Những tờ giấy màu trắng thường được gọi chung Fabric Softener dùng bỏ vào máy sấy để cho quần áo thơm tho, mềm mại hơn và không bị dính nhau lại, còn có nhiều công dụng khác nữa. Sau đây là những kinh nghiệm mà nhiều phụ nữ đã chia sẻ để chúng ta biết sử dụng Fabric Softener cho nhiều mục đích khác nhau :
1. Khi bạn đặt một miếng Fabric Softener ở gần nơi có kiến, chúng sẽ chạy đi hết.
2. Tránh được mùi hôi mốc bằng cách kẹp một miếng giấy Fabric Softener vào sách hay cuốn album lâu ngày không mở ra.
3. Vào mùa có nhiều muỗi, khi ra ngoài vườn sinh hoạt, bạn có thể đeo nơi thắt lưng một miếng Fabric Softener thì mấy chàng muỗi sẽ không thèm lại gần.
4. Dùng miếng Fabric Softener để lau những vết xà bông đóng ở cửa kính của bồn tắm.
5. Làm cho đồ ṿật hay áo quần thơm tho và tươi mát bằng cách đặt một tấm Fabric Softener trong mỗi hộc tủ hay treo trong closet.
6. Ðể tránh chỉ bị rối hãy dùng miếng Fabric Softener vuốt sợi chỉ đã xâu vào kim trước khi may.
7. Nếu không muốn vali đựng quần áo bị ẩm, hãy đặt một miếng Fabric Softener dưới đáy trước khi xếp hành lý mang theo.
8. Làm cho không khí trong xe hơi trong lành bằng cách đặt một miếng Fabric Softener dưới ghế ngồi.
9. Muốn rửa sạch những thức ăn dính chặt bên trong xoong nồi thì hãy đặt một miếng Fabric Softener vào trong xoong rồi ngâm nước qua đêm.
Hôm sau mới dùng miếng sponge để chùi rửa. Chất dùng để chống lại sự dính nhau (static) có trong Fabric Softener sẽ làm cho đồ ăn rớt ra khỏi xoong nồi dễ dàng hơn.
10. Ðặt một miếng giấy Fabric Softener dưới đáy của mỗi thùng rác để tránh mùi hôi.
11. Dùng miếng Fabric Softener để lau những nơi có dính lông chó hay mèo, nó sẽ lấy đi những lông rụng đó một cách sạch sẽ.
12. Dưới mỗi giỏ đựng quần áo dơ, bao giờ cũng đặt một miếng Fabric Softener để khỏi có mùa hôi.
13. Làm cho giày không có mùi hôi bằng cách đặt miếng Fabric Softener trong đó qua đêm. Ngày mai, đôi giày sẽ thơm tho để mang đi làm hay đi học.
14. Dùng Fabric Softener để lau mặt kính máy TV sẽ làm cho bụi bặm bớt đóng lớp trên đó.
Sự cảm thọ của mũi có giống nhau không? Như người miền Nam nghe mùi sầu riêng nói: thơm quá! Nhưng người miền Trung bảo: hôi quá! Cùng một mùi sầu riêng người nói thơm, người nói hôi. Như vậy ai đúng? Người nói mùi sầu riêng là thơm sẽ cãi với người kia. Người nói mùi sầu riêng là hôi sẽ cãi lại. Hai người sẽ đi đến ẩu đả nhau. Ai đúng? Ai sai? Người bàng quan ngoại cuộc nếu ở miền Nam thì cho rằng người ngửi thơm là đúng, nếu ở miền Trung thì cho người ngửi hôi là đúng. Do sự huân tập khác nhau nên sự cảm thọ có sai biệt. Sự tranh cãi đúng sai thật là vô ích, không khôn chút nào hết, lại làm buồn lòng nhau, chẳng phải nguồn gốc của đau khổ sao? Buồn giận nhau, không ngó mặt nhau, gọi là oán tắng hội, đau khổ từ đó mà sanh.
Sự cảm thọ của lưỡi cũng khác nhau! Thí dụ cô đầu bếp làm thức ăn. Cô nấu canh nêm nếm đàng hoàng rất là vừa ý. Nhưng vì cô quen ăn mặn nên những người quen ăn lạt chê là nêm canh quá mặn. Cô đầu bếp tức giận nghĩ mình nấu nướng kỹ lưỡng, nêm nếm vừa ăn lắm mà còn bị chê trách! Chung qui chỉ vì thói quen của cái lưỡi người quen ăn mặn, người quen ăn lạt mà thôi. Người quen ăn mặn cảm thấy vừa miệng thì người quen ăn lạt cho là mặn và ngược lại, người quen ăn lạt cảm thấy vừa ăn thì người quen ăn mặn cho là lạt. Như vậy lấy đâu làm tiêu chuẩn? Vì sao lại cãi nhau cho sự cảm thọ của mình là đúng? Mỗi người có khẩu vị khác nhau. Cùng một thức ăn, người khen ngon, người chê dở. Người thích món ăn này, người thích món ăn kia, vì mỗi người có cảm thọ riêng biệt theo thói quen của mình. Chẳng những chúng ta có thói quen đời này mà còn cả thói quen của đời trước nữa.
Thí dụ có người khi cha mẹ sanh ra chỉ ăn chay lạt, không ăn thịt cá được. Vì lý do gì? Có phải là cảm thọ quá khứ còn lại, nên không thích mùi thịt cá. Lại có người cha mẹ bảo ăn chay, thì thích dùng thức ăn mặn. Như vậy là do thói quen của mọi người, hoặc ở hiện tại, hoặc đã huân tập trong quá khứ. Chúng ta không nên chủ quan bắt buộc người khác phải giống mình. Nhưng ở trên thế gian này phần đông chúng ta đều chủ quan muốn ai cũng giống mình, nhất là con cái trong nhà. Nếu con trong nhà làm khác ý cha mẹ, cha mẹ sẽ bực tức giận trách rầy la, tạo bao điều đau khổ trong gia đình. Tất cả cũng do sự cảm thọ sai biệt mà ra. Cảm thọ của thân như thế nào? Cũng riêng biệt tùy theo mỗi người.
Thí dụ hai người ở chung một căn phòng, một người mập béo, một người gầy ốm. Căn phòng có một cửa sổ, khi trời vừa mát người gầy ốm cảm thấy lạnh vội đi đóng cửa sổ… Người mập béo nghĩ thế nào? Cảm thấy bực bội, khí trời nóng bức vừa dịu mát lại đóng cửa sổ, không giận sao được! Rồi hai người cãi vã nhau, có khi đi đến ẩu đả. Như vậy lẽ thật ở đâu? Đó là do cảm thọ sai biệt của thân nên người ta bất đồng ý với nhau rồi sanh bất hòa, đó là nguồn gốc đau khổ.
Thứ sáu là cảm thọ của ý. Điều này là quan trọng hơn hết. Cảm thọ của ý là gồm nghiệp của quá khứ và thói quen của hiện tại. Mỗi người chúng ta sống trong hoàn cảnh gia đình và xã hội khác nhau nên được sự giáo dục và hiểu biết khác nhau. Người thấy thế này là phải, người thấy thế kia là phải.
Thí dụ: Một người sanh trong gia đình theo đạo Phật từ thuở bé, một người sanh trong gia đình theo đạo Chúa từ thuở bé. Hai người ngồi nói chuyện với nhau, do sự huân tập khác nhau nên có những cảm nghĩ khác nhau. Người tin Chúa cho đạo Chúa là đúng, không chấp nhận đạo Phật. Người tin Phật cho đạo Phật là hay, không chấp nhận đạo Chúa. Hai người tranh luận với nhau, có những quan điểm bất đồng, bực bội cãi vã lẫn nhau. Đó là nguồn gốc của đau khổ.
Đến đời sống của vợ chồng trong gia đình cũng vậy. Người chồng có sự huân tập của người nam, lo việc rộng lớn ngoài xã hội, người vợ có sự huân tập của người nữ, lo việc tỉ mỉ trong nhà. Hai vợ chồng có hai huân tập khác nhau, nên thường không đồng ý kiến với nhau. Ai cũng thấy mình là đúng, người kia là sai, nên không ai chịu thua ai, cuối cùng đi đến ly dị, hậu quả là con phải chịu đau khổ! Nguyên do từ đâu? Chỉ do sự cảm thọ sai biệt, rồi chấp chặt cho quan niệm của mình là đúng, bắt người khác phải nghe phải thấy như mình, phải có những cảm nghĩ những hiểu biết như mình. Nếu không đồng ý nhau thì lắc đầu than thở: Sao không có ai là bạn tri kỷ với mình! Thử hỏi trên thế gian này có mấy người tri kỷ giống mình như một? Chắc là không rồi, vậy mà buộc lòng phải sống chung nhau thật là quá đau khổ! Thế thì phải làm sao cho hết đau khổ! Chỉ đừng chấp nê là hết đau khổ! Cùng một mùi trái cây tôi ngửi cho là thơm cũng đúng, chị cho là hôi cũng đúng theo thói quen của mỗi người, như vậy hòa nhau, tránh được sự tranh cãi.
Cùng một thức ăn chị nếm nghe mặn, tôi nghe lạt, cả hai đều đúng theo thói quen của cả hai, tất nhiên hòa nhau không có tranh cãi v.v… Nếu còn chủ trương sai biệt cho mình là đúng, người là sai, là còn tranh cãi, còn đau khổ. Nhận chịu sự đau khổ là khôn hay không khôn? Quả thật không khôn. Nhưng nếu ai bảo là mình ngu thì mình lại nổi giận lên, có phải là mâu thuẫn không? Nếu còn chấp nê là còn đau khổ. Hiểu như vậy rồi, chúng ta phải thông cảm với nhau, bỏ qua tất cả những sự sai biệt để sống hòa thuận với nhau từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Nếu biết chấp nê là sai quấy thì phải mạnh dạn dẹp tự ái đến xin lỗi người, làm hòa với nhau thì cuộc đời sẽ bớt được nhiều đau khổ. Những người đến tôi để thưa kiện, đều than không ai thông cảm với mình hết. Vì chấp sự cảm thọ của mình là đúng thì làm sao có người thông cảm với mình được! Nếu buông tất cả chấp nê thì mọi người đều thông cảm với mình. Chúng ta tu phải biết rõ lẽ thật đó, bỏ tất cả sự chấp nê do cảm thọ sai biệt, thì đau khổ tự dứt. Không phải cầu Phật ban cho điều gì, không phải cầu xin nơi miếu này lăng kia, mà phải biết rõ nguồn gốc của đau khổ là do sự cảm thọ sai biệt của sáu căn, rồi chấp chặt vào đó, rồi tranh đấu, giành giật, hơn thua với nhau, cuối cùng là đau khổ. Biết như vậy chúng ta buông xả tất cả sự chấp nê là chúng ta hết đau khổ.
Nguyên nhân thứ hai của đau khổ là đuổi theo thọ lạc. Hiện giờ chúng ta đang sống, ai cũng muốn cuộc đời được hạnh phúc. Thử hỏi quí vị cái gì là hạnh phúc? Chúng ta chỉ nói đến hạnh phúc mà không biết cái gì là hạnh phúc? Được ăn ngon, mặc đẹp là hạnh phúc chăng? Được nhiều tiền của, ở nhà to rộng là hạnh phúc chăng? Được những gì mình mong muốn là hạnh phúc chăng? Quí vị thử kiểm lại những điều đó có phải là hạnh phúc thật hay không? Con người ai cũng mơ ước hạnh phúc, mơ ước mãi mà không bao giờ toại nguyện. Vì sao?
Thí dụ: Khi đang đói chúng ta nghĩ có một bữa cơm ngon, hạnh phúc biết mấy! Nhưng khi được bữa cơm ngon, ăn đầy đủ rồi, hạnh phúc còn không? Hạnh phúc qua mất rồi! Như vậy hạnh phúc chỉ có trong chốc lát thôi, rồi qua mất không còn. Đang đi bộ, chúng ta nghĩ được một chiếc xe đạp đi, chắc là hạnh phúc lắm. Nhưng khi được chiếc xe đạp đi lọc cọc ba bốn hôm rồi nó hư, lúc đó có hạnh phúc không? Như vậy hạnh phúc không bền, không thật, mà thế gian cứ đuổi theo cho nó là bền là thật! Hạnh phúc qua rồi mất, đuổi theo cái qua rồi mất thì hạnh phúc ấy quả là không thật. Biết hạnh phúc không thật mà chúng ta mơ ước nó hoài, thì mơ ước đó trở thành hão huyền.
Khi chúng ta mơ ước một điều gì, nghĩ rằng khi được nó hạnh phúc biết bao! Nhưng khi được rồi, còn hạnh phúc nữa không? Có gì hạnh phúc hơn, khi làm mệt nhọc được nằm nghỉ một chốc lát, hạnh phúc biết mấy? Nhưng nếu bị bắt buộc nằm một ngày, còn hạnh phúc hay không? Nếu nằm một ngày không được đi đâu, lúc ấy cũng bực bội. Thành thử hạnh phúc không có thật, nó chỉ có trong một giai đoạn nào thôi. Thí dụ chúng ta đang gánh gồng hết sức là nặng, nếu có ai đỡ gánh giùm mình, lúc ấy chúng ta cảm thấy nhẹ bổng lên, hạnh phúc biết mấy! Nhưng nếu hết gánh rồi đi một lúc, chúng ta không còn thấy hạnh phúc nữa. Như vậy hạnh phúc chỉ có trong chốc lát. Trong lúc khổ đau, qua được cơn khổ đau tạm gọi là hạnh phúc. Hạnh phúc là do qua cơn khổ đau, chớ nó không có thật. Cái không thật mà chúng ta tưởng chừng cả đời hưởng hoài thì làm sao có được.
Chúng ta hiện giờ mong mỏi ước mơ là mong mỏi ước mơ cái gì? Ước mơ hạnh phúc. Ước mơ hạnh phúc là ước mơ được: một là ăn ngon, hai là mặc đẹp, ba là được những nhu cầu sung túc, bốn là được tiền bạc dồi dào, năm là được gia đình sung sướng vui vẻ v.v… Những điều ước mơ đó được rồi mất, không còn nguyên vẹn mãi. Như vậy hạnh phúc có hay không? Chúng ta mong muốn những điều đó phải lâu bền mãi mãi, nhưng trên thế gian này đâu có điều gì lâu bền mãi mãi. Như vậy suốt cuộc đời mình bị chúng chỉ huy sai sử. Như mỗi sáng thức dậy, chúng ta chuẩn bị lo cho bữa ăn sáng, rồi đến bữa trưa và bữa chiều. Chúng ta chạy loanh quanh tìm kiếm những thức ăn cho vừa miệng, tức là suốt ngày chạy theo cái thọ lạc của lưỡi. Những thức ăn vừa miệng khi để vào lưỡi có cảm giác ngon, nhưng khi nuốt qua rồi cảm giác ấy không còn nữa. Như vậy mà chúng ta cứ chạy theo cái thọ lạc, chạy mãi không có ngày cùng, cho đến ngày nhắm mắt cũng chưa vừa ý.
Đến cảm thọ của lỗ mũi, lỗ tai, con mắt cũng vậy. Cái nhà nhìn thấy phải đẹp, chậu hoa, chậu kiểng phải vừa mắt v.v… Như vậy con người chạy tìm cái thọ lạc suốt cuộc đời không có ngày cùng. Thọ lạc là tạm bợ giả dối không thật. Đuổi theo thọ lạc tức là gởi gắm, hiến dâng đời mình cho cái giả dối. Vậy mà chúng ta thấy hài lòng chạy theo nó từ năm này sang năm khác, rồi cả một cuộc đời bị thọ lạc của sáu căn sai sử. Cả một cuộc đời chạy theo thọ lạc, nếu có ai ngăn chận thì nổi giận ngay.
Thí dụ: Đi chợ thấy bó rau ngon, chúng ta vừa ngồi xuống lựa, chợt có người đến mua trước, thì cãi vã nhau liền. Có chậu kiểng đẹp chưa kịp hỏi giá, chợt có người khuân đi, chúng ta bực bội ngay. Chỉ vì thọ lạc của sáu căn mà chúng ta giành giật, hơn thua, tranh đấu với nhau cả đời không dứt. Có phải thọ lạc đã chỉ huy lôi cuốn cả cuộc đời mình không? Cũng vì thọ lạc mà chúng ta phải hận thù oán ghét lẫn nhau. Cảm thọ lạc nguyên là vô thường. Vì cái vô thường đó chúng ta lại gây chuyện hơn thua, phải quấy, tranh giành với nhau, có phải là việc làm đúng chân lý hay không? Vậy mà chúng ta bị nó chi phối hoàn toàn không còn giây phút nào rảnh rỗi. Quí vị thường nói: cả ngày tôi không rảnh, là tại sao? Chỉ vì đuổi theo thọ lạc: muốn ăn mặc vừa ý, muốn thấy nghe vừa ý v.v… rồi chúng ta xoay quanh hết ngày này đến tháng kia không rảnh phút nào. Cảm thọ đã chỉ huy cả một cuộc đời chúng ta, lại gây ra bao nhiêu hận thù đau khổ! Ái cũng là nguồn gốc của khổ đau. Trong nhà Phật, ái chia làm ba thứ:
Ái ngã là khổ. Có ai không tự thương mình đâu, dù mình có xấu đi nữa, con mắt lệch một bên hay lỗ mũi xẹp một chút, mình cũng thương mình. Nếu biết mình đẹp, thì mình càng thương mình hơn nữa, ái ngã chặt hơn nữa. Vì thương mình nên những gì mình muốn mà không được thì khổ. Như mình muốn trẻ nghe nói già là rầu, mình muốn khỏe mạnh mà bị bệnh hoạn là khổ, mình muốn sống lâu nghe nói sắp chết lại càng đau đớn. Vì quá thương mình cho nên bị bốn cái sanh già bệnh chết làm khổ. Ái ngã là gốc của bốn khổ vậy. Ái thân thuộc có hai cái khổ. Một là ái biệt ly khổ. Vì quá thương người thân thuộc mà phải chia lìa nên chúng ta đau khổ. Có ái thì có tắng, tức là có yêu thì có ghét theo sau. Nên người nào yêu nhiều thì ghét cũng nhiều. Vì yêu nhiều nên người mình yêu mình thương tha thiết, người mình ghét mình cũng ghét đắng cay không muốn nhìn mặt.
Vì vậy mình khổ với người mình thương bao nhiêu, mình cũng khổ với người mình ghét bấy nhiêu. Cho nên ái biệt ly khổ đi đôi với oán tắng hội khổ. Đó là hai cái khổ do ái thân thuộc. Ái tài sản sự nghiệp cũng là nguồn gốc của đau khổ. Có ai muốn gia sản của mình càng ngày càng kiệt quệ đâu! Ai cũng muốn gia sản của mình càng ngày càng to lớn. Muốn mà không được như ý thì đau khổ, tức là cầu bất đắc khổ. Như vậy quí vị thử kiểm điểm lại có phải tám cái khổ của chúng ta đều nằm trong ái mà ra: ái ngã, ái thân thuộc và ái sự nghiệp tiền của. Ái của mình cạn thì tám cái khổ theo đó mà chết.
Thấy rõ gốc của đau khổ, chúng ta phải làm cách nào nhổ cái gốc đó lên. Trong nhà Phật dạy muốn nhổ gốc của đau khổ, nghĩa là muốn dứt khổ, chúng ta phải thấy rõ bản chất của thọ và ái cho tường tận. Thử hỏi quí vị cảm thọ khổ và cảm thọ vui có thật hay không? Cảm thọ của sáu căn qua rồi mất, đâu có thật! Thí dụ một bài hát thật là hay, khi nghe qua lỗ tai rất là thích thú, nhưng nghe hát qua rồi mất, đâu còn mãi bên tai. Một thức ăn ngon ăn rất vừa miệng, nhưng khi qua lưỡi rồi cũng mất, có còn mãi đâu v.v… Bản chất của tất cả cảm thọ là vô thường, tức là tạm bợ giả dối. Biết rõ cảm thọ là vô thường giả dối, chúng ta ưng làm tớ đuổi theo nó, hay muốn làm chủ không lệ thuộc vào cảm thọ? Nếu giành được quyền làm chủ cảm thọ thì vui, nếu bị cảm thọ làm chủ thì khổ.
Quí vị nên can đảm chọn quyền làm chủ cảm thọ thì trọn một năm nay nhất định quí vị hết khổ, hoàn toàn an lạc. Bản chất của ái có thật hay không? Ái là thương, thương yêu là nghĩ tới thân này nó lâu dài bền bỉ, nhưng bản chất của thân là vô thường. Thương yêu nó chỉ là thương yêu cái tạm bợ mà thôi. Thương yêu sự nghiệp cũng vậy, sự nghiệp là vô thường, thương yêu thân thuộc, thân thuộc cũng là vô thường. Những điều mình thương yêu đó đều vô thường, không có bền lâu. Chúng ta lại thương yêu những cái vô thường hay sao? Hay là chúng ta thương yêu cái gì lâu dài vĩnh cửu? Thí dụ khi đi chợ mua những vật cần dùng quí vị chọn những thứ bền tốt hay những thứ tạm tạm xài vài ba hôm rồi lại hư? Dĩ nhiên chúng ta lựa những vật dùng bền tốt, những gì tạm tạm chúng ta không mua.
Cũng như vậy, biết thân là vô thường, sự nghiệp là vô thường, những người thân thuộc là vô thường, chúng ta ôm ấp thương yêu chúng nó để làm gì? Khi những giọt mưa từ mái nhà rơi xuống nổi lên những bong bóng lóng lánh, quí vị thương chúng nó hay không? Nếu thương, chúng nó bể thì sao? Bong bóng nước cũng lóng lánh, hạt kim cương cũng lóng lánh, cả hai đều lóng lánh, quí vị thương cái nào hơn? - Thương hạt kim cương hơn, tại sao? Vì nó lâu bền. Chúng ta thương cái gì lâu bền. Như vậy thân này vô thường, sự nghiệp vô thường, những người thân thuộc của mình cũng vô thường thì mình phải thương hay không? Mình thương cái nào không vô thường, cái giải thoát không sanh tử, đó mới là cái mình thương. Những cái vô thường chúng ta thương hoài cũng không được gì, vì chúng nó sẽ hoại và sẽ mất. Chúng ta đeo đuổi cưu mang cái vô thường, hay đeo đuổi cưu mang cái thoát khỏi vô thường? Có một cái thoát khỏi vô thường chúng ta không thương, lại thương cái vô thường làm gì?
Chúng ta học đạo phải dùng trí nhận xét thấy cái gì bản chất là vô thường là tạm bợ thì cái đó không có giá trị, qua rồi mất mà có giá trị gì! Đã không giá trị, chúng ta đeo đuổi, cưu mang nó làm gì? Cái làm cho mình được mãi mãi an vui tự tại giải thoát, cái đó mới là chân thật. Biết cái vô thường rồi, chúng ta phải xoay lại cái chân thật vĩnh cửu.
Khi trước, chúng tôi hay kể câu chuyện “Cô Công chúa nũng nịu”. Thuở xưa có cô Công chúa rất được vua cha yêu quí. Một hôm nhân buổi trời mưa, Công chúa ngồi nhìn những giọt nước từ mái nhà rơi xuống, làm nổi lên những bong bóng rất đẹp, Công chúa thích quá nhưng không nói, vì bản chất hay làm nũng Công chúa vào phòng nằm, mặt mày ủ dột. Nhà vua có Công chúa là con duy nhất, thương con vô cùng. Đến giờ cơm, thấy con không ra dùng bữa, nhà vua nóng ruột vào phòng thăm hỏi: Con ốm hay sao, không ra dùng cơm? Công chúa không trả lời. Đến lượt Hoàng hậu vào năn nỉ, Công chúa cũng không đáp lại. Hỏi han nài nỉ mãi, sau cùng Công chúa nũng nịu thưa: “Con muốn có xâu chuỗi bong bóng nước đeo vào cổ, con mới hết bệnh.” Vua cha chiều con rất mực. Nghĩ mình là vua muốn gì lại chẳng được, nhà vua bèn ra lệnh cho tất cả quần thần: “Ai kết được xâu chuỗi bằng bong bóng nước cho Công chúa đeo thì sẽ được phong quan tước, chia đất đai cho.”
Đăng bảng lâu ngày mà không ai dám lãnh. Sau cùng có một ông lão đến gỡ bảng, nhận xâu một chuỗi bong bóng nước cho Công chúa đeo. Ông lão được giới thiệu với Công chúa. Nàng rất đỗi vui mừng nói: “Nếu lão xâu cho tôi chuỗi bong bóng nước để đeo, tôi sẽ hết bệnh ngay.” Ông lão nói: “Thưa thật với Công chúa, tôi già, con mắt lờ, nên lựa không được những hạt bong bóng đẹp. Vậy ngày mai, khi trời mưa, tôi mời Công chúa ra mái hiên chọn những hạt bong bóng nào đẹp nhất, Công chúa lượm đưa tôi xâu cho.”
Sáng hôm sau, trời mưa, ông lão và nàng Công chúa ra mái nhà, những giọt mưa từ trên rơi xuống nổi bong bóng, Công chúa đưa tay vớt lấy…, vớt mãi đến trưa mà không được hạt nào! Ông lão đứng chờ, chờ mãi không có hạt bong bóng nào để xâu! Cuối cùng, quá mệt mỏi Công chúa nói: “Thôi, tôi không thích bong bóng này nữa.” Nhà vua mừng quá bảo: “Để ta cho con xâu chuỗi bằng kim cương con đeo.”
Ý nghĩa câu chuyện vừa kể như thế nào? Tất cả chúng ta có phải là Công chúa đó không? Chúng ta cứ nắm bắt những ảo ảnh vô thường, nắm bắt mãi cả đời mệt nhoài mà chẳng được gì. Rồi chúng ta vào chùa cầu xin Phật cứu con. Đức Phật sẵn lòng từ bi cứu độ, cho chuỗi kim cương thứ thật. Chúng ta chỉ chịu nhận thứ thật khi nào chúng ta đã mệt nhoài với những thứ tạm bợ hư dối. Đức Phật tuy lấy ví dụ một câu chuyện rất trẻ nhỏ nhưng đúng với bệnh của chúng sanh. Chúng ta giống y nàng Công chúa đó. Khi chúng ta thức tỉnh biết trở về với Phật, Phật sẽ chỉ cho chúng ta cái chân thật.
Nếu chúng ta sống được với nó, cái chân thật ấy còn mãi, không bao giờ mất. Người Phật tử muốn hết khổ phải thấy rõ bản chất của đau khổ không có thật. Bản chất của đau khổ là ái và thọ, cả hai đều không thật. Càng đuổi theo chúng càng đau khổ thôi. Nếu biết dừng lại, đau khổ sẽ bớt từ từ cho đến một ngày nào chúng ta lìa hẳn nó, không còn đau khổ nữa. Nhân nghe câu nào trong kinh Kim Cang mà Lục Tổ ngộ đạo? Trong kinh Kim Cang, Phật dạy phương pháp an trụ tâm: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Ngay đây Lục Tổ ngộ, rồi từ đó về sau Ngài hết khổ luôn.
Muốn sanh tâm cầu Vô thượng Bồ-đề thì đừng dính với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu trần không dính là an trụ tâm. Đó là hạnh phúc tuyệt vời. Nếu còn dính với sáu trần là còn bất an, còn đau khổ. Nếu chúng ta không kẹt không chấp vào cảm thọ của sáu căn, tức là chúng ta được giải thoát. Cũng chính trong kinh Kim Cang đức Phật có dạy: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Những gì có tướng đều là vô thường, vô thường là tạm bợ, hư dối. Nếu thấy các tướng không phải tướng là thấy Phật. Tại sao? Tỉ dụ hiện giờ thấy một món vật đẹp, chúng ta biết rõ nó là duyên hợp hư dối; một vật gì quí, nó là duyên hợp hư dối, một thức ăn ngon, nó là duyên hợp hư dối. Biết rõ được như vậy, đó là có trí tuệ giác ngộ.
Trí tuệ giác ngộ tức là Phật. Thấy tất cả tướng không phải tướng tức là thấy tất cả vật đều không thật, tất cả đều là duyên hợp hư dối. Thấy rõ như thế là thấy Phật, không phải tìm Phật ở đâu xa. Nếu thấy Phật thì hết khổ. Nếu muốn hết khổ chúng ta phải biết rõ bản chất của thọ và ái là vô thường, hư dối. Chúng ta phải diệt hết, nhổ sạch gốc của thọ và ái, thì ngang đó chúng ta được an lạc.
Niềm vui không phải từ bên ngoài đem đến, không phải do sự giàu sang sung sướng lắm tiền nhiều của, mà vui vì biết phá bỏ những mê chấp sai lầm. Buông bỏ những sai lầm, đó là trí tuệ tỉnh giác, đó tức là Phật. Tu theo Phật cốt để giác ngộ. Giác ngộ cho nên không lầm không mê, tức nhiên không khổ. Hết ngu mê là sáng suốt, sáng suốt tức là hết khổ.
Tôi sinh ra trong thời Cộng Sản, thời đại độc tài phi nhân giam hãm các giá trị tự do của con người. Tại nơi này, các quyền tự do căn bản của người dân đã bị đảng Cộng Sản cướp đi một cách không thương tiếc dưới chiêu bài đấu tranh giai cấp. Chưa khi nào và ở đâu, cái hố sâu ngăn cách tôn giáo và ý thức hệ lại mạnh mẽ và điên cuồng như vậy. Sự cuồng tín đó được nuôi dưỡng và xuất phát từ một học thuyết hoang tưởng khiến cả loài người phải rùng mình kinh sợ: “Chủ nghĩa Marx”. Vì vậy mà khát vọng cháy bỏng của cả dân tộc là thoát khỏi sự kìm kẹp phi lý của cái chủ nghĩa quái đản đó. Mục tiêu cao nhất của thời đại chúng tôi là phá vỡ cái ngục tù vô hình đã giam hãm các giá trị tự do của con người, hướng tới một chế độ tự do dân chủ cho đất nước thân yêu.
Một xã hội mà người ta coi tinh thần quốc tế vô sản là trên hết mọi lý tưởng sống trên đời, mà quên mất đi nguồn cội của mình. Họ tự đặt mình lơ lửng trên không trung, chân thì không chạm đất, đầu thì ướt sũng giữa tầng mây. Họ thoát ly khỏi dân tộc, chiến đấu cho một tinh thần vô sản quốc tế, tiêu diệt mọi ý thức hệ đối kháng một cách dã man tàn bạo. Người ta giết người vì khác mình giai cấp, bỏ tù họ vì khác mình về tư tưởng, đày đoạ những kẻ không chịu luồn cúi và phục tùng chế độ.
Người ta đập phá đình chùa miếu mạo vốn là di sản văn hoá của cha ông, vì cho rằng đó là mê tín dị đoan. Xoá bỏ tập tục ngàn năm vì sợ rằng lịch sử hiện hữu sẽ làm mất đi vẻ uy phong của những kẻ cướp thời đại. Họ nhân danh chủ nghĩa, nhân danh tinh thần quốc tế vô sản mà đào bới tận gốc rễ văn hoá của tổ tiên, cái nôi sản sinh ra chính họ. Có lẽ trên đời này, đến loài vật ngu si cũng không hành động như vậy.
Người ta tự hào, người ta tụng ca những việc làm độc ác và ngu dốt nhất đời đó. Những tội ác được đi vào nhạc, vào thơ để rồi cho các thế hệ trẻ em học tập. Họ ca ngợi những lãnh tụ khát máu thành những bậc anh hùng dân tộc, là thánh nhân xuất chúng. Cả dân tộc phải gạt nước mắt bi thương, không ai dám chống lại, vì nhà tù và sự đoạ đày đang chờ đợi những ai không chịu phục tùng và ngợi ca chế độ. Mọi thành phần dân tộc phải sống trong nhục nhã cúi đầu, chủ nghĩa hư vô thì được đề cao, trong khi những giá trị đích thực của con người lại bị chôn vào quên lãng.
Những kẻ nhân danh cách mạng giải phóng con người trước đây nay lại kết thành một tầng lớp thống trị và bóc lột mới. Họ cướp bóc của người dân tất cả những gì có thể, kể cả tự do tư tưởng con người. Tầng lớp thống trị mới này hưởng hết mọi đặc quyền đặc lợi, ăn trên ngồi trốc hơn 80 triệu đồng bào mình. Một bộ máy độc tài toàn trị được thiết lập để cai trị nhân dân, giám sát mọi động tĩnh của họ. Trong con mắt người dân, kẻ cầm quyền đã trở thành những con thú đội lốt người, những kẻ phản phúc và dối lừa dân tộc, sống trên mồ hôi xương máu của nhân dân.
Bất công và tham nhũng hoành hành, dân đành cúi mặt làm ngơ, ngược lại còn phải ngợi ca và tôn thờ đảng Cộng Sản. Sự thể này quả chưa từng thấy trong một kiểu xã hội nào khác? Thảo nào mà họ điên cuồng bảo vệ chế độ ngược đời này đến cùng như vậy, vì đó là mô hình lý tưởng nhất cho những kẻ cầm quyền, nhưng là tột cùng đau khổ của người dân.
Dòng chữ này hiện hữu ở góc trên cùng bên phải mọi văn bản của chế độ:
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Một đứa trẻ vì chưa được dạy dỗ nên hồn nhiên đọc là:
Hoan hô đứa trẻ muôn năm, dù sao chân lý cuối cùng cũng đã chiến thắng cái giả dối điêu ngoa. Người dân thì vừa cười vừa tặc lưỡi tiếc rẻ: “Giá như nó thay những dấu trừ đó thành dấu cộng nhỉ?”
Tự do một khi đã mất đi thì làm sao hạnh phúc có thể hiện hữu?
Các giá trị tự do của cá nhân và dân tộc đã bị giam hãm bởi một chế độ độc tài phi nhân. Quyền lợi căn cốt đó bị vùi sâu dưới lớp bùn đen để nhường chỗ cho những giá trị sai trái và dối lừa ngự trị. Đau đớn thay cho dân tộc Việt Nam, dòng giống tiên rồng mấy ngàn năm dựng nước. Khổ sở thay cho con cháu Lạc Hồng nay trở thành nô lệ cho chủ nghĩa hư vô.
Khát vọng tự do là tâm nguyện của toàn thể dân tộc Việt, nó như ngọn lửa bừng cháy mãi không thôi, cho đến khi nào thiêu đốt bè lũ độc tài phản nước hại dân. Thời đại chúng tôi, thời đại của dựng xây nền móng tự do và phá vỡ ngục tù. Đó cũng chính là thông điệp của đời tôi: Các giá trị Tự Do không thể bị cầm tù.
Những Từ Viết Tắt Trên Internet Khiến Cha Mẹ "Tá Hỏa" !!!
Hãng tin CNN thống kê 20 từ viết tắt mà giới trẻ thường sử dụng khi giao tiếp trên Internet khiến các bậc phụ huynh phải lo ngại về cách hành xử của con cái mình.
Các từ viết tắt đang trở nên cực kỳ phổ biến trên Internet, đặc biệt là tại các trang mạng xã hội và ứng dụng tin nhắn.
Ví dụ điển hình như LMK có nghĩa là “let me know” (Cho tôi biết nhé) hay WYCM nghĩa là “will you call me” (Gọi điện cho mình nhé)…
Tuy nhiên CNN cảnh báo các bậc phụ huynh cần cẩn trọng khi phát hiện con cái mình sử dụng một số từ viết tắt đặc thù, bởi chúng phản ánh các hành xử thiếu thận trọng, thậm chí nguy hiểm của thanh thiếu niên.
Ví dụ, GNOC có nghĩa là “get naked on camera” (Cởi quần áo trước máy quay). CNN dẫn lời chuyên gia an toàn Internet Katie Greer cho biết phần lớn thiếu niên hiện nay hiểu rõ rằng cha mẹ bắt đầu theo dõi các hoạt động của chúng trên Internet.
“Do đó, trẻ em sử dụng từ viết tắt để che giấu nội dung các cuộc nói chuyện. Một số từ viết tắt phản ánh cách ứng xử đáng lo ngại và các bậc cha mẹ cần phải để tâm” - chuyên gia Greer nhấn mạnh. Bà khuyên các bậc phụ huynh nên tra Google các từ lạ mà con cái sử dụng trên mạng.
“Một sự lựa chọn khác là hãy nói chuyện thẳng thắn với con cái mình. Bởi việc hỏi con không chỉ để lấy thông tin mà còn cho thấy bạn quan tâm đến con và trao đổi với chúng về các hoạt động trên mạng” - chuyên gia Greer khẳng định.
Dưới đây là các từ viết tắt trên Internet khiến các bậc cha mẹ phải lo lắng và cần biết.
IWSN: I want sex now (Tôi muốn làm tình ngay lập tức)
GNOC: Get naked on camera (Hãy cởi quần áo trước máy quay)
PIR: Parent in room (Bố mẹ đang ở trong phòng)
CU46: See you for sex (Gặp nhau để quan hệ nhé)
53X: Sex (Tình dục)
9: Parent watching (Bố mẹ đang theo dõi kìa)
99: Parent gone (Bố mẹ đi rồi)
1174: Party meeting place (Nơi gặp để tiệc tùng)
THOT: That hoe over there (Con hàng đằng kia)
CID: Acid (Ma túy)
Broken: Hungover from alcohol (Vẫn còn chuếnh choáng vì uống say)
420: Marijuana (Cần sa)
POS: Parent over shoulder (Bố mẹ đằng sau lưng)
SUGARPIC: Suggestive or erotic photo (Hình ảnh khiêu khích)
KOTL: Kiss on the lips (Hôn lên môi)
LMIRL: Let’s meet in real life (Hãy gặp nhau ở đâu đó đi)
PRON: Porn (Phim kích dục)
TDTM: Talk dirty to me (Nói chuyện sàm sỡ với em đi)
8: Oral sex (Quan hệ tình dục qua đường miệng)
CD9: Parents around (Bố mẹ ở gần đây)
IPN: I’m posting naked (Tôi đang khỏa thân)
LH6: Let’s have sex (Quan hệ đi)
WTTP: Want to trade pictures ? (Muốn trao đổi hình ảnh không?)
DOC: Drug of choice (Loại ma túy ưa thích)
TWD: Texting while driving (Vừa lái xe vừa gửi tin nhắn)
GYPO: Get your pants off (Cởi quần đi)
KPC: Keep parents clueless (Cho bố mẹ không biết đường nào mà lần)
Một người rất yêu các loài cây và hoa đã trồng một loại nho quý ở bờ tường. Cây nho mọc rất khỏe, nhưng chẳng bao giờ thấy có hoa quả gì cả. Hàng ngày, người đó cố gắng chăm sóc, tưới nước cho cây nho, nhưng vẫn chẳng bao giờ thấy kết quả.
Một buổi sáng, khi người trồng cây đang thất vọng đứng nhìn cây nho của mình thì người hàng xóm chạy sang, tay cầm một giỏ nho rất lớn. Người hàng xóm hào hứng kéo người trồng cây sang phía nhà mình:
- Anh không thể tưởng tượng nổi là tôi thích cây nho này đến mức nào đâu! Anh có thể lấy bao nhiêu nho về ăn cũng được, vì chúng là của anh mà! Nhưng tôi muốn nói rằng tôi biết ơn anh rất nhiều khi làm cho khu nhà của tôi đẹp hẳn lên như vậy!
Người trồng cây tròn mắt ngạc nhiên khi thấy bên kia bờ tường, cây nho ra rất nhiều hoa và quả – hết sức rực rỡ.
Cũng vậy, khi chúng ta nghĩ rằng những nỗ lực của mình là vô ích vì chúng ta không nhìn thấy kết quả. Nhưng những cố gắng không bao giờ là vô ích. Chúng tạo ra kết quả ở một nơi nào đó, vào một thời điểm nào đó, mà chắc chắn chúng ta sẽ thấy và được hưởng hương vị ngọt ngào!
Tại sao có giàu nghèo, sang hèn trên thế gian này? Sang hèn, giàu nghèo có phụ thuộc vào tôn giáo, dân tộc, hay học thức hay không?
Tất cả mọi việc đều có nhân của nó. Phải có gieo nhân giàu sang thì mới hái được quả giàu sang. Vậy nhân giàu sang là gì? Đó là nhân bố thí và tôn trọng người. Nhân bố thí là biết cho đi và chia sẽ những gì mình có từ tiền tài vật chất cho đến bố thí thời gian, công sức, lời nói ái ngữ, sự hiểu biết kinh nghiệm,...
Ngoài ra nhân giàu sang là biết sống không tham lam trộm cắp, cờ bạc dù là một vật nhỏ như cây kim; sống không ích kỷ, hẹp hòi và bủn xỉn.
Đức bố thí là một đức hạnh tuyệt vời của con người, ai sống vời lòng thương yêu thì luôn luôn muốn giúp đỡ tất cả mọi người dù có hay không hoạn nạn hoặc đau khổ,...
Đức bố thí giúp diệt lòng ích kỷ, bủn xỉn, tham lam trộm cắp và hẹp hòi của con người. Chính Đức bố thí giúp cho con người gieo được nhân thiện có quả cuộc sống giàu sang đầy đủ. Những ai có cuộc sống nghèo đói là do thiếu đức bố thí. Do vậy giàu nghèo trên thế gian này không phải phụ thuộc và tôn giáo, học thức, dân tộc ( vì ai cũng thấy trong tất cả mọi tôn giáo đều có người nghèo người giàu dù là dân tộc nào, có học hay không có học) mà chính là đức hiếu sinh bố thí.
Bố thí với lòng thương yêu thì vô cùng đẹp, vì khi bố thí chỉ nghĩ đến niềm vui và hạnh phúc của người nhận, còn người bố thí lấy niềm vui và hạnh phúc của người nhận làm niềm vui và hạnh phúc cho mình. Chính niềm vui và hạnh phúc đó sẽ theo ta mãi mãi đến cuối cuộc đời.
Ví dụ: Nhà mình trồng bông, người ngoài đi ngang nhà thấy bông đẹp, thích và hái, không xin phép. Mình thấy vậy thì hãy lấy đó làm niềm vui, vì bông mình trồng đem niềm vui đến cho người khác. Nếu được thì nói ngay những lời nói yêu thương “nếu cô thích thì hái thêm về cắm trong nhà cho đẹp”. Nếu mình nghĩ rằng mình trồng bông chỉ để cho mình ngắm thôi, chỉ để cho mình hái thôi thì mình sống quá ích kỷ hẹp hòi. Còn khi mình luôn sống biết chia sẽ những gì đẹp nhất, ngon nhất, tốt nhất cho người khác, ai thích cái gì mình đang có thì mình luôn sẵn sàng cho đi, đó là mình sống biết đem niềm vui đến cho người.
Khi người ta muốn cái gì mà đạt được toại nguyện thì ai cũng vui. Ngay khi khi biết người khác muốn gì mà mình đáp ứng ngay thì mình sẽ đem niềm vui đến cho họ. Đâu phải khi cho tiền người nghèo mình mới vui đâu.
Ai biết sống yêu thương thì hằng ngày có hằng trăm nghìn cách để đem niềm vui đến cho mọi người. Đó là sống yêu thương. Khi các bạn sống yêu thương thì mới nhận ra rằng sao chúng đơn giản, dễ dàng, gần gủi đến thế mà mình đã bỏ qua và không biết từ bao lâu nay. Đức này là đức ly tham bố thí.
• Giúp người đừng tính thời gian. Đang giúp người thì giúp cho trọn, cho xong rồi nghỉ. Thấy người vẫn làm thì mình cùng làm cho xong, đừng nghĩ rằng đã đến giờ nghỉ phải thôi việc. Khi mình cùng làm chung với người cần giúp đỡ đến khi xong việc thì mình sẽ thấy sự vui mừng của họ. Đức này là đức bố thí.
• Sống biết cho đi những gì mình thích nhất, ngon nhất, tốt nhất, đẹp nhất, quí nhất, kể cả hạnh phúc của mình cho người khác, không phân biệt thân sơ và kẻ thù. Nếu mình vui khi có những thứ thích nhất, ngon nhất, tốt nhất, đẹp nhất, quí nhất thì người khác cũng vậy, cho nên trước khi cho ai vật gì thì hãy lấy những thứ mình thích nhất, ngon nhất, tốt nhất, đẹp nhất và quí nhất cho người khác.
Ví dụ mình thích uống nước trái cây thì hãy mời người nước trái cây thay vì nước lạnh, mình thích ăn trái cây thì hãy mời người trái tươi tốt ngon mà mình thích,… Như người mẹ thương yêu con cái luôn để giành những thứ tốt đẹp, ngon, mới, quí giá nhất cho con mình. Đức này là đức tôn trọng bố thí.
• Mua đồ vật mà rẽ quá thì trả tiền thêm. Ở Việt Nam có nhiều người từ quê ra chợ thị trấn bán vài món rau hay trái cây vườn kiếm thêm tiền mua gạo. Họ bán rẽ hơn chợ và nhìn trông rất tội nghiệp. Có nhiều người mua thấy vậy khi trả tiền thì trả hơn một chút hoặc không cần tiền thối lại. Đó là một hành động sống thương yêu khéo léo thật là hay. Đây là đức bố thí.
• Nếu có dư vật gì không dùng thì hãy cho đi, đừng để giành cất giữ. Biết có còn sống đến ngày mai không mà cất giữ làm gì. Có rất nhiều người đang cần những thứ ta có. Có rất nhiều cơ quan từ thiện sẵn sàng nhận những vật người khác cho để đem cho lại những người cần đến, hoặc bên Mỹ mỗi vùng có những website freecycle hoặc craiglist giúp cho mọi người tận dụng lại những đồ cũ hoặc dư thừa của người khác. Có thể đối với một người một vật là cũ hay vô dụng, nhưng đối với người khác lại là vật hữu dụng. Đây là đức buông xả bố thí.
• Đừng nghĩ rằng vật gì cũng có thể bán, tiền bạc sẽ làm cho chúng ta đánh mất tình thương. Nếu có dư giả tiền của thì khi dư cái gì hay muốn thay đổi cái gì mới thì nên cho đi cái cũ, đừng nghĩ rằng bán rẽ còn hơn cho không, nhất là anh em trong gia đình thì không nên buôn bán dù đó là chiếc xe hơi hay căn nhà. Đây là đức hiếu sinh bố thí.
• Dù cho người giàu hay người nhiều tiền cũng cần giúp đỡ, đừng đánh giá người qua hình tướng hay tài sản mà bỏ qua cơ hội sống thương yêu. Người nhiều tiền cũng lo lắng, buồn phiền, sợ hãi, cũng bệnh, già, chết, cũng chỉ có hai tay… như mọi người khác. Người giàu là người sống biết đủ. Người nhiều tiền chưa chắc là người giàu vì họ vẫn thấy chưa đủ, luôn nghĩ cách tìm ra tiền. Đây là đức hiếu sinh bố thí.
• Giúp người đừng sợ đêm khuya, mưa hay giông bão. Vùng nông thôn Bắc Việt có vài nhà có điện thoại. Một lần chủ nhà nghe chuông reo và được nhờ nhắn hàng xóm cách vài căn, tuy trời đêm hôm mưa lạnh, người chủ vẫn khoác áo vào đi gọi. Thật là tình nghĩa xóm làng. Đây là đức bố thí.
• Sẵn lòng giúp chổ ăn chổ ở cho những thí sinh lên thành phố thi đại học, nếu có khả năng thì cung cấp chổ ở miễn phí cho sinh viên học đại học 5 năm và nếu có khả năng hơn nữa thì cung cấp học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo. Có khi sinh viên phải lên thành phố thuê nhà để sống và học, nếu vì lý do gì đó không đủ tiền trả tiền trọ thì chúng ta thương yêu họ và cho họ sống nhờ đến khi có tiền rồi trả cũng được hoặc trả bao nhiêu cũng được tùy khả năng. Khi con người không còn bị nô lệ cho đồng tiền thì chúng ta thấy mình đem hạnh phúc và niềm vui đến cho bao nhiêu người hằng ngày. Đức này là đức hiếu sinh bố thí.
• Khi đọc báo thấy có nhiều người bất hạnh nghèo đang bệnh tật cần tiền mua thuốc hay làm phẩu thuật, những vùng nghèo cần xây dựng hay thiếu thiết bị cho trường học. Nếu có khả năng chúng ta nên giúp ngay, đừng để cơ hội qua đi, để rồi đánh mất một cơ hội sống thương yêu. Đức này là đức hiếu sinh bố thí.
• Có ai nhờ giúp việc gì thì đang bận hay tính làm việc gì cũng dời lại làm sau. Khi có ai nhờ làm việc gì là người đó tin tưởng mình, hy vọng vào sự giúp đỡ của mình, vậy chúng ta hãy sống thương yêu và đừng làm cho người khác thất vọng. Người có lòng thương yêu luôn sẵn sàng vui vẻ giúp người mà không bao giờ nghĩ rằng người khác lợi dụng lòng tốt của mình. Đây là đức hoan hỷ bố thí.
• Có khi chúng ta cho ai đó mượn tiền hay mượn đồ vật mà trả chậm thì chúng ta cũng vui vẻ, đừng hối thúc hay hỏi họ. Ai cũng có lúc khó khăn, mình cũng có lúc như vậy thì chớ nên làm khó người. Nếu ai cho mượn tiền hay mượn vật gì thì nên nhớ rằng nếu chẳng may người mượn vì lý do nào đó không trả được thì mình cũng sẵn lòng cho họ luôn. Còn không tính được chuyện này thì thà không cho mượn vì khi gặp chuyện không may xảy ra thì tình cảm sẽ bị mất, kể cả anh em, bạn bè, vợ chồng, cha mẹ và con cái. Có thể mình không nói ra nhưng người mượn cũng cảm thấy khó chịu. Đức này là đức tỉnh giác bố thí.
• Sống biết yêu thương mọi người và các loài vật sống xung quanh mình. Loài vật nào cũng cần có sự sống, loài vật nào cũng phải kiếm ăn hằng ngày. Kiếm ăn rất khổ cực. Mình đây cũng phải khổ cực đi làm hằng ngày kiếm tiền mua thức ăn thì mọi người, mọi loài vật đều như vậy. Nếu có dư đồ ăn thì mình chia sẻ cho người khác, cho loài vật khác. Như vừa rồi trên TV có thống kê số tiền thu nhập của tổng thống Mỹ Obama trong đó ông có nhận 1.4 triệu đô cho giải Nobel, số tiền này ông tặng cho các quỹ từ thiện, ngoài ra còn một phần thu nhập của ông cũng đã làm từ thiện. Đức này là đức hiếu sinh bố thí.
• Khi sống với đức bố thí người bố thí nên biết cám ơn người nhận bố thí. Có thể câu nói này hơi lạ, xin các bạn đọc mẫu chuyện này. Thành La Phiệt thời Đức Phật có ông Hoàng rất hung bạo. Thêm vào đó quyền thế và địa vị của ông có thể giúp ông thủ tiêu tội án trước pháp luật, chưa một lời phải nào, một đạo giáo nào cảm hóa được ông. Một hôm ông gặp Phật. Đức Phật dạy cho ông niệm Phật: “Hãy tưởng niệm Phật đà, hãy từ bi thương người, hãy hùng lực cứu người”.
Đêm hôm ấy, ông suy nghĩ mông lung, ông nghĩ: “Nhớ Phật phải nhớ đến người nghèo khổ, tưởng Phật phải tưởng đến người nghèo khổ. Rồi mới sáng, ông đi tìm Phật. Giữa đường ông gặp một người hành khất ốm liệt bên vệ đường. Không suy nghĩ ông đến ân cần hỏi han và dốc hết tiền trong túi ra cho. Người ấy e sợ cám ơn rối rít. Nhưng ông chỉ bảo: Vì tưởng nhớ Phật nên tôi giúp anh. Anh nhận tiền này khiến tôi được phước, thế là tôi ơn anh chứ nào anh ơn gì tôi? Người hành khất nghe thế, lấy làm lạ vì không lạ gì tính nết của ông và uy danh của đức Phật nữa. Bỗng nhiên người ấy cất tiếng niệm: “NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT” (kính lễ đấng giác ngộ). Ông Hoàng cũng bất giác niệm theo và đi mau tìm Phật. Khi gặp được Ngài, ông thuật rõ đầu đuôi mọi việc. Nghe xong đức Phật mỉm cười hiền từ bảo : Phải! Niệm Phật ông phải tưởng niệm người nghèo khó là để giúp đỡ họ. Tưởng niệm người nghèo khó, để giúp đỡ họ là tưởng niệm Phật đó.
Qua câu chuyện trên chúng ta thấy dù một người hung bạo, bảo thủ, kiêu mạn đến đâu cũng có tấm lòng thương yêu. Chính lòng thương yêu sẽ thay đổi tâm tánh của họ. Một vấn đề nữa chính là Phật dạy niệm Phật chính là sống như đời sống của Phật biết yêu thương mọi người, biết sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ các loài vật, đó chính là niệm Phật. Niệm Phật như vậy mới đúng là có ý nghĩa, là có trí tuệ.
Chính điều này mới thực tế, mang đến hạnh phúc thật sự. Đức Phật thường nói: “Trí tuệ ở đâu thì giới luật ở đó, giới luật ở đâu thì trí tuệ ở đó, giới luật làm thanh tịnh trí tuệ, trí tuệ làm thanh tịnh giới luật” Giới luật của đạo Phật chính là đạo đức, là đức hạnh của con người. Ai sống có đạo đức, chính người đó có trí tuệ. Đức này là đức bố thí khiêm tốn và đức minh mẫn.
Luật Nhân Quả Trong Cuộc Sống Xã Hội Và Khoa Học - Bác Sĩ Thái Minh Trung
Luật Nhân Quả là một cuộc cách mạng tâm linh
Khi không hiểu luật nhân quả, con người sống trong sự sợ hãi mê tín mù mờ. Họ giải thích những hiện tượng thiên nhiên qua sự mê tín dị đoan. Thí dụ khi hạn hán mất mùa, họ nghĩ là vì ông thần đất đai giận nên phải hối lộ ông ta bằng cách cúng kiến mới có được trời mưa. Mới đầu thì tế lễ bằng con gà không có hiệu quả, rồi đến con bò, đến khi sự cuồng tín lên cao có thể dẫn đến giết một em bé hay một trinh nữ để tế thần như dân tộc Incas đã từng làm. Ngoài ra trong cuộc sống hàng ngày, đi đứng làm cái gì quan trọng thì phải coi ngày giờ tốt như vậy để tránh cái sợ hãi của những điều xấu xảy ra bất thần chớ không hẳn là tránh được những điều xấu.
Nếu quả thật có như vậy thì thế giới này không có sự đau khổ vì mọi sự đều như ý con người muốn. Ông vua dù có mướn thầy địa lý giỏi nhất nước để xây cung điện nhưng nếu không thương dân, lấy thuế cắt cổ, lúc hết thời thì ngai vàng vẫn bị mất như thường. Nói về hành động cá nhân, nếu không nhận thức có luật nhân quả thì không có gì ngăn cản con người làm việc ác miễn sao trốn tránh được cặp mắt của luật pháp là được, cho nên xã hội rất bấp bênh. Nếu vua và dân hiểu được luật nhân quả thì đất nước dễ thanh bình và dân sẽ được hạnh phúc.
Khi Đức Phật giác ngộ thì Ngài nhận ra luật nhân quả là nền tảng của thế giới tâm linh và vật chất. Mọi hiện tượng từ tâm lý đến vật chất đều có những sự liên quan vô hình rất chặt chẽ, đó là luật nhân quả. Luật nhân quả là sợi dây vô hình nối liền hai biến cố xuyên qua thời gian và không gian. Cho nên khi hiểu luật nhân quả, ta có thể thay đổi biến cố đó theo chiều thuận cho ta, thay vì phải lo sợ hối lộ hoặc cầu khẩn một vị thần linh tưởng tượng nào đó phù hộ cho ta hoặc thỏa mãn điều ta mong ước. Sự mê tín cuối cùng sẽ đưa đến sự thất vọng và mặc cảm tội lỗi (ta có tội nặng quá vị thần không giúp được).
Luật nhân quả rất đơn giản, nếu muốn có một kết quả tốt thì ta phải tạo nhân lành. Thí dụ như khi ta nuôi dưỡng một ý nghĩ hận thù thì ta không thể vui cười hồn nhiên được. Khi ta gạt gẫm người khác thì tối về ngủ không yên giấc vì sợ bị phát hiện. Khi ta gieo hạt lúa thì không bao giờ được cây cổ thụ. Khi con người bắt đầu hiểu được như vậy thì họ lấy về được một phần sức mạnh của những vị thần linh. Họ bắt đầu làm chủ được tương lai của họ và lấy lại định mệnh của họ từ tay các vị thần. Hiểu và tin được luật nhân quả là một cuộc cách mạng tâm linh (spiritual revolution) vì sự nhận thức đó sẽ phá tan gông cùm của sự mê tín và giúp con người làm chủ được cuộc sống của họ.
Luật Nhân Quả và khái niệm không gian thời gian
Khi đi từ thế giới tâm linh qua thế giới vật chất thì sự thể hiện của luật nhân quả thay đổi từ rõ đến mờ. Sự thể nghiệm ở thế giới tâm linh rất nhanh và rõ nhưng khi qua cái màn nặng nề của thế giới vật chất thì luật nhân quả bị loãng ra vì phải trải qua nhiều thời gian mới hiện ra rõ được. Cũng vì thế mà khi con mắt bị vật chất làm mờ rồi rất khó mà nhận thức luật nhân quả. Thí dụ như kẻ trộm thành công một vài lần rất khó nhận thức rằng mình sớm muộn gì sẽ vào tù. Nếu kẻ trộm đó nhận thức rằng mình cần phải thay đổi lòng tham của mình (thế giới tâm lý) thì trong tức khắc có khả năng thay đổi được chiều hướng cuộc sống mình bằng cách học nghề và làm ăn lương thiện. Ngược lại, nếu anh ta cứ tiếp tục hành nghề bất lương, lòng tham càng lớn và ăn trộm càng táo bạo hơn, thì một thời gian sau đó anh bị bắt vào tù và sẽ hối hận (thế giới vật chất).
Như vậy, khi nhận thức ở tâm linh thì chuyển nghiệp (karma) rất nhanh, đợi khi nó thể hiện ở cõi vật chất rồi thì cái thời gian thay đổi rất chậm chạp, khó khăn, phức tạp và khổ sở. Với đời sống con người có giới hạn thời gian, sự nhận thức có được khi hoàn cảnh xấu xảy ra đôi lúc quá trễ. Con người có thể không còn đủ thời giờ để cải thiện. Ngoài ra khi họ tiến quá sâu trong hoàn cảnh xấu, trở lại điểm ban đầu rất là gian nan. Thí dụ như anh trộm khi ra tù muốn học lại thì tuổi cao, kiến thức đổi khác nhiều, bạn bè cùng lứa đã có sự nghiệp thành công hết. Anh ta phải khuất phục sự chậm chạp của tuổi cao và lòng mặc cảm để đi học lại. Mặc dù như thế, anh ta sẽ khó mà ngang hàng với các bạn được vì mất khoảng thời gian quá lâu trong tù.
Khi hiểu được luật nhân quả thì câu hỏi có định mệnh (destiny) hay không là tùy nơi con người. Định mệnh có thật khi ta để lực (force) nhân quả lôi cuốn và thụ động để cái nhân ở tâm lý biến thành cái quả ở thế giới vật chất. Định mệnh không có khi ta chủ động biến chuyển những tư tưởng (nhân) xấu thành tốt và theo đó diễn biến (quả) tốt lành sẽ đến với ta. Đôi lúc cái nhận thức nhân quả ở thế giới vật chất rất khó khăn vì có người làm lành mà sao lại gặp ác, rồi họ đâm ra chán nản và cho rằng không có luật nhân quả. Sở dĩ như vậy vì con mắt phàm không thể nhìn thấu được quá khứ và không hiểu được những khúc mắc của nghiệp. Nhưng nếu có người nào đó giữ được tâm hồn tha thứ buông xả thì mặc dù biến cố xấu đến với họ đó, nhưng cái tác động trên tâm lý tạo sự đau khổ giảm đi rất nhiều. Thì đó chẳng qua là một điều lành trong một biến cố dữ. Hiểu được luật nhân quả ở tâm thì ta nhận thức rõ hơn và ta sẽ thấy sự thay đổi nhanh hơn.
Nhân-Duyên-Quả
Nghiệp (karma) là những biến cố vui buồn xảy ra trong đời người. Nghiệp, dòng sông nhân quả trong cuộc đời con người, rất là phức tạp. Nghiệp không phải đơn giản như một cái máy, ta bấm nút (nhân) thì máy hoạt động (quả). Nghiệp có thể ví như một dòng sông và nhân quả là những phân tử (molecule) nước lưu chuyển, tác động lẫn nhau trong dòng sông đó. Ngoài nhân-quả ra còn yếu tố duyên nữa. Duyên là những yếu tố ở không gian và thời gian giúp nhân trở thành quả hoặc ngược lại ngăn cản hoặc đình trệ sự nối liền của nhân quả, làm giảm sức mạnh của quả. Sự sống đa dạng và sáng tạo là nhờ duyên. Như vậy duyên đóng vai trò điều chỉnh (modulation) nhân-quả. Thí dụ dễ hiểu là khi ta gieo hạt lúa (nhân) trong đồng ruộng ẩm ướt phì nhiêu (duyên), vài tháng ta sẽ có những cọng lúa xanh mượt (quả). Nếu có người lữ hành băng qua sa mạc và làm rơi một hạt lúa thì ngàn năm sau hạt lúa đó vẫn là hạt lúa (nghịch duyên). Nếu hạt lúa đó được gió thổi rơi vào một nơi ẩm ướt trên sa mạc thì hạt lúa sẽ mọc thành cọng lúa nhưng rất yếu ớt vì thiếu phân bón. Như thế ta thấy rằng cùng một nhân, qua nhiều duyên khác nhau sẽ cho ta kết quả khác nhau. Thực tế nhân quả không đơn giản như trên mà hoạt động như một mạng lưới nhện (web).
Một nhân có thể là khởi đầu của một chuỗi phản ứng (chain of events). Những yếu tố duyên tác động lên chuỗi phản ứng đó để cho ra nhiều kết quả ở nhiều từng lớp khác nhau. Thí dụ: Có một người vì lòng tham (nhân) phá rừng bán gỗ làm lợi nhuận cho riêng mình. Trời mưa, không có rễ cây hút nước (duyên) nên tạo thành lụt (quả), loài chim mất môi sinh (duyên) dời đi nơi khác (quả). Không có chim ăn (duyên) nên sâu bọ lan tràn đồng ruộng (quả). Không có cây hút thán khí (CO²) nên từ đó khí hậu bị ô nhiễm. Một nhân thiếu sáng suốt sẽ gây ra rất nhiều hậu quả tai hại về sau mà ta khó có thể lường trước được.
Giới luật là nhằm biến đổi cái duyên để cho cái nhân tham, sân và si không có cơ hội để biến thành quả dữ (tham-ăn trộm, sân-giết chóc, si-đau khổ). Xuất gia là tránh xa những duyên có thể dẫn đến quả dữ và gần gũi với những duyên khuyến khích quả lành được biểu hiện. Tuy nhiên thay đổi duyên ở thế giới vật chất không bền vững lắm. Thí dụ lòng tham tiền có thể biến thành tham chùa mình được đẹp nhứt, sân (giận) có thể biến thành bực bội khi đệ tử quên chấp tay xá mình, và si là chấp vào thời gian tụng kinh mà không hiểu ý kinh tạo ra sự tranh chấp hơn thua. Cho nên vào cảnh tịnh mà còn giữ mầm mống tham, sân, si thì cảnh tịnh đó sẽ trở nên cảnh ưu phiền.
Thiền tông chú trọng đến cái duyên ở tâm là tư tưởng. Tham, sân, si mà không có tư tưởng để nuôi dưỡng chúng thì dần dần sẽ tự tiêu mòn. Cho nên giữ giới nơi tâm thì hiệu nghiệm hơn là giữ ở thân hay cảnh. Nếu tâm ta nuôi dưỡng sự bực dọc mà miệng thì tụng kinh thì khó có thể mà ta có được hạnh phúc vì càng tụng kinh, càng mệt mỏi thì sự bực dọc càng nhiều hơn nữa. Một trong những phương pháp thiền là ta nhận thức sự bực bội và từ bi hỷ xả phóng sanh nó ra theo từng hơi thở nhẹ nhàng rồi dần dần sự bực bội đó sẽ tan biến. Đó là một cách “tụng kinh sống” hữu hiệu nhứt. Tụng kinh sống là tụng ý (thay vì chữ) kinh trong từng hơi thở, trong lúc đi, đứng, nằm và ngồi. Nói một cách khác, thiền hay tụng kinh sống là khi ta ý thức không tạo cái duyên nuôi dưỡng tham, sân, si trong tâm ta. Nếu ta không nuôi chúng thì tự động chúng sẽ rời bỏ ta. Rồi ta sẽ trở về sống với con người hạnh phúc của ta.
Nhân quả và Thiên Chúa giáo
Mặc dù Thiên Chúa giáo không đề cập nhân quả một cách trực tiếp nhưng tất cả những câu chuyện trong Thánh kinh đều khuyên răn con chiên hãy củng cố lòng tin Chúa, thương người, giúp đỡ xã hội thì sẽ được cuộc sống hạnh phúc trong vĩnh cửu. Nói một cách khác Chúa khuyên con chiên tạo nhân lành (lòng tin, thương người, tha thứ), tạo duyên lành (xây dựng một xã hội lấy nền tảng là sự yêu thương đùm bọc lẫn nhau, truyền đạo cho nhiều người được nhận thức) thì kết quả cuộc sống hạnh phúc sẽ dễ được thực hiện trên thế gian này và nếu tất cả mọi người làm được thì sẽ được hạnh phúc trong vĩnh cửu.
Tuy nhiên có nhiều con chiên quá cuồng tín dùng sức mạnh áp đặt niềm tin lên kẻ khác và kết quả là hận thù và chiến tranh. Điều dễ hiểu là vì cái nhân là tham (muốn cá nhân mình được nhiều phước khi dẫn người khác vào đạo), sân (bực tức khi người ta không theo đạo mình) và si mê (ngạo mạn coi đạo mình trên tất cả các đạo khác) thì kết quả sẽ là chiến tranh và đau khổ. Vấn đề này không hẳn xảy ra ở đạo Chúa mà còn gặp ở nhiều tôn giáo khác hoặc ngay cả ở đạo Phật (phái này chê bai phái khác). Đó là vì con người mê lầm không chữa trị cái tham, sân si nơi chính mình mà muốn thay đổi thế gian. Muốn cái quả khác cái nhân thì không bao giờ có được. Nếu có kẻ nào nói làm được hẳn là họ tự gạt chính họ, sống trong ảo tưởng u mê. Tôn giáo cũng như thuốc, trị đúng bịnh thì thuốc hay, dù có thuốc quý mà dùng sai bịnh thì thuốc quý có thể thành độc dược. Vì thế không thể nói thuốc này hay hơn thuốc kia được. Đạo Phật có thí dụ ngón tay (phương tiện) chỉ mặt trăng, nếu ta ở nhiều nơi khác nhau thì ngón tay sẽ chỉ nhiều hướng khác nhau, nhưng khi nhìn thấy mặt trăng (cứu cánh) thì chỉ có một.
Tác động trên tâm lý của Thiên Chúa giáo là dùng tình thương người và sự tha thứ tạo cái duyên lành làm giảm bớt ảnh hưởng của hoàn cảnh xấu (quả). Nếu ta tin vào một Thượng Đế công bằng bác ái ở bất cứ mọi nơi và mọi lúc, thì ta giao phó cho Ngài xử phạt những bất công trong cuộc đời ta. Như thế ta không mất ngủ bực tức tìm cách trả thù hay tìm những lời nói đâm thọc xỏ xiên. Với lòng tin đó ta sẵn sàng tha thứ kẻ muốn ám hại ta, tâm ta được an ổn và ta gieo rắc sự an ổn đó cho những người chung quanh ta. Làm được như vậy, mặc dù ta không mở miệng truyền giáo nhưng sẽ có rất nhiều người theo vì họ mến ta. Như thế lời cầu nguyện hữu hiệu nhứt phát xuất từ tư tưởng tha thứ thương yêu chớ không phải từ miệng nói tiếng thương yêu trống rỗng. Giáo đường chân thật của một linh mục hay mục sư là sự an ổn của con chiên khi họ cảm nhận được tình thương và sự tha thứ chân tình qua hành động của vị mục sư đó, chớ không phải cái giáo đường bằng ngói, bằng gạch. Cái giáo đường vật chất không bao giờ làm ấm được lòng người. Ta không thể nào gieo rắc sự an lành chung quanh ta nếu ta không có cái nhân của sự an lành đó trong tâm ta. Ta có thể dối chính ta chớ không thể dối với Thượng Đế và luật nhân quả được.
Nhân quả và y khoa
Tuy nhân quả xuất xứ từ Phật giáo nhưng không hạn chế ở phạm vi tôn giáo. Hiểu được nhân quả giúp ta rất nhiều trong việc phòng ngừa bịnh tật. Trong Đông Y có câu người y sĩ giỏi trị bịnh lúc mà bịnh chưa phát triển. Y khoa hiện đại cũng đồng ý với vấn đề ngưà bịnh hơn là chữa bịnh. Cách tốt nhứt cho con người về vấn đề sức khỏe và xã hội về vấn đề tài chánh là thay đổi cuộc sống để ngừa bịnh. Muốn ngừa bịnh (quả) ta phải hiểu cho ra lẽ những yếu tố gây ra bịnh (nhân), tìm cách làm suy giảm những nguyên nhân gây ra bịnh, tìm cách không tạo duyên xấu để cho hậu quả bịnh dễ xảy ra và củng cố những duyên lành để ngăn ngừa bịnh.
Bây giờ ta hiểu nguyên nhân của nhiều chứng bịnh là do vi trùng (bacteria) và vi khuẩn (virus) có kích thước nhỏ hơn vi trùng gây ra. Để làm suy giảm những nguyên nhân tạo ra bịnh, những nhà thuốc sáng chế ra các loại thuốc trụ sinh. Sự ỷ y có thuốc trụ sinh để trị bịnh mà không cần phòng ngừa hoặc dùng thuốc trụ sinh một cách không phân biệt đưa đến sự ra đời của những siêu vi trùng (“super bugs”) có sức kháng trụ sinh. Về phần bịnh nhân phải ráng ăn ở vệ sinh để không tạo cái duyên cho những loại vi trùng xâm chiếm cơ thể họ. Vaccine (chích ngừa) là cách phòng ngừa bịnh bằng cách dùng bộ kháng nhiễm (immune system) để chống lại bịnh. Vaccine là một cách thay đổi duyên làm cơ thể không thuận cho sự phát triển của bịnh. Một cách ngừa bịnh khác nữa là ta ăn ở vệ sinh, tìm cách tránh những nơi dễ gây ra bịnh tật là góp phần vào sự củng cố những duyên không thích hợp cho bịnh phát triển. Thực tế, ta không thể nào diệt trừ được tất cả những nhân tạo bịnh mà cách dễ dàng nhất là biến đổi cái duyên không thuận cho bịnh-quả phát triển. Con đường trị bịnh bằng cách diệt trừ nhân một cách hoàn toàn rất nguy hiểm vì có thể đưa đến sự mất cân bằng môi sinh và có thể tạo nhiều mối hiểm nguy khác. Thí dụ như khi ta đi du lịch ở những nước khác dễ bịnh tiêu chảy vì ở điều kiện ta sống không có loại vi trùng đó (nhân bị diệt) nên cơ thể ta không có chất miễn nhiễm, dễ sanh ra bịnh. Đứng trên phương diện năng lượng (sức lực, thời gian, tài chánh), dùng duyên để phòng ngừa quả là áp dụng năng lượng một cách hữu hiệu nhứt.
Stress, sự căng thẳng tinh thần, là vấn đề lớn của thời đại. Stress có thể coi như cái cửa mở cho nhiều bịnh tật vào thân thể ta. Những triệu chứng khởi đầu của stress là lo âu, bực bội và mất ngủ. Ngoài ra nhức đầu, buồn nôn, mất ăn, cao máu với nhịp tim đập nhanh cũng có thể là một triệu chứng của stress nữa. Thuở xưa, Đức Phật có cho một thí dụ rất thích hợp với stress ngày nay. Thí dụ rằng có một người bị mũi tên bắn bị thương. Người đó lo âu muốn biết mũi tên này từ đâu tới, ai bắn, lý do nào bắn, rồi lo sợ cho tính mạng, không biết vết thương như thế nào, ..., người đó cứ mải lo mà quên tìm cách tháo gỡ mũi tên ra. Tính chất của lo âu là nó không bao giờ chịu dừng ở hiện tại mà lại có chiều hướng lẩn quẩn ở quá khứ hoặc tương lai. Chính vì vậy mà sự lo âu ngày càng tăng vì khi tư tưởng lẩn quẩn ở quá khứ và tương lai thì ta sẽ không giải quyết được vấn đề và tình trạng vô định đó tạo nên cái duyên làm cho lo âu càng lớn dần.
Một khoa tâm lý trị liệu (psychotherapy) trị stress là Cognitive behavioral psychotherapy, tạm dịch là tâm lý trị liệu qua nhận thức. Ta nhận thức ta có những tư tưởng sai lầm dẫn đến sự lo âu đau khổ (1), quán xét kỹ càng rằng những tư tưởng đó không có liên hệ ở thực tế (2), sau cùng thay thế vào đó những tư tưởng thích hợp với thực tại hơn (3). Khi nhận thức thích hợp với thực tại thì ta sẽ tìm được biện pháp giải quyết vấn đề một cách hữu hiệu và từ đó nhẹ gánh lo âu. Thí dụ anh A có triệu chứng hay lo (general anxiety disorder). Khi bị chủ sở phê bình, anh về ngủ không được, liên tưởng đến ngày mai mình sẽ mất việc, không có tiền trả tiền nhà, vợ anh sẽ bực bội bỏ anh (1)... Qua khâu tâm lý trị liệu, anh kiểm duyệt lại thực tế thì không thấy có dấu hiệu nào chủ sở sẽ đuổi anh, chủ anh chỉ muốn anh sửa khuyết điểm nhỏ mà thôi, vợ chồng lúc nào cũng hòa thuận (2)... Khi nhận thức như vậy, anh cảm thấy yên tâm và hiểu rằng mình có phản ứng quá đáng (3). Khi nhìn ở khía cạnh nhân duyên quả, thì khi anh nhận thức rằng cái nhân sai lầm không quan trọng lắm, không để những tư tưởng lo âu thổi phồng sự thật (nghịch duyên), và anh tìm cách học hỏi trau giồi nghề nghiệp thì kết quả sẽ tốt đẹp. Như thế hiểu được nhân quả thì cuộc sống ta sẽ nhẹ gánh lo âu.
Tóm lại
Nhân quả không phải là một khái niệm tôn giáo (dogma) mà là một quy luật thiên nhiên (natural law) ảnh hưởng thế giới nội tâm và thế giới vật chất. Nhân quả còn là một lực (force) gắn liền hai biến cố với nhau qua không gian và thời gian.
Ta khó có thể thay đổi nhân ở quá khứ, nhưng điều dễ làm là thay đổi duyên ở hiện tại để quả xấu khó có thể biểu hiện được. Ở thế giới vật chất, duyên lành là bạn tốt, nơi chốn yên tịnh (chùa, nhà thờ, học đường...). Ở thế giới tâm lý, duyên lành là ý muốn học hỏi, trau giồi trí tuệ, cố giữ lòng nhân từ, bác ái và tha thứ. Gần duyên lành thì quả xấu khó thể hiện hoặc thể hiện một cách yếu ớt hơn.
Nếu ta còn giữ tâm tham, sân, si (làm nhân) và nuôi dưỡng những tư tưởng tham, sân, si (ác duyên) thì không bao giờ biến đổi được cuộc sống hay xã hội một cách tốt lành được (quả). Cảnh lúc nào cũng hiện theo tâm. Người mang tâm xấu lên thiên đàng sớm muộn gì cũng biến cảnh thiên đàng thành địa ngục.
Hiểu được nhân quả thì ta nắm giữ được chìa khóa mở cửa tự do trong đời ta và giúp ta làm chủ lấy cuộc đời. Không hiểu nhân quả thì ta sẽ sống trong mê tín dị đoan hay trong sự lo âu của cuộc sống vô định, bấp bênh.
Hiểu được nhân quả giúp ta định hướng dễ dàng và có một hướng đi và một quan niệm sống vững chắc trước mọi hoàn cảnh khó khăn.
Tại Sao Kiếp Này Hai Người Lại Nên Duyên Vợ Chồng?
“Cuộc tình đẹp nhất không phải của Romeo và Juliet, mà là hai ông bà lão sống với nhau đến trọn đời”. Vợ chồng là nghĩa trăm năm. Phải có đủ duyên đủ nợ mới có thể gặp nhau, yêu nhau và quyết định cùng nhau xây dựng tổ ấm.
Trong cuộc đời này, có rất nhiều người cùng với ta là bèo nước gặp nhau, qua đi rồi sẽ không còn nhớ gì về nhau nữa. Nhưng cũng có những người cùng ta trở thành bạn bè hoạn nạn có nhau, lại cũng có người sẽ cùng ta đi chung, đồng cam cộng khổ suốt cả cuộc đời, trở thành vợ chồng ân nghĩa. Tất cả đều tùy vào hai chữ “duyên phận”.
Như vậy, hai chữ “duyên phận” có ý nghĩa gì?
Những cụm từ như “luân hồi”, “tiền kiếp”… hiện nay đã không còn là điều gì mê tín, không đáng tin nữa, mà tất cả đã được khoa học chứng thực. Tại sao con người hôm nay thường gặp những chuyện không thuận buồm xuôi gió, gặp những chuyện khổ đau, thân thể nhiều bệnh tật… Tất cả những chuyện này hóa ra lại quan hệ cực kỳ mật thiết với những câu chuyện trong tiền kiếp.
Nhiều năm trở lại đây, liệu pháp giúp con người nhớ về tiền kiếp của mình ngày càng trở nên phổ biến. Người ta khi ở trong trạng thái thôi miên, tựa như được nhập trở vào nhân vật ở tiền kiếp, phải chịu đựng mọi thống khổ ở đời trước một cách vô cùng sống động. Những người được thôi miên có thể diễn tả lại cảm giác cho chúng ta nghe, thậm chí vẽ ra cho ta nhìn, hành động, suy nghĩ của họ rất logic, vô cùng trật tự. Đó là điều quá khác biệt so với tưởng tượng của chúng ta.
Rất nhiều người nói rằng trong trạng thái thôi miên họ có thể nhận ra rằng thân nhân, bạn bè thậm chí kẻ thù trong kiếp trước của mình hiện đang sống xung quanh, tất nhiên mối quan hệ hiện tại đã là hoàn toàn khác. Nói cách khác, sinh mệnh chúng ta chính là sự “luân hồi chuyển kiếp” mà trong Phật gia vẫn thường giảng. Những ân oán trong năm tháng dài đằng đẵng đều sẽ được phân minh rõ ràng, cũng chính là “duyên phận” mà chúng ta nói đến.
Ảnh: Marylandersunited.
Một trong những mối quan hệ quan trọng nhất trong đời người chính là tình cảm vợ chồng, hai người cùng nắm tay cho đến khi đầu bạc, đi với nhau suốt một chặng đường dài như vậy.
Rất nhiều người đều tưởng rằng, mình đến với người bạn đời là bởi gặp gỡ ngẫu nhiên, hợp tính hợp tình liền nên duyên nên cặp. Song nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, những cặp vợ chồng kiếp này đã từng có mối quan hệ khăng khít với nhau trong nhiều kiếp trước.
Tiến sĩ Micheal Newton trong khi nghiên cứu những sự kiện xảy ra trong thế giới linh hồn giữa các lần đầu thai bằng phương pháp thôi miên, phát hiện ra nhiều câu chuyện về tình yêu đặc biệt trong kiếp trước của các cặp vợ chồng hiện tại.
Ví dụ như ở thời kỳ Trung Cổ, có một chàng thanh niên nghèo đem lòng yêu một cô tiểu thư quý tộc. Một ngày, họ hẹn với nhau rằng sau hoàng hôn sẽ cùng nhau bỏ trốn. Nhưng sau đó, chuyện của họ bại lộ, bị người cha của cô gái phát hiện. Chàng thanh niên kia bị xử cực hình cho đến chết trong nhà giam.
Lại cũng có một người trong tiền kiếp từng là một nữ nô lệ thời La Mã, chuyên làm cơm cho các đấu sĩ. Ở đó, nàng đem lòng yêu một người đấu sĩ. Nhưng trước hôm thi đấu, đấu sĩ này bị sát hại. Sau đó nữ nô lệ kia đã phát lời thề nguyện: “Ta mãi mãi sẽ chỉ yêu mình chàng”.
Tất cả họ lại một lần nữa tìm đến nhau trong kiếp này để kết mối duyên.
Cổ nhân có câu: “Tu trăm năm mới chung thuyền, tu ngàn năm mới nên duyên vợ chồng”, những mối tình đẹp đẽ mà bi thương trong tiền kiếp, đến kiếp này sẽ được ông Trời an bài lại một lần nữa, để họ được đến với nhau và trả những món nợ trong quá khứ.
Bởi thế, ngay từ bây giờ hãy học cách trân trọng người bạn đời của mình. Bạn đâu có biết để được ngày chung đôi hôm nay, hai người đã phải trải qua những khổ nạn gì. Trong bến mê cuộc đời, ta đã quên hết những chuyện của ngày hôm qua. Ta tranh đoạt, đấu nhau, ta phụ bạc ân nghĩa, ta đã dấn quá sâu vào cõi phàm và để mất hết bản tính thuần thiện cũng như mối duyên sâu nặng tiền kiếp. Liệu có đáng không?
Có người nói: “Một cuộc hôn nhân không hạnh phúc không phải vì thiếu tình yêu mà là vì thiếu tình bạn”. Vợ chồng vừa là nghĩa phu thê nhưng cũng là sự gắn kết của những mảnh hồn, những mối tri giao. Cuộc sống vô thường, thế sự khó đoán, hãy bao dung cho nhau hơn nữa, hãy trở thành người bạn đời tuyệt vời của nhau bởi cuộc đời ngắn lắm, đôi khi chẳng đủ để ta kịp nói lời yêu thương…
Hồng Kông: Cuộc Chiến Sống Còn Vì Hai Chữ Tự Do - Đại Nghĩa
Một người trong đám đông tụ tập hát quốc ca Mỹ tại Edinburgh place, Hong Kong, Trung Quốc, ngày 28/11, sau khi Tổng thống Trump ký ban hành luật ủng hộ dân chủ Hồng Kông (ảnh: Reuters).
Vào tối 28/11/2019, hàng trăm người dân Hồng Kông tập trung tại khu vực Edinburgh Place, trung tâm Hồng Kông cho cuộc tuần hành họ gọi là Lễ Tạ ơn, một ngày sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump ký ban hành đạo luật mới cho phép trừng phạt các quan chức Trung Quốc và Hồng Kông vi phạm nhân quyền. Người biểu tình vẫy những lá cờ Mỹ và bày tỏ biết ơn Lưỡng viện Hoa Kỳ cũng như Tổng thống Trump đã nhanh chóng thông qua dự luật.
Ngay trong những ngày căng thẳng tại Đại học Bách Khoa Hồng Kông (PolyU), khi cảnh sát ở đặc khu bao vây khuôn viên của trường, nơi những người biểu tình và các sinh viên chống chọi và cầm cự, Lưỡng viện Hoa Kỳ đã gấp rút thông qua hai dự luật biểu thị sự ủng hộ cho người dân Hồng Kông.
Ngày 27/11/2019, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã ký ban hành cả hai luật này, đúng với trông đợi của nhiều người. Quyết định của Tổng thống Trump diễn ra vào thời điểm giữa chính quyền của ông và Bắc Kinh đang bước vào giai đoạn đàm phán thương mại mang tính quyết định. Ông đã ký luật, dù rằng, trước đó ông đã nói, ông cũng cần một thỏa thuận thương mại.
Người biểu tình cầm cờ Hoa Kỳ trong một cuộc tụ tập tại Edinburgh Place, Hong Kong, Trung Quốc, ngày 28/11/2019 (ảnh: Reuters).
Trong cuộc bầu cử cấp quận ở Đặc khu trong hôm 24/11, đảng ủng hộ dân chủ đã chiến thắng áp đảo các đảng phái thân Bắc Kinh. Kết quả của phong trào vì dân chủ ở Hương Cảng đã cho thế giới thấy rằng tự do là có thể đạt được, nhưng cũng thấy rõ rằng, người Hồng Kông đã có quá nhiều mất mát.
Những nỗ lực sống còn của người Hồng Kông
Dữ liệu từ các báo cáo cho biết, hơn 1500 người phải nhập viện, hơn 3000 người bị bắt giữ. Một số người đã bị bắn trọng thương, nhiều cái chết thương tâm của người biểu tình được cho là do cảnh sát gây ra. Vụ việc cảnh sát vây ráp người biểu tình sinh viên trong trường PolyU và sử dụng các phương tiện vũ trang như xe vòi rồng, súng gây choáng… khiến cộng đồng quốc tế thêm phần lo ngại bởi nó đã phơi bày về hoạt động trấn áp bằng bạo lực của chính quyền Đặc khu trưởng Carrie Lam.
Hồi tháng 8/2019, Trịnh Văn Kiệt (Simon Cheng), một nhân viên Đại sứ quán Anh tại Hồng Kông đã bị chính quyền Trung Quốc bắt và giam giữ 15 ngày, hứng chịu những đòn tra khảo. Dưới sức ép của Anh, Simon đã được thả và tiết lộ rằng trong quá trình bị cảnh sát Trung Quốc tra tấn tại Thâm Quyến, anh cũng thấy một nhóm người Hồng Kông bị hỏi cung tại đó. Đã có tin tức nói rằng, có một lượng lớn người biểu tình Hồng Kông bị bắt đã bị áp giải đến Trung Quốc.
Giới truyền thông cũng đã đưa tin, người biểu tình Hồng Kông bị bắt giữ không chỉ bị ngược đãi, tra tấn, xâm hại tình dục và “tự sát”, việc bị chuyển sang đại lục là điều khiến họ sợ hãi, bởi người Hồng Kông vốn quen sống trong một môi trường thượng tôn pháp luật, còn đại lục, là nơi nổi danh không có tư pháp độc lập, không có những phiên tòa công bằng, nơi mà cảnh sát có thể tra tấn, thủ tiêu một ai đó mà không để lại manh mối.
Có báo cáo viết rằng, thông qua các cuộc phỏng vấn người biểu tình Hồng Kông, có một điểm chung là: Mặc dù họ đều chia sẻ rằng họ có sợ hãi đấy, nhưng họ cũng nói cần phải hành động để bảo vệ giá trị tự do của Hồng Kông. Một thanh niên sinh ra ở khu North Point, Hồng Kông, cha mẹ anh là người từ Phúc Kiến, Trung Quốc, anh chia sẻ với BBC sau khi bị một băng đảng tấn công, anh nói: “Giờ thì tôi cảm thấy sợ rồi, tôi phải cẩn thận hơn. Nhưng là một người hoạt động, niềm tin của tôi không thay đổi”.
Là một trong những người bị kẹt giữa Trung Quốc và Hồng Kông, anh nói: “Tôi yêu đất nước Trung Quốc, nhưng ngày nay ‘chính quyền Trung Quốc’ đã biến bản thân nó ‘đồng nghĩa’ với đất nước, và ép buộc bạn phải yêu nó. Tôi ước rằng, mọi người dân Hồng Kông và Trung Quốc không chỉ có sự giàu có mà còn cả tự do, không ai phải sống trong sợ hãi. Đó là lý do vì sao chúng tôi phải bảo vệ lối sống của Hồng Kông”.
Một người biểu tình cầm một tấm bảng với nội dung Cảm ơn Nghị viện (Mỹ), trong cuộc mít tinh tại Edinburgh Place, Hong Kong, ngày 28/11/2019 (ảnh: Reuters/ Leah Millis).
Khẩu hiệu phổ biến trong phong trào vì dân chủ ở Hồng Kông là: “Giải phóng Hồng Kông! Cuộc cách mạng của thời đại chúng ta”, cho thấy, người Hương Cảng cảm thấy bản thân phải có trách nhiệm trong việc bảo vệ tự do cho Hồng Kông, chính là sứ mệnh của họ ngay bây giờ chứ không phải là của thế hệ nào khác.
Người Hồng Kông thức tỉnh
Một người trẻ khác chia sẻ quan điểm thậm chí vô cùng quyết liệt: “Nếu Trung Quốc đang cố chiếm lấy nơi này, chúng tôi phải chiến đấu. Việc bảo vệ văn văn hoá của chúng tôi là quan trọng nhất”.
“Hồng Kông đã trở thành một nơi nguy hiểm. Kinh tế, du lịch, kinh doanh đang đi xuống. Đó là con đường dẫn đến cái chết. Bạn biết đấy, phải chết thì mới tái sinh, đúng không?”, người trẻ tuổi nói.
Cho đến nay, truyền thông Trung Quốc luôn tuyên truyền với thế giới rằng phong trào dân chủ tự do Hồng Kông là bạo loạn. Nhưng thông qua các vụ việc cũng như những bằng chứng hình ảnh, video, thì thấy rằng cảnh sát ở Hồng Kông đã hành xử như côn đồ, chưa kể tới những can thiệp, dọa dẫm từ chính quyền đại lục. Người Hồng Kông đã buộc phải viện đến các biện pháp không ôn hòa như trước đó, trong một bài phát biểu, cựu lãnh đạo sinh viên Hoàng Chi Phong nói rằng, chúng tôi biết chúng tôi không thể đạt kết quả nếu vẫn dùng biện pháp hòa bình.
Thực tế, trong vài tháng đầu, người biểu tình Hồng Kông đã duy trì các hình thức phản kháng ôn hòa – điều mà tiểu Hiến pháp của Đặc khu cho phép. Tờ BBC đã thống kê, sau 100 ngày của phong trào, người Hồng Kông đã sử dụng 7 hình thức biểu tình, bao gồm:
(1) Hát đồng thanh bài “Vinh quang cho Hồng Kông”, (2) chiếu tia laser, (3) xếp thành dòng người nối dài, (4) dựng tường Lennon, (5) in thông điệp lên bánh trung thu, (6) in hình nghệ thuật đa dạng mang đi biểu tình, dựng tượng “người biểu tình” và (7) thay đổi lá cờ Hồng Kông thành màu đen với đóa hoa Dương tử kinh nhuốm máu.
Phong trào Dù vàng năm 2014 đã cho người Hồng Kông một bài học, rằng chính quyền Trung Quốc không bao giờ nhượng bộ. Người Hồng Kông hiểu rằng, biểu tình ôn hòa cũng không thể đưa đến sự thay đổi. Họ không còn lựa chọn nào, ngoài việc đẩy hình thức phản kháng theo hướng cứng rắn hơn.
Một kênh truyền thông của Mỹ đã kể về “những lá thư cuối cùng”, trong đó giới trẻ Hồng Kông thể hiện những tâm tư lo nghĩ, nhưng cũng biểu hiện lý tưởng mạnh mẽ: “Ba, mẹ, khi ba mẹ tìm thấy thư này, có thể con đã bị bắt, hoặc bị chết. Con đã luôn nỗ lực để trở thành người con xứng đáng của ba mẹ, trong học hành và công việc. Nhưng hơn thế nữa, con muốn trở thành một người có lương tâm, chứ không phải là một kẻ hèn nhát ích kỉ”. Một người trẻ khác để lại lời nhắn nhủ cho cha mình khiến ai nấy nghẹn ngào: “Cha à, khi con đi rồi cha hãy chăm sóc bản thân cho tốt, và cha nhớ ăn đúng giờ”.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.