Những tuyên bố về HS và TS, như Luật biển 2012 của VN, tuyên bố của Nguyễn Tấn Dũng… đều không có giá trị pháp lư trên phương diện quốc tế công pháp.
>Về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa (1)
3/ Vấn đề “thẩm quyền lănh thổ”
Trở lại câu: “Người ta không thể từ bỏ lănh thổ mà người ta không có thẩm quyền” mà các học giả VN dẫn tới dẫn lui trong các bài viết. Như đă viết ở trên, điều cần phải làm cho minh bạch là vào thời điểm 1958, VNDCCH có là một “quốc gia” như các học giả VN đă nói hay không? Nếu có, quốc gia này có “thẩm quyền quốc gia – compétence étatique” ở HS và TS hay không?
Câu trả lời là vào khoảng 1958, VNDCCH không hề là một “quốc gia”, theo định nghĩa của Quốc tế Công pháp, đơn giản v́ VNDCCH không phải là “đối tượng” của Quốc tế Công pháp.
Nếu hiểu theo nghĩa rộng, VNDCCH và VNCH chỉ là “quốc gia từng phần – Etat partiel” trong một “quốc gia tổng thể – Etat global[xv]”.
Trong thời kỳ 1954-1975, Việt Nam là một đất nước bị phân chia (état divisé – divided country). Trường hợp Ấn Độ và Pakistan, hoặc Pakistan và Bangladesh, cũng là các nước bị phân chia nhưng t́nh trạng pháp lư của các quốc gia[xvi] này hoàn toàn khác với Việt Nam.
Theo định nghĩa[xvii], quốc gia bị phân chia (état divisé) là quốc gia, lúc trước khi bị phân chia đă là một “quốc gia – Etat”, được cộng đồng quốc tế nh́n nhận, và lập trường chính trị chung của các bên (sau khi bị phân chia) là mong muốn thống nhất lại đất nước trong tương lai. Đường ranh phân chia chỉ có giá trị tạm thời, không được nh́n nhận là đường biên giới.

Việt Nam (1954-1976). Nguồn: historysome.blogspot .com |
Cộng đồng quốc tế đă nh́n nhận Việt Nam là một quốc gia, thành h́nh từ rất lâu, đă tuyên bố độc lập từ thế kỷ thứ X. Sau hiệp định Genève 1954, VN bị phân chia bằng vĩ tuyến 17 thành hai vùng lănh thổ. Đường phân chia này chỉ có giá trị tạm thời (nhằm về tập kết quân sự). Cũng theo qui định của Hiệp định này, việc thống nhất VN sẽ thể hiện bằng một cuộc bầu cử, trễ nhất là năm 1956. Việc bầu cử, do nhiều lư do, đă không diễn ra. Hai miền, từ những năm của thập niên 60, trên thực tế đă hành sử như là “quốc gia”. Nhưng lập trường chính trị của hai bên vẫn là ư muốn thống nhất lại đất nước. Cả hai miền đều quyết định không gia nhập Liên hiệp quốc[xviii].
Như vậy Việt Nam là một quốc gia bị phân chia (état divisé – divided country), tương tự trường hợp của Đại Hàn và Đức, ư muốn của họ là trong tương lai thống nhất lại đất nước[xix].
Trường hợp Ấn Độ và Pakistan, sau khi được Anh trả độc lập, đă quyết định phân chia đất nước thành hai vùng lănh thổ và việc phân chia có tính cách vĩnh viễn. Hai vùng lănh thổ trở thành hai quốc gia: Ấn Độ và Pakistan, với một đường biên giới được xác định và cả hai đều gia nhập vào Liên Hiệp quốc. Trường hợp Bangladesh ly khai khỏi Pakistan để trở thành một quốc gia độc lập, được quốc tế nh́n nhận. Các trường hợp phân chia này hoàn toàn khác với t́nh trạng của quốc gia Việt Nam.
Về thái độ của các nước trên thế giới, có thể phân chia thành 4 nhóm khác nhau, có quan niệm đối chọi nhau về tư cách pháp nhân của “quốc gia Việt Nam” trong giai đoạn 1954-1975.
Nhóm 1: công nhận nhà nước VNCH là chính thống, đại diện cho quốc gia Việt Nam (từ Nam Quan đến Cà Mau). Các nước tiêu biểu của nhóm này bao gồm các nước tư bản, thuộc khối tự do như Mỹ, Pháp, Anh… khoảng 56 quốc gia. Nhà nước VNCH cũng được nh́n nhận là đại diện chính thức của Quốc gia VN tại các định chế quốc tế thuộc LHQ.
Nhóm 2: công nhận nhà nước VNDCCH là chính thống, đại diện cho Quốc gia VN (từ Lạng Sơn đến Cà Mau). Các nước tiêu biểu của nhóm này bao gồm các nước thuộc khối cộng sản, như Liên Xô, Trung Quốc…
Nhóm 3: chỉ gồm Ấn Độ, không công nhận bên nào là đại diện chính thống của quốc gia Việt Nam[xx].
Nhóm 4: Lập trường của Úc, nh́n nhận cả hai bên VNDCCH và VNCH đều là các “quốc gia”[xxi].
Như thế, lập trường áp đảo là chỉ có 1 quốc gia VN, hoặc do nhà nước VNDCCH đại diện, hoặc do VNCH đại diện.
Chỉ có một vài quốc gia cho rằng VN gồm 2 quốc gia (Úc), hay không nh́n nhận phe nào (Ấn Độ).
Điều cần nói, Hoa Kỳ cũng đă từng nh́n nhận Việt Nam là một quốc gia “tạm thời bị phân chia, giống như trường hợp của Đại Hàn và Đức”. Việc này tŕnh bày trong “Biên bản ghi nhớ” của bộ Ngoại giao ngày 4-3-1966[xxii].
Điều đáng ghi nhận khác, liên tục nhiều năm, cho đến năm 1960, nhà cầm quyền miền Bắc vẫn c̣n lên tiếng, vào tháng 7, yêu cầu miền Nam tuân thủ hiệp định Genève, trưng cầu dân ư thống nhất đất nước.
Như thế th́ lư lẽ nào để cho rằng, vào thời điểm 1958, VNDCCH và VNCH là hai quốc gia ?
V́ khi nói đến thẩm quyền lănh thổ th́ phải nói đến biên giới quốc gia. Đường biên giới giữa hai quốc gia được định nghĩa là đường giới hạn thẩm quyền về lănh thổ giữa hai quốc gia, là đường bao bọc không gian, xác định thẩm quyền lănh thổ.
Quốc gia Việt Nam bị phân chia, theo hiệp ước Genève 1954, đường ranh phân chia của hai bên chỉ có giá trị tạm thời (để tập kết quân sự). Đường giới tuyến quân sự tạm thời này không phải là đường biên giới, do đó không có giá trị để phân chia thẩm quyền về lănh thổ.
Hiệp định Genève đă qui định: việc chia cắt chỉ là tạm thời, chờ ngày thống nhất đất nước qua cuộc tổng tuyển cử tự do.
T́nh trạng pháp lư của VN lúc đó (1958) là một nước VN duy nhất (Etat unitaire). Việc tạm thời phân chia chỉ có ư nghĩa về “quân sự” chứ không phải về “hành chánh”.
Như thế, khi việc thống nhất đất nước chưa ngả ngũ, VNDCCH (hay VNCH) đều có “thẩm quyền quốc gia về lănh thổ” trên lănh thổ mà hai bên tuyên bố (từ Nam Quan đến Cà Mau hay từ Lạng Sơn đến Cà Mau). Tức bao gồm HS và TS.
VN là một quốc gia duy nhất (Etat unitaire), tạm thời bị phân chia, do đó bất kỳ nhà nước nào, theo thể chế chính trị bất kỳ nào, chính thống hay không chính thống, đều có bổn phận như nhau trong vấn đề bảo vệ lănh thổ. Thẩm quyền về lănh thổ của các nhà nước đều bao trùm lên toàn lănh thổ.
Điều cần phân biệt thuật ngữ “thẩm quyền về lănh thổ – territorialement compétent” mà bà M. Chemillier-Gendreau đă sử dụng với thuật ngữ “thẩm quyền quốc gia – compétence étatique”. Ư nghĩa của “thẩm quyền về lănh thổ” có ư nghĩa thiên về “effectivité”, trong khi ư nghĩa của “thẩm quyền quốc gia” về lănh thổ thiên về “chủ quyền – souveraineté”. Cả hai nhà nước VNDCCH và VNCH đều tự nhận là “chính thống” (tức có “compétence étatique”), đại diện cho một nước VN độc lập có chủ quyền (souveraineté), nhưng thực ra “effectivité – việc kiểm soát lănh thổ” của các nhà nước này chỉ hạn chế trong vùng lănh thổ mà họ kiểm soát.
Thử đặt giả thuyết, cuộc trưng cầu dân ư được hai bên đồng ư tổ chức năm 1959, đất nước thống nhất. Dĩ nhiên là không c̣n có chuyện căi cọ VNDCCH và VNCH là hai “quốc gia” hoặc các vấn đề về “thẩm quyền lănh thổ” như hiện nay.
Tuyên bố của ông Đồng sẽ có giá trị, nếu phần thắng thuộc về phe miền Bắc.
V́ vậy, biện luận rằng VNDCCH và VNCH là hai quốc gia, sau đó dẫn lời (một cách không đầy đủ) của bà Monique Chemillier-Gendreau: “người ta không thể cho cái mà người ta không có thẩm quyền”… đều chỉ là ngụy biện. Các học giả này không ai chứng minh rằng VHDCCH và VNCH là hai quốc gia độc lập, có chủ quyền, lănh thổ được phân định, theo như tiêu chuẩn của Quốc tế công pháp.
Thái độ ngụy biện không hề giúp VN giành lại HS và TS, mà ngược lại, nó càng củng cố thêm cho lư lẽ của phía TQ.
Nhưng cũng đặt thử giả thuyết, năm 1958 VNDCCH và VNCH là hai “quốc gia”, cho đẹp ḷng các học giả VN. Hệ quả sẽ ra sao về các vấn đề lịch sử và pháp lư ?
Khi đă là “Quốc gia”, VNDCCH sẽ phải là đối tượng của Quốc tế Công pháp. Các hành vi, các tuyên bố của VNDCCH trước quốc tế, từ 1954 đến 1975, sẽ là một vấn đề thuộc phạm vi “quốc tế”.
Chiến tranh VN, tức cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt, tên “xung kích XHCN” sừng sỏ đánh tên đại diện “tiền đồn thế giới tự do” VNCH. Quan điểm của miền Bắc, cuộc chiến tranh “Giải phóng, Thống nhất đất nước”, sẽ phải đổi lại là chiến tranh “chinh phục, mở rộng bờ cơi”. Quan điểm của VNCH, chiến tranh xâm lăng, dân tộc “Nam kỳ” “mất nước”, bị VNDCCH đô hộ. Quan điểm quốc tế, cuộc chiến tranh này vi phạm các nguyên tắc của Hiến chương LHQ, các nước có bổn phận can thiệp để bảo vệ VNCH (như trường hợp Koweit bị Irak xâm lăng qua cuộc chiến Vùng Vịnh lần 1). Lúc đó sự can thiệp (nếu có) của Hoa Kỳ sẽ chính đáng, (chứ không bị thế giới lên án như chiến tranh VN).
Đặt giả thuyết này để thấy rằng quan điểm hai nhà nước VNDCCH và VNCH là hai “quốc gia” là một điều rất sai.
4/ Vấn đề kế thừa
TS Nguyễn Hồng Thao, cũng như nhiều học giả VN, khi trích dẫn câu “người ta không thể từ bỏ cái mà người ta không có chủ quyền”, mặc nhiên thừa nhận hai quần đảo HS và TS không thuộc chủ quyền của “quốc gia” VNDCCH.
Như vậy, sau 1976, từ bao giờ HS và TS của “quốc gia” VNCH trở lại thuộc chủ quyền của CHXHCNVH? Trở lại bằng cách nào ? Kế thừa từ Cộng ḥa Miền nam VN hay kế thừa VNCH ? Kế thừa ở đây là kế thừa “Quốc gia – Etat » (v́ đă nh́n nhận VNDCCH và VNCH là hai quốc gia) chứ không phải kế thừa chính quyền (Gouvernement). Thủ tục kế thừa đă thể hiện ra sao ?
Không thấy ai đưa ra lời giải thích rành mạch.
Trong thực tế một số đảo TS, CHMNVN chiếm được dưới danh nghĩa “giải phóng”.
Về phía TQ, trả lời VN khi VN đ̣i đưa HS vào bàn thuơng thuyết: khi nào VN chứng minh được miền Nam (tức VNCH) không thuộc nước Việt Nam th́ họ sẽ ngồi xuống đàm phán với VN về quần đảo HS.
Đối với TS, quan niệm của TQ, VNDCCH đă chiếm trái phép các đảo TS của TQ.
Các học giả VN, người đi sau “copy” người đi trước, rập khuôn vào cùng một lập luận, “đóng đinh” VN cứng đơ trên cây “thánh giá”, bất khả tranh biện với TQ.
Vấn đề “kế thừa” và “liên tục” quốc gia của VN đă được nhiều tác giả đề cập, cụ thể qua tập “State Succession and Membership in International Organisations – Legal Theories versus Political Pragmatism”[xxiii] của tác giả Conrad G. Buhler (trang 69-113) hoặc Luận án của bà Mme Joële Nguyên Duy-Tân, tóm lược qua bài “La représentation du VietNam dans les institutions spécialisées”[xxiv].
Các tập tài liệu này đă đưa ra những tài liệu pháp lư, cho thấy CHXHCNVN là một quốc gia mới. Nhà nước CHXHCNVN là nhà nước tiếp nối của VNDCCH[xxv]. Nhà nước này từ chối kế thừa bất kỳ danh nghĩa nào thuộc về VNCH.
Những nhà lănh đạo CSVN làm như thế là đúng với cái “logic” của họ.
Bà Joële Nguyên Duy-Tân có đặt vấn đề:
La R.D.V.N. avait toujours nié théoriquement l’existence d’un Etat au Sud, en particulier celui de la R.V.N. La R.S.V.N. peut-elle succéder à une entité inexistante pour elle?
Tạm dịch: VNDCCH luôn cương quyết phủ nhận sự hiện hữu của một quốc gia ở miền Nam, tức VNCH. VNDCCH có thể kế thừa một thực thể mà họ đă quan niệm là không hiện hữu?
Tài liệu thuộc Bộ Ngoại giao Pháp, ngày 9-9-1978, cho thấy CHXHCNVN từ chối kế thừa di sản của thực dân Pháp (chuyển sang VNCH):
A la suite de la disparition de la République du Sud VN, le nouveau gouvernement de VN n’a pas fait la déclaration indiquant qu’il entendait succéder aux traités des 16 Septembre 1954 et 16 Aout 1955, conclus entre la République française et l’ancien gouvernement Sud Vietnam. Il en résulte, conformément au principes du droit international actuel en matière de question du succestion d’Etat, que ces traités n’engagent plus le gouvernement actuel de VN et qu’il sont devenus caduc.[xxvi]
Tạm dịch: Tiếp theo sự biến mất của Cộng ḥa miền Nam, chính phủ VN mới đă không ra tuyên bố cho biết họ kế thừa các hiệp ước 16-9-1954 và 16-8-1955, kư kết giữa Cộng ḥa Pháp và chính phủ miền Nam VN cũ. V́ vậy, chiếu theo các nguyên tắc của luật quốc tế hiện thời về vấn đề kế thừa quốc gia, các hiệp ước này không c̣n ràng buộc chính phủ VN hiện thời và chúng trở thành vô giá trị.
Một loạt các hành động khác, như CHXHCNVN kư kết vào hiệp ước “Không phổ biến vũ khí nguyên tử” với tư cách một quốc gia mới, từ chối kế thừa VNCH[xxvii].
Hoa Kỳ cũng xác nhận VNCH là một quốc gia bị gián đoạn[xxviii]:
The Republic of Viet Nam, both of a state and government, had ceased to exist in law or fact and the United States had not recognized any government as the sovereigh authority in the territory formerly known as South Viet nam
Tạm dịch: Việt Nam cộng ḥa, quốc gia và chính quyền, đă ngừng hiện hữu trên phương diện pháp lư và thực tế. Hoa Kỳ không công nhận bất kỳ nhà nước nào trên vùng lănh thổ trước kia mang tên Nam Việt Nam.
TS NHT lập luận CHXHCNVN kế thừa HS và TS từ CHMNVH. Vậy th́ nhà nước CHMNVN đă thụ đắc danh nghĩa chủ quyền tại HS và TS khi nào ? Từ nhà Nguyễn, chính quyền thực dân Pháp hay VNCH ?
Tuyên bố của bộ Ngoại giao Pháp 9-9-1978 dẫn trên cho thấy lập luận của TS NHT về kế thừa HS và TS là không có cơ sở.
Như vậy, lập luận VNDCCH và VNCH là “hai quốc gia” đă đưa VN vào bế tắc.
Trong khi lập luận “hiệp định Genève 1954 phân chia VN thành hai quốc gia” nguyên thủy là lập trường của Hoa Kỳ. Nước này là một “tác nhân” trong cuộc chiến VN. V́ lo ngại xảy ra một “chiến tranh Cao Ly thứ 2” với Trung Cộng, đồng thời bảo đảm việc can thiệp vào VN phải phù hợp với các nguyên tắc về chiến tranh theo qui định của quốc tế “jus ad bellum” và “jus in bello”[xxix], HK muốn biến miền Nam thành một “tiền đồn chống cộng” vững chắc.
Sau hiệp định Genève, Hoa Kỳ đă có ư muốn biến miền Nam thành một quốc gia, theo nội dung bức thư[xxx] của Eisenhower gởi ông Diệm này 1-10-1954: chúng tôi sẽ giúp cho VNCH xây dựng thành một “quốc gia” phú cường, có khả năng chống lại mọi loạn lạc bên trong cũng như những gây hấn bên ngoài.
Tháng 12 năm 1961, trả lời thư ông Diệm, TT Kennedy hứa hẹn[xxxi]: “Chúng tôi sẵn sàng giúp chính quyền VNCH để bảo vệ người dân trong nước, để giữ vững nền độc lập của đất nước”.
Hoa Kỳ muốn xây dựng miền Nam VNCH trở thành một “quốc gia” hùng mạnh, có tính chính thống, duy nhất đại diện quốc gia VN. Cuộc chiến VN sẽ cuộc chiến “xâm lược”, v́ miền Bắc vi phạm hiệp định Genève, xâm lược miền Nam. Từ đó Hoa Kỳ mới có lư do vịn vào để đổ quân vào VN, tương tự như chiến tranh Cao Ly. Nhưng VNCH không trở thành một quốc gia “chính thống” và “hùng mạnh”, v́ song song đó, các nước XHCN cũng giúp VNDCCH trở thành một quốc gia “chính thống” và “hùng mạnh” khác. Cuộc chiến mà Hoa Kỳ lo ngại (trường hợp Bắc Hàn xua quân đánh Nam Hàn) đă không xảy ra, v́ lănh đạo CSVN đă áp dụng phương sách của Mao Trạch Đông, dùng “du kích chiến”, nuôi dưỡng con bài MTGPMN đồng thời mở mặt trận chính trị tuyên truyền, bôi nhọ việc can thiệp của HK vào VN và kích động những trí thức ở miền Nam trở thành “phản chiến”.
Cuộc chiến “hao ṃn” này đă làm cho HK hụt hơi, như chiến tranh Afghanistan hiện nay, trong khi dư luận trong và ngoài nước chống lại cuộc chiến. Cuối thập niên 60 HK thay đổi quan niệm về VN, đồng thời công nhận hai thực thể chính trị khác, “đại diện cho VN”, là VNDCCH và CHMNCH, chuẩn bị tư thế “đồng minh tháo chạy”. T́nh trạng pháp lư của quốc gia Việt Nam do đó lại càng rắc rối hơn.
Vấn đề kế thừa của VN, thay v́ “kế thừa chính quyền – succession gouvernement” lại trở thành “kế thừa quốc gia – succession d’état”.
Kế thừa chính quyền thuộc phạm vi “nội bộ” của quốc gia, “trong nhà đóng cửa dạy nhau” trong khi kế thừa quốc gia thuộc phạm vi quốc tế. Chuyện nội bộ có thể thay đổi hay sửa chữa nhưng chuyện thuộc phạm vi quốc tế th́ sẽ rất khó khăn.
Các học giả VN lựa chọn con đường khó khăn “đóng đinh trên thánh giá”. Mất nước do đó trước hết là do ḿnh.
5/ Giải pháp nào?
Nội dung Nguyên tắc hướng dẫn của LHQ về “Acquiescement – sự đồng thuận” đă ghi ở trên: “Những tuyên bố phát biểu một cách công khai và bày tỏ ư muốn tôn trọng (những ǵ đă tuyên bố) có thể có tác dụng tạo ra các nghĩa vụ pháp lư… Khi các điều kiện được hội đủ, Quốc gia liên hệ có thể xem xét và dựa vào tuyên bố này làm căn cứ, để đ̣i hỏi các nghĩa vụ đó phải được tôn trọng”.
Các điều kiện đă hội đủ: CHXHCNVN là nhà nước tiếp nối nhà nước VNDCCH, có đầy đủ thẩm quyền quốc gia về lănh thổ, trên phương diện thực tế cũng như trên phương diện pháp lư. TQ có thể bất cứ lúc nào, dựa vào tuyên bố 1958, đ̣i hỏi VN tôn trọng.
Đứng trước đ̣i hỏi này, VN ở vào thế yếu về cả hai mặt: pháp lư và tương quan lực lượng. Trong khi quan niệm của TQ ngày càng cứng rắn: những ǵ thuộc chủ quyền lănh thổ quốc gia đều thuộc lào “lợi ích cốt lơi” của TQ.