R8 Vơ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2009
Location: US
Posts: 17,796
Thanks: 0
Thanked 0 Times in 0 Posts
Mentioned: 0 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 0 Post(s)
Rep Power: 33
|
Nghệ thuật bán hàng của Việt Nam có ǵ lạ sau 36 năm?
Tôi luôn luôn đặt ra câu hỏi “Việt Nam có ǵ thay đổi?” sau mỗi lần về thăm lại Việt Nam. Sau 36 năm đổi mới, quê mẹ đă trải qua biết bao đổi thay vùn vụt để chạy cho kịp đà tiến hoá của nhân loại. Chúng ta có thể thấy những đổi thay rơ rệt trên mặt nổi là kiến trúc đô thị, mật độ dân cư cùng số lượng xe cộ lưu hành trong thành phố cũng như thôn quê. C̣n những phần ch́m như văn hóa, tập quán, ngôn ngữ đồng thời chịu ảnh hưởng biến đổi rất nhiều nhưng cũng có cái ít đổi hay có cái đứng chựng một chỗ. Có những thói quen nề nếp, ăn sâu vào lề lối giao tiếp hàng ngày khiến sự cải đổi khó khăn hay đôi lúc không thể thực hiện được.
Buổi trưa trước khi về lại Mỹ hai hôm, tôi cần ra chợ Bến Thành để mua sắm những thứ quà lưu niệm và bánh kẹo mang về làm quà. Bạn tôi nói, các địa phương có trồng trọt hay sản xuất mọi sản phẩm nhưng các mặt hàng đều đưa về Sài G̣n, ra chợ Sài G̣n th́ cái ǵ cũng có.
Bên trong Chợ Bến Thành, tháng 4-2011
Vừa bước vào chợ Bến Thành, tôi đă nghe những câu chào mời nổi lên tưng bừng như pháo tết. Có xa quê hương, người ta mới thấy nhớ và nhớ nhất là những tiếng rao, tiếng mời chào hàng như một đặc sản quê hương yêu dấu. Tiếng rao hàng giờ này chúng ta ít c̣n thấy v́ nhà nước cố gắng dẹp nhiều gánh hàng rong để làm đẹp bộ mặt thành phố. Đôi khi chúng ta c̣n nghe được tiếng rao hàng nhưng lại là tiếng rao hiện đại bằng máy ghi âm được lập đi lập lại trên những chiếc xe đạp hay xe gắn máy bán hàng rong trên hè đường như một nét chấm phá ấn tượng của bức tranh hậu hiện đại.
Tiếng mời cô, mời chị, ăn quà, mua rau quả, kẹo bánh xôn xao, rối rít vang lên. Tôi bỗng tự hỏi, nghệ thuật mời hàng của nước ta có từ bao giờ mà tới nay tục này lại càng ngày càng phát triển. Nghĩa là nó không những rộn ràng ở chợ Bến Thành, chợ Đà Lạt, Đông Ba, Đồng Xuân, hay bất cứ các ngôi chợ nào khác. Tuy nhiên, các chỗ khác tôi thấy họ ít chào hàng hơn ở Sài G̣n. Tôi không biết tiếng mời gọi có gây khó chịu cho người khác không chứ sự mời gọi, chèo kéo quá mức, theo tôi nó làm cho khách hàng mất tự nhiên. Đôi khi khách hàng chỉ đi dạo chơi, ngắm hàng, ḷng chưa muốn mua, hay có ư định mua nhưng c̣n do dự. Sự mời gọi có thể làm họ cụt hứng không dám ngắm hàng nữa v́ nó mang một khẳng định là khi hỏi đến một món hàng là ghé vào hàng, phải trả giá, phải mua. Hơn nữa cách đối xử của một số người bán với khách theo tập tục cổ truyền của ḿnh đă làm phiền và gây khiếp hăi cho tôi nhiều lắm. Tôi muốn nói tới tiến tŕnh mua bán một món hàng theo kiểu thương lượng là phương pháp trả giá cổ điển, rất lạc hậu, mất th́ giờ và phiền toái mà giờ đây chúng ta vẫn áp dụng.
Tôi bước ngang qua dăy cửa hàng bán đồ tạp hoá khô như bánh kẹo, trà mứt. Mắt tôi vừa đậu ở hũ thủy tinh trong chứa đầy hạt điều. Lập tức bao nhiêu tiếng chào mời đánh trúng vào mục tiêu. “Cô mua hạt điều đi cô, hạt điều B́nh Dương ngon lắm cô”. “Chị mua ǵ, cần ǵ, em giúp cho, em có đủ mọi mặt hàng mới về nè”. Tôi không biết chọn cửa hàng nào để hỏi v́ họ đều có những mặt hàng như nhau. Một bà bốc vài hạt điều đưa tôi xem, vồn vă “Cô thử đi cô, hạt điều mới mà cô”. Tôi không thể từ chối sự mời mọc của bà ta nên bèn thử và hỏi giá. Hỏi xong tôi phân vân không biết trả giá thế nào cho khỏi bị hớ, bèn dợm chân đi. Thế là từ thái độ đon đả mời mọc, bà bán hàng đổi “tông” . “Sáng sớm, cô trả dùm tôi một tiếng mở hàng, chứ bỏ đi như vậy đâu được”. Lúc đó trời đă về trưa mà đối với mấy bà bán hàng lúc nào cũng là buổi sáng. Tôi chết cứng không biết làm sao, trả th́ sợ hớ, không trả th́ sẽ bị chửi trong ḷng phân vân vô cùng. Tôi là người sinh ra và lớn lên ở Sài G̣n, từ lâu tôi vẫn biết những ngôi chợ nhỏ ở cấp tỉnh, huyện ít nói thách hơn, c̣n Chợ Bến Thành xưa nay nổi danh nói thách và hay cân thiếu nên tôi rất cẩn trọng và dành sẵn cho ḿnh một bộ mặt nghiêm trang để họ nghĩ rằng tôi không phải khù khờ. Tôi bắt đầu trả giá bằng phân nửa cái giá đưa ra. Thế là tôi bắt đầu nghe tiếng phàn nàn trổi lên “Sáng sớm chưa bán được hàng, mà cô trả vầy th́ chết hàng tôi c̣n ǵ, cô coi thời buổi này cô trả thế không đủ cho tôi mua một ly nước uống”. Tiếng nói dấm dẳng, đay nghiến, hiếp đáp tinh thần khách hàng làm ai mà không lúng túng, rơi vào t́nh trạng bối rối, buộc họ phải ở vào vị thế phải trả cao lên đến khi nào đúng giá người bán muốn bán. Khi ấy, khách hàng có hai tâm lư, một là muốn mua th́ tiếp tục, hai là chưa muốn mua và sợ hớ th́ chỉ có nước bỏ đi. Tôi th́ muốn mua nhưng không chịu nổi ư tưởng bị hớ hay bị lừa nên chọn giải pháp bước đi. Thế là tôi được nghe thêm một tràng chửi dài đưa tiễn, kèm theo một thái độ hậm hực.
Sau một hồi đi qua, đi lại vài gian hàng, nghe càu nhàu độ chục lần tôi chọn được nơi muốn mua ưng ư và đứng lại mua nhiều món hàng một lúc cho đỡ phí th́ giờ. Vừa mua xong, bước ra khỏi gian hàng đó, tôi bỗng nghe tiếng phàn nàn, kêu ca “Em mời chị mua hàng em sao chị không mua lại mua chỗ khác, hàng em mới hơn”. “Tôi mời cô trước, sao cô không mua dùm tôi, mua mở hàng dùm đi cô”. Tôi lại làm mặt lạnh như tiền đi qua mà trong ḷng rất áy náy.
Rút kinh nghiệm, qua hàng vải vóc và quần áo tôi không nói nữa, giả làm khách ngoại quốc, v́ tôi thấy người ngoại quốc không bị nghe nhiều v́ trở ngại ngôn ngữ. Người bán thấy tôi chẳng nói chẳng rằng, không phản ứng khi họ mời mà chỉ cười cười khi nghe họ chào hỏi, họ nói với nhau “không biết phải người Việt không mà chỉ thấy cười cười”. Vài người nghĩ tôi là khách Mă Lai hay Phi, Tàu ǵ đó bèn mời “Miss, Madam, see... see” lung tung làm tôi muốn ph́ cười nhưng vẫn giả câm mà đi ngắm hàng, đến khi nào muốn mua mới mở miệng.
Vỉa hè được dùng làm nơi buôn bán ở Sài G̣n
Đó là chưa kể trường hợp giành giật khách và nói xấu cửa hàng khác của một số người xấu tính. T́nh trạng chào mời, giành giật khách tôi thấy xảy ra ở các bến xe và phi trường. Khi khách hàng cần phương tiện giao thông như Taxi hay xe ôm thường phải đối đầu với một đám đông các bác xe ôm đă chầu chực sẵn mời chào, níu kéo khách về phía xe họ khiến khách cảm thấy rất khó chịu.
Tôi tự hỏi tại sao người ḿnh có lối buôn bán đầy cảm tính khổ sở như vậy. Nếu tất cả mọi mặt hàng đều để giá biểu và bán y giá không thay đổi th́ đâu có chuyện khách hàng bị khó chịu v́ nghe chửi và người bán bị bực ḿnh v́ người mua trả không đúng giá mà ḿnh muốn bán. Người mua chỉ việc lựa món ḿnh thích và lấy th́ đâu mất thời giờ đi tới đi lui trả giá một món hàng, có khi cả mấy chục phút hay nửa tiếng đồng hồ đảo đi đảo lại. Việt Nam giờ đă có những siêu thị, nơi có đủ mặt hàng với lối buôn bán hiện đại nhưng không nhiều và vẫn duy tŕ những ngôi chợ và lối nghệ thuật chào hàng cổ điển. Theo tôi, có lẽ những cửa hàng tiểu thương hay lối buôn bán nhỏ c̣n thịnh hành v́ Việt Nam c̣n nghèo. Hệ thống siêu thị chưa phát triển mạnh v́ chúng cần vốn lớn và thường nằm trong tay các tập đoàn hơn là các tay tiểu thương.
Tôi ở Mỹ, thường quen với lối mua sắm ở các siêu thị, mua ǵ lấy đó, lẹ lẹ rồi về v́ th́ giờ là tiền bạc, cuộc sống tất bật có bao nhiêu điều chờ đợi phải giải quyết, đâu có th́ giờ c̣ kè trả giá. Các thương hiệu nhỏ, tùy người, họ tự tạo những cảm t́nh cá nhân giữa chủ và khách khi giao tiếp, để mong khách hàng trở lại. Nhưng phần lớn họ để khách hàng vào nh́n ngắm tự do, khi nào cần giúp th́ họ trả lời mà thôi.
Khi qua Nhật, tôi thấy lối tiếp khách của họ hơi khác. Trong các thương hiệu ngoài nhân viên tiếp thị, họ mướn một hay hai người đứng ngay cửa cúi chào khách một cách kính cẩn khi khách vào và nói khách hàng cứ tự do lựa chọn khi nào cần giúp ǵ th́ nói họ. Khi khách ra họ lại cúi chào lần nữa.
Từ ngàn xưa nước ta có cái cấu trúc đô thị ít phân rơ cửa hàng, phố thương mại, khu kỹ nghệ hay nhà ở thành từng nơi riêng biệt. Kiến trúc cổ ở Hà Thành chia làm 36 phố buôn bán những thức chuyên môn khác nhau nhưng gia chủ của một cửa hàng thường là cư dân căn hộ nơi đó luôn. Nghĩa là ngoài mặt hàng dùng buôn bán, bên trong th́ ở. Nếu là một căn lầu th́ trên lầu thường để sinh sống, dưới nhà là thương hiệu. Toàn nước Việt hầu như mọi nơi đều có cùng một kiến thiết như vậy. Do đó bất cứ nơi nào người ta cũng có thể mở cửa hiệu để buôn bán và sinh sống. Đôi khi chỉ để vài dụng cụ sửa xe trước nhà, một bác trung niên cũng có thể hành nghề sửa xe. Thậm chí lề đường những con phố đô thị lớn bây giờ không c̣n chỗ cho khách bộ hành đặt chân v́ chúng đă bị chiếm hữu. Nào là các gánh hàng rong, các quán nhậu lề đường bỏ túi, xe bánh ḿ, xe hủ tíu, quầy trái cây, và nhiều nhất là chỗ để xe gắn máy. Người đi bộ phải đi me mé xuống ḷng đường nhập vào ḍng xe cộ lúc nhúc xe hơi, xe gắn máy, xe đạp, xe vận tải, xe đ̣, xe xích lô, đủ cả mà vừa đi vừa tránh xe. Đó là chưa kể qua đường th́ giao mạng ḿnh cho ḍng người lái xe, v́ để “xe tránh ḿnh”.
Ở Mỹ th́ khác, v́ là một quốc gia tân lập, kiến thiết đô thị có quy hoạch rơ ràng đâu ra đó. Khu nào quy rơ là khu thương mại th́ để buôn bán hay làm dịch vụ mà thôi. Khu kỹ nghệ chỉ có các nhà máy được thành lập. Khu nhà ở th́ cư dân xây nhà ở, không được làm ǵ khác. Không có trường hợp ngoại lệ.
V́ vậy khi tôi ngỏ ư tội nghiệp cho khách bộ hành không có chỗ đặt chân trên lề đường, một người bạn đă nói đùa với tôi, “Vậy là Việt Nam đă tự do quá so với Mỹ rồi, ai muốn làm ǵ th́ làm, chúng ta lại biết tận dụng từng tấc đất làm thương mại thay v́ để không”.
Đời sống con người tựa những dăy núi, khi lên xuống, lúc ở trên đỉnh cao, khi xuống tận cùng đáy vực. Nền thương mại của một quốc gia cũng vậy, khi thăng trầm, khi đứng một nơi, khi thay đổi bất thường như thời tiết băo bùng, ngày mưa tháng nắng. Mỗi quốc gia có một nền văn hoá thương mại riêng. Am hiểu văn hoá thương mại của một quốc gia khi làm thương mại sẽ giúp cho một thương gia thành công mỹ măn trên thương trường. Nh́n lại ta thấy nền thương mại của Việt Nam đang trên con đường đổi mới với sức sống tràn đầy đang sẵn sàng bung dậy khi gặp gió. Nhưng nh́n kỹ những tập tục lề thói xưa cũ của nghệ thuật bán hàng bằng phương pháp trả giá, tôi thấy nó là một trở ngại to lớn cho sự phát triển thương mại bây giờ và mai sau. Nghệ thuật chào mời, vồn vă, quư mến khách hàng là một ưu điểm của kỹ thuật làm thương mại nhưng đừng quá mức khiến khách phải mất tự nhiên. Chúng ta có thể cải tiến và thay đổi làm sao cho nghệ thuật bán hàng của ta tốt đẹp hơn khiến khách hàng mỗi khi bước vào chợ, đi dạo với một tâm trạng thoái mái vui vẻ mà không sợ sệt hay lo ngại bị bắt bẻ, la mắng, khó chịu. Và khi ra khỏi chợ ai cũng cảm thấy an vui nhẹ nhàng dù cho trên tay họ không mua món ǵ, đó mới chính là sự thành công mỹ măn của một nền văn hoá thương mại tiên tiến. – (TTT)
Bài và ảnh: Trịnh Thanh Thủy
Viễn Đông
|