trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, chùa Cổ Lễ c̣n là nơi hội họp chỉ đạo phong trào cách mạng của tỉnh Nam Định, huyện Trực Ninh, là cơ sở của đội tuyên truyền cách mạng vũ trang của tỉnh. Chùa c̣n là cơ sở nuôi giấu cán bộ, du kích và bộ đội chủ lực Sư đoàn 320, Đại đội 91 của tỉnh, Đại đội 75 huyện Trực Ninh.
Tháp Cửu Phẩm Liên Hoa trong chùa đă từng giữ vai tṛ là đài quan sát chỉ đạo tập kết bộ đội, du kích đánh bốt Cổ Lễ - Vô Tỉnh năm 1952. “Qua 3 cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp, Mỹ và chiến tranh biên giới, có 6 đợt với rất nhiều nhà sư đă cởi áo cà sa lên đường chiến đấu. Có những vị sau khi nhập ngũ đă trở thành nhà t́nh báo như ni sư Thích Đàm Liên, có những người trở thành những sĩ quan cao cấp của quân đội như Thích Nguyên Hồng, Thích Thanh Hải..., có những người sau khi đất nước b́nh yên đă trở lại chùa nối lại đường tu như thượng toạ Thích Tâm Vượng (trụ tŕ chùa Cổ Lễ hiện nay), ni trưởng Thích Đàm Thành (trụ tŕ chùa Hoành Quán, xă Xuân Thuỷ, Xuân Trường, Nam Định), nhưng có những người đă măi măi nằm xuống.
Tên tuổi của các liệt sĩ phật tử này hiện chỉ được biết đến dưới các pháp danh mà nhà chùa đặt cho như Thanh Tịnh, Đức Hiền, Thiện Nhân, Chân Tâm, Quang Đại, Huyền Cơ, Trí Trung..., c̣n phần xác nhiều vị sau khi thác xuống xương cốt an nghỉ nơi nào không ai biết” - đại đức Thích Thanh Hùng ngậm ngùi.
Để tưởng nhớ nghĩa sĩ phật tử đă hy sinh cho tổ quốc, nhà chùa đă cho lập bia tưởng niệm. Văn bia ghi rơ: “Dường như Bồ tát giáng dương trần/ Cứu nguyện chúng sinh nguyện xả thân/ Danh tiết nhà sư lưu dấu ấn/ Phần đời cửa Phật tiếng chuông ngân”. Có thể các pháp danh của các vị sư “cởi áo cà sa khoác chiến bào”, tạm gác đường tu, ra đi xả thân cứu nước ở chùa Cổ Lễ là dấu ấn vàng son đời đời lưu giữ trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Ngô Chí Tùng/laodong