“Khó khăn thiếu thốn bao  nhiêu, thiệt thòi bao nhiêu nhưng những niềm vui trong trẻo của thế hệ  mình chắc chắn không thua kém, thậm chí còn sâu đậm hơn niềm vui của lũ  trẻ “ăn sung mặc sướng” thời bây giờ, đơn giản chỉ vì niềm vui nào khó  khăn mới đạt được thì người ta càng nhớ và trân trọng nó hơn”, hồi tưởng  của Mai Quỳnh Anh về những ngày tháng gian khó thời bao cấp.     
       
Học sinh tập trung chào cờ buổi sáng tại một ngôi trường ở Dịch Vọng, năm 1982     
      
Mình hay than với mẹ, “
mẹ suốt ngày kể chuyện ngày xưa, chả nhẽ đời con không khá hơn, lại cứ đi so sánh mãi”.  Giờ lại đến lượt mình, khi ngồi với lũ bạn, kiểu gì cũng có câu “ngày  xưa khổ nhỉ!!!” - hay mình sắp già, bắt đầu hoài cổ, nhìn về quá khứ  nhiều hơn chăng?      
  
Nói về cái sự đói khổ thời bao cấp đầu những năm 80 mà tuổi thơ  của mình “hứng chịu” khá nhiều thì có nói cả ngày không hết, với đủ các  sự đói.      
  
Sợ nhất là “đói” đường, chắc nhiều người còn nhớ rằng đường chỉ  dành cho những lúc ốm đau. Nên lúc khỏe khoắn đừng có hòng mẹ cho ăn  thoải mái, thế nên cục đường phèn để trong chạn để nấu chè biến hình  theo từng ngày: hôm thì tròn, hôm thì méo, hôm thì vuông và bao quanh là  các nốt răng to bàn cuốc của ông anh không thể chối cãi khi bị mẹ phát  hiện.      
  
Sau này mình nghĩ ra là lấy dao gọt cho nó mịn, không bị phát  hiện. Cái cảm giác được gặm và mút mát cục đường phèn này có thể so sánh  với việc bạn Bống nhà mình bây giờ được ăn kem Mỹ hay Trà sữa Trân  Châu? Không! Không thể so sánh được, chả có sung sướng nào có thể sánh  được với việc gặm cục đường phèn vào năm đó.      
  
  
       
Bách hóa Tổng hợp (ngã tư Hàng Bài - Tràng Tiền), khu bách hóa lớn nhất của Hà Nội thời bao cấp     
      
Mẹ đi làm, hai anh em không ai trông nên mẹ khóa cửa nhốt trong  nhà để khỏi chạy ra ngoài chơi, nhưng than ôi, chìa khóa lại để ở trong  nên chúng lại nhờ hàng xóm mở hộ để chạy ra, rồi gần đến giờ mẹ về lại  chui vào khóa lại. Ở nhà chả có gì ăn cho vui miệng, lại bày trò ăn vụng  đường hoa mai chuyên để dành pha nước chanh khi bị ốm.      
  
Hai anh em pha nước vào đường cho sền sệt rồi để cái cốc giữa hai  cái ghế, mỗi đứa ngồi một bên như vua và hoàng hậu và dùng một cái tăm  để chấm mút ăn cho lâu hết, chân thì rung rung ra điều khoan khoái lắm.  Thế mà chẳng mấy chốc, cốc đường đó cũng hết sạch thì pha một chút nước  vào tráng cho hết vị ngọt và húp ngon lành.      
  
Mình đi học mẫu giáo, mỗi khi mẹ đón là sướng lắm, toàn hỏi “
mẹ có mua gì cho con không?”. Sao cái hồi đó cái gì cũng thèm thế không biết?! Mẹ bảo, “
về mẹ pha cho cốc nước đường”, nghe mà mát cả ruột (dù chả có chanh và đá).       
  
Thèm đường và thèm kẹo bánh vì thiếu chất, thiếu quà bánh. Anh  trai đi Đại hội Cháu ngoan Bác Hồ về, thấy phủi phủi gấu quần, rơi ra  hai cái kẹo Hải Châu, cô em thì mắt sáng lên, hóa ra lão ấy mang về cho  mình nhưng ngại cầm nên sắn vào gấu quần. Kể ra cũng thương em lắm đấy,  cảm động ra phết.      
  
  
       
Phố Huế nhộp nhịp xe đạp trong cái thời mà xe máy là vật dụng cực kỳ xa xỉ     
      
Còn chuyện này cũng khá kinh khủng khi nghĩ lại. Hồi lớp Hai, mình  ngồi cạnh một thằng mà bố nó làm nghề cắt tóc, lúc đó dao cạo (gọi là 
panh-xa-lam) rất hiếm, nên bố nó còn thu mua dao cũ đã dùng rồi về mài lại và dùng cho khách, chắc dạo ấy chưa có HIV nên chả hề hấn gì.      
  
Mình và lũ bạn thường lấy dao cạo cũ của bố, mang đến lớp bán cho  nó với giá 1 hào (hay 1 đồng, không nhớ nữa vì lâu quá rồi, nhưng khoảng  2-3 cái dao cũ thì mua được que kem đường đen sì). Đi học về, qua cửa  hàng mậu dịch có cái sân ngập nước mưa, chen vào mua que kem đường đen  bằng tiền bán dao cạo, ôi sung sướng vô cùng, thế mà có hôm, cái kem nó  mềm quá, rơi bụp xuống đất bùn, tiếc phát khóc.      
  
Mà đâu phải chỉ thèm của ngọt, cái gì cũng thèm. Đi học thì nhét  vào cặp sách 1 túm lá dứa, đã gọt cái gai đi và lau chùi sạch phấn ở  trên lá, chia nhau ăn ngon lành. Hoa phượng, quả bàng, hay dái mít cũng  thành món đặc sản, có đứa ăn nhiều quá còn ngộ độc, nôn ra toàn hoa  phượng. Nghĩ lại cũng chỉ vì chả có gì ăn, cứ cái gì ngọt ngọt, có vị là  cho vào mồm nhai rau ráu.      
  
Mình và lão anh trai còn quá đáng đến mức tháo hết dây đồng mẹ  buộc hàng rào và mái chuồng lợn để đi đổi lấy kẹo kéo (hồi ấy mẹ làm thợ  điện ở nhà máy nên hay có dây đồng vụn mang về buộc cho chắc). Dây đồng  bị thay bằng dây lạt khiến cái hàng rào lung lay chỉ chực đổ. Trẻ con  hay đi ăn trộm trái cây, ăn trộm mít trong vườn hàng xóm để ăn thì thụt  với nhau, đôi khi bị bắt quả tang, bị chủ vườn mách bố mẹ là ăn đòn tơi  tả.      
  
  
       
Sổ đăng ký lương thực (thường gọi là “sổ gạo”) của một hộ gia đình ở Hà Nội thời bao cấp     
      
Cái thời tem phiếu ấy, mình lại là đứa khảnh ăn, mẹ bảo không bao  giờ ăn thịt mỡ và rau, chỉ ăn thịt nạc. Thế là thịt tiêu chuẩn của cả  nhà - cũng vì không quen mấy cô bán hàng thực phẩm và không chen được  nên tất nhiên phần mỡ luôn nhiều hơn - mẹ lại phải lọc thịt nạc để làm  ruốc cho mình ăn.      
  
Bố đi làm xa, nhà có ba mẹ con, ăn uống cực kỳ đạm bạc vì hồi ấy  nhà ai chả thế. Mình và lão anh tranh nhau tóp mỡ ở bát canh dưa hay  canh cà chua, nghĩ lại vừa vui và mũi lại cay cay. Mẹ thì nhường cho con  ăn, toàn bảo “
mẹ ăn thịt chán rồi”,  thế mà bọn nhóc cũng tin. Hồi ấy nuôi gà, gà rù mới được thịt để ăn,  nồi thịt thâm sì vẫn ăn ngon lành, thịt gì rang cũng phải mặn để còn ăn  dè.      
  
Mùa hè, cả hai anh em cùng với các anh chị em họ khác vào trong cụ  ngoại để cụ trông cho bố mẹ còn đi làm. Cụ già rồi mà trông 7 đứa trẻ  con cả lớn và bé. Mỗi đứa được mẹ cho mang một cặp lồng cơm, đến nhà cụ  thì bỏ ra ăn chung. Nhớ cái cảnh chí chóe tranh ăn khóc ré lên và cụ  phải phân xử, nịnh đứa nọ cho đứa kia vài miếng.       
  
Ông anh mình hồi ấy rõ khổ, học lớp 7 mà phải gánh vác trách nhiệm  như thằng đàn ông thực thụ. Sáng sớm tinh mơ, mẹ giao nhiệm vụ đi xếp  hàng mua gạo để mẹ xong việc nhà thì đến khỏi phải chờ lâu. Ai dè, vì bé  quá nên anh bị mấy lão thanh niên chen cho bật xuống dưới. Lúc mẹ đến,  anh giai đứng khóc tu tu. Nhiều vụ chen nhau đến 3 giờ sáng, chỉ mua  được hai cái khăn mặt và bàn chải đánh răng.   
  
  
       
Một căn phòng với những vật dụng tiêu biểu của thời bao cấp     
      
Vải vóc quần áo cũng phân phối mà chỉ mua được một loại vải duy  nhất, vì vậy mình có tận ba cái quần giống nhau, phải may thành BA kiểu  kẻo lại bị bảo là mặc hoài không thay quần à?? Mẹ cắt tóc ngắn cho mình,  lại mặc thừa quần áo của anh trai, đi giày thừa nên mình giống hệt một  thằng con trai, dù mình thích điệu lắm nhưng làm gì có váy áo xúng xính  như bạn Bống thời nay.       
  
Nhớ mãi món quà của bố ở Hà Nội gửi lên, hồi ấy mình thích nhảy  dây, mà dây chun là cắt ở săm xe đạp ra, làm gì có chun vòng. Mình dặn  bố mua cho con một lạng chun vòng và bố gửi lên ngay, đó là món quà mình  sẽ nhớ mãi.       
  
Vì có bố làm ở Hà Nội, nên ba mẹ con vẫn còn may hơn khối nhà khác  vì có hàng gửi ở “xuôi” lên, khi thì kem đánh răng, khi thì vài đôi  tất, hay cái áo khoác. Mà thiếu thốn nên con người lại càng tham hơn. Bố  có lần gửi chú cùng cơ quan mang lên cho mình cuốn truyện Buratino  “xịn” của Nga, bìa đẹp, tranh đẹp. Chú ấy chắc mang về cho con nên giả  vờ bị mất, sau cũng không mua đền cho mình. Nỗi hận này đến nay vẫn chưa  nguôi.      
  
Con búp bê với mình là món quà xa xỉ, đến giờ mình vẫn chưa chính  thức có một con búp bê nào của riêng mình. Vì vậy mà chuyến đi công tác  đầu tiên mình đã mua cho con gái một con búp bê tại chợ Đông Hà, con búp  bê đó thật đẹp, giờ này Bống vẫn còn chơi. Mình mua cho con gái nhưng  lúc về thì ôm con búp bê này như nó là của mình, thỏa lòng thèm thuồng  từ hồi bé.   
  
  
       
Cảnh xếp hàng thời bao cấp được tái tạo trong triển lãm “Cuộc  sống ở Hà Nội thời bao cấp” (1975-1986) (Bảo tàng Dân tộc học, Hà Nội)     
      
Đói ăn đã khổ, đói văn hóa còn khổ hơn, trẻ con 8-9 tuổi còn vô tư  mà đứa nào cũng có sổ tay ghi chép các bài hát, từ nhạc vàng đến cải  lương, nhạc hải ngoại nhão nhoét, dù chẳng hiểu gì mà cũng lăn ra thi  nhau chép vào sổ, cộng thêm mấy dòng chữ đánh bóng bằng bút bi, rồi vẽ  hoa, trang trí đẹp ra phết.      
  
Có lần mình ngồi trong bếp cứ rên i ỉ bài “
tôi với nàng hai đứa nguyện yêu nhau, tha thiết từ đây cho đến ngày bạc đầu…”  (1) bị bố quát là trẻ con không được hát bài người lớn, khổ, có nhiều  bài hát đâu, cả đại gia đình có một quyển bài hát in bằng giấy đen sì,  gồm các bài hát thiếu nhi mà hát đã thuộc làu. Còn băng đài cát sét thì  chưa có gì, sau vài năm mới bắt đầu có Tuấn Vũ, Hương Lan, Chế Linh rên  suốt ngày nên chỉ thuộc có bấy nhiêu bài, chả quan tâm bài gì của người  lớn, cứ có nhạc là vui rồi.      
  
Nhớ mãi cái hồi nhà mình chưa có TV, tối đến kéo sang nhà hàng  xóm, nằm bò ra xem từ Những bông hoa nhỏ, Chương trình Phụ nữ hay cả  “Nông thôn Ngày nay” cũng xem tuốt, mà còn phải chen nhau để ngồi đằng  trước, nghe cho rõ cái âm thanh rè rè phát ra từ cái TV Nep-tuyn vỏ gỗ  màu nâu cũ rỉ.      
  
Năm 1990, nhà mình là nhà đầu tiên của cái khu tập thể công nhân  Mỏ Apatite đó có tivi đen trắng 14 inch hiệu Samsung do bố mua ở Hà Nội  lên hẳn hoi, mà của đáng tội, hồi đó ở miền núi nhà mình chưa có trạm  thu phát vệ tinh, mà phải dùng dàn ăng-ten hạng khủng may ra mới bắt  được tín hiệu. Cái thời ấy, việc bắc rạp, thuê thợ dựng cần ăng-ten là  chuyện thường.   
  
  
       
Cảnh đeo bám quen thuộc trên những chiếc tàu điện, phương tiện công cộng rất quan trọng ở Hà Nội thập kỷ 1970 - 1980     
      
Nhớ mãi lần ấy, bố mình mua được một cây tre dài phải đến 20 m rồi  một đoàn thanh niên trai tráng phải vác cái cây tre đó lao qua một cái  ao sâu thì mới dựng nổi nó tại vườn nhà mình để treo lên đó giàn ăng-ten  bằng nhôm to gần bằng cái giường đôi, kèm theo một cái que sắt xuyên  qua thân cây tre để xoay ăng-ten mỗi khi mất tín hiệu.      
  
Nhớ mỗi lần xoay ăng-ten, bố mắm môi mắm lợi xoay còn con thì ở trong nhà làm trinh sát “
rồi, rồi rõ rồi bố ạ, ôi giời lại mất tiếng rồi, lại mất cả hình nữa…”.  Cái TV đen trắng bé tí đó để phục vụ World Cup Italia 90 cho cả xóm và  họ hàng nằm cả đêm la liệt khắp sàn nhà chầu chực xem từng trận. Hôm nào  mà hai đội cùng mặc áo sáng màu hay sậm màu là chết toi vì không phân  biệt nổi đội nào với đội nào.      
  
Đó là khoản báo hình, còn báo tiếng thì khỏi nói, cứ nghe thấy  tiếng ten tèn ten tèn ten chương trình phát thanh của Đội là có một con  bé gày đét là mình cầm cả bát cơm lao ra ngoài đường, đứng gần cái loa  phóng thanh để nghe từng lời một, xem chừng sung sướng lắm, vừa ăn vừa  hít bụi ngoài đường mà không hề hấn gì.      
  
Tối thứ Bảy thì cả đám kéo nhau ra cột điện, chỗ treo cái loa để  nghe “Câu chuyện cảnh giác”, “Sân khấu truyền thanh”, ngâm nga hưởng thụ  như thể chúng là các tuyệt tác nghệ thuật. Chèo tuồng, cải lương cũng  ngốn hết, chả thế mà hồi bé tí mình còn thuộc và ca hết cả bài cải lương  
“Hoa mua trắng” (2) có câu đầu là “
tôi đưa đoàn chiến sĩ qua sông…” mà ca bằng giọng miền Nam hẳn hoi nhé.   
  
  
       
Gói hàng tết, mơ ước của nhiều người một thời...     
      
Thi thoảng thì áp tai qua cửa sổ nhà ông hàng xóm ky bo để nghe  lỏm chuyện “Tam Quốc Diễn Nghĩa” hay “Tây du ký” đọc qua đài. Có lẽ hồi  ấy, trí tưởng tượng của đám trẻ con bọn mình phong phú hơn bọn trẻ bây  giờ, vì chỉ có nghe mà tưởng tượng ra đủ thứ. Mà ông ấy ác, vặn rõ nhỏ  vào để khỏi bị nghe lỏm.      
  
Còn báo giấy, sách vở, tạp chí thì mình đọc nghiến đọc ngấu bất cứ  cái gì có thể đọc được. Dùng thẻ thư viện của mẹ, mình nghiễm nhiên trở  thành độc giả thường xuyên của cái thư viện dành cho công nhân Mỏ, có  các giá sách cũ kỹ, nhiều cuốn sách đã sờn nát và có mùi ẩm mốc. Hồi ấy  mình mới học lớp 5, lớp 6 mà đọc tuốt những tiểu thuyết dày cộp về chiến  tranh, cái thẻ thư viện thì dày đặc chữ ký tên mình.      
  
Cô nhân viên thư viện cũng quen mặt, còn đặc cách cho mình vào tìm  sách tận giá sách thay vì tìm qua tiêu đề và nhờ cô ấy tìm sách hộ. Các  tạp chí đen trắng của Liên Xô, chả hiểu gì cũng xem hết, xem chữ không  hiểu thì ngắm tranh. Tiền mẹ cho đa phần nướng vào sách, truyện. Cái  hiệu sách bé tí ở thị xã miền núi không đủ cung cấp cho nhu cầu của  mình, một đứa toàn ngồi chờ đến giờ hiệu sách mở cửa để mua sách mới về.      
  
Còn nhiều và rất nhiều các kỷ niệm về cái sự “đói” thời ấy mà kể  mãi không hết. Khó khăn thiếu thốn bao nhiêu, thiệt thòi bao nhiêu nhưng  những niềm vui trong trẻo của thế hệ mình chắc chắn không thua kém,  thậm chí còn sâu đậm hơn niềm vui của lũ trẻ “ăn sung mặc sướng” thời  bây giờ, đơn giản chỉ vì niềm vui nào khó khăn mới đạt được thì người ta  càng nhớ và trân trọng nó hơn.      
  
Mình thề là câu này sau khoảng hai chục năm nữa, Bống sẽ nói với con của Bống, tức là cháu của mình…      
  
Ghi chú (của NCTG):   
  
(1) Ca khúc “Áo em chưa mặc một lần” (Hoài Linh).   
   
(2) Của tác giả Ngự Bình.   
  
(*) Ảnh trong bài được trích từ  bộ sưu tập của nhà xã hội học, nữ nhiếp ảnh gia người Thụy Điển Eva  Lindskog tại triển lãm ảnh “Còn & mất” (Hà Nội, tháng 3-2011), của  nhà báo Nguyễn Ngọc Tiến, và từ triển lãm “Cuộc sống ở Hà Nội thời bao  cấp (1975-1986)” (Hà Nội, tháng 6-2006).   
Mai Quỳnh Anh, từ Hà Nội
NCTG