Kinh Tế Việt Nam Một Nền Kinh Tế Khát Tiền
Trước năm 1990, nền kinh tế Việt Nam chủ yếu dựa vào ngọai viện và vay mượn từ khối cộng sản. Năm 1990, khi Liên Sô và Đông Âu sụp đổ đảng Cộng sản quyết định quay lại thuần phục Trung cộng, áp dụng mô h́nh phát triển Trung cộng, đồng thời dựa vào vay mượn và đầu tư quốc tế để sống c̣n.
Thủ Dũng chính là người đă được đảng Cộng sản giao trọng trách áp dụng mô h́nh Trung cộng vào Việt Nam. Thủ Dũng bắt đầu làm Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, phụ trách tài chính của đảng năm 1996. Sau đó được đưa lên giữ chức Phó Thủ tướng Thường trực và Chủ tịch Hội đồng Tài chính – Tiền tệ, kiêm chức Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Rồi Thủ Tướng đại diện đảng Cộng sản trong việc điều hành nền kinh tế Việt Nam.
Các lănh đạo cộng sản trước đây mặc dù cũng lệ thuộc Trung cộng nhưng ít ra c̣n biết lắng nghe, c̣n nhận thấy mối đe dọa của Trung cộng, họ cũng chưa đến nỗi vô cảm để bịt mắt trước nỗi thống khổ của người dân và chưa dám công khai tuyên bố bán nước.
Trong lần tiếp Đại sứ Trung cộng Khổng Huyễn Hựu vừa qua, Thủ Dũng công khai tuyên bố “Việt Nam luôn ghi nhớ sự giúp đỡ quư báu của Trung Quốc trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong xây dựng và phát triển kinh tế ngày nay.” Vốn ân sâu nghĩa nặng với Trung cộng, vốn thấm nhuần tư tưởng Trung cộng, thiếu trí tuệ lại mang bản chất độc tài Thủ Dũng đă biến Việt Nam thành một tỉnh nhỏ và nghèo của Tàu. Sau hơn một nhiệm kỳ Thủ Tướng, Tấn Dũng đă đạt những chỉ tiêu vĩ mô của một nền kinh tế khát tiền.
Mức bội chi ngân sách nghĩa là thiếu tiền cho Thủ Dũng chi tiêu. Tiền thuế của dân, tiền bán tài nguyên quốc gia, tiền vay mượn từ dân từ ngọai quốc không đủ để chi trả cán bộ đảng, nhà nước, tập đ̣an công ty quốc doanh và những công tŕnh chi tiêu ḥanh tráng nhưng chẳng mang lại lợi ích thiết thực cho dân.
Đă thiếu tiền, ngày 6/7/2011, Thủ Dũng lại vừa ban hành Quyết định 1081/QĐ-TTg về Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xă hội thành phố Hà Nội. Thủ Dũng dự kiến tổng nhu cầu vốn đầu tư thời kỳ 2011-2015 là từ 1.400 – 1.500 ngh́n tỷ đồng theo giá thực tế (tương ứng khoảng 69-70 tỷ USD); và khoảng 2.500 – 2.600 ngh́n tỷ đồng (tương đương khoảng 110-120 tỷ USD) thời kỳ 2016-2020.” Tiền này chính yếu là vay mượn từ Trung cộng.
Nằm trong quy họach này ba cây cầu vượt ở Mai Dịch, Ngă Tư Sở và Ngă Tư Vọng sắp bị phá bỏ. Cả ba chỉ mới được xây xong trong ṿng 5 năm đổ lại, với trị giá gần 5,000 tỉ đồng tương đương với 250 triệu Mỹ kim, nay sẽ bị đập bỏ. Vô cùng lăng phí tài sản quốc gia.
Cũng nằm trong quy họach, ngày 10/10/2011, Tân Bộ trưởng Giao thông-Vận tải Đinh La Thăng loan báo Tập đoàn Cơ khí Đường sắt Trung Quốc (CREC) sẽ khởi công xây dựng tuyến tàu điện trên cao trị giá trên 550 triệu Mỹ Kim tại Hà Nội. Theo Tân Hoa Xã khoản tiền đầu tư này là do chính phủ Trung cộng cho vay.
Phát biểu trong lễ khởi công, ông Thăng cho biết sẽ sớm họp với chính quyền Hà Nội để giải quyết dứt điểm các vướng mắc trong việc thực hiện dự án tàu điện trên cao này, nhất là “giải phóng mặt bằng”. Thế ra dự án này và ṭan quy họach thành phố Hà Nội là quyết định của Thủ Dũng. Quốc Hội không cần thông qua, chính quyền địa phương chưa đồng ư, dân chúng địa phương không đựơc tham khảo. “Giải phóng mặt bằng” ít nhiều sẽ dẫn đến việc cướp đất của dân và như thế chiến tranh giữa Thủ Dũng và bọn tay sai với dân chúng Hà Nội sẽ nổ ra. Có áp bức sẽ dẫn đến đấu tranh. Biết đâu đây sẽ là ch́a khóa cho Cách Mạng Hoa Lài tại Việt Nam.
Nhắc đến Hà Nội lại nhớ đến Đại lễ “Ngàn Năm Thăng Long”, Triều đại Thủ Dũng cũng được tiếng là thời kỳ của “hoan lạc”. Chả thế nhà cầm quyền cộng sản đă chi ra hằng chục tỷ Mỹ Kim để mua vui Quốc Khánh Trung cộng. Có vui người dân mới vô tư quên đi nợ nần đang càng ngày càng chồng chất. Lại là nợ từ Trung cộng “kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam”.
Như người viết đă tŕnh bày trong bài “Nguyễn Tấn Dũng: Tập Đ̣an Tư Bản Đỏ”, Thủ Dũng chính là ngừơi đă khai sinh ra hằng lọat các Tập Đ̣an Tổng Công Ty kiểu Trung cộng họat động thiếu hiệu quả, đầy tham ô và lăng phí. Từ đó dẫn đến nợ nước ngoài và nợ công càng ngày càng chồng chất. Kẹt nỗi Thủ Dũng không thể in tiền Việt Nam để trả nợ quốc tế. Thiếu ngọai tệ là thiếu khả năng thanh toán quốc tế, trong trường hợp Vinashin, Tấn Dũng thành tên qụit nợ.
Xây dựng một nền kinh tế là phải xây dựng niềm tin của dân, của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. Tấn Dũng lại quá tự tin vào tài in tiền đồng. Tiền càng in th́ càng mất giá. Lạm phát phi mă lại làm mất niềm tin vốn đă rất ít.
Rồi xuất cảng th́ chỉ tập trung vào hàng hóa rẻ tiền và nguyên nhiên liệu thô. Trong khi ấy lại phải nhập cảng những hàng hóa cao cấp phục vụ các Tập Đ̣an Tư Bản Đỏ, cán cân ngọai thương đâm ra thâm hụt.
Đặc biệt là hàng hóa của Trung cộng đă tràn ngập thị trường Việt Nam. Hằng năm cán cân giao thương giữa hai nước nghiêng về phía Việt Nam đến hàng chục tỷ Mỹ Kim. Đó là con số thống kê, số thực tế cao hơn nhiều. Nhiều tỉnh ở cực Bắc Việt Nam sử dụng đồng Nguyên làm phương tiện thanh tóan chính thức. Lư do chính do thiếu Mỹ Kim dự trữ và như thế thiếu khả năng để kềm giá đồng bạc Việt Nam. Trong năm qua Việt Nam đă phải nhiều lần phá giá đồng tiền.
Thiếu khả năng cạnh tranh đầu tư ngọai quốc v́ thế cũng sút giảm. Đầu tư c̣n lại đa phần đến từ Bắc Phương Trung cộng. Càng nhận tiền đầu tư từ Trung cộng Việt Nam càng lệ thuộc và càng chóng bị đồng hóa bởi Bắc Phương.
Hết sức khách quan trong ṿng 5 năm đổ lại nền kinh tế Việt Nam đă ḥan ṭan bị khống trị bởi người Tàu. Từ hàng hóa tiêu dùng, đến nhà máy sản xuất, đến công tŕnh khai thác tài nguyên, công tŕnh đầu tư, đều do người Tàu chủ động. Người Việt mất cả công ăn, việc làm và đang thất thế ngay trên chính quê hương của ḿnh.
Việt Cộng Chưa Bao Giờ Họach Định Kinh Tế Tự Do
Được đào tạo và làm việc trong nghành kinh tế, người viết tự tin để nói rằng Việt cộng chưa bao giờ có chính sách để họach định kinh tế tự do.
Họach định kinh tế vĩ mô là họach định ngắn hạn, sáu tháng đến hai năm. Muốn họach định cần phải dựa trên những phân tích và tiên đóan chính xác về t́nh h́nh kinh tế xă hội chính trị và quốc tế. Chính sách vĩ mô muốn có hiệu quả cần được đưa ra từ cả năm trước th́ mới có thể điều hướng được các chỉ tiêu vĩ mô. Mọi thay đổi tại Việt Nam chủ yếu phát xuất từ 14 cái đầu rất hẹp chỉ thấy sai th́ sửa, sửa vẫn sai, sai lại sửa, sửa rồi lại sai, càng sửa càng sai. Trong 14 cái đầu này cái đầu hẹp nhất là đầu của Thủ Dũng, tiếc thay cái đầu này lại được đảng Cộng sản giao cho điều hành nền kinh tế Việt Nam.
Chưa có khả năng họach định vĩ mô, làm sao những cái đầu chỉ biết tranh giành quyền lực chính trị lại có thể họach định kinh tế vi mô. Họach định kinh tế vi mô là họach định thế chiến lược cần người biết nh́n xa nh́n rộng cần viễn kiến.
Như đă nói ở phần trên kinh tế là của dân do dân và v́ dân, v́ thế khi đă mất đi niềm tin của dân là đă mất đi khả năng họach định. Giới cầm quyền Việt Nam cuối cùng chỉ lo chống đỡ để bảo vệ đặc quyền đặc lợi của họ. Đừng nghe những ǵ cộng sản nói mà hăy nh́n những ǵ cộng sản làm.
Cải Cách Vi Mô
Trở lại với Hội Nghị Trung Ương Đảng nói ở đầu bài và theo tạp chí VNEconomic hôm 30 tháng 9 th́ Việt Nam cần có một cuộc đổi mới thứ nh́. Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cho biết nếu cuộc đổi mới lần thứ nhất đă giúp cho Việt Nam thoát được cảnh đói nghèo triền miên của thời bao cấp, th́ cuộc đổi mới lần thứ hai được coi là nhu cầu bức thiết để giúp Việt Nam thoát khỏi một cuộc khủng hoảng tài chính đang cận kề.
Được Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nhấn mạnh: “Cuộc đổi mới lớn nhất đă đem lại cho Việt Nam các bước phát triển vượt bậc như trong thời gian vừa qua. Nhưng đến nay th́ những động lực đó không c̣n đủ nữa, và trong thời gian qua th́ Việt Nam thấy rơ là gặp thách thức lớn. V́ vậy cho nên đợt đổi mới lần hai này là cần phải gắn liền với việc cải cách guồng máy nhà nước, gắn liền với cải cách các tập đoàn doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước khác. Cũng như cải cách quản lư về tài nguyên, về đất đai của đất nước để cho nền kinh tế phải nâng cao được hiệu quả và có năng lực cạnh tranh cao hơn.” Nói vắn tắc Việt Nam cần cải cách vi mô (microeconomic economic reform)
Cải cách vi mô thật sự rất cần thiết cho Việt Nam. Đây là phương cách để mang nền kinh tế Việt Nam thoát khỏi mô h́nh Trung cộng. Vấn đề ở đây là làm như thế nào để tối ưu lợi ích xă hội.
Trong bài này người viết chỉ xin đưa ra vài vấn đề. Cải cách vi mô sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống của hằng chục triệu người đang làm việc trong các khu vực được cải cách. Ai sẽ chịu trách nhiệm bồi ḥan, an sinh và huấn luyện lại tay nghề cho những người kém may mắn bị mất việc ? Làm như thế nào để cải cách vi mô ? Nếu cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước th́ tiền có được là tài sản quốc gia sẽ được sử dụng như thế nào ? Trả nợ, lo cho người bị mất việc ?
Hay chỉ v́ Thủ Dũng đang khát tiền nên bán rẻ tài sản quốc gia để chi tiêu hoang phí trong các công tŕnh ḥanh tráng không mang lại lợi ích thiết thực cho dân. Tệ hại nhất là tài sản quốc gia lại biến hóa thành tài sản cá nhân lọt vào tay các tư bản đỏ như Thủ Dũng và gia đ́nh. Có thêm tiền bọn chúng lại có thêm quyền lực và dân Việt lại tiếp tục sống trong gông cùm của thiểu số nắm được quyền lực.
Trong lần đổi mới trước đây, Ông Trần Xuân Bách nhấn mạnh việc cải tổ chính trị cần tiến hành song song với cải cách kinh tế: “…vấn đề quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là thế nào? Có nước tự cho ḿnh không cần đổi mới, đă bị bục vỡ. Có nước coi đổi mới kinh tế phải làm nhanh, c̣n đổi mới chính trị th́ chầm chậm cũng bục chuyện. Có nước chỉ đổi mới kinh tế, không đổi mới chính trị, đă bục to. Có nước làm cả hai, nhưng không nhịp nhàng, gặp khó khăn. Hai lănh vực này phải nhịp nhàng, không chân trước chân sau, không tấp tểnh đi một chân.” Mặc dù ông Bách chỉ đề nghị cải cách chính trị trong nội bộ đảng Cộng sản, ông ḥan ṭan không chủ trương đa đảng và dân chủ tam quyền. Thế nhưng đảng Cộng sản đă chọn “tấp tểnh đi một chân” để cuối cùng gặp Thủ Dũng một tên buôn dân bán nước thuộc lọai đê tiện nhất trong lịch sử Việt Nam.
Trước đây Tiến sỹ Lê Đăng Doanh và nhiều trí thức Việt Nam đă báo động về t́nh trạng xâm thực kinh tế của người Tàu. Trong guồng máy cộng sản hy vọng ông Doanh và giới trí thức đều nhận ra nguyên nhân v́ không có dân chủ. V́ không có dân chủ người dân đă không được chọn lựa những người có khả năng xây dựng một nền kinh tế do dân v́ dân và của dân. V́ vậy việc tối ưu không phải là cải cách kinh tế mà chính là thay đổi hệ thống chính trị. Có tự do có dân chủ Việt Nam mới có thể thóat khỏi cơn khủng hỏang và vươn lên để ḥa nhập với cộng đồng thế giới.
Cứu nước cứu dân hay cứu chế độ cộng sản là câu hỏi mỗi chúng ta cần phải tự trả lời.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
T/g gửi tới TTHN