Đốm cút ngay !Đã đem mày đi thiến rồi ,mà vẫn chưa chừa thói sủa bậy .Quen thói chó dại ,chó hoang có ngày xe bắt chó tròng thòng lọng vào cổ , lúc đó từ chó ghẻ thành chó chết đó nghe chưa đốm ?Cút ngay ra gầm chuồng gà lẹ lên ...
:haf ppy:
Thằng ku này nó hận cũng phải. Vì bà già nó bị Mỹ đen, Đại Hàn, Úc Đại Lợi ..... dùi xong rồi ị ra nó nên bây giờ chả biết nó thuộc giống gì? Pitbull, Ngao Tạng, chó ăn cứt hay chó Phú Quốc hehehehehehehe .....
Lúc đó HL đang dùi mài kinh sử và cua gái nên thất tinh......HL khóa đàn em của mấy ông này mấy năm, khi LL ĐB giải tán và bổ xung vào nhiều đơn vị khác Nha kỹ thuật và một số chuyển qua 81 BCD trong toán viễn thám
Lúc trước HL có post hình trong toán nhưng chưa ai nhận ra:h afppy:
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
Bán tiểu đội Biệt Kích Dù và trận đánh chớp nhoáng sau lệnh đầu hàng 30.04
Thiếu úy Biệt Kích Dù Vũ Văn Tư trằn trọc không ngủ được. Đơn vị anh được lệnh chuyển quân về đóng ở Tam Hiệp, Biên Hòa, nơi mà tinh thần chống cộng của đồng bào Thiên Chúa giáo vững vàng như sắt, như đá. Sự có mặt của những toán Biệt Cách Dù làm các đơn vị quân dân phòng thủ ở đây lên tinh thần. Tư đi hết nhà dân đến nhà thờ. Có những đêm Tư âm thầm vào nhà thờ nhìn chăm chăm vào tượng Chúa để cầu xin một phép lạ, không phải cho anh, mà cho quê hương, để Bắc quân bị tan biến trong trận Long Khánh và không một tên nào mò qua Tam Hiệp để vây Sài Gòn. Anh thấy tượng Chúa buồn buồn, anh thấy tượng Đức Mẹ dường như muốn khóc. Anh về lại đơn vị trùm poncho ngủ. Giấc ngủ vỡ tan theo tình hình tin tức chiến sự căng cứng cứ một ngày gần về phía Sài Gòn.
Sáng ngày 28 rạng 29 tháng Tư, đơn vị anh được tin cho biết về các hướng chuyển quân của địch, trong đó có một đơn vị cộng sản có chiến xa sẽ di chuyển từ Tân Phong hướng chiến khu D tiến về vòng đai phi trường Biên Hòa theo lộ trình quốc lộ 1 vào Hố Nai. Tất cả đơn vị đã sẵn sàng trong tư thế chiến đấu. Các đơn vị địa phương và nhân dân tự vệ, súng đủ loại bỗng nhiên thành những người lính tử thủ. Họ phân công, tăng cường phòng thủ và di chuyển đồng bào khỏi vùng có thể sắp xẩy ra những cuộc đụng độ đẫm máu.
Sáng sớm 30 tháng Tư, Tư và các sĩ quan được đơn vị trưởng mời họp khẩn cấp, chờ lệnh Sài Gòn. Trời Tam Hiệp vẫn chờ cơn bão lửa trong tinh thần chuẩn bị cho cuộc thư hùng chết bỏ. Đến khoảng vừa sau 10 giờ sáng, các sĩ quan quay quanh chiếc radio, im lặng, đợi chờ một cái gì vô cùng nghiêm trọng. Bỗng tiếng tướng Dương văn Minh ồn ồn vang lên lệnh buông súng. Tư đập tay xuống bàn. Chiếc đồng hồ vỡ tung, đứt dây văng xuống đất. Các sĩ quan có mặt, người chửi thề, kẻ ôm mặt khóc. Vị sĩ quan Dù, cấp chỉ huy của Tư đang gục mặt xuống bàn, hai vai ông run lên. Một lúc sau, ông đứng dậy nói trong hai hàng nước mắt:
- Định mệnh oan nghiệt! Định mệnh oan nghiệt! Thế là hết! Anh em tan hàng và thoát khỏi vùng này gấp! Chiến xa địch có thể đang rất gần!
- Sao dễ dàng vậy ông thầy? Mơ hay thực ông thầy! Hỏa ngục An Lộc mình coi như pha! Sao bay giờ chưa bắn phát đạn lại tan hàng? - Tổng thống đã bó tay hàng, lệnh chúng ta buông súng. Làm sao chuyển xoay thế nước? Làm sao xoay chuyển lịch sử? Công chuyện bây giờ là cứu mạng anh em? Anh em nghe rõ?
Không khí im lặng, tịch mịch, thê lương. Không một ai trả lời. Một thứ im lặng nặng nề, uất nghẹn. Tư bỗng lên tiếng:
- Không! Tụi em nghe rõ nhưng không buông súng! Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng là chuyện của ông Dương Văn Minh. Tụi em không thể quăng súng! Biệt Kích Dù không bao giờ quăng súng! Ông thầy mặc tụi em!
- Thế cậu làm gì?
Tư không trả lời người chỉ huy của mình. Anh đứng phắt day chào tay người đơn vị trưởng và bỏ ra khỏi phòng:
- Vĩnh biệt ông thầy và anh em!
Đây là lần đầu tiên trong đời binh nghiệp mà Tư hành sử như vậy đới với cấp chỉ huy. Đơn vị trưởng Tư lặng lẽ nhìn Tư đi cho đến khi bóng anh khuất ở một góc đường dẫn về vị trí công sự phòng thủ của toán Tư trách nhiệm. Ông thở dài và mọi người giải tán.
Thiếu úy Tư về vị trí anh em đang bố trí chờ địch. Họ thấy nét mặt Tư như căng ra, căng thẳng và quyết liệt. Anh nói với anh em:
- Thằng cha Minh Bự ra lệnh buông súng rồi! Mấy ông đại bàng lớn nhỏ đã chấp nhận lệnh của Dương Văn Minh. Tôi thì không. Anh em nào theo tôi thì gom hết súng đạn và M72 xếp hàng theo tôi. Anh em nào nặng gánh gia đình thì ngay từ lúc này, bẻ súng, hay chôn súng, rời khỏi nơi đây gấp! Tôi còn chỉ huy anh em. Đây là lệnh! Lệnh sau cùng trước khi chia tay!
Thầy trò Thiếu úy Tư nhom vào nhau, ôm nhau, kẻ khóc, người gạt nước mắt khi chia tay. Tư gom còn lại anh em khoảng một bán tiểu đội chịu ở lại với Tư, mỗi người hai ống M72, lựu đạn, súng cá nhân và ba lô. Tư dẫn anh em di chuyển nhanh về xứ đạo Kim B... Đó là quê quán của một số anh em trong toán không buông súng của Tư. Tư đưa anh em lẩn vào một dãy nhà quen. Dãy nhà chỉ còn lại một bà cụ già:
- Bác Tám! Cháu là Vũ Văn Tư! Bác còn nhớ cháu? Bà con đâu hết rồi?
- À, tôi nhớ rồi! Cậu Tư Biệt Kích Dù! Cậu Tư về đây làm gì, bà con tản cư về Sài Gòn, vì nghe nói cộng sản có thể vô đây! Mà mấy cậu đói không?
- Sáng giờ tụi con chưa có gì trong bụng hết...
- Còn nồi thịt kho sau bếp. Tôi nấu nồi cơm cho mấy cậu ăn!
Mặt tiền nhà thờ Kim B... bên trái là cột cây số 6 tính từ Biên Hòa lên, bên phải là những căn nhà dân bỏ hoang, cách đó không xa là trường tiểu học Hải Phòng có một địa thế che khuất thuận tiện cho một cuộc phục kích. Tư ra lệnh anh em đào hầm và ngụy trang gấp để sẵn sàng cho một cuộc tấn công chớp nhoáng và rút nhanh theo kế hoạch.
Các Biệt Kích Dù còn lại mặt trận không có lệnh hành quân do Thiếu úy Tư chỉ huy, không có đại bàng trên trời, dưới đất, cũng không có hệ thống truyền tin, không Tổng Tham Mưu, không dinh Độc Lập... Chỉ có thầy trò Tư, Văn, Lễ, Hùng, Sự và Bảy đang dàn trận đối đầu với Bắc quân vào xế 30 tháng Tư, 4 tiếng đồng hồ sau lệnh cho quân đội buông súng của tướng Dương Văn Minh. Lúc này, trên mặt những Biệt Kích Dù không còn nước mắt buổi sáng, mà mặt họ lại đăm đăm chờ giặc như những lần phục kích năm xưa, bất chấp cái gì xẩy ra cho họ.
Tư phân phối vị trí tác xạ cho từng anh em và chỉ thị:
- Trận này chỉ xi M72! Không dùng súng nhỏ và lựu đạn, thứ này chỉ để tự vệ trên đường tàng hình mà thôi! Nếu địch xuất hiện trong tầm hiệu quả, xe nhỏ và Molotova vận tải, chơi trực xạ một M72. Nếu T54, tập trung tối thiểu là 2 M72 một chiếc cùng lúc để con cua bị rang muối ngay tức khắc, nếu nó còn sống, nó quay đại liên thì mình không thoát được theo kế hoạch, không về được với vợ con. Tất cả phần đuôi của đoàn xe địch còn lại, chơi xả láng tất cả M72 còn lại vào mục tiêu, kể cả bộ binh tùng thiết... Và tàng hình thật nhanh trước khi địch tỉnh hồn phát giác vị trí tấn công và đường thoát của tụi mình!
- Rồi sau đó tụi em gặp Thiếu úy ở đâu?
- Tại nhà thằng Hùng ở Ngã Ba Hàng Xanh tối ngày mai nếu tụi mình không thằng nào rách áo hay đi phép dài hạn! Nhưng mình chơi cú này như ma như quỷ, bố tụi nó cũng không ngờ! Nhớ! Tụi mình phải gặp nhau lần cuối trước khi chia tay mà không biết bao giờ gặp lại!
Đúng như nguồn tin hôm trước và dự đoán hôm nay, dưới ánh nắng gay gắt, trước nhất là một chiếc jeep đi đầu, ngay sau là tiếng xích sắt nghiến trên mặt đường của một chiếc T54 nòng đại bác kềnh càng chỉa về trước, hai bên hông xe là một số bộ đội, có cả du kích dép râu có lẽ lần đầu tiên được "cưỡi" xe tăng, rồi tiếp theo là 2 chiếc Molotova đầy bộ đội miền Bắc và du kích dép râu, mũ tai bèo, lá ngụy trang. Họ di chuyển dường như khá chủ quan là sau cả buổi lệnh buông súng của Dương Văn Minh loan báo trên đài, các ổ kháng cự của quân đội VNCH đã rời vũ khí, bỏ trống chiến trường. Họ chuyển quân như đi duyệt binh, như phô trương lực lượng.
Tư và bán tiểu đội Biệt Kích Dù chỉ chú ý đến phần đầu kể từ chiếc xe jeep để có thể tấn công chớp nhóng và rút nhanh trước khi địch hoàn hồn. Đoàn xe tiến ngày càng gần vào vị trí ổ phục kích. Tư bình thản nói nhỏ vào tai các xạ thủ:
- Jeep có sĩ quan đi đầu, cậu chơi chính xác 1 quả cho tôi!... Chiếc T54 kế, hai cậu chơi hai quả trực xạ ngang hông cùng một lúc!... Hai Molotova đi sau, mỗi chiếc một quả chính xác cho tôi!... Các ống phóng còn lại, các cậu xả láng hết vào bất cứ đoàn xe hay đám tùng thiết nào xuất hiện trong tầm tác xạ! Và ngay sau đó, biến nhanh theo tôi! Không chần chờ ở lại xem kết quả! Hổ nhanh như ma như biến mới sống!
Tiếng xích sắt chiếc T54 nghiến đường kềnh càng mỗi lúc một gần. Chiếc jeep có một sĩ quan cấp đại tá và hai nhân viên truyền tin cùng chiếc T54 vừa lọt vào tầm tác xạ hữu hiệu, có thể nói là quá sát vị trí phục kích, Tư ra lệnh khai hỏa.
- Ầm!
Một vệt lửa vụt đi, quả M72 lao như điện xẹt vào mục tiêu. "Tiến về Sài Gòn. Ta giết sạch giặc thù" chưa thấy đâu, nhưng chiếc jeep đi đầu bị thổi tung lên như con diều giấy bốc cháy. Bị tấn công bất ngờ, chiếc T54 hoảng hồn nã một phát đại bác lên tháp chuông nhà thờ. Tháp chuông bị vỡ sụp một góc. Nhanh như chớp, trước khi đại liên và đại bác tác xạ vào các vị trí nghi ngờ khác, hai quả M72 phóng thẳng vào hông phải chiếc T54:
- Ầm! Ầm!
Chiếc T54 lật ngửa sang một bên, bốc cháy bên vệ đường. Ba quả M72 tấn công quá nhanh, chỉ trong vòng không tới 30 giây, bộ đội Bắc Việt và các du kích bám trên xe không phản ứng kịp, bị văng xuống như sung rụng. Trong một tích tắc tiếp theo đó, hàng loạt M72 phóng thẳng vào hai chiếc Molotova chở đầy lính đủ loại, nón cối, mũ tai bèo và vài chiếc đi sau.
- Ầm! Ầm! Ầm...!
Nguyên một đoạn đường còn lại trong tầm tác xạ của M72 bỗng chốc thành bãi chiến lửa khói đầy xác xe và người chết. Tiếng súng AK khai hỏa từ phía sau đoàn "con-voi" nhưng họ không biết họ bị tấn công từ đâu. Không một tiếng súng nhỏ M16 bắn trả. Bỗng chốc chiến trường thành một thứ chiến trường im lặng chết người. Trong cái khoảnh khắc im lặng mà Bắc quân còn nằm chết dí trên mặt đất bắn lung tung, chưa nắm vững tình hình địch và thiệt hại của các chiếc xe đi đầu, bán tiểu đội Biệt Kích Dù đã biến đi tự lúc nào.
Sau khi không nghe thấy gì nữa, các đơn vị Bắc quân và chiến xa còn lại thận trọng dàn quân thành một vòng cung bọc tròn khu vực nhà dân, nhà thờ và trường tiểu học. Họ di chuyển chậm và họ nghĩ rằng trận phục kích kế tiếp sẽ diễn ra. Nhưng không! Tiếng nổ lác đác còn lại chỉ nghe thấy từ lòng chiếc T54 với những đạn loại nhỏ bị cháy và còn phát nổ. Vòng vây khép lại như một mẻ lưới, càng lúc càng nhỏ dần.
Bắc quân uất giận bắt đi vị linh mục già chánh xứ co ro trong nhà thờ và mấy người dân đau ốm tá túc trong nhà thờ. Họ lục soát trong nhà dân, bắt thêm vài người. Tháp chuông nhà thờ đổ nát nhưng tượng Chúa và tượng Đức Mẹ vẫn còn, một tên VC lia vào tượng một tràng AK và ra ngoài, hắn lầm lừ như con hổ bị trọng thương. Một tên chỉ huy hạch hỏi hai người dân điều gì không rõ, song sau đó, họ bắn cả hai ngay trước cổng nhà thờ.
Toán quân cộng sản tiếp tục di chuyển, áp tải theo linh mục chánh xứ và những người dân vô tội, đến ngay tại cây số 7, họ dừng chân, họ bàn chuyện gì không biết, nhưng sau đó họ lôi ra bắn tiếp 2 người nữa và vứt xác bên vệ đường. Người dân miền Nam, những người bị bắt còn sống chưa bị hành quyết tại cây số 7, những người còn sống trong các nhà bên đường... kinh hoàng, vài người đã la hét trong cơn hoảng loạn tâm thần. Họ thấy cái chết lắc lư trên đầu họ. Và dường như Bắc quân thấy một cái gì không ổn trong hành động của họ trước những tiếng gào thét tuyệt vọng của đồng bào, họ ngưng hành quyết những người còn lại.
Trên quốc lộ 1, đoạn đường từ cây số 6 trước nhà thờ Kim B đến cây số 7 cũng chính là một phần của đoạn đường "Tiến về Sài Gòn, ta giết sạch giặc thù!" Bài hát "Tiến về Sài Gòn" của Huỳnh Minh Siêng đã hiện thực trên những vũng máu của người dân vô tội.
Ngày 1 tháng 5, thủ đô Sài Gòn tang tóc. Chiều, gió nhe ïthổi từ sông Sài Gòn như hơi thở tàn hơi trên từng sợi tóc của những người dân phờ phạc, âu lo, trên từng tàng cây hai bên đường như cảm nhận một mùa xuân tang tóc. Sài Gòn thoi thóp thở. Đâu đó, người ta thỉnh thoảng còn nghe tiếng súng, tiếng lưu đạn nổ. Tiếng nổ của những người tự tử chết theo thành. Tiếng súng của những anh em còn chiến đấu tuyệt vọng từ những hẻm hóc giữa thủ đô liệm chết.
Tư lần mò đến địa điểm hẹn anh em ở Ngã Ba Hàng Xanh. Thầy trò Tư lặng lẽ ôm nhau, cùng nhau ăn một bữa cơm ly biệt sau cùng. Tư bùi ngùi nói với anh em:
- Trách nhiệm của chúng ta đối với Tổ Quốc đã tròn. Không ai lệnh cho chúng ta phải đánh trận sau cùng khi Dương Văn Minh đã đầu hàng. Tôi tạ ơn Thiên Chúa, tạ ơn Đức Mẹ đã bảo bọc chúng ta để còn gặp đủ anh em đêm nay. Nhưng ngay trong đêm nay, tôi không còn là người chỉ huy anh em, anh em mỗi người tự thay tên đổi họ để về nguyên quán, lo cho gia đình, vợ con. Tôi sẽ còn ở lại Sài Gòn ít hôm coi tình hình, và có thể trở lại coi tận mặt chiếc T54 bị bắn cháy trước khi về lại Cao nguyên.
- Em còn độc thân! Ông thầy cho em ở lại và tháp tùng ông thầy!
- Không! Em về với bà cụ! Tình hình vô cùng nguy hiểm! Thôi, chúng ta chia tay! Coi chừng mấy thằng 30 nằm vùng!
Đèn trong trong phòng vụt tắt. Bán tiểu đội Biệt Kích Dù không còn quân phục, không còn vũ khí của thiếu úy Vũ Văn Tư ôm nhau trong bóng tối. Người ta không thấy nước mắt, chỉ nghe những tiếng nấc ly biệt, nghẹn ngào...
Mấy hôm sau, Tư lẻn về lại Hố Nai một mình. Địch vẫn chưa áp đặt gắt gao sự kiểm soát trong vùng. Tư mặc đồ rách rưới như một nông dân lần đến thăm nhà thờ Kim B và khu vực trận địa. Tư lựa một góc nhà khuất, dựa lưng nhìn chiếc T54 và xác chiếc jeep nằm tan nát bên cạnh. Tư được biết một sĩ quan cấp đại tá và hai người lính truyền tin đã tử thương trong trận phục kích, số thương vong trên các chiếc Molotova và đoàn quân phía sau không rõ. Về lại Sài Gòn, Tư gặp một số bạn thân kể lại trận đánh và anh biến mất khỏi Sài Gòn sau đó.
Một năm sau, Tư hoàn toàn thay tên, đổi họ và sống như một người dân không biết gì về lính tráng. Lặng lẽ, âm thầm, uất ức và chán đời về sống ẩn dật về sống ở Cao nguyên. Thiếu úy Biệt Kích Dù Vũ Văn Tư đã không còn trên cõi đời. Dần dà, anh trở thành người thất chí rồi mất trí. Anh không điên, nhưng người nhà cho biết anh Tư ngày nào cũng như ngày nào, suốt ngày cứ lầm bầm... những câu " Tại sao đầu hàng? Tại sao đầu hàng? Quân phản bội! Quân hèn nhát! Tại sao đầu hàng? Tại sao đầu hàng?..." Và trong một đêm mưa Cao nguyên sấm động rung trời như hét lời hận uất giữa không trung, mưa như trút nước, anh Tư nằm liệt giường, mê sảng. Trong cơn mê, anh cũng cứ thều thào... " Tại sao đầu hàng? Tại sao đầu hàng?..." Và sáng hôm sau, anh nằm yên, vĩnh viễn ra đi không bao giờ trở lại.
Thiếu úy Biệt Kích Dù Vũ Văn Tư mất năm 1976 dưới một cái tên hoàn toàn xa lạ, không vinh thăng, không phủ cờ, không huy chương, không một cánh hoa dù có mặt cạnh áo quan. Anh nhắm mắt nhưng mối hờn không chết trên quê hương, và chỉ một mình anh mang theo niềm hận uất khôn nguôi của riêng mình xuống đáy huyệt sâu. Khối hờn chung trong hơn ba mươi năm vẫn còn vẫn còn bàng bạc trên từng ngọn cây tấc đất... dẫu dấu tích của cuộc chiến bi hùng đã tàn phai theo tháng, theo năm.
Hải Triều / Trung Nghĩa
PS :Theo HL nghĩ Ông này thuộc chiến đoàn 1 của Ông Huấn ( Liên đoàn trưởng căn cứ đóng ở Biên hòa nhưng không rõ ở Toán nào ( vì lý do bảo mật nhiều Toán được tung vào viễn thám đều không biết nhau ngay cả nhiệm vụ )
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
An Lộc chiến trường đi không hẹn- Hổ Xám Phạm Châu Tài
Đây là vị chiến đoàn trưởng của HL hiện đang sống ở CA , HL thinh thoảng có dịp ghé thăm ông ta vài lần
***********
Viết cho những chiến hữu của tôi đã một thời vào sanh ra tử
trên khắp chiến trường sôi bỏng để bảo vệ đất nước.
Phạm Châu Tài
Mùa hè năm 1972 đi qua như cơn ác mộng mà khi tỉnh dậy người ta vẫn còn bàng hoàng như đang mê sảng.
Mùa hè đến với những cơn lốc bạo tàn, với những trận cuồng phong kinh hãi, sẵn sàng huỷ hoại tất cả những gì gọi là sự sống của con người, mà những tiếng kêu thương, bi ai thống khổ nhất vẫn còn âm vang cho đến ngàn sau.
Mùa hè đến với bão lửa ngụt trời, bão lửa cuồn cuộn vút lên như hoả diệm sơn bao trùm khắp bầu trời Miền Nam Việt Nam, bão lửa hừng hực thiêu đốt muôn vạn sinh linh đang sống an lành, tự do phía Nam vĩ tuyến 17.
Ðau đớn thay, ác mộng kinh hoàng ấy, cuồng phong và bão lửa ấy lại do chính con người gây nên, con người mang nhãn hiệu Cộng Sản, lãnh đạo bởi một lũ người cuồng tín đã bán linh hồn cho quỷ đỏ đang ngự trị tại Hà Nội.
Người ta được biết, sau khi tiếp nhận sự chi viện khổng lồ không giới hạn về các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh tối tân nhất từ phía Cộng Sản Nga – Tàu, Hà Nội điên cuồng tung vào Miền Nam ba cuộc tấn công vũ bão vào Tỉnh Quảng Trị của vùng giới tuyến, vào Tỉnh Kontum của Tây Nguyên và vào Tỉnh Bình Long thuộc miền Ðông Nam Phần.
Cuộc chiến bùng nổ khốc liệt chưa từng xẩy ra từ ngày Cộng Sản phát động cuộc chiến tranh gọi là giải phóng vào thập niên 60. Lửa, máu, nước mắt hoà với bom đạn đã cầy xới và tràn lan khắp quê hương Miền Nam tự do, tuy nhiên Cộng Sản miền Bắc phải trả một giá rất đắt về hành động điên cuồng, dã man của chúng để nhận sự thất bại đắng cay: Quảng Trị vẫn đứng vững, Kontum vẫn kiêu hùng quật khởi và Bình Long vẫn anh dũng hiên ngang phất cao ngọn cờ chính nghĩa.
Trong chiến tranh, tấn công xâm chiếm mà không lấy được mục tiêu, bị thiệt hại nặng nề là thất bại hoàn toàn. Trái lại, phòng thủ quyết tâm chống trả, dù phải chấp nhận ít nhiều tổn thất hy sinh mà vẫn giữ vững phần đất quê hương thì được gọi là chiến thắng.
Với lý lẽ căn bản nêu trên, ba cuộc tấn công của Cộng Sản Bắc Việt vào mùa hè năm 1972 trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà thì Cộng Sản Việt Nam là kẻ chiến bại, và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà là người chiến thắng.
Phát động tấn công xâm chiếm vào đầu tháng 04 năm 1972, tính đến tháng 09 năm 1972, thiệt hại nhân mạng của Cộng Sản Bắc Việt được ước lượng khoảng 100 ngàn người!
100 ngàn vong linh của những người “sinh Bắc tử Nam” trở thành lũ âm binh lạc loài, vất vưởng tha hương mà gia đình họ không bao giờ biết được.
Giành lấy chiến thắng một cách kinh hoàng và oai hùng nhất trong ba cuộc tấn công của Cộng Sản Bắc Việt vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà có thể nói là chiến thắng Bình Long mà trận chiến vô cùng khốc liệt đã bùng nổ tại Thị Xã An Lộc. Một tài liệu chính thức của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà được ấn hành sau mùa hè năm 1972 đã công bố: “Tại mặt trận An Lộc cuộc tấn công đầu tiên của quân Cộng Sản khởi đầu vào ngày 13-04-1972 bằng toàn bộ của các Sư Ðoàn 5, 7, 9 và Sư Ðoàn Bình Long với tổng số vào khoảng 50 ngàn người”. Cộng Sản ước tính sẽ đánh chiếm An Lộc từ 5 đến 10 ngày và dự trù ngày 20-04-1972 sẽ ra mắt chính phủ “Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam” tại thành phố An Lộc.
Thật vậy, lực lượng Cộng Sản Bắc Việt tại Bình Long, ngoài 4 Sư Ðoàn với quân số mỗi Sư Ðoàn là 10,400 người, còn có một Trung Ðoàn Ðặc Công, 2 Trung Ðoàn Pháo Binh và Phòng Không và hai Trung Ðoàn xe tăng. Hơn nữa, sự bổ sung quân số dễ dàng từ Mimot, Snoul bên kia biên giới Miên là nguồn nhân lực chính mà người ta khó ước tính được con sồ chính xác.
An Lộc là quận châu thành Tỉnh Bình Long, cách thủ đô Sài Gòn khoảng 100 cây số về hướng Tây Bắc, với diện tích bề dài 1,800 thước và bề ngang đo được 900 thước, một Thị Xã nhỏ bé đìu hiu, chung quanh là rừng cao su ngút ngàn đến tận biên giới. Bình Long có ba quận hành chánh, cực Nam là quận Chơn Thành và cực Bắc là quận Lộc Ninh.
Quốc lộ 13, con đường huyết mạch nối liền từ Lai Khê của Tỉnh Bình Dương đi qua các quận lỵ, xã ấp của Tỉnh Bình Long. Cách An Lộc 18 cây số về hướng Bắc là Lộc Ninh và cách An Lộc 30 cây số về hướng Nam là Chơn Thành.
Từ Chơn Thành xuôi quốc lộ 13 về hướng Nam khoảng 30 cây số là Lai Khê, nơi đặt bản doanh của Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà.
Cơ sở hành chánh và quân sự Tỉnh Bình Long đặt ngay trong quận châu thành An Lộc dưới sự điều hành của viên Tỉnh Trưởng là Ðại Tá Trần Văn Nhựt.
Trước khi trận chiến bùng nổ, quận Lộc Ninh được tăng cường với Trung Ðoàn 9 thuộc Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, một khẩu đội pháo binh đặt tại căn cứ yểm trợ hoả lực Alpha cách Lộc Ninh khoảng 8 cây số về hướng Bắc và một Chi Ðoàn Thiết Giáp thuộc Thiết Ðoàn 5 Kỵ Binh Việt Nam Cộng Hoà. Tại An Lộc, ngoài một số Ðịa Phươhg Quân, Cảnh Sát, và các cơ sở hành chánh Tỉnh mà nhân số không quá 200 tay súng, còn có pháo đội 105 ly, Chi Ðoàn Thiết Giáp, Trung Ðoàn 7 thuộc Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, và Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân. Ðể đánh chiếm Bình Long, Cộng quân cắt đứt quốc lộ 13 từ Lai Khê đi Lộc Ninh, đồng thời phong toả bầu trời Bình Long bằng một hệ thống phòng không để ngăn chặn sự can thiệp của Không Quân Việt Nam Cộng Hoà.
TRẬN CHIẾN BÙNG NỔ
Ba giờ sáng ngày 05 tháng 04 năm 1972 Trung Ðoàn Pháo có bí danh E.6 bắn phủ đầu vào các cứ điểm phòng ngự của Trung Ðoàn 9 Bộ Binh do Ðại Tá Trần Công Vĩnh chỉ huy bằng hàng ngàn quả đạn pháo đủ loại, sau đó Cộng quân tung Sư Ðoàn 5 Cộng Sản Bắc Việt có xe tăng yểm trợ bắt đầu tấn công. Mặt khác, Cộng quân sử dụng Trung Ðoàn 272 thuộc Sư Ðoàn 9 Cộng Sản Bắc Việt phục kích quốc lộ 13 từ An Lộc đi Lộc Ninh để tiêu diệt đường rút lui của quân trú phòng.
Mặc dù có sự can thiệp hữu hiệu của Không Quân, căn cứ yểm trợ hoả lực Alpha, phi trường Lộc Ninh và cứ điểm quân sự của Trung Ðoàn 9 Bộ Binh bị tràn ngập sau hơn hai ngày chống trả mãnh liệt. Lộc Ninh được ghi nhận hoàn toàn mất liên lạc lúc 19 gìờ ngày 07-04-1972.
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh kịp thời nhảy vào An Lộc với hai Tiểu Ðoàn của Trung Ðoàn 8, tăng cường cho mặt phòng thủ phía Bắc Thị Xã ngày 06-04-1972 và tuyên bố tử thủ An Lộc.
Ban Tham Mưu mặt trận An Lộc Hè 1972 từ trái sang phải : Trung tướng Nguyễn Văn Minh (Tư Lệnh QĐ III ), Chuẩn tướng Lê Văn Hưng ( SĐ5 BB ),Tư Lệnh chiến trường An Lộc,
Đại tá Lê Quang Lưỡng ( Lữ Đoàn Dù ) và Đại tá Trần Văn Nhựt (Tiểu khu Bình Long)
Hai tiếng tử thủ lần đầu tiên được nhắc nhở nhiều lần trong chiến tranh Việt Nam qua lời tuyên bố của vị Tướng Tư Lệnh chiến trường, biểu lộ ý chí sắt đá của người chiến binh Việt Nam Cộng Hoà, quyết tâm chiến đấu để bảo vệ, gìn giữ mảnh đất quê hương.
Hai tiếng tử thủ như lời thề cùng sông núi, lời hứa hẹn với tiền nhân đã ra công dựng nước và giữ nước.
Hai tiếng tử thủ đã làm rung động con tim nhân dân miền Nam và cả nước hướng về An Lộc !
Chiếm xong Lộc Ninh, Cộng quân tiến về phía Nam và bắt đầu tấn kích An Lộc rạng sáng ngày 13-04-1972. Thực ra kể từ ngày 08-04-1972, Cộng Sản Bắc Việt đã dùng pháo binh rót vào An Lộc, Chơn Thành và Lai Khê để cầm chân sự tiếp viện của Việt Nam Cộng Hoà.
Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân tại chiến trường An Lộc Hè Đỏ Lửa 1972
LỰC LƯỢNG TĂNG VIỆN CỦA QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ
Lực lương đầu tiên được tăng viện đến Lai Khê ngày 05-04-1972 là Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù do Ðại Tá Lê Quang Lưỡng chỉ huy gồm ba Tiểu Ðoàn và Pháo Đội Nhảy Dù.
Lực lượng tăng viện thứ hai là Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù do Trung Tá Phan Văn Huấn chỉ huy gồm 4 Ðại Ðội xung kích và 4 toán thám sát.
Ngoài ra, Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam Cộng Hoà quyết định sử dụng toàn bộ Sư Ðoàn 21 Bộ Binh từ vùng đồng bằng sông Cửu Long tăng cường cho mặt trận Bình Long, giải toả quốc lộ 13.
Ngoài quân bộ chiến nêu trên, Sư Ðoàn 5 Không Quân Việt Nam Cộng Hoà đã yểm trợ cho chiến trường từ những ngày đầu chiến sự bùng nổ tại Lộc Ninh với những phi vụ tấn công và yểm trợ xuất phát từ căn cứ không quân Biên Hoà và Tân Sơn Nhất. Hai đơn vị Không Quân của Không Lực Hoa Kỳ có mặt tại Quân Khu III Việt Nam Cộng Hoà là Lữ Ðoàn 7 Kỵ Binh Không Vận và Lữ Ðoàn 1 Không Vận cũng góp phần vào việc yểm trợ cho chiến trường Bình Long một cách đắc lực và hữu hiệu.
Với nhiệm vụ cắt đứt quốc lộ 13 ngăn cản sự tiếp viện của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà từ Lai Khê, Sư Ðoàn 7 Cộng Sản Bắc Việt được tăng cường pháo binh và phòng không tổ chức chằng chịt các vị trí phục kích, chốt chặn, chốt kiềng, giật sập cầu, phá đường mong biến quốc lộ 13 thành một sạn đạo, có đi mà không đường trở lại.
Ngày 12-04-1972, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù mới đặt chân đến quận Chơn Thành sau 7 ngày chạm trán với Cộng quân để giải toả một khoảng đường không quá 30 cây số.
MỞ MÀN TRẬN CHIẾN TẠI AN LỘC
“Tiền pháo hậu xung” là một chiến pháp dùng để tấn kích một căn cứ quân sự, một đồn binh hay một trại lính có pháo đài, có công sự chiến đấu, có nhiều lớp rào kẽm gai làm chướng ngại vật và hệ thống mìn bẫy giăng mắc chung quanh.
An Lộc không phải là một căn cứ quân sự. An Lộc chỉ đơn thuần là một Thị Xã nhỏ bé, có nhà, trường học, bệnh viện và đường phố tấp nập người đi. An Lộc là một phố thị mà dân cư nhiều hơn lính chiến.
Áp dụng chiến thuật “tiền pháo hậu xung” để đánh chiếm An Lộc, Cộng Sản Bắc Việt đã hiện nguyên hình là loài quỷ đỏ điên cuồng bắn hàng ngàn quả đạn pháo 130 ly, 155 ly, súng cối 120 và hoả tiễn 122 ly vào phố thị đông người để sát hại dân lành vô tội.
Pháo! Loại đạn vòng cầu có tầm phá hủy kinh khủng nhất đã rót liên tục vào Thị Xã, ngày cũng như đêm, pháo từng hồi, từng phút, từng giờ biến An Lộc bỗng chốc trở thành hoả ngục. Nhả cửa, nhà thờ, chùa chiền, cao ốc, bệnh viện tất cả đều thay hình đổi dạng, sụp đổ hoang tàn.
Trú ẩn trong nhà cũng bị thương vong, chạy ra đường cũng chết. Sự chết đau thương và đến bất chợt theo tiếng ầm vang của pháo, theo tiếng gió rít của tầm đạn đi. Sự chết hãi hùng, chết không kịp nhắm mắt, chết không toàn thây, chết vô thừa nhận đầy dẫy khắp nơi trên đường phố. Ngay khi mưa pháo thưa dần và chấm dứt, Cộng quân tung vào trận địa Sư Ðoàn 9 và Sư Ðoàn Bình Long với sự yểm trợ của chiến xa T54.
Tuyến phòng thủ phía Tây Thị Xã do Trung Ðoàn 7 Bộ Binh đảm nhiệm và phía Ðông do Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân án ngữ, chống trả mãnh liệt, khi thì dãn ra, lúc co cụm lại, nhưng vẫn đứng vững, trong khi tuyến phòng thủ phía Bắc do hai Tiểu Ðoàn thuộc Trung Ðoàn 8 vừa đến tăng cường đã bị chọc thủng. Ðặc công, xe tăng và quân bộ chiến Cộng Sản Bắc Việt tuôn vào thành phố như nước vỡ bờ. Ác chiến diễn ra trên thành phố, đạn bay súng nổ, thây người gục ngã, dân lành bồng bế, dìu dắt nhau bỏ chạy, chạy đi đâu để tránh thương vong… Nỗi khổ, nỗi lo và niềm hy vọng mong manh để được sống đã đến với người dân An Lộc sao quá bi thương, sao lắm đọa đầy!
Xe tăng Cộng quân rú gầm nhiều nơi trong thành phố, chạy ngang chạy dọc, tiếng xích sắt ken két nghiến trên đường tráng nhựa hoà lẫn với tiếng nổ ì ầm bắn ra từ đại bác 100 ly trên pháo tháp nhắm vào các cao ốc, và những bức tường nhà hiển hiện trên hướng tiến của chúng.
Trên bầu trời Thị Xã, Không Quân, bất chấp hiểm nguy, nhào lộn và len lỏi qua mạng lưới phòng không, tung ra những tràng đại liên và những quả bom chính xác vào vị trí giặc thù. Bom nổ làm rung chuyển thành phố như cơn địa chấn, từng cột khói đen bốc lên cao cuồn cuộn.
Giây phút nao núng ban đầu khi thấy xe tăng Cộng Sản xuất hiện tan biến nhanh chóng trong lòng những người lính tử thủ. Bây giờ đã đến lúc vùng lên bắn hạ những con quái vật đó, phải biến chúng thành những khối sắt bất động, không còn tác yêu tác quái nữa. Một đoàn 4 chiếc tăng T54 từ hướng Bắc theo đường Nguyễn Trung Trực nối đuôi nhau tiến vào phía sau khu Chợ Mới. Một anh lao công đào binh tạo được công đầu bằng một quả lựu đạn tung vào thùng xăng phụ đèo sau đuôi xe tăng T54. Lựu đạn nổ, xe tăng bốc cháy! Việt Cộng từ trong xe tăng mở nắp pháo tháp chạy thoát ra ngoài bị thanh toán ngay tại chỗ, thây nằm vất vưởng bên thành xe. Chiếc thứ hai xuất hiện sát Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5. Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ Tư Lệnh Phó liền bắn một quả M.72 vào chiến xa T54. Vì bắn quá sát nên đạn M.72 không nổ, chiếc T54 bỏ chạy liền bị một chiếc trực thăng Cobra từ trời cao lao mình xuống phóng liền hai trái hoả tiễn trúng chiêc tăng đi đầu nổ tung. Ba chiếc tăng còn lại lúng túng, rú gầm trên khoảng đường bề ngang quá hẹp không xoay sở được, dễ dàng biến thành mục tiêu của hoả tiễn cầm tay M.72 được phóng ra từ quân trú phòng. Bây giờ người ta mới biết sức công phá mãnh liệt của loại hoả tiễn cầm tay M.72, một loại vũ khí chống tăng lợi hại mà bấy lâu nay bị người ta coi thường. Những chiếc tăng T54 đầu tiên bị bắn hạ tạo nên sự phấn khởi dây chuyền trong hàng ngũ quân trú phòng, họ xông vào xe tăng địch như một đợt thi đua lập chiến công. Hai khẩu pháo 105 ly của Thị Xã đặt tại sân vận động cạnh đại lộ Trần Hưng Ðạo hạ nòng bắn trực xạ vào xe tăng Cộng Sản, bắn lật tung pháo tháp xuống đất, bắn đứt xích, gẫy nòng và biến chúng thành những con cua rang muối, hừng hực đỏ lửa. Ðây là hai khẩu pháo cuối cùng của An Lộc đã bắn hết đạn trước khi tắt thở. Và bắt đầu từ đó, sự yểm trợ của hoả lực cơ hữu vào Thị Xã hoàn toàn bất khiển dụng.
Thiếu tá Nguyễn Sơn chỉ huy Đại Đội 2 Xung kích/ LĐ81 BCD trên vùng tử địa An Lộc (14/4/1972)
Trận đánh khởi đầu từ mờ sáng đến xế chiều dưới ánh nắng chói chan của mùa hè vùng nhiệt đới, dưới sức tàn phá kinh hoàng của đạn bom, mà mỗi giờ mỗi phút đi qua đều mang theo hình ảnh của sự huỷ diệt.
Sự can thiệp của Không Quân gây ít nhiều thiệt hại cho Cộng quân, nhiều chiếc xe tăng T54 bốc cháy ven rừng trước khi vào thành phố.
Ngoài ra, sự xuất hiện của pháo đài bay B.52 được coi như khắc tinh của chiến thuật biển người, đã gây nhiều nỗi khiếp đảm và làm tổn thất nặng nề cho 4 Sư Ðoàn Cộng quân đang bủa vây An Lộc.
Pháo đài bay B.52, một vũ khí chiến lược của Không Lực Hoa Kỳ phát xuất từ Thái Lan và đảo Guam đã can thiệp vào chiến trường Bình Long theo yêu cầu của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà thực hiện 17 phi vụ đánh bom, mỗi phi vụ gồm 3 phi cơ bay trên thượng tầng khí quyển mà mắt thường ít khi nhìn thấy, chỉ nghe tiếng ù ù xa xăm của động cơ mà không biết bom sẽ nổ nơi nào. Mỗi phi vụ mang 42 quả bom nặng 500 ký và 24 quả bom nặng 250 ký đồng loạt rơi xuống chính xác mục tiêu đã ấn định. Vài giây đồng hồ trước khi bom nổ, người ta phát hiện tiếng gió rít ghê rợn của hàng loạt bom đang rơi, tiếng rít gió ào ào như trận cuồng phong, như tiếng kêu của tử thần. Bom chạm mục tiêu, nổ hàng loạt, nổ từng chuỗi dài, tiếng nổ làm rung chuyển mặt đất, lửa và khói đen bốc cao, từng luồng khí nóng hừng hực toả ra với vận tốc cực nhanh, 500 thuớc bề ngang và 1,000 thước bề dài trong tầm sát hại của bom rơi, tất cả đều biến thành bình địa.
Trong trận chiến An Lộc, B.52 đã đánh bom, có khi chỉ cách tuyến phòng thủ 900 thước, theo tin tức tình báo được kiểm nhận, có cả một Trung Ðoàn Cộng quân bị biến mất trong lúc bao vây thành phố.
Sau ba ngày đêm chống trả dữ dội, khu vực phía Bắc thành phố, kể cả đồi Ðồng Long, một cao điểm chiến thuật quan trọng đã lọt vào tay giặc. Từ đồi Ðồng Long, Cộng quân quan sát và nhìn rõ mọi hoạt động trong thành phố, hơn nữa nơi dây là cao điểm lý tưởng để tổ chức các vị trí súng phòng không 12 ly 8, đại bác 23, 37 ly và hoả tiễn địa không SA-7 đã khống chế và làm giới hạn sự can thiệp của Không Quân. Tuyến phòng thủ An Lộc càng lúc càng thu hẹp dưới sức ép của pháo binh và tấn công liên tục của Cộng Sản.
Quốc lộ 13 chưa được giải toả, do đó sự tiếp viện bằng đường bộ hoàn toàn bị tê liệt. Sự yểm trợ bằng Không Quân cũng gặp khó khăn. Hơn 80% đồ tiếp liệu như đạn dược, thuốc men và thực phẩm được thực hiện bằng phương tiện thả dù đã rơi vào vùng địch kiểm soát. Những đơn vị cơ giới và pháo binh của An Lộc hoàn toàn bất khiển dụng, phân nửa lực lượng phòng thủ bị loại ra khỏi vòng chiến.
An Lộc đang hấp hối, nhưng chưa tắt thở. Trong tình trạng chiến đấu tử thủ hôn mê đó, An Lộc vẫn củng cố niềm tin vào kế hoạch giải vây sẽ được bùng nổ vào giờ thứ 25. Không, An Lộc không thể chết tức tưởi như Lộc Ninh. An Lộc cần phải được mở một nút thoát hơi để thở. Các nhà lãnh đạo quân sự Việt Nam Cộng Hoà đã khẳng định điều đó và đã dự trù một kế hoạch để đối phó trong tình huống xấu nhất xảy ra để cứu nguy An Lộc!
Theo kế hoạch giải vây, hai đơn vị thiện chiến được sử dụng đến là Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù.
Cả hai đơn vị này đều nhảy thẳng vào An Lộc với hai nhiệm vụ khác nhau, một phía trong và một phía ngoài Thị Xã.
Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù sẽ quét sạch hành lang vây khốn bên ngoài chu vi phòng thủ và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù mở đường máu đánh thẳng vào An Lộc tiếp tay với quân trú phòng bên trong, chiếm lại phân nửa thành phố đã mất.
Người ta nghĩ kế hoạch này là một ván cờ liều, một kế hoạch đánh xã láng, “thí chốt để tiến xe” và những đơn vị thi hành sẽ là những con thiêu thân bay vào ánh lửa.
Ðúng vậy, họ là những con chốt của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, những con chốt đã sang sông và đã nhập cung, trở thành một pháo đài sừng sững trước mặt quân thù.
Ngày 14-04-1972, từ Chơn Thành, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù và một pháo đội được trực thăng vận vào một địa điểm cách An Lộc bốn cây số về hướng Ðông Nam.
Từ ấp Shrok Ton Cui, Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù chiếm lĩnh cao điểm 176 còn được gọi là Ðồi Gió, đặt 6 khẩu 105 ly dễ yểm trợ cho Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn cùng Tiểu Ðoàn 5 và 8 Nhảy Dù tiến về hướng An Lộc.
Linh động và bất ngờ là hai yếu tố quan trọng trong binh pháp được Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù khai thắc triệt để trong cuộc hành quân này.
Cộng quân đang bao vây An Lộc bị cú bất ngờ khi thấy lính Nhảy Dù xuất hiện phía sau. Yếu tố bất ngờ đã làm địch quân hốt hoảng, trận đánh đấm máu nổ ra và Nhảy Dù đã chiếm ưu thế, mở được một khoảng trống trong vòng vây kín mít từ phía Ðông Nam hướng về An Lộc.
Cùng ngày 14-04-1972, trong khi Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù được trực thăng vận vào An Lộc thì từ những khu rừng già vùng Tây Nam Xa Mát dọc theo biên giớì Miên Việt, Liên Ðoàn 81 đang hành quân được triệt xuất để trở về Trảng Lớn thuộc Tỉnh Tây Ninh.
Sáng ngày 16-04-1972, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù được vận chuyển qua Lai Khê bằng trực thăng Chinook CH-46, 12 giờ trưa cùng ngày, khi kho đạn Lai Khê bị đặc công Cộng Sản phá hoại nổ tung là lúc toàn bộ 550 quân cảm tử của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù sẵn sàng tại phi trường để được trực thăng vận vào An Lộc.
Nắng hè chói chan oi bức, ánh nắng lung linh theo cánh quạt của trực thăng tiễn đưa đoàn quân ma đi vào vùng đất cấm. Ðịa điểm đổ quân là những đám ruộng khô cằn nứt nẻ phía Tây Tỉnh lộ 245, chung quanh là những cánh rừng thưa trải dài theo hướng Tây Bắc, khoảng cách một cây số để đi đến Ðồi Gió.
Phải cần một hợp đoàn 45 chiếc trực thăng đa dụng HU1D với hai đợt đổ quân mới thực hiện xong cuộc chuyển quân, và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù đã vào vùng hành quân lúc 4 giờ chiều ngày 16-04-1972.
Mở tần số liên lạc với Tướng Lê Văn Hưng trong An Lộc, liên lạc với Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù để biết vị trí quân bạn và nhanh chóng khai triển đội hình chiến đấu, di chuyển về hướng Tây, len lỏi theo đường thông thuỷ giữa hai ngọn đồi Gió và đồi 169. Âm thầm và ngậm tăm mà đi.
Một sự kiện bất ngờ không may xảy đến khi đoàn quân đang di chuyển: một quả bom của Không Quân đánh vào vị trí của Cộng quân lại rơi ngay vào đội hình di chuyển của Biệt Cách Dù, gây thương vong cho một vài binh sĩ, trong đó có Thiếu Uý Lê Ðình Chiếu Thiện. Lập tức trái khói vàng được bốc cao giữa đoàn quân để phi công nhận diện phìa dưới là quân bạn.
Phải mất một thời gian ngắn cho việc tản thương. Hai cố vấn Mỹ, Ðại Úy Huggins và Thượng Sĩ Yearta nhanh chóng liên lạc với Lữ Ðoàn 17 Kỵ Binh Không Vận Hoa Kỳ yêu cầu trực thăng cấp cứu và được thoả mãn. Ðây là hai cố vấn thuộc Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ vẫn còn chiến đấu bên cạnh Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù khi quân bộ chiến Mỹ đã rút lui khỏi chiến trướng Việt Nam theo kế hoạch “Việt Nam hoá chiến tranh” được thi hành vào năm 1970.
Sự kiện thứ hai xãy đến là sự xuất hiện của 47 quân nhân thuộc Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân từ đồi 169 chạy tuôn xuống, mặt mày hốc hác vì mệt mỏi và thiếu ăn, bị thất lạc và phải trốn trong rừng. Họ đi theo Biệt Cách Dù để trở lại đơn vị gốc trong An Lộc.
Vài tràng súng AK ròn rã nổ ở hướng Ðông, có lẽ địch bắn báo động. Tiếp tục di chuyển, rẽ về hướng Tây Bắc để vào rừng cao su Phú Hoà. Tiếng súng nổ liên hồi, đứt khoảng phía trước. Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù đang chạm địch. Gặp Tiểu Ðoàn Trưởng Nhảy Dù, Trung Tá Hiếu cười méo miệng, nói như phân trần: “Tụi nó đông như kiến và bám sát tụi “moi” như bày đỉa đói”.
“Tụi nó đông như kiến” đã nói lên thực trạng chênh lệch lực lượng quân sự đôi bên mà phần ưu thế về phía Việt Cộng! Nhưng đã là Nhảy Dù thì phải “cố gắng”, cố gắng cho đến lúc tàn hơi. Ðã là Biêt Cách Dù thì phải chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh cho màu cờ sắc áo của đơn vị.
Hoàng hôn phủ xuống thật nhanh, bóng tối lần lần bao trùm cảnh vật chung quanh. Súng vẫn nổ rải rác từng đợt, từng hồi trong rừng thẳm. Biệt Cách Dù tiến chiếm ấp Sóc Gòn trong im lặng và an toàn vì địch vừa rút ra khỏi đây. Lục soát, bố trí và dừng quân chung quanh ấp trong những công sự chiến đấu đã có sẵn của Việt Cộng. Bóng đêm dày đặc, im vắng.xa xa về hướng An Lộc, đạn pháo ì ầm nổ như tiếng trống cầm canh.
Sự đổ quân ồ ạt của Việt Nam Cộng Hoà về phía Ðông Nam cách An Lộc 4 cây số đồng nhịp với các phi vụ đánh bom B.52 tàn khốc về phía Tây Nam của thành phố đã làm cho Cộng quân hoang mang, hốt hoảng. Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù là lực đối kháng vòng ngoài để thu hút địch quân, đồng thời tạo một lỗ hổng để Biệt Cách Dù xâm nhập vào thành phố sáng ngày 17-04-1972, cùng một thời điểm của Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù tiếp cận ngoại vi tuyến phòng thủ của Thị Xã về phía Nam cạnh quốc lộ 13.
Cộng quân không ngờ Biệt Cách Dù đã lọt vào Thị Xã tiếp hơi cho quân tử thủ và mở cuộc tấn kích ngay đêm đó vào các khu phố mặt Bắc. Với kỹ thuật đánh đêm điêu luyện, thần tốc, khi phân tán, khi hội tụ, Biệt Cách Dù đã giáng lên đầu Cộng quân những đòn sấm sét, đánh không có sự yểm trợ của pháo binh hay bất cứ một loại vũ khí vòng cầu nào, đánh bằng súng cá nhân, bằng lựu đạn, đánh cận chiến bằng lưỡi lê. Ðánh nhau từng căn nhà, từng cao ốc đổ vỡ, chiếm lại từng con đường, từng khu phố trong đêm dài dường như bất tận.
Sáng ngày 18-04-1972, Biệt Cách Dù đã có mặt hầu hết trong các khu phố phìa Bắc Thị Xã và giải thoát gần 100 gia đình cư dân còn kẹt lại trong vùng kiểm soát của Cộng Sản.
Từ các căn nhà xụp đổ bên vệ đường, từng toán Việt Cộng tuôn ra tháo chạy thục mạng về hướng Bắc, vì chúng bị đánh phủ đầu ban đêm, sáng ra nhìn chung quanh nơi nào cũng thấy “lính rằn ri”, loại lính đã hơn một lần chặn đánh chúng trên đường Trường Sơn heo hút mưa bay.
Mặc dù đã chiếm lại toàn bộ khu vực phía Bắc, nhưng vẫn còn một ổ kháng cự mà Cộng quân vẫn cố thủ bên trong, đó là đồn Cảnh Sát Dã Chiến. Biệt Cách Dù tấn công nhiều đợt nhưng vẫn chưa vào được. Hơn nữa, từ đồi Ðồng Long, Việt Cộng dùng đại bác 57 ly, sơn pháo 75 ly và súng không giật 82 ly bắn trực xạ vào Biệt Cách Dù để yêm trợ cho bọn chúng cố thủ bên trong đồn. Cố vấn Huggins của Biệt Cách Dù vào ngay tần số của Lữ Ðoàn 1 Không Quân Hoa Kỳ xin yểm trợ hoả lực. Hai chiếc phi cơ AC.130 Spector bay lượn trên vùng trời An Lộc với cao độ ngoài tầm sát hại của cao xạ và hoả tiễn địa không SA7, bắn từng quả đạn 105 ly hoặc từng loạt 3 quả đạn 40 ly vào mục tiêu yêu cầu được điều chỉnh từ dưới dất. Cuối cùng đồn Cảnh Sát lọt vào tay Biệt Cách Dù vào lúc 4 giờ chiều. Phần nửa thành phố phía Bắc được chiếm lại sau gần 24 tiếng đồng hồ chiến đấu liên tục. Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù yêu cầu Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh điều động quân bạn hai bên cạnh sườn cùng tiến lên ngang hàng với quân Biệt Cách Dù. Sự yêu cầu không được đáp ứng, vì quân số của quân trú phòng đã hao hụt và bất khiển dụng quá nhiều, do đó cạnh sườn của Biệt Cách Dù bị bỏ trống. Lợi dụng sơ hở này, Cộng quân phản công mãnh liệt bằng hai mũi tấn công, mũi thứ nhất đánh trực diện từ hướng đồi Ðồng Long có sự yểm trợ của cối 61 ly, cối 82 ly và sơn pháo 75 ly, mũi thứ hai từ phía Tây đánh thốc vào ngang sườn với quân số khá đông. Trước tình huống phải đối đầu phía trước mặt và phía ngang hông, Biệt Cách Dù phải rút quân về phía khu chợ Mới, tuy nhiên vẫn còn để lại một Ðại Ðội cố thủ trong đồn cảnh sát.
Ðồn cảnh sát đương nhiên trở thành một tiền đồn án ngữ lẻ loi phía Bắc Thị Xã, một tiền đồn bất đắc dĩ mà không thể nào bỏ trống được, và nơi đây là một cái gai mà Cộng quân bằng mọi cách phải nhổ đi, do đó muốn duy trì vị trí chiến thuật quan trọng đó, phải đổ máu rất nhiều. Biệt Cách Dù chấp nhận sự lựa chọn này để giữ vững tiền đồn suốt một thời gian dài.
Sự tham chiến của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù đã làm cho An Lộc hồi sinh sau cơn mê dài hấp hối, và sự có mặt của Biệt Cách Dù đã mở màn cho những trận đánh ác liệt xảy ra trong lòng Thị Xã.
Ðêm 19-04-1972 Cộng quân sử dụng Trung Ðoàn 141 và Trung Ðoàn 275 có xe tăng yểm trợ tấn công Ðồi Gió sau khi rót vào vị trí này hàng ngàn quả đạn pháo, tiêu diệt 6 khẩu pháo 105 duy nhất của pháo đội Nhảy Dù và tràn ngập Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù của Trung Tá Ðĩnh đang án ngữ tại đây, đồng thời pháo kích dữ dội vào An Lộc để chuẩn bị cho hai mũi tấn công từ hướng Tây và hướng Bắc thành phố. Trận đánh kéo dài suốt đêm, tuyến phòng thủ vẫn đứng vững trước chiến thuật biển người của Cộng Sản. Riêng khu Bắc Thị Xã, Biệt Cách Dù và Cộng quân giao tranh ác liệt, có khi chỉ cách nhau một con đường bề ngang 4 thước trong tầm ném tay của lựu đạn.
Mất đồi Gió, một cao điểm quan trọng nằm bên ngoài phạm vi phòng thủ với 6 khẩu pháo 105 ly còn lại duy nhất để yểm trợ, An Lộc càng lúc càng thấy cô đơn trong mênh mông bão lửa. Môt số quân của Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù do Trung Tá Ðĩnh chỉ huy chạy thoát về sông Bé hướng Ðông, vả được trực thăng cứu cấp bốc về Lai Khê tái huấn luyện và bồ sung quân số chờ ngày phục hận.
Cuộc chiến giảm dần cường độ vì sự thiệt hại của hai bên công – thủ.
Bên ngoài phạm vi phòng thủ, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù đã là một thành đồng vững chắc án ngữ mặt Ðông Nam, bên trong thành phố, Biệt Cách Dù mở cuộc tấn công đêm liên tục, đánh phá những vị trí Cộng quân chiếm giữ, làm cho chúng ăn không ngon, ngủ không yên. Ngoài ra sự oanh tạc của B.52 gần An Lộc đã gây tổn thất rất nhiều cho địch quân, tuy nhiên mức độ pháo kích của Cộng quân vẫn đều đặn rót vào An Lộc khoảng 2,000 quả đạn mỗi ngày.
Bên phố chợ, người dân ngậm ngùi nhìn thấy những nấm mồ của tử sĩ Biệt Cách Dù mỗi ngày một nhiều hơn. Họ đánh nhau hằng đêm và hì hục chôn xác bạn bè hằng đêm trong mưa pháo tuôn rơi, khi mặt trời chưa thức giấc. Sống, chiến đấu bên nhau trong cuộc hành trình gian khổ để tiêu diệt quân thù trên khắp nẻo đường đất nước, lòng thuỷ chung và tinh chiến hữu keo sơn chan hoà thắm thiết khi có người nằm xuống, vĩnh viễn ra đi. Hình ảnh nghĩa trang Biệt Cách Dù đã nói lên điều đó.
AN LỘC, CHIẾN TRƯỜNG ÐI KHÔNG HẸN
Theo lời cung khai và thú nhận của tù hàng binh Cộng Sản mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bắt được, có ba thứ mà cán binh Cộng Sản lo sợ khi vượt Trường Sơn để xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà. Thứ nhất là B.52, thứ nhì là Biệt Kích số 81, và thứ ba là chạm súng với quân Nhảy Dù. Cả ba thứ đó đều hiện hữu và có mặt tại chiến trường An Lộc.
Liên Ðoàn Biệt Cách Nhảy Dù, dân Miền Nam thường gọi tắt là Biệt Cách Dù, Việt Cộng gọi là Biệt Kích số 81, thực ra là đơn vị Tổng Trừ Bị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, với quân số khiêm nhường trên bảng cấp số là 916 người, được đào tạo và huấn luyện thuần thục về chiến thuật phản du kích trong chiến tranh ngoại lệ, nhảy toán, thám sát, đột kích, bắt cóc tù binh, đánh phá vào các cơ sở hậu cần của địch. Nhảy vào lòng đất địch để chiến dấu bằng phương tiện nhảy dù, nhưng phần lớn bằng trực thăng vận, âm thầm hoạt động trong vùng khu chiến, cách biệt xa tầm yểm trợ của pháo binh. Bước chân của người chiến binh Biệt Cách Dù đã lần lượt đi qua các chiến trường sôi động một thời vang danh quân sử.
Từ Làng Vei, A Sao, A Lưới, Tà Bạt, Khe Sanh, Lao Bảo quanh năm sương mờ bao phủ của vùng biên giới Việt Lào, vượt lên phương Bắc hoả tuyến với Mai Lộc, Cam Lộ, Ðông Hà, Quảng Trị và xuôi về vùng núi rừng cận duyên của Tam Quan, Bình Ðịnh, Bồng Sơn, An Lão. Ði miệt mài, hành quân không ngơi nghỉ để về Tây Nguyên với Boloven hùng vĩ, đổ xuống Tam Biên, đi Tân Cảnh, Diên Bình và tạm dừng chân, nâng chén quan hà bên bờ sông Dakbla nước chảy ngược dòng của chiến trường Kontum mịt mờ bụi đỏ. Tây Ninh nắng cháy nung người không làm nao lòng chiến sĩ, Bình Giả, Ðồng Xoài nặc nồng mùi tử khí. Khi chiến trường im tiếng xung phong thì bước chân của người chiến binh Biệt Cách Dù vẫn còn dong ruổi trong cuộc hành trình vô định.
Vào An Lộc, chiến trường nặng độ với trung bình mỗi ngày hơn hai ngàn đạn pháo, chiến trường cô đơn khi tổn thất của quân tử thủ mỗi lúc một gia tăng, đánh đêm đánh ngày, dằng dai khi công, khi thủ ròng rã kéo dài suốt tháng.
Cứ mỗi lần Cộng quân gia tăng cường độ pháo kích vào thành phố lả để chuẩn bị cho cuộc tấn công bằng bộ binh ngay sau đó.
Ðêm 04-05-1972, Cộng quân ồ ạt tấn công vào phòng tuyến phía của Biệt Cách Dù.
Ở thế công thì dù sao cũng có ít nhiều sơ hở nhưng khi Biệt Cách Dù ở vào thế thủ thì một con kiến cũng khó lọt qua. Lựu đạn, mìn thi nhau nổ, AK, súng máy rít vang trời. Trận đánh kéo dài đến sáng tỏ trời. Xác địch nằm la liệt, ngổn ngang bên ngoài phòng tuyến. Lần đầu tiên trong trận địa chiến, Biệt Cách Dù tịch thu được 2 khẩu súng phun lửa do Trung Cộng sàn xuất. Trong túi áo của mỗi xác chết đề có mang theo một mảnh giấy nhỏ bề ngang 5 phân, bề dài 20 phân với câu viết ngắn gọn :”Quyết tâm bắt sống Sư Trưởng Sư Ðoàn 5, dựng cờ chiến thắng”. Thì ra bọn này có học tập trước khi lao mình vào tử địa.
Ngày 10-05-1972, Cộng quân bắt đầu pháo kích dữ dội từ 5 giờ sáng, pháo liên tục dòng rã suốt ngày. Người ta đếm có hơn 8,000 quả đạn pháo rơi xuống thành phố. Nhà cửa đã hoang tàn lại thêm hoang tàn. Người ta tiên liệu một cuộc tấn công lớn của Cộng quân sắp xãy ra và trận đánh lớn nổ tung lúc 5 giờ sáng ngày 11-05-1972 với toàn bộ lực lượng còn lại của 4 Sư Ðoàn đang vây hãm An Lộc.
Ðịch ồ ạt tiến vào thành phố từ nhiều phía. Tuyến phòng thủ phía Ðông Bắc của Biệt Ðộng Quân bị thủng, một số Cộng quân lọt vào Ty Chiêu Hồi. Xe tăng T54 xuất hiện nhiều nơi trong thành phố, có chiếc tiến lại gần bản doanh tử thủ của Tướng Lê Văn Hưng và bị bắn cháy. Xe tăng và quân bộ chiến của Cộng Quân bị chặn đứng tại phòng tuyến của Biệt Cách Dù. Trời sáng tỏ và trận đánh trở nên ác liệt. Phòng tuyến phía Tây của Trung Ðoàn 7 Bộ Binh bị thủng và co cụm lại thành từng ổ kháng cự chung quanh Tiểu Khu. Không Quân can thiệp kịp thời, dội bom bên ngoài, bắn phá bên trong thành phố. Xe tăng của Cộng Sản và bộ đội không phối hợp chặt chẽ với nhau khi tấn công vào thành phố, do đó nhiều chiếc xe tăng chạy lạc đường, bị lẻ loi, dễ bị tiêu diệt. Quân trú phòng nhảy ra khỏi vị trí chiến đấu để săn đuổi xe tăng như thợ săn đang săn đuổi con mồi. Ðây là lần thứ hai xe tăng địch đã vào thành phố để biến thành những khối sắt bất động. Ðơn vị nào cũng bắn cháy được xe tăng, kể cả một số ít Ðịa Phương Quân còn lại cũng hăm hở diệt tăng với khẩu M.72 lần đầu tiên được sử dụng. Trận đánh tàn dần lúc 3 giờ chiều với sự thiệt hại nặng nề của Cộng quân. Người ta đếm được 40 xác chiếc xe tăng rải rác đó đây trong thành phố và ngoài tuyến phòng thủ, không kể đến hàng loạt thi thể không toàn vẹn của những người lính đến từ phương Bắc xa xôi. Tuy nhiên An Lộc vẫn còn nằm trong khả năng pháo kích ngày đêm của Cộng Sản, An Lộc vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của lực lượng bao vây khi quốc lộ 13 chưa được giải toả.
Sư Ðoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà với nhiệm vụ giải toả quốc lộ 13, mặc dù tiến quân chậm và vững chắc cũng bị thiệt hại nhiều.
Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù đã lấy lại sinh lực sau lần thất bại tại Ðồi Gió đã trở lại tham chiến và là đơn vị đầu tiên của lực lượng giải toả tiến về An Lộc sau bao trận đánh phục thù ven quốc lộ 13.
Ngày 08 tháng 06 năm 1972 lúc 5 giờ chiều, Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù đến Xa Cam bắt tay vói Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù do Trung Tá Ðào Thiện Tuyển đang án ngữ tại đây. Xa Cam, cửa ải địa đầu cực Nam An Lộc, khoảng 2 cây số nằm ven quốc lộ 13, một đồn điền với rừng cao su ngang dọc thẳng tắp đã trở thành chiến địa mà Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù “nhất kiếm trấn ải” tung hoành trong suốt thời gian gần hai tháng để chiến đấu sống còn với lực lượng địch quân có quân số và hoả lực đông và mạnh gấp nhiều lần.
Cái bắt tay của Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù với Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù như một tiếng sấm vang trời trong cơn mưa tầm tã báo hiệu trời quang mây tạnh sẽ đến. Những người lính Nhảy Dù truyền hơi ấm cho nhau, mỉm cười với ánh mắt long lanh tin tưởng vào ngày tàn của Cộng quân trong chiến trường An Lộc.
Ngày 10 tháng 06 năm 1972, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù tung toàn bộ lực lượng quét sạch tất cả các ở kháng cự của Cộng quân trong các khu phố phía Bắc Thị Xã, bắt được một tù binh đang thúc thủ dưới hầm sâu. Ðây là một tên bộ đội thuộc Sư Ðoàn 5 Cộng Sản Bắc Việt, sau hơn 6 tháng vượt Trường Sơn để bổ sung cho chiến trường với nhiệm vụ “anh nuôi”. Anh nuôi là tiếng của Việt Cộng dùng để chỉ những tên lính chuyên lo việc bếp núc, nấu ăn cho đơn vị. Gương mặt hốc hác vì hoảng sợ, nước da xanh như tầu lá vì thiếu ánh nắng mặt trời và tay chân hơi run rẩy vì thiếu ăn, Tên bộ đội lắp bắp khai: “Ðơn vị hết người chiến đấu vì bị chết quá nhiều, cho nên Thủ Trưởng bắt buộc em cầm súng ra trận. Em chưa bắn một phát nào, đến đây đã được ba ngày cứ lo đào hầm để tránh bom”. Lời cung khai của tên bộ đội khoảng 18 tuổi với gương mặt non choẹt còn phơn phớt nét thơ ngây của tuổi học trò đã nói lên tình trạng tổn thất bi đát của lực lượng Cộng quân sau gần 2 tháng bao vây và tấn công mà không chiếm nổi An Lộc.
Ngày 12 tháng 06 năm 1972, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù tái chiếm đồi Ðồng Long, một cao điểm quan trọng nằm sừng sững phía Bắc, cách An Lộc khoảng 500 thước.
Lực lượng tấn công tái chiếm đồi Ðồng Long gồm Ðại Ðội 2 Xung Kích do Ðại Úy Nguyễn Sơn chỉ huy, Ðại Ðội 3 Xung Kích do Ðại Úy Phạm Châu Tài chỉ huy, và 4 toán Thám Sát do Trung Úy Lê Văn Lợi chỉ huy. Biệt Cách Dù chia làm 3 mũi, bọc trái, bọc phải và chính diện hưóng về mục tiêu trước mặt có cao độ 128 thước. Họ xuất quân và đến lưng chừng đồi lúc nửa đêm, đồng loạt xung phong khi hừng đông vừa ló dạng chân trời. Bị đánh bất ngờ và vô cùng táo bạo, lựu đạn tung vào hầm trú ẩn, đạn bắn xối xả vào công sự chiến đấu, những tiếng hét xung phong vang dội một góc trời. Ðịch quân chủ quan và còn mê mệt trong tình trạng ngái ngủ, trở tay không kịp, khoảng hốt bỏ chạy không có thì giờ xỏ chân vào đôi dép râu, nói chi cầm đến khẩu súng để chống trả.
Một số chạy thoát vào rừng để lại sau lưng chiến địa còn nặng mùi khói súng với nhiều xác chết vương vãi đó đây.
Ðột kích là phương pháp tấn công vô cùng táo bạo, đánh nhanh, đánh mạnh với hoả lực tập trung tối đa được Biệt Cách Dù áp dụng trong thời điểm bất ngờ nhất làm cho địch không có thì giờ xoay trở.
Trung Úy Lê Văn Lợi hãnh diện cắm lá Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hoà trên đỉnh đồi Ðồng Long.
Quốc Kỳ rực rỡ căng gió phất phới bay trên nền trời xanh biếc của mùa hè vùng bão lửa. Ðám mây mờ bao phủ vùng trời An Lộc bấy lâu nay lần lần tan biến. Trung Tá Phan Văn Huấn, con chim đầu đàn của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, vào tần số liên lạc với các cánh quân Biệt Cách Dù đang có mặt trên đỉnh đồi Ðồng Long, giọng cảm động, ông nói : ”Chúng ta đã chu toàn nhiệm vụ cao cả nhất mà quân đội đã giao phó, nhiệm vụ phải trả bằng xương máu của các anh em, của các tử sĩ Biệt Cách Dù đã nằm xuống. Tôi thành thật ca ngợi lòng dũng cảm của anh em trong chiến tích hôm nay”.
Chiếm xong đồi Ðồng Long, Biệt Cách Dù truy kích, lục xoát xung quanh, và phát hiện một căn hầm sâu ven rừng, có tiếng động khả nghi bên trong. Tất cả họng súng đen ngòm hướng vào miệng hầm chờ đợi như con hổ rình mồi. Có tiếng hét lớn từ trong đám lính:
- Chui ra ngay, đầu hàng ngay, tao tung lựu đạn vào chết cả đám bây giờ!
- Khoan, dừng tay, coi chừng bắn lầm vào dân! Tiếng nói khẩn cấp của người chỉ huy từ xa vọng lại. Tất cả đều chờ đợi. Bước lại gần miệng hầm, người chỉ huy nói to:
- Chúng tôi là lính Việt Nam Cộng Hoà. Ai trốn trong hầm thì chui ra mau.
Câu nói được lập lại lần thứ hai. Có tiếng thút thít bên trong hầm vọng ra.
- Ra di, chui ra đi, không sao đâu!
Tiếng người lính thúc dục. Tiếng động bên trong rõ dần. Những ánh mắt long lanh của những chiến binh Biệt Cách Dù chùng xuống khi thấy hai em bé gái 9, 10 tuổi lê lết tấm thân tàn, chậm rãi bò ra khỏi căn hầm trú ẩn.
- Trời ơi! Hai đứa bé gái! Ba má các em đâu, sao lại như thế này? Còn ai trong đó không?
Người chỉ huy nắc nghẹn giọng nói. Hai em bé mặt mũi lem luốc, mắt mờ đẵm lệ, thân mình khô đét như hai bộ xương biết cử động, chỉ lắc đầu sau những câu hỏi dịu dàng của người chỉ huy Biệt Cách Dù. Hai em bé đã tránh bom đạn trong căn hầm này bao lâu rồi, một tháng, hai tháng, lấy gì ăn để sống đến nỗi thân thể phải xác xơ như thế này!
Ôi chiến tranh! Chiến tranh tàn khốc mà người Cộng Sản đã mang đến cho dân tộc mình như thế đó.
AN LỘC ÐỊA SỬ LƯU CHIẾN TÍCH
Kể từ ngày cắm lá Quốc Kỳ trên đỉnh Ðồng Long, Biệt Cách Dù bung ra khỏi thành phố và án ngữ trong các khu rừng phía Bắc An Lộc. Thành phố tuy sạch bóng quân thù, nhưng mức độ pháo kích vẫn còn rời rạc, vô chừng.
An Lộc đã được giải toả trong điêu tàn và đổ vỡ! An Lộc sụp đổ hoang tàn trong cái hình hài đấy vết đạn bom, nhưng An Lộc đã đi vào huyền thoại của những người tử thủ.
Trong hoang tàn và đổ vỡ của một thành phố đã chịu đựng sức tàn phá hãi hùng của đạn bom, hai câu thơ của cô giáo Pha được Biệt Cách Dù cứu thoát khi bị thương, được khắc trên đài tưởng niệm trước nghĩa trang bên phố chợ đìu hiu, mà trong đó 68 nấm mồ của tử sĩ Biệt Cách Dù được chôn vội vã từng đêm khi chiến trận tàn khốc xảy ra đã làm mủi lòng dân cả nước với lòng ngưỡng mộ và niềm xúc cảm vô biên.
Sau khi đồi Ðồng Long được tái chiếm, thành phố An Lộc xem như được giải toả, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 lần đầu tiên đến thăm An Lộc và Trung Tá Phan Văn Huấn, Chỉ Huy Trưởng Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, là người đầu tiên được vinh thăng Ðại Tá tại mặt trận. Tác giả Sao Bắc Ðẩu, trong cuốn “Một ngày trong An Lộc”, trang 296 và 297 đã ghi lại việc thăng cấp như sau:
“Một ông Ðại Tá mặt trận"
Trung Tướng Minh cẩn thận giải thích rằng không phải chỉ riêng Trung Tá Huấn, Chỉ Huy Trưởng Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù là có công, là xứng đáng được tặng thưởng. Sở dĩ ông cẩn thận như vậy là ngại có người sẽ hỏi: “Tại sao chỉ một mình Trung Tá Huấn được thăng cấp tại mặt trận?”. Tướng Minh cẩn thận như vậy cũng phải, nhưng trên thực tế, không ai có ý phân bì với tân Ðại Tá Huấn cả. Những người lính Biệt Cách của ông đã chiến đấu hơn một người lính và đã giúp đỡ dân chúng hơn một cán bộ Chiến Tranh Chính Trị.
Chính một binh sĩ của Tiểu Ðoàn 2 Nhảy Dù đã xác nhận với chúng tôi rằng đó là “những người lính tuyệt”. Một người khác kể lại rằng nếu không gặp lính Biệt Cách thì hai đứa trẻ nằm trong hầm 70 ngày đã chết vì lựu đạn. Anh này khẳng định:
- Miệng hầm trông khả nghi lắm. Lại nghe văng vẳng có tiếng động. Gặp người nhát là phải tung lựu đạn trước khi xuống.
Nhưng những anh Biệt Cách của Ðại Tá Huấn đã không tung lựu đạn xuống. Họ kiên nhẫn nằm trên miệng hố rình rập vì họ nghĩ rằng dù có lính Bắc Việt phía dưới thì những người này cũng đói lả không còn sức kháng cự nữa. Cuối cùng họ đã cứu sống được hai em nhỏ, nạn nhân chiến cuộc.
Tôi hỏi vị Ðại Tá tân thăng:
- Người ta nóí với chúng tôi rằng dân chúng An Lộc lập một nghĩa trang riêng để chôn những tử sĩ của Ðại Tá. Xin Ðại Tá cho chúng tôi hiểu rõ vì lý do nào, ngưòi lính Biệt Cách lại có một tác phong đặc biệt đối với dân chúng như vậy?
- Tôi thiết tưởng điều này cũng dễ hiểu. Anh nghĩ coi, từ trước đến nay, lính Biệt Cách chúng tôi chỉ nhảy từng toán 5 người vào tác chiến sau lưng địch. Nói một cách khác, chúng tôi đã quen sống với thái độ thù địch của dân chúng trong vùng chiến dấu. Ðây là lần đầu tiên chúng tôi là bạn chứ không phải là thù, dân chúng giúp đỡ chứ không chống lại chúng tôi”.
Biệt Cách Dù nhảy vào An Lộc ngày 16-04-1972 và rời khỏi An Lộc ngày 24-06-1972. tình ra đúng 68 ngày tham chiến.
68 ngày tử chiến với 68 Biệt Cách Dù hy sinh và trên 300 bị thương, trong mưa pháo kinh hoàng, ngày cũng như đêm không tròn giấc ngủ, đục tường, khoét vách, đào hầm để giành lại từng tấc dất trong tay quân thù. Chiến đấu trong từng căn nhà, từng khu phố, từng đoạn đường lỗ chỗ hố bom, vùng lên diệt xe tăng cũng như đồng loạt truy kích khi địch đã tàn hơi, và cuối cùng cắm lá Quốc Kỳ trên đỉnh Ðồng Long tượng trưng cho sự chiến thắng, hình ảnh người chiến binh Biệt Cách Dù mãi mãi sống trong tâm hồn người dân An Lộc, hình ảnh dũng cảm, can trường biểu tượng cho sự chịu đựng bền bỉ, sức chiến đấu hào hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
48 giờ sau khi rời khỏi chíến trường An Lộc, ngày 26-06-1972, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù đã có mặt tại miền hoả tuyến để tham gia chiến dịch “ba tháng vùng lên tái chiếm Quảng Trị”. Còn giặc thù, còn chiến trường, người chiến binh Biệt Cách Dù vẫn còn xông pha tiến bước, dù một lần sảy chân nằm yên trong nghĩa trang hiu quạnh thì đó cũng là một điều vinh quang cho người chiến sĩ để báo đền ơn Tổ Quốc.
Phạm Châu Tài
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
Tôi muốn nhắn nhủ chú daibac một điều . Tôi mở trang này như đầu đề đã nói không đả kích bất cứ cá nhân nào hay một đoàn thể . Các bạn nào thích thì vào đọc không thích thì đi ra khỏi trang này .
Trang này không phải là trang để post bậy bạ với những lời nói như chú , chú nên tự trọng bản thân mình nếu nghĩ rằng mình là con người có hiểu biết và học thức . Hy vọng chú hiểu những gì tôi nói .
Tao dốt, nhưng rất ghét lũ nào nói tào lao xích đế, nên phải "mở miệng" để cho thế hệ sau không bị "tuyên truyền" 1 chiều cái đần độn, cái ngu ngốc, cái bất lực của 1 chế độ chỉ biết tranh giành quyên lực với nhau, khi đất nước có chuyện thì thằng nào thằng nấy chạy đến quên mặc.... xà lỏn...
Với tao, sự thất bại, cái sự cố đào ngũ trước địch quân của lũ ba-que là 1 nỗi ô nhục vạn kiếp. Thế hệ sau phải hiểu rõ điều đó nên không thể "vinh danh" những sự hèn mạt, những cái không có. "Sai chỗ nào phải biết đứng lên chỗ đó"... Dẹp đi lối sống trong "mộng tưởng"... Những.. lối NẾU MÀ...những TẠI.. những BỊ....
Tao dốt, nhưng rất ghét lũ nào nói tào lao xích đế, nên phải "mở miệng" để cho thế hệ sau không bị "tuyên truyền" 1 chiều cái đần độn, cái ngu ngốc, cái bất lực của 1 chế độ chỉ biết tranh giành quyên lực với nhau, khi đất nước có chuyện thì thằng nào thằng nấy chạy đến quên mặc.... xà lỏn...
Với tao, sự thất bại, cái sự cố đào ngũ trước địch quân của lũ ba-que là 1 nỗi ô nhục vạn kiếp. Thế hệ sau phải hiểu rõ điều đó nên không thể "vinh danh" những sự hèn mạt, những cái không có. "Sai chỗ nào phải biết đứng lên chỗ đó"... Dẹp đi lối sống trong "mộng tưởng"... Những.. lối NẾU MÀ...những TẠI.. những BỊ....
Chú DỐT hay KHÔN đó là chuyện của chú không dính dáng gì đến trang của lính . Bởi vì trang này không phải là trang BÌNH LUẬN , BÀN CẢI .
Đây chỉ trang của lính đưa những người đã từng tham dự vào các chiến trận . Dĩ nhiên nó bao gồm tổng quát các binh chủng .
Tôi cũng không đả kích chú ở đây vì ở đầu đề tôi đã nói rõ ..ok
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Thiếu tá Phạm Châu Tài hồi trẻ rất bảnh tỏn, có thi thể hình .... Chơi nướng mấy con cua ở giờ thứ 25 làm v+ tức lắm.
Có điều, khi ông chất vấn Tổng Thống Thiệu năm 93 thì quá dỡ, Lan anh ko thích mấy.
Bác Hoàng Lan đừng tự ái nhe hí hí hí .....
Mỗi người đều có ý nghĩ riêng , Bác đồng ý ngay cả Bác cũng nhiều khi chống lại lệnh của ông này nhưng theo quân lệnh là phải làm theo thi hành trước khiếu nại sau: hafppy:
Cháu đừng lo bác không có cái tính tự ái trong lòng . Xét mình và xét nguồi:hafppy :
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
.....
Tôi cũng không đả kích chú ở đây vì ở đầu đề tôi đã nói rõ ..ok
Mày có khoái "đả kích" tao hay không thì tao cũng éo có care.... nhưng tao sẽ tiếp tục vạch trần những cái ô nhục, cái đốn mạt, cái đần dộn, cái ngu xuẩn cuả một cái-gọi-là "tổ quốc" mà éo có chu toàn trách nhiệm của mình..... Để rồi bây giờ... "ăn mày quá khứ" kể chuyện "tào lao xích đế".... Mẹ kiếp! Chỉ nghĩ tới thôi mà máu tao đã sôi lên rồi....
Mày có khoái "đả kích" tao hay không thì tao cũng éo có care.... nhưng tao sẽ tiếp tục vạch trần những cái ô nhục, cái đốn mạt, cái đần dộn, cái ngu xuẩn cuả một cái-gọi-là "tổ quốc" mà éo có chu toàn trách nhiệm của mình..... Để rồi bây giờ... "ăn mày quá khứ" kể chuyện "tào lao xích đế".... Mẹ kiếp! Chỉ nghĩ tới thôi mà máu tao đã sôi lên rồi....
Vậy thì bạn mở cái thread khác để vạch trần gì đó thì vạch…tôi hoan hô và ủng hộ bạn chăm phần chăm chớ bạn không thể cấm người ta viết “tào lao xích đế” trong cái thread của người ta được…bạn hiểu chứ!
Tui đang chờ bạn viết ra cái “chỉ nghĩ tới thôi” mà bạn đã sôi máu lên rồi…! Cám ơn trước
Mong đọc được những điều hay tư tưởng cao xa…để tui học hỏi
The Following 4 Users Say Thank You to tbbt For This Useful Post:
Vậy thì bạn mở cái thread khác để vạch trần gì đó thì vạch…tôi hoan hô và ủng hộ bạn chăm phần chăm chớ bạn không thể cấm người ta viết “tào lao xích đế” trong cái thread của người ta được…bạn hiểu chứ!
Tui đang chờ bạn viết ra cái “chỉ nghĩ tới thôi” mà bạn đã sôi máu lên rồi…! Cám ơn trước
Mong đọc được những điều hay tư tưởng cao xa…để tui học hỏi
Chỉ sợ ko ai dám đọc vì toàn là cống Bolsa, cứt đái, dơ dáy ko thì ai mà thèm vào coi .....
:haf ppy:
The Following 2 Users Say Thank You to Lan-Anh For This Useful Post:
Vậy thì bạn mở cái thread khác để vạch trần gì đó thì vạch…tôi hoan hô và ủng hộ bạn chăm phần chăm chớ bạn không thể cấm người ta viết “tào lao xích đế” trong cái thread của người ta được…bạn hiểu chứ!
Tui đang chờ bạn viết ra cái “chỉ nghĩ tới thôi” mà bạn đã sôi máu lên rồi…! Cám ơn trước
Mong đọc được những điều hay tư tưởng cao xa…để tui học hỏi
Quote:
Originally Posted by Lan-Anh
Chỉ sợ ko ai dám đọc vì toàn là cống Bolsa, cứt đái, dơ dáy ko thì ai mà thèm vào coi .....
Mến tặng và nhớ đến những chiến sĩ QĐ VNCH, nhất là thuộc binh chủng Nhảy Dù, đã tham dự Hành Quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào.
Sau một thời gian nằm chờ ở Khe Sanh, vào đầu một ngày N tháng 2, 1971, trong đợt trực thăng vận đầu tiên, Tr. úy Phạm Đồng dẫn đầu trung đội 2 của Đại Đội 33 thuộc TĐ3ND, nhảy xuống một ngọn đồi trọc vô danh mang ám số 31 trên bản đồ, mở đầu cho cuộc Hành Quân Lam Sơn 719. Nhiệm vụ: lập đầu cầu, mở rộng vòng đai an toàn cho các đơn vị kế tiếp đến sau: Bộ Chỉ Huy TĐ3ND của Tr. tá Lê Văn Phát, gồm luôn cả Tr. tá Phan Hy Mai, LĐoàn Phó LĐ3ND cùng ĐĐ 30 chỉ huy công vụ, Pháo Đội B3 của Đ. úy. Nguyễn Văn Đương, và cuối cùng là BCH của Lữ Đoàn 3ND với Đại Tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng với ban tham mưu. Mấy ngày đầu tiên, tình hình êm ru, nhưng qua mấy ngày sau, địch bắt đầu pháo kích lai rai, không chính xác, dò dẫm
Hình chụp cuối năm 1970 của Tr. úy Phạm Đồng, trung đội trưởng #2 /ĐĐ 33 / TĐ3ND
Trước khi được không vận ra Khe Sanh, TĐ3ND của Tr. úy Đồng vừa xong cuộc hành quân ở Tây Ninh. Thời gian nghỉ ngơi ở hậu cứ chưa được bao lâu thì đơn vị anh lại có mặt nơi này. Từ ngày Đồng tình nguyện vào ND cuối tháng 9, 1968, trong nhóm 8 Chuẩn úy cùng khoá Thủ Đức bổ sung vào TĐ3ND, nay chỉ còn một mình anh. Đồng cầm trung đội 2 của đại đội 33 từ lúc đầu quân vào TĐ3ND cho đến giờ phút này, đã xuôi ngược từ Nam ra Bắc, rồi lại Đông sang Tây, đã qua bao nhiêu miền đất nước, đã trăn trở trước sự hoang tàn của quê hương và thấm thía bụi đường của nổi niềm người chinh nhân.
Đôi khi Đồng muốn mơ về một ngày yên bình trở lại nhưng vẫn không thể hiểu nên khởi điểm giấc mơ từ nơi đâu - Ở ngay trên chiến trường vừa kịp tan khói súng? Ở trên làng mạc đổ nát còn mang tàn tích của chiến tranh? Hay ở ngay Huế của Đồng, nơi mà anh rời sau Mậu Thân 68 với những ám ảnh kinh hoàng chưa tan, những vành khăn tang chưa nguôi, những đau thương mất mát chết lịm trong tim? Giờ đây, với 25 năm tuổi đời và gần 3 năm kinh nghiệm chiến trường, Đồng cùng 26 mống của trung đội 2 của anh đang có mặt tại Đồi 31 này, nào là Thượng sĩ trung đội phó Đàng, các hạ sĩ quan Biên, Sâm, Muôn, Yến..và các binh sĩ Thông, Chính, Kiều, Chí, Sỹ, Nam, Phi, Quá, Dũng, Vân, Hải, Mão, Ngạt, Xuất, Thuận, Vượng, Kỳ, Phú, Yên… Trong cương vị chỉ huy một đơn vị tác chiến nhỏ nhoi, anh thầm đoán cuộc hành quân này sẽ rất gay go và tự hỏi rồi đây, những ai trong đám người này sẽ để thân xác lại nơi đây và những ai sẽ còn cơ hội trở về lại bên kia biên giới?!
Trong khoảng thời gian ấy, ở một nơi xa hơn, có một Th. Úy Không Quân Bùi Tá Khánh đóng quân tại sân bay Đà Nẳng. Là một hoa tiêu trực thăng, anh phục vụ phi đoàn 219 Long Mã, Không Đoàn 51 của Sư Đoàn 1 Không Quân. Phi đoàn 219, hậu thân của Biệt Đoàn 83 trước đây khi còn trực thuộc vào Phòng 7 Nha Kỷ Thuật của Bộ Tổng Tham Mưu, có trách nhiệm thả người, đưa đón và yểm trợ những toán biệt kích Lôi Hổ, những đơn vị tiền thám đi sâu vào lòng địch, tận trong các mật khu biên giới hay ngay cả phía Bắc vĩ tuyến, để lấy tin tức, gây rối và phá hoại các căn cứ hậu cần của địch. Vì vậy, mọi phi cơ của phi đoàn 219, và nhất là loại trực thăng H34, đều sơn một màu xanh đen, không mang phù hiệu hay bất cứ một dấu vết nào để giữ sự an toàn và bí mật.
Th. Úy KQ Khánh vốn gốc Hà Nội, di cư vào Nam sau 1954 cùng với gia đình. Anh gia nhập Không Quân sau khi hoàn tất trung học và được gởi đi huấn luyện phi hành trực thăng tại Hoa Kỳ. Một tuần sau khi tốt nghiệp và trở về lại Viện Nam, Khánh trình diện Bộ Tư Lệnh Không Quân và được đưa về phục vụ Phi Đoàn 219 từ cuối năm 1969. Như bao nhiêu bạn KQ khác thường xuyên đảm nhận những phi vụ nguy hiểm, anh sớm có khái niệm về chiến tranh rất rỏ ràng, và luôn cố gắng sống đúng với tinh thần làm trai thời loạn. Với ánh mắt cương nghị, vẻ mặt khí khái của một đấng nam nhi sớm si mê sự rộng lớn của không gian và màu xanh thẳm của bầu trời, cao ráo trong bộ đồ phi hành màu đen, anh bình thản đi vào cuộc chiến bảo vệ quê hương với tấm lòng tràn đầy nhiệt huyết của một thanh niên khi tổ quốc lâm nguy. Vào tháng 2, 1971, phi đoàn 219 của anh ứng chiến cho cuộc Hành Quân Lam Sơn 719, anh vừa tròn 22 tuổi, và là phi công phụ trong chiếc trực thăng H34.
Những ngày đầu và cả tuần sau khi đặt chân lên Đồi 31, trung đội 2 của Đồng lo đào hầm, cũng cố vị trí chiến đấu cho đơn vị của mình, và cùng với Đại Đội 33 đảm nhận bảo vệ an ninh, phòng thủ vòng đai lớn cho Đồi 31, bảo vệ bãi đáp trực thăng trên yên ngựa cho những chuyến chuyên chở liên tục của các trực thăng Chinook lặc lè đạn pháo, rồi những khẩu pháo 105 cùng các pháo thủ, xe ủi đất hoàn tất các hầm kiên cố chỉ huy cho Bộ Chỉ Huy LĐ3ND, cho Bộ Chỉ Huy TĐ3ND và cho 6 vị trí đặt súng 105 ly của pháo đội B3.
Ngày N + 9, sau khi bàn giao nhiệm vụ bảo vệ và phòng thủ Đồi 31 lại cho ĐĐ 32 của Đ. Úy Thiếp cùng với Đại Đội Công Vụ 30 của Đ. Úy Toán, trung đội 2 của Đồng cùng ĐĐ 33 dưới quyền chỉ huy của Đ. Úy Lê Thành Bôn, được điều động bung ra 2-3 cây số bên ngoài về hướng Bắc của Đồi 31. Trong khi ấy, ĐĐ 31 của Đ. Úy Ngô Tùng Châu bung về hướng Đông và ĐĐ 34 của Đ. Úy Trương Văn Vân về phía Nam. Nhiệm vụ: lục soát, tảo thanh, sẳn sàng giao tranh và đánh phá lực lượng địch. Trước khi rời Đồi 31, Đồng e dè cân nhắc nhiệm vụ của từng binh sĩ, từng toán khinh binh, xung kích, yểm trợ hay hỏa lực, để có sự hữu hiệu tối đa của từng cây súng M16 cá nhân hay M60 cộng đồng, phóng lựu M79 hay hỏa tiển cầm tay M72 khi cần xung phong, lúc cần bổ xung cho nhau, xé nhỏ các đội hình, coi lại trang bị... Và chính anh sẽ dẫn đầu một trong 2 toán khinh binh đi mở đường.
“Đang chông chênh bên triền núi cách trục chính chừng năm mươi mét, khoảng cách đủ tầm quan sát trên địa thế hẹp và rậm rạp cỏ tranh, sim rừng:
…Ầmmmm… toctoctoc…toctoctoc… toctoctoc
Ngay trên nếp gấp khúc của địa hình, chúng tôi chạm địch ở hướng chính, loạt đạn đầu tiên của họ là một sự phối hợp nhịp nhàng của B40 và AK47, sau đó là âm thanh ồm ồm của trọng liên, trên máy tôi nghe On báo cáo đã có thương vong. Biên và Chính vẫy tôi từ sau một ụ mối, khom người chạy lên theo hướng tay của Chính tôi thấy cụm hỏa lực của họ, khẩu 12ly8 đặt ngay ngã ba của hai dãy đồi gặp nhau khống chế trọn vẹn hướng tiến quân của chúng tôi trên yên ngựa hẹp. Trung đội ba hứng toàn bộ áp lực đó và rất khó xoay sở. Tôi báo lên đại đội vị trí của chúng tôi, tình hình địch, nhận định và đề nghị của mình về trận thế. Họ chưa phát hiện chúng tôi ở bên cánh trái, không có lằn đạn nào quạt xuống sườn đồi, toàn bộ hỏa lực của một chốt mạnh, bắn xối xả dọc theo lườn xâu táo và sườn phải, nơi Trung đội một và ba cũng đang bắn trả dữ dội, tôi ra thủ hiệu cho toàn trung đội nằm im bất động, tránh sự phát hiện của địch. Quá gần để xin sự yểm trợ của phi pháo, và cũng không thể rút lui để dãn khoảng cách, khi mà các chiến sĩ khinh binh của trung đội ba đang nằm trọn trong tầm khống chế của hỏa lực đối phương. Đại đội trưởng quyết định chuyển hướng tấn công chính qua trung đội tôi, hai trung đội còn lại tung hết hỏa lực, thu hút sự chú ý của địch.
Trao đổi chớp nhoáng với Biên, Chính, Muôn và Thượng sĩ Đàng, chúng tôi đồng loạt khai hỏa tám trái hỏa tiễn M72 và cắp súng lao lên. Muôn dũng mãnh như một con hổ dữ, cây M60 trên tay anh đẩy dồn địch vào thế bất ngờ hoảng hốt sau một chùm tiếng nổ uy hiếp của M72, địch quay ngoắt nòng 12ly8 sang trái kết hợp với cây RPD cố gắng kháng cự, chúng tôi lại gặp hên, có lẽ họ không tiên liệu được trên sườn dốc dựng đứng lại có một cánh quân đang hành tiến một cách kín đáo, họ đã để trống hỏa lực, và có lẽ các xạ thủ này quen bắn máy bay hơn là đối kháng với bộ binh, nên đến khi Muôn xông lên gần tới, nòng 12 ly8 quay vội vàng, lại phải chúc mũi bắn xuống, không đạt được hiệu quả tác xạ. Họ cũng can đảm không kém khi phải đứng lên trước làn đạn điêu luyện của Muôn và tốc độ xung phong dũng mãnh của các chiến sĩ khinh binh với sự dẫn dắt của Biên, Chính, Thông, Chí. Cây trung liên nồi RPD cũng lâm vào tình thế tương tự. Họ không còn cơ hội để sửa chữa sai lầm tai hại đó. M60 trên tay Muôn đốn gục tổ xạ thủ, trọng liên của địch, cùng lúc Chính thẩy chính xác một trái lựu đạn M67 vào ngay ổ RPD, cơ phận địch sống sót nhốn nháo rút lui gặp ngay sự truy kích của Trung đội ba đang “ thừa thắng xông lên”, chốt đã bị bứng gọn, Trung đội ba lại được dương về phía trước áng ngữ mặt tiền trận địa và chúng tôi tổ chức phòng thủ tạm thời, để phòng địch phản kích, để tải thương và chuyển chiến lợi phẩm về căn cứ.
Không có chiến thắng nào lại không đổi bằng máu xương người lính, và vòng nguyệt quế nào lại không man mác chia ly, Biên bế Chí trên tay ràn rụa nước mắt, máu anh thấm đẫm áo hai người, Chí ngã xuống khi đang cùng với Thông cố chiêu hàng người lính địch bị thương, anh ta ôm ghì khẩu AK trong hầm chiến đấu, Chí chĩa súng thủ thế và ra lệnh:
- Bỏ súng xuống, tôi sẽ đưa anh lên băng bó!
Đáp lại vòng tay đầy tình người của Chí là một băng đạn AK hất ngược anh trở lại. Chí chết khi hai mắt vẫn còn mở lớn. Nếu muốn giết anh ta trong cơn thất thế, Chí đã làm việc đó dễ dàng, hà cớ gì lại phải phơi người trước mũi súng, Chí ơi, Chí làm sao hiểu được tại sao những chiến binh bên kia lại quá nhiều căm thù?”
Tôi buồn bã nhìn đống chiến lợi phẩm, Biên thẩy xuống trước mặt tôi cây 12ly8 bên cạnh khẩu súng cối 82 và RPD,B40…ánh mắt anh thoáng nhiều trách móc, Chí là em kết nghĩa của Biên, đã nhiều lần Biên nói với tôi để Chí đoạn hậu, hay thử M60 cũng được, hai anh em tôi một đứa khinh binh được rồi, tôi lại rất ngại phải xáo trộn đội hình khi phải đưa người này lên đưa người kia xuống, đã đành không phải ở Tiểu đội hỏa lực là an toàn hơn ở Tiểu đội Khinh Binh, tỷ lệ thương vong ở hai vị trí này khi lâm trận là một chín một mười, có khi địch tập trung hỏa lực khống chế cây M60 nếu họ phát hiện, thì cũng gian nguy không kém, và hai Tiểu đội hỏa lực cũng phải xung phong theo đội hình Trung đội khi tấn công, chứ không phải chỉ thuần túy yểm trợ. Tấm lòng người anh của Biên muốn thu xếp cho người em một chỗ ít nguy hiểm hơn mình đã không được toại nguyện, Chí đã vĩnh viển ra đi, sự hi sinh của anh khắng định tính cách của người lính bên này chiến tuyến. Chúng tôi chiến đấu không hận thù và cuộc chiến đấu của chúng tôi mang đầy nhân tính. (1)
Theo lệnh của Phòng 3 Quân Đoàn 1, Phi Đoàn 219 được đặt dưới sự trưng dụng của Sư Đoàn ND trong suốt cuộc hành quân Lam Sơn 719. Ngoài những phi vụ thường lệ hàng ngày, nay Phi Đoàn 219 đảm nhiệm thêm việc yểm trợ trực tiếp cho Nhảy Dù, từ các phi vụ đặc biệt nhảy toán cho đến các phi vụ tiếp tế lương thực súng đạn hoặc tản thương cho các đơn vị tác chiến ND hành quân bên ngoài các căn cứ hỏa lực 29, 30 và 31. Do đó, mỗi ngày Phi Đoàn 219 tăng phái một phi đội gồm 2 hoặc 3 chiếc H34 nằm trực chiến ban ngày tại Khe Sanh, nơi đặt bản doanh tiền phương của Sư Đoàn ND, và cứ đến chiều thì bay về nghỉ đêm tại Phú Bài. Có lẻ “hot” nhất vẫn là các phi vụ tản thương các binh sĩ ND bị thương khi hành quân lục soát xung quanh các căn cứ hỏa lực và đụng độ với cọng quân. Vì chuyện bay tiếp tế hoặc tải thương này vẫn xẩy ra hầu như hàng ngày, nên Khánh coi như pha, bình thảng đi vào những vòm trời đầy nguy hiểm. Phi đội của anh cứ luân phiên trực chiến ở Khe Sanh/ Phú Bài 4 ngày rồi trở về Đà Nẳng. (2)
***Hình chụp giữa năm 1970 của Th. úy phi hành Bùi Tá Khánh / H34 / Phi Đoàn 219
Ngay sau lần chạm địch đầu tiên vào buổi sáng, ĐĐ 33 tiếp tục tiến bước, vượt qua tuyến đầu của địch, đến mục tiêu kế tiếp, trong thế các trung đội sẳn sàng yểm trợ cho nhau. Cùng lúc, hàng loạt đạn pháo từ pháo đội B3 trên Đồi 31 liên tục nhả đạn bắn vào ngọn đồi trước mặt.
“Đợt pháo kích theo lời yêu cầu vừa chấm dứt, hai chiếc HU1A của KQVNCH nối đuôi bay quành trở lại, phối hợp nhau gởi xuống mục tiêu những quả rocket dài ngoằn xé gió. Chúng tôi biết mình phải làm gì sau đợt không kích đó.Tôi đọc thấy thoáng âu lo trên khuôn mặt từng chiến sĩ. Kể cả tôi, cũng không thể trốn tránh thực tại hết sức căng thẳng của trận chiến. Vừa vượt qua cái chết buổi sáng đã phân vân với số mệnh buổi trưa. Ai đã đi qua chiến tranh, đã đánh chừng mươi trận mà vẫn còn sống để chờ đợi trận đánh thứ mười một chưa biết mất còn, mới chia xẻ được cái cảm giác hồi hộp, nặng nề của người lính trước trận đánh. Huống chi quanh đây, không kể hai tân binh mới ra trận lần đầu chưa biết hòn tên mũi đạn, từ quan tới lính, người nào cũng dự vài ba chục trận, vài ba chục lần quẳng cái bản chất thằng người tham sanh úy tử xuống đất, ôm súng lao lên theo tiếng thét xung phong của đồng đội. Có muốn hèn cũng không thể hèn được, có muốn dừng lại cũng không thể dừng lại được. Cái cảm giác xung trận nó vô cùng kỳ lạ, nó cuốn hút người ta lao vào bất kể tới đâu… Cứ phỉnh phờ cái lo lắng, cứ giả vờ hồn nhiên cười cợt, mà sao trong những đôi mắt kia chợt tối nỗi bâng khuâng.
Có phải Biên đang nghĩ đến đàn con quây quần trong ánh đèn vàng vọt, căn nhà nhỏ trong trong trại gia binh có ai đang thao thức nguyện cầu, có phải Muôn đang nhớ về người tình chơn chất, lời hẹn thề chưa ngút một tuần trăng. Có phải Chính đang rối bời mẹ già tóc bạc, phận làm con biền biệt chốn biên cương. Ô kìa ông Đàng! Mười hai năm quân ngũ đã hằn lên vết tích, tuổi thanh xuân qua trên khổ lụy quê nhà có làm anh ít nói, hay đang lặng im trên chính về nỗi ước mơ còn xa vời vợi, mảnh vườn quê chim hót nắng mai. Và Sĩ, Thông, và Kiều, và…hai mươi sáu cái nón sắt rằn ri màu lá, che kín hai mươi sáu cõi riêng tư. Đã điên đâu mà vui mừng hăng hái, có phải là đồ tể đâu mà say máu bắn giết, chẳng qua, họ đã dấy động can qua thì chúng tôi phải chiến đấu để tự vệ, để dành cái quyền sống làm người theo cách đã chọn lựa…
Ngay khi các toán trinh sát xuất phát chừng một trăm mét, trận địa đang im lắng bỗng rộ lên hàng loạt tiếng súng cối và tiếng đạn đi xé gió, khoảng năm hoặc sáu khẩu 82 ly của địch xa về hướng Tây, tác xạ tập trung vào vị trí đại đội, dù không chính xác cho lắm, nhưng pháo kích kiểu vãi đậu như thế này, quả thật cũng làm chúng tôi lúng túng. Phía trước mặt, hỏa lực bắn thẳng của họ cũng bắt đầu lên tiếng, hòng chặn đứng mũi tiền kích đang cố gắng bám vị trí.
Trong khi chúng tôi chật vật vì súng cối địch, thì vị trí của họ cũng tả tơi dưới hàng loạt đạn pháo của B3 từ Đồi 31 và từ Pháo đội C3 của Căn cứ hoả lực ở Đồi 30 trong tầm hiệu quả, đang bắn yểm trợ.
- Lỡ rồi! Chơi luôn Một Hai Ba!
- Một nhận!
- Hai nhận!
- Ba nhận!
- Tụi nó ở dưới khe suối cạn và đỉnh đồi bên kia!
- Chờ thằng Phở bắc nấu xong tô nào chơi tô đó, Phú Bổn lên với Phú Ông, Một và Hai theo luôn trái phải!
- Hai nhận!
Biên đã bắt tay được với Chính, Thông, Sỹ tôi vắn tắt lịnh tấn công sau đợt pháo chuyển làn tác xạ, cần phải nhanh chóng giải quyết trận địa nếu không muốn làm bia cho địch pháo kích.
Đúng lúc những loạt đại bác dồn lên sườn đồi bên kia, chúng tôi đánh ép xuống thung lũng với nòng súng cắm lưỡi lê sẵn sàng cận chiến.Từ triền dốc thoai thoải, Biên và Chính phối hợp nhau dẫn đồng đội tiến lên từng điểm ẩn nấp dưới làn đạn địch, Thông băng thật nhanh lên phía trước, bắn ghìm sát mặt đất vừa dứt một băng đạn lá đã tấp vào được một gốc cây ven bìa suối, ống quần rách toạc vì vướng gai buổi sáng chưa kịp thay, lòng thong miếng vải phất lên phất xuống không đủ che cái mông ốm nhách, xám xịt, anh chàng quay lại toét miệng định cười, đã vội nằm hụp xuống, tay giữ nón sắt, co gọn người tránh làn đạn vuốt cỏ cây ngã rạp bên cạnh, anh rút chốt trái lựu đạn ném về phía trước, bắn rẽ quạt cho Chính, Sỹ và Tiểu đội Khinh binh tiến lên hàng ngang, bám được bìa rừng là nắm chắc tám mươi phần trăm chiến thắng, là hạn chế tối đa thương vong. Và địch cũng hiểu như vậy nên họ tổ chức phản kích dữ dội, liệu thế đơn vị chốt tại bờ suối không chống đở nỗi, khoảng chừng một Trung Đội địch từ trên đỉnh đồi tràn xuống cứu viện, quyết không cho chúng tôi vượt qua.
Đến đây tôi chợt hiểu, chúng tôi đã được chỉ huy và theo dõi chu đáo từ Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, Lữ Đoàn, khi cánh quân địch nhớn nhác tràn xuống chưa tới lưng chừng đồi đã phải khựng lại rồi tan tác dưới từng loạt pháo nổ chụp thần sầu của B3. Từng mảnh người tung lên rồi đổ gục. Ha ha chưa biết ai chơi “Công đồn đã viện” thiện nghệ hơn ai đấy nghe ông bạn. Liêu Thăng, Mộc Thạnh đã bị chém đầu thì Vương Thông còn hơi sức đâu mà đấm đá. Hàng ngũ địch hoảng loạn, hỏa lực của họ tức khắc rối bời không che phủ nhau được như trước.
Đúng lúc đó, Đại đội phát lệnh xung phong toàn đơn vị.
- Xung phong!
Tiếng thét rền vang vách núi, đoàn quân băng băng trên triền dốc lao xuống, vượt qua lửa đạn, vượt lên chông gai xông tới, tiếng quân reo át tiếng đạn thù. Xung phong! Xung phong, đạn xủi mặt đất, đạn xuyên tàng lá, đạn nổ bùng lửa đỏ, đan veo véo bên tai, người trước ngã người sau xông tới, khản cổ theo tiếng reo đồng đội, tim đập muốn vỡ tung lồng ngực. Hây Sỹ, sao nằm đó? Ê Kiều! Mày cũng nằm đó sao? Tụi nó chết rồi! Hây! Phi? Bị thương rồi hả? Đưa máy đây! Xung phong. Xung phong. Tôi quàng vội chiếc máy truyền tin, dặn Phi nằm đó, Trung đội 4 sẽ lên kéo về. Hai nghe Hai nghe! Lên luôn nhận năm, được 3 hầm có cả cối! Nằm xuống Trung Úy! Chính húc luôn cái nón sắt vào mặt xô tôi ngã rạp đúng lúc làn đạn cắt lá rụng tả tơi trước mặt, không hề gì, cái hầm này nằm dưới đám rễ cây, nảy giờ chơi đủ…
Vậy thôi, chiến tranh không còn chỗ cho sự khoan nhượng khi mà giọt máu của Chí còn nóng hổi trên trận địa, không còn thời gian để lưỡng lự khi cái chết và sự sống gần nhau trong gang tấc. Thêm Sỹ và Kiều, trong một ngày mất luôn 3 mạng người không thể thay thế, không thể so sánh khi đã cùng nhau miệt mài trên những nẻo đường đất nước. Các sĩ quan ở Tổng cục chiến tranh chính trị và Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu có thể xoa tay hài lòng trước sự chênh lệch về tỷ số thương vong của hai phía, đếm xác địch và ta để thống kê chiến thắng. Vâng, mười hai xác địch tại trận địa, vắt vẻo trên miệng hầm trong một tuyệt vọng thoát thân, chôn vùi trong hố chiến đấu bị bắn sập trong cố gắng kháng cự, tan xác dưới hố đạn pháo binh…So với hai Chiến sĩ ta tử trận. Tỷ lệ chênh lệch lớn lao đó cũng không thể xoa dịu nỗi đớn đau của người lính bên xác đồng đội. Bên những khuôn mặt mới đây còn nói nói cười cười, còn chia nhau mẩu thuốc quân tiếp vụ cong queo trong túi áo…hay thậm chí mới đây còn…đm thằng này thằng nọ.
Tôi giở poncho nhìn mặt Kiều và Sỹ lần cuối, máu người chết trận sủng thâm màu áo lính, hai người lãnh nguyên mấy mảnh cối 82 nổ trên tán cây, chụp xuống khẩu đại liên đang mải mê nhả đạn...
Chúng tôi phải bố trí lại hỏa lực khi cây đại liên của Kiều đã bị hỏng chưa kịp thay thế. Trung đội 1 không có thương vong, Trung đội 3 lại dính thêm một chết, hai bị thương, vị chi từ sáng tới giờ, hắn ba, tôi ba, đổi lại trên hai mươi xác địch với từng đó súng ống, chưa kể súng cộng đồng. (1)
Cho lệnh trung đội nằm dưỡng tại chổ 15 phút, Đồng lo tản thương 2 người lính bị thương của mình cùng 3 thi thể Chí, Kiều và Sỹ cho trung đội 4 chuyễn về phía sau. Cổ họng khô gắt khiến hơi thuốc hít vào trở nên đắng nghét, Đồng thả điếu thuốc xuống đất và dí dôi giày trận lên tàn thuốc, rồi cầm bi đông nước hớp vài hớp nhỏ cầm chừng. Giờ đây, trung đội 2 còn 23 người, kể cả Đồng, bố trí rải rác sau các thân cây xung quanh anh.
“Hai giờ chiều, mặt trời đã ngả về Tây, cơn nắng chói khô khốc chợt rộ lên luồng gió nóng, ngay sau khi căn hầm cuối cùng tại bờ suối bị Thông và Muôn tiêu diệt, Trung đội cấp tốc tiến lên phía trước, di chuyển thật nhanh trên một địa hình trống trải dưới hỏa lực vỗ mặt của địch, tuyến tấn công phải mở rộng hai cánh. Chúng tôi cũng chẳng phải Tề thiên Đại Thánh hay mình đồng da sắt gì để khơi khơi xông thẳng vào lửa đạn, từng khoảng cách rút ngắn giữa địch và ta cũng đồng nghĩa với từng phút giây bọt bèo sống sót. Là từng giây phóng mình thật nhanh từ điểm ẩn nấp này lao qua điểm ẩn nấp khác, gò mối, gốc cây, bụi cỏ, tảng đá, hay thậm chí chỉ là một nhánh lá mong manh. Đạn địch xủi dưới gót chân, đạn vỡ tung vỏ cây trước mặt…Là bắn, là bắn, bắn hết khả năng của vũ khí, để tiếng đạn mình át tiếng súng thù, để chỉ còn bên tai tiếng nổ dòn của M16, tiếng gà nòi ấm cũng của M60…Cọc cùm…cọc cùm M79 gõ nhịp. Lưng chừng đồi cỏ cây ngã rạp, vỏn vẹn chừng một trăm mét nữa là xong, là phận ai nấy biết, nhưng không tài nào, tiến lên được nữa. Chúng tôi bị chận đứng ngay trên vị trí một Trung đội của họ bị tiêu diệt trước đó, xác người rải rác chung quanh những vết nổ của đạn pháo.
Bây giờ đến lượt pháo địch nổ giữa chúng tôi, cộng với hỏa lực dày đặc từ đỉnh đồi bắn xuống không ngóc đầu lên được chứ đừng nói nhổm người dậy. Tôi rủa thầm, ở đâu ra mà nhiểu 12ly8 bắn rán mặt, đụng sơ sơ từ sáng tới giờ, cả 3 tuyến đều có phòng không. Gió lại trổi mạnh, cũng may, nhờ thế mà những trái 82 ly bị đẩy dạt khỏi mục tiêu, dù không xa, nhưng cũng hạn chế được ít nhiều thiệt hại, cũng có thể họ chưa tính hết sức gió trong yếu tố tác xạ. Giờ này mà có vài phi tuần gõ xuống đỉnh đồi chừng chục trái năm trăm pounds, bới tung hầm hố nó lên thì đỡ vất vả biết bao?
-Một, Hai, Ba đây Phú Bổn! Một nghe đích thân! Hai nghe đích thân! Ba nghe đích thân!
Tôi ngạc nhiên, đang đánh chác thế này co về thủ sao được trên một vị trí quá nguy hiểm mà ổng lại ra lệnh sẵn sàng mìn và chiếu sáng? Phân vân thì phân vân, cũng phải tìm gặp ổng rồi mới tính. Giao máy cho Thượng sĩ Đàng chỉ huy trung đội, tôi lần mò trở lại chừng hai mươi mét. Cả bộ chỉ huy đại đội mặt mày đen thui vì khói, than, chẳng hơn gì chúng tôi.
-Vắn tắt cho các anh rõ! Lệnh Sư đoàn phải nuốt xong cục xương này mới được nghỉ. Tập trung mìn chiếu sáng lên phía trước, theo lệnh trên máy, đồng loạt ném và xung phong ngay, các anh thấy gió chuyển hướng mạnh về phái tụi nó chứ?
-Đốt tụi nó?
-Phải làm nhanh, gió đổi hướng lại chạy không kịp đó! Rõ chưa?
-Về làm nhanh!
Trước khi quay về Trung đội, tôi liếc nhìn cuộn poncho gói xác, đưa mắt hỏi Thượng sĩ nhất Xá: Ai đó? Trung sĩ Tâm, Pháo binh Đề lô.
Lẩm nhẩm một lời cầu nguyện vô bổ, chết chi trẻ quá Tâm ơi! Tôi băng mình trở lại tuyến chiến đấu, chuyển đạt nhanh chóng mệnh lệnh tác chiến.
-Một, Hai, Ba, đây Phú Bổn! Xong chưa? Một xong! Hai xong! Ba xong!
-Đánh!
Tôi phất tay cho Trung đội đồng loạt ném hết cơ số mìn chiếu sáng về phía trước. Tách tách tách…xòe xòe…tách tách xòe xòe lốp bốp lốp bốp, ngọn lửa lùng bùng lên dữ dội rồi lan nhanh về phía trước, râu tóc mặt mày khét lẹt. Thế thượng phong ngàn năm một thuở, lửa lửa, lửa cuộn lên theo tiếng quân reo, lửa tràn lên theo cỏ tranh dòn dã, khói cuồn cuộn mịt mù, khói làm màn che cho quân ta tiến tới, bốc trong bão lửa xông lên. Lưỡi lửa liếm một vòng cung hình bán nguyệt, thắt gọn vị trí địch trong trận hỏa công dữ dội, những căn hầm được ngụy trang kỹ lưỡng bằng cỏ tranh tiệp màu bỗng chốc trở thành mồi ngon cho ngọn lửa, hầm đạn nổ tung tóe, cả ngọn đồi nhanh chóng ngập tràn biển lửa, địch quýnh quáng tung hầm tháo chạy, có tên lưng còn bốc khói. Trận Xích Bích là đây! Các chiến sĩ khinh binh tràn lên đỉnh đồi chiếm lĩnh trận địa, thanh toán nhanh chóng những ổ kháng cự yếu ớt, địch làm sao chống lại nổi khi trước mặt là lửa táp, là khói thuốc theo luồng gió ngược, lùa vào mồm vào mũi, tối tăm mặt mày chưa kịp dụi mắt ngáp gió lấy hơi đã gục ngã trước lưới đạn càn quét quyết liệt của quân ta đang tràn lên theo lửa cuốn. Đại đội khai thác tức khắc hiệu quả chiến thắng, thúc cả ba Trung đội đánh bung sườn đồi, đuổi địch chạy có cờ xuống thung lũng.
Trận đánh thật đẹp và hùng tráng, trong bối cảnh ráng chiều chưa tắt, ánh nắng xuyên qua khói lửa rải xuống chiến trường những giải vàng lóng lánh, thấp thoáng bóng quân ta dọc ngang đỉnh đồi, như thấp thoáng hồn sông núi cựa mình muốn vượt qua định mệnh. Tiếc quá, không có một phóng viên chiến trường nào ghi lại được trên băng nhựa phút giây ngất trời ngạo nghễ đó, để mai này, trên những ký sự truyền hình được chiếu ra rả từ hai phía suốt mấy chục năm năm, cuộc chiến trên quê hương đau đớn chúng ta không phải chỉ là cuộc chiến của người Mỹ và phía bên kia.
Lửa cháy để lộ nguyên một đỉnh đồi với hầm hào chi chit của cấp đại đội cọng. Thế mà trước đó, khi hai chiếc HU 1 A bay lòng vòng trên đầu, họ vẫn ém kỹ hỏa lực mạnh mẽ này không khai hỏa, mãi cho đến khi chống đỡ dưới áp lực công kích của chúng tôi, mới lên tiếng. Dưới hỏa lực pháo kích ngày càng dữ dội, Đại đội nhanh chóng chuyển tất cả thương binh tử sĩ về phía sau cùng với súng ống của địch, không đủ thời gian thu nhặt, nên ngoài những vũ khí cộng đồng bắt buộc phải chuyển về như cối 12ly8 và 82 ly không giật mà địch còn để lại nguyên vẹn, các vũ khí cá nhân AK, B40, phải tháo gỡ tùng bộ phận, nòng súng liệng một nơi, cơ bẫm quẳng một ngã,
Trong số địch tử thương, có hai người là cấp chỉ huy, trong căn hầm bị Trung sĩ Yến, Tiểu đội trưởng Tiểu đội hỏa lực số hai bắn sập bằng M72, có cả máy truyền tin Trung cộng, hai xác chết đeo hai cây K59 còn mới.
Và thật đau đớn, ngay khi nhận được lệnh di chuyển khỏi vị trí, chúng tôi vĩnh viễn mất người chỉ huy thân thiết, tài giỏi. Thượng sĩ nhất Xá băng ngược đội hình, chạy lên tìm tôi:
-Trung úy! Đại úy chết rồi! - Sao? Sao?
Tai tôi lùng bùng, không tin điều mình đang nghe.
Tôi theo ông Xá chạy quành về Bộ chỉ huy Đại đội, trên vết nổ còn bốc khói của một trái 82, Đại úy Lê Thành Bôn, Đại đội trưởng Đại đội 33 Tiểu đoàn 3 ND đã anh dũng hi sinh, hai tay ông còn nắm chặt ống liên hợp trên hai chiếc máy truyền tin vỡ nát, bên cạnh hai người lính truyền tin hy sinh cùng lúc. Tôi biết, trong những mệnh lệnh mà ông truyền đạt trên máy, yếu tố hạn chế thiệt hại cho thuộc cấp là ưu tư hàng đầu của người sĩ quan nhân hậu, đằm thắm và tài ba nhất tiểu đoàn. Nếu không có ông, mấy ai đã nghĩ ra trận hỏa công thần sầu đem chiến thắng về cho đơn vị với thiệt hại tối thiểu”. (1)
Trong buổi chiều cùng ngày, ĐĐ 33, bấy giờ do Tr. úy Đồng tạm thời nắm chức vụ đại đội trưởng, được lệnh cấp tốc rút về lại Đồi 31. Lý do: dành khoảng trống mục tiêu cho 1 pass B52 thả trước nữa đêm vào khu vừa giao tranh. Cuộc rút quân hoàn thành tốt đẹp qua những nghi binh phù phép biến ảo bởi sương mù đang dần xuống, dù địch bám sát trận địa và liên tục pháo vào những vị trí vừa bị mất, nghĩ rằng quân ND vẫn còn cố thủ tại đó. Trong cùng thời gian, pháo đội B3 ND vẫn tiếp tục phản pháo chính xác và bắn cận phòng cho ĐĐ 33.
Sau khi toán tiền thám do Th. Sĩ Đàng về lại Đồi 31 bằng một con đường khác và ngắn hơn đường đã xữ dụng trong ngày, đã lục soát kỹ và không có dấu vết của địch ẩn núp chờ đợi phục kích, bấy giờ Tr. úy Đồng mới cho phép từng trung đội một từ từ rời vị trí chiến đấu và rút về căn cứ hỏa lực 31. Khi toàn đại đội 33 đã rút trọn vẹn về vị trí an toàn, địch vẫn liên tục pháo kích vào vị trí “không người” mãi tới sáng hôm sau.
Trong đêm, độ chấn động của những trái bom năm trăm pounds được rải xuống từ B 52 chỉ đủ làm rung nhẹ cánh võng… Nghĩa là cách xa Đồi 31 ít nhất cũng trên mười cây số. Chứ không chỉ 2 hoặc 3 cây số là nơi ĐĐ 33 vừa giao tranh và địch đang có ý đồ tái chiếm. Để rồi mấy ngày sau nữa, khi nhận thấy có những nguy cơ xuất phát từ đó uy hiếp Đồi 31, Bộ tư lệnh hành quân đã cho đổ bộ hai đại đội của TĐ6ND xuống những ngọn đồi mà trước đây ĐĐ 33 đã chiếm được và đã triệt thoái, với tình thế khác hẳn. Ở đó, địch đã trở lại với quân số nhiều hơn và đã dọn sẵn một trận dịa pháo kích tập trung, chính xác. Chúng tôi ở trên đồi 31, quan sát cuộc đổ bộ của đơn vị bạn bằng mắt thường, lòng xót xa theo những cụm khói bốc lên của đạn pháo địch…Mở đầu cho những thách thức cam go trong những ngày tới.
Bản thân Đồi 31 là một “căn cứ hỏa lực dã chiến”, có giá trị chiến thuật trong một giai đoạn ngắn. Thường thường trong mỗi một cuộc hành quân, đôi khi LĐND lập hai hoặc ba căn cứ như thế, bỏ căn cứ này lại lập căn cứ khác tùy theo nhu cầu chiến thuật. Do đó về phần công sự, là những vật liệu tại chỗ, không có lấy một cuộn kẽm gai, không có bãi mìn ngoài những trái claymore, như những vị trí đóng quân đêm bình thường, lực lượng phòng thủ không bao giờ vượt qua một Đại đội (không kể Đại đội chỉ huy công vụ của Tiểu đoàn có một phần quân số trong căn cứ, nhưng không có trách nhiệm phòng thủ).
Đại đội 33, TĐ3ND, lui về đảm trách phòng thủ căn cứ sau khi đã bị tiêu hao phần nào trong trận đánh ở ngoại vi Đồi 31. Với dưới bảy mươi tay súng nay phòng thủ một tuyến rộng lớn bao gồm vị trí của Pháo đội B3 TĐ3PBND của Pháo đội trưởng Đ.úy Nguyễn Văn Đương, với 6 ụ pháo 105ly, đồng thời phải bảo vệ Bộ chỉ huy TĐ3ND và Bộ chỉ huy Lữ đoàn 3ND đang trú đóng trong căn cứ. Đó là tất cả lực lượng cố thủ đồi 31. Các đại đội 31, 32 và 34 đang hành quân lục soát bên ngoài, cách xa chừng hai đến ba cây số. ĐĐ 3 Trinh Sát Nhảy Dù bố trí ở một vị trí khác bên ngoài vòng đai.
Riêng Trung đội của Đồng, ngoài tuyến phòng thủ, được giao ở mặt Bắc nhìn xuống một triền đồi thoai thoải, còn có nhiệm vụ bảo vệ bãi trực thăng nằm chếch bên ngoài cứ điểm.
Là một đơn vị tinh nhuệ ND, ĐĐ 33 tự tin ở khả năng chiến đấu của đơn vị, và đủ sức cố thủ cứ điểm trong thời gian cần thiết, chứ không phải lâu dài, trước các cuộc tấn công cổ điển tiền pháo kết hợp với đặc công đột kích, nếu được yểm trợ đầy đủ, hữu hiệu và kịp thời, từ không quân VNCH, không quân Đồng Minh, hỏa lực từ Đồi 30, Căn Cứ Hỏa Lực A Lưới và quan trọng nhất là ngay chính từ Đồi 31: Pháo đội B3 .
Trận chiến đấu trên đồi 31, phải nói cho đúng, trước hết là trận chiến của các chiến sĩ PB Nhảy Dù. Phòng tuyến của trung đội 2 của Đồng rất gần những vị trí pháo, và cũng rất gần với Bộ chỉ huy Pháo đội, chỉ cách nhau một con đường nhỏ bao quanh vị trí, con đường gập gềnh cát bụi nối với bãi tiếp tế bằng những chuyến xe GMC tới lui chở đạn và thực phẩm. Chiếc xe đó giờ đã nằm im bên sườn đồi, mình lỗ chỗ vết đạn…
Hình ảnh những chiến sĩ Pháo binh tả xung hữu đột giữa trận đối pháo mang khí phách của một chàng dũng sĩ giữa trùng vây quân địch, nòng súng vừa thoắt bên Đông đã hiệu chỉnh về Tây, vươn cao mạn Bắc rồi nhanh chóng ghìm xuống phương Nam, quành quả tới lui tất bật giữa mưa pháo quân thù, lực bất tòng tâm, trần thân trong nắng lửa vẫn kiên cường trong trận xa luân chiến không cân sức, dù trên mình đã mang nhiều thương tích. Không một ngôn từ nào diễn đạt được hết nét kiêu hùng bất khuất đó của các pháo thủ Pháo đội B3. Nón sắt trên đầu, áo giáp che thân, những khuôn mặt căm đanh uất hận vươn theo nòng pháo, mà tiếng đạn rời nòng nào có khác tiếng gầm phẫn nộ của một chúa sơn lâm giữa bầy sói lang.
Mức độ pháo kích của địch càng ngày càng dồn dập. Không kể những khẩu đội 82 ly tập trung dày đặc xung quanh căn cứ thay phiên nhau suốt ngày thì thụt, mà pháo binh tầm xa của địch như 122ly, 130ly cơ động, thay đổi vị trí nhanh chóng và hầu hết đều nằm ngoài tầm tác xạ tối đa của 105ly cũng như 155ly của phe ta. Pháo địch bắn như trống múa lân, sáng trưa, chiều tối, không kể giờ giấc, bắn không e dè sự phát hiện vị trí như trước. Pháo đội B3 đã phải quần thảo với địch gần như hai mươi bốn giờ trên hai mươi bốn giờ không nghỉ, suốt trong thời gian địch bắt đầu tạo áp lực lên căn cứ, cho đến khi kết thúc trận chiến.
Những vị trí pháo binh cố định của ta lần lượt bị pháo binh địch tập kích trúng, với khả năng hạn chế tại mặt trận, mặc ai bị thương, mặc ai nằm xuống, các pháo thủ vẫn đứng dậy, dựa lưng vào nhau, cố gắng sửa chữa, thay thế các cơ phận bị hư hỏng để duy trì sức chiến đấu của đơn vị. Nhờ thế, những vị trí 82ly quanh quẩn lần lượt bị vô hiệu hóa, có khi vắng tiếng cả hai ngày không bắn được một trái. Thay vào đó, mức độ bắn phá của 122 và 130 lại tăng lên.
Việc tải thương, tiếp tế cũng là một vấn đề nan giải, khi tuyến phòng thủ đã quá mỏng, và càng mỏng hơn nữa khi quân số tiêu hao dần vì pháo địch. Không lần nào không có thương vong vì súng cối địch, và ít nhất cũng đã có hai chiếc trực thăng vĩnh viễn nằm lại bãi đáp vì trúng đạn phòng không khi gần đến vị trí, và một phi hành đoàn đang còn kẹt lại. Đó là những phi vụ trực thăng gan dạ, khi mà lưới lửa phòng không đã phục sẵn trên các đường tiếp cận nhằm mục đích khóa chặt nẻo vào từ mọi hướng, thì chuyến bay các trực thăng của phe ta quả thật là vô cùng mạo hiểm, “một đi không trở lại” tựa như tráng sĩ Kinh Kha, đã bao nhiêu lần những chiếc trực thăng đột ngột cất lên từ một lũng núi mù mù sương sớm, hoặc lướt nhanh trên ngọn cây qua một đỉnh rừng, hay bay nghi binh thật xa để rồi luồn theo khe núi, đáp thật nhanh xuống bãi, mang đến cho Đồi 31 tất cả nhu cầu không thể thiếu của mặt trận, thậm chí luôn cả báo chí và thư riêng. Như một chút hương yên bình quý báu từ hậu phương trên đất Mẹ.
Đây là thư đầu tiên của Phượng mà Đồng nhận kể từ HQ Lam Sơn 713. Đồng gặp nàng trên ghế trường Luật Sài Gòn khi tên Phượng đã vô tình nhắc nhở Đồng về màu đỏ thắm quyến rũ của phượng vĩ xứ Huế. Là màu đỏ anh luôn tha thiết nhớ thương. Đó cũng là màu chiếc beret hiên ngang trên đầu anh.
“Tôi soi ngọn đèn pin lò dò từng chữ và chợt buồn nhận ra, em vẫn không hiểu gì về tôi trong khi mỏi mòn một nhịp cầu Ô Thước. Lá thư Phượng thật dài nhưng chẳng có gì để đọc. Kể cho tôi làm gì những ồn ào phố thị, kể cho tôi làm gì những khúc luân vũ đã làm mắt em say. Sài gòn của em vẫn thế và giảng đường của em vẫn thế. Em không nói bên chiếc ghế tôi ngồi đã có ai quấn quýt? Nhưng tôi biêt đó không còn là thế giới của tôi, và chiến tranh dường như chưa bao giờ lai vãng dưới những tàng cây bốn mùa dim mát. Không biết những tin tức từ mặt trận có làm sân trường đại học bớt tươi màu áo, mà sao những vô tình của em và bạn bè đối với cuộc chiến càng làm tôi xa cách vô cùng. Tôi không định trả lời thư cho Phượng, biết có còn trở về để thêm chi nhiều vương vấn, những giọt nước mắt chính danh đã lan tràn trên đất nước, còn khơi thêm làm gì chút sầu muộn người dưng.
N + 15, phi hành đoàn H34 của Tr. úy Chung Tử Bữu và Th. úy Bùi Tá Khánh cùng với Mê Vô Em vào phiên trực cho phi đội của anh. 2 chiếc H34 nhận lệnh cất cánh từ phi trường ĐN bay thẳng đến Khe Sanh. Chiếc H34 thứ hai do anh Yên làm phi công chính.
“Ðúng giờ hẹn, chúng tôi ra phi cơ làm tiền phi, check nhớt, xăng, load những cơ phận sửa chữa dự trữ, đồ nghề và anh em kỹ thuật 219 rồi cất cánh, trực chỉ Ðông Hà, Quảng Trị. Khoảng quá trưa thì chúng tôi ra đến Khe Sanh. Vừa đến nơi, không màng ăn trưa vì nóng lòng muốn cứu đồng đội nên chúng tôi quyết định phải vào ngay Đồi 31 chứ không thể đợi lâu hơn được. Trong khi anh Bửu vào trình diện với Bộ Chỉ Huy Tiền Phương SÐ Dù để đặt kế hoạch cho chuyến bay thì tôi và Mêvô Em đi check lại máy bay. Xăng vẫn còn đầy bình trước, dư sức bay không cần phải refuel.
Một lát sau từ phòng briefing ra, anh Bửu vắn tắt cho anh em biết về phi vụ quyết tử này. Chuyến vào chúng ta sẽ chở theo Th.úy Vinh và một tiểu đội Tác chiến Điện tử Dù của anh ta cùng với 18 chiếc máy "sensor" vào tăng phái cho căn cứ 31 dùng để phát giác đặc công địch, chuyến ra sẽ rước phi hành đoàn của Tr. úy Nguyễn Thanh Giang về. 15 phút trước khi lên vùng, pháo binh Dù sẽ bắn dọn đường mở một hành lang dọc theo quốc lộ 9, dập vào những địa điểm được ghi nhận có phòng không địch vì tình hình lúc này rất gây cấn, địch tập trung lên đến cấp tiểu đoàn phòng không gồm đủ loại từ 37 mm, 12ly8 và lần đầu tiên còn nghe đâu có cả SA7 nữa.
Về không trợ thì có 2 chiếc Gunship của phi đoàn 213 do Tr. uý Thục bay lead trước mở đường.
Trước đó trong lúc briefing, anh Bửu đã được nói chuyện trực tiếp với anh Giang từ trong đồi 31 và được biết, ngày hôm qua khi bay vào vùng anh Giang đã dùng chiến thuật "lá vàng rơi", từ trên cao cúp máy auto xoáy trôn ốc xuống, nhưng vì phòng không địch quá dày đặc nên khi gần đến đất, phi cơ anh bị trúng đạn rớt xuống gãy đuôi nằm bên cạnh vòng rào phòng thủ ngoài cùng của Lữ Ðoàn 3 Dù. Phi hành đoàn vô sự, chỉ có copilot là Th. úy Võ văn On bị xây xát nhẹ ở cổ, tất cả chạy thoát được vào trong căn cứ Dù. Nhưng trước khi bỏ phi cơ, Mêvô Trần Hùng Sơn không quên vác theo cả cây M60 trên cửa máy bay nữa.
Rút kinh nghiệm, hôm nay anh Bửu bay Rase Motte sát ngọn cây theo hướng Ðông-Tây đi vào. Trên đường bay dọc theo quốc lộ số 9, tôi còn nhìn thấy những cột khói bốc lên nghi ngút, chứng tỏ pháo binh Dù bắn rất chính xác và hiệu qủa. Gần đến LZ anh Bửu đổi hướng lấy cấp Ðông Nam-Tây Bắc để đáp xuống. Vừa ló ra khỏi rặng cây, tôi đã thấy chiếc Gunship của trung uý Thục bay vòng lại, cùng với tiếng anh la lên trong máy "Bửu coi chừng phòng không ở hướng Tây". Từ trên phi cơ nhìn xuống, giữa màu xanh trùng điệp của rừng cây nhiệt đới, ngọn đồi 31 đỏ quạch nổi bật với những đốm bụi đất tung lên từng cơn vì đạn pháo kích quấy phá của cộng quân Bắc Việt.
Không nao núng, anh Bửu vẫn điềm tĩnh tiếp tục đáp xuống. Khi phi cơ còn cách mặt đất độ 15 thước thì trúng một tràng đạn phòng không, phi cơ phát hoả, bùng lên một đám khói bao trùm cả phi cơ, MêVô Em la khẩn cấp trong máy - Đáp xuống, đáp xuống anh Bửu ơi, máy bay cháy.
Cùng lúc anh Bửu cũng cao tiếng báo động cho chiếc wing đang bay cũng gần đó -Yên ơi, tao bị trúng đạn rồi, đừng xuống nữa - trong khi vẫn bình tĩnh đáp xuống. May mắn là đạn trúng vào bình xăng phụ đã hết xăng, chỉ còn ít hơi đốt, nên phi cơ không bắt cháy như phi cơ đại uý An ở Bù Ðốp hôm nào. Vừa chạm đất, theo phản xạ tôi cùng anh Bửu nhanh tay tắt gió, xăng, điện rồi nhảy ra khỏi phi cơ. Mọi người chạy ngược lên đồi về phía hàng rào phòng thủ thứ nhất của Đại Đội công vụ Dù cách khoảng 100 thước. Tôi còn tiếc chiếc xách tay quần áo nên phóng vào trong phi cơ để lấy. Một cảnh thương tâm hiện ra trước mắt, một binh sĩ Dù bị trúng đạn ngay giữa trán, nằm ngửa chết ngay trên ghế. Trên sàn tàu, đống máy "sensor" vẫn còn nguyên vẹn. Tôi chỉ kịp vớ lấy cái xách tay rồi phóng chạy lên đồi theo những tiếng kêu gọi của binh sĩ Dù - trên đây nè thiếu uý, tụi tôi bắn yểm trợ cho - Tôi lom khom chạy trong khi tiếng đạn nổ lóc chóc trên đầu. Lên đến nơi tôi thở như bò rống. Không quân mà hành quân dưới đất thì phải biết là mệt đến đâu. Tôi nhớ mãi hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 1971.
Vừa ngồi nghỉ mệt, tôi vừa nhìn xuống bãi tải thương nơi chiếc phi cơ đang đậu hiền lành, thì cũng vừa lúc địch điều chỉnh tác xạ, một quả đạn đạn súng cối rơi trúng ngay tàu nổ tung, bốc cháy khói đen mù mịt cả một góc trời. Tôi nhìn con tàu xụm xuống, lòng quặn lên. Con tàu thân thương đó đã gần gụi với mình lâu nay, giờ thành một đống sắt vụn.
Một lát sau, theo chỉ dẫn của anh em binh sĩ Dù, chúng tôi men theo giao thông hào lần về đến bộ chỉ huy Lữ Ðoàn 3 Dù. Gặp lại phi hành đoàn anh Giang, On, Sơn anh em chúng tôi mừng rỡ thăm hỏi rối rít. Chúng tôi được giới thiệu với các sĩ quan trong ban tham mưu Lữ Ðoàn 3. Ðầu tiên là Đại tá Thọ lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn 3, Th.tá Ðức trưởng ban 3, Đ.úy Trụ phụ tá ban 3, Đ.úy Nghĩa sĩ quan liên lạc KQ, Tr. úy Chính sĩ quan Không trợ Dù, Th.úy Long phụ tá ban 2. Về phía pháo binh thì có Tr.tá Châu Tiểu Đoàn Trưởng TĐ3PB Dù và Đ.úy Đào Văn Thương trưởng Ban 3 TĐ3PB Dù. Ðại tá Thọ mừng anh em "mới đến" mỗi người một điếu Havatampa và một shot Hennessy để lấy lại tinh thần. Tôi ngạc nhiên vô cùng, đi đánh giặc, nằm ở tuyến đầu ác liệt vậy mà mấy "ông" Nhảy Dù vẫn thản nhiên hút sì-gà Cuba và uống cognac như máy! Quả các xếp ăn chơi cũng dữ mà đánh giặc cũng chì thật. (4)
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
Last edited by hoanglan22; 11-13-2018 at 03:25.
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
N + 15: Địch vẫn pháo kích không ngừng, ngoại trừ khi có phản lực hoặc trực thăng chiến đấu trên vùng. Hầu như mọi nơi trên Đồi 31 đều trúng pháo, có nơi trúng ba bốn lần, đất cày sâu, loang lổ, đá bụi văng tứ phía. Thật không rỏ vì sao có người thì chết ngay khi lãnh trọn một quả vào ngay hầm mình, người thì bị thương chưa kịp cứu thì bị trúng thêm, kẻ khác thì cuộn mình lại như con cuốn chiếu, ôm đầu che tai, đôi khi che luôn cả mặt khi pháo rớt lia chia xung quang hầm, thầm nghĩ không biết khi nào đến phiên mình.
“Ngày tháng cứ qua theo tầm bay lửa đạn, cả trăm trái pháo mỗi ngày băm nát ngọn đồi vô danh bỗng chốc trở thành cõi chết, cái chết cứ lần hồi gậm nhấm từ Đông qua Tây, từ Nam lên Bắc, từ những hầm hố kiên cố ở trung tâm cứ điểm đến dãy chiến hào chỗ sâu chỗ cạn bao bọc ngoại vi, tất cả bỗng trở nên bình đẳng trước sức công phá dữ dội của đạn pháo, mặt trận bỗng nhiên nghiêng hẳn về một phía, chúng tôi ngồi đây, ngày và đêm thúc thủ trước tiếng súng địch. Hàng ngũ cứ thưa dần, thà rằng cứ lao thẳng vào mũi súng, thà rằng đối mặt với quân thù, thà rằng chết trong tiếng hò reo xung trận, có đâu cứ len lỏi mãi dưới hầm hào mà cũng chỉ đợi chờ cái chết…
Chiều nay, Đồng đã nhìn thấy địch quân điều quân lui tới, qua lại thấp thoáng dưới bóng cây bên những triền núi xa xa, và biết đâu chừng đã mon men gần căn cứ, tuy các Đại đội bạn ở bên ngoài vẫn chưa có phát hiện nào về sự xuất hiện của địch. Mọi việc vẫn phải làm thật nhanh và thận trọng, xuất phát, lục soát, rải quân… Công việc quá bình thường của một Trung đội tác chiến mà sao giờ này lại quá nặng nề. Mà không nặng nề làm sao được khi quân số tiêu hao ngày một trông thấy. Rời Sài Gòn Đồng dẫn theo hai mươi sáu thanh niên, mặt mày tươi như trên đường đi học, rồi lại còn được bổ sung thêm qua trực thăng tiếp liệu hai chàng lục tỉnh mới cáu cạnh, và Nghĩa, một Chuẩn úy mới ra trường, vị chi là hai mươi chín mống.
Nghĩa, người Sài gon, nhà ở đâu miệt Khánh Hội, Hàm Tử, cũng có mẹ già và em gái, cũng mang cái hồn nhiên của tuổi trẻ vào mặt trận như ngày Đồng mới ra trường. Hồi đó, Đồng còn được may mắn học nghề với Trung úy Dũng tại ven đô, hành quân an nhàn quanh hảng bột ngọt An Phú Đông, Tân Thới Hiệp, Nhị Bình, sáng lai rai cà phê và pháo, chiều về còn cóc với ổi đưa cay. Có đâu như Nghĩa, giày trận còn bóng nếp quân trường, đã được ném ngay vào cõi chiến trường dữ dội.Tôi đã không còn dịp bàn giao Trung đội cho Nghĩa như ngày nào Trung úy Dũng đã giao trách nhiệm cho tôi. Nghĩa đã hy sinh không lâu sau đó.
Chưa tới nữa tháng, Trung đội chỉ còn lại mười tám ngoe, kể cả tôi. Đã thêm hai cái chết đau đớn của Binh nhất Mão và tân binh Xuất cứ dai dẳng ám ảnh tôi. Gom góp, nhặt nhạnh lại không đầy cái nón sắt, đó là xác Mão sau khi căn hầm của anh hứng gọn một trái công phá. Còn Xuất thì cứ trào ra những bụm cơm sấy trộn lẫn máu trong cơn hấp hối, máu và cơm, cơm và máu lẫn với những bọt khí ào theo vết thương vỡ banh lồng ngực, mảnh đạn như một lưỡi rìu phạt ngang người, khi anh ngồi bên miệng hầm nhìn bâng quơ những đỉnh núi, tay bốc từng bụm gạo sấy thẩy vào miệng. Tôi cũng ngồi cách Xuất năm vị trí trong cùng một phiên gác chiều, và chỉ kịp la lên “Xuống hầm! Pháo kích!” nhưng không còn kịp nữa, có lẽ tiếng gạo sấy khô khan vỡ rao rào trong miệng đã làm Xuất không nghe được tiếng pháo địch rời nòng, viên đạn quá tầm rơi ngoài sườn đồi lại tai quái gởi ngược về một mảnh lớn nhất. Khi chúng tôi đến thì Xuất đã như thế, môi anh còn mấp máy điều gì, tôi đã cố cúi sát người để chỉ nghe thều thào hình như tiếng “Mẹ ơi”…và Xuất đi hẳn.
Số bị thương mỗi ngày gia tăng. Giàn Hạ sĩ quan chỉ còn lại thượng sĩ Đàng và trung sĩ Yến, tôi kể như giảm cấp số làm Tiểu đội trưởng, chỉ huy một Tiểu đội Khinh binh và một tiểu đội hỏa lực. Mà nào phải chỉ Trung đội chúng tôi? Hai trung đội kia cũng lâm vào tình trạng tương tự, giật gấu vai cũng không đủ quân để trải kín tuyến phòng thủ vốn dĩ được thiết lập cho một Đại đội mạnh, đầy đủ quân số. Một tuyến dài như thế, lại phải duy trì ba vọng gác đêm, hai vọng gác ngày, chia đều chi mỗi người cũng ôm hơn năm tiếng mỗi ngày trực gác.Kể cả tôi cũng chia xẻ ba giờ đốc canh ca thứ nhứt, trong tình trạng căng thẳng kéo dài, mặt mày ai nấy hốc hác thấy rõ.
Đồng không dám nói thay những người lính của mình, nhưng anh hiểu họ, hiểu nỗi lo âu căng thẳng mà tất cả cùng chia sẽ, như anh chàng Ngọt đó, giữa lúc đạn pháo ầm ỳ trải lên trận tuyến, bỗng nhiên hắn ta nhảy vọt lên nóc hầm tuột phăng quần chỉa cu ra phía trước, miệng la lớn một hơi dài như tiếng hú của một con thú bị thương… “Con c…”Yến phải liều mạng nhảy lên cặp cổ lôi xuống. Chúng tôi gần như ai cũng đang “chạm giây” như thế mà có lẽ sự nổ bùng của chiến trận là liều thuốc cuối cùng để giải thoát, sự giải thoát tận cùng trên hai nghĩa trắng đen trần trụi.
Mọi người đều biết được lực lượng của địch không còn xa căn cứ, và có lẽ họ đang ở lại tuyến xuất phát để chờ đợi giờ “G”, khi mà mọi tần số trên máy truyền tin đều tràn ngập ngôn ngữ xa lạ của quân thù.
Trước mặt Đồi 31 có một hẻm núi, từ trên đồi nhìn xuống chỉ nhận biết con người nhờ sự di động, nếu anh ta đứng yên thì không thể nhìn thấy, hẻm núi có một khoảng trống giữa hai lùm cây rậm rạp, thế là địch chơi trò cân não. Không kể ban đêm là lúc chúng tôi không thể quan sát, còn ban ngày có mặt trời lên là có người băng qua khoảng trống đó, mặc kệ không biết bao nhiêu bom đạn được điều chỉnh chính xác xuống mục tiêu, dứt tiếng súng là có người băng qua, dòng ngưới cứ tưởng như bất tận, rồi đêm đêm, từng vệt đèn và tiếng động ầm ỳ của chiến xa dội lên căn cứ, dội lên mỗi người lính nỗi lo âu thật sự về khả năng chống chiến xa của đơn vị, khi mà những trái M72 chưa một lần chứng minh hiệu quả trước vỏ thép xe tăng, và khi mà cả căn cứ đã trần trụi, ngon lành như một đùi thịt nướng sau các trận pháo kích liên tục của đối phương. Chúng tôi không có lấy một chướng ngại vật, không có lấy một hàng rào kẽm gai, hay một trái mìn chống chiến xa để an lòng phần nào lực lượng phòng thủ.
Và chúng tôi cũng chẳng phải chờ đợi lâu hơn nữa. Mấy ngày sau, cuộc tấn công thật sự đã bùng lên trước khi ngày chưa đứng bóng.” (3)
N + 15. Phi Đoàn 219 đã được báo cáo đầy đủ về chiếc H34 thứ hai của Tr. úy Bửu cùng chung số phận với chiếc H34 đầu tiên của Tr. úy Giang rớt trên Đồi 31 với 2 phi hành đoàn nằm ụ tại nơi này.
“Buổi chiều cùng ngày, vùng rừng núi trời tối thật nhanh, chúng tôi dùng tạm bữa cơm dã chiến với ban tham mưu Lữ Ðoàn rồi chia nhau ngủ ké với anh em Dù. Tôi được ngủ chung một hầm với anh Nguyễn Quốc Trụ, một sĩ quan trẻ xuất thân khóa 20 trường Võ Bị Ðà Lạt. Anh cũng là anh ruột của Tr. uý Nguyễn hải Hoàn, một hoa tiêu chánh trong phi đoàn tôi. Tin tức chiến sự mỗi ngày một căng thẳng hơn vì đối với cộng sản Bắc Việt, sự hiện diện của căn cứ 31 trên hệ thống đường mòn HCM như một lưỡi dao đâm thẳng vào yết hầu của chúng. Vì thế cộng quân đưa thêm quân vào tạo áp lực nặng nề lên căn cứ 31 với ý định đánh bật căn cứ này ra khỏi sinh lộ của chúng.
Hai hôm sau, vẫn không có chuyến bay tiếp tế nào vào được vì địch quân luôn di động dàn phòng không của chúng khiến KQVN và HK không phát huy được ưu thế của mình. Mỗi sáng, chỉ có 2 phi tuần F4 đến ném bom vài khu vực khả nghi chung quanh đồi 31 và thỉnh thoảng mới có một đợt B52 rải thảm ì ầm xa xa vọng đến rồi mọi sự lại chìm vào rừng núi trùng điệp. Ngược lại, quân Bắc Việt tập trung bao vây, tăng cường pháo kích suốt ngày nhằm quấy rối và làm tiêu hao lực lượng Dù” (4)
N + 18.
Hôm nay là ngày 25 tháng 2, 1971.
Cuộc tấn công của địch bắt đầu từ rạng sáng. Địch pháo kích như điên vào căn cứ, cùng lúc tung hàng đợt quân từ hướng Bắc đánh vào Đồi 31. Tiếng súng nổ rân, khói lửa mịt mù. Tiếng la hét trong máy thật hổn loạn. 3 toán tiền đồn của ĐĐ 34 bị tràn ngập bởi bộ binh địch, cùng lúc phía ĐĐ 32 cũng đang bị xe tăng địch tấn công hàng ngang ngay trước vị trí.
“Các Đại Đội ngoại vi thúc thủ trước quân số quá đông đảo của đối phương trong khi còn phải chật vật đối phó với chiến xa đang tràn lên như chỗ không người, nên Đại Đội 32 được lệnh rút nhanh về căn cứ 31 để bảo toàn lực lượng, riêng Đại Đội 34 rút về chân đồi phía Đông.
Thế nhưng, trước khi ĐĐ 32 về đến căn cứ thì chiến xa địch đã lổm ngổm bò lên vị trí của Muôn, và phần việc của trung đội 2/ ĐĐội 33 của Đồng đã tới. Tôi nhìn thấy tổ tiên đồn bắn trúng đích một chiếc, cụm lửa vàng khè lóe lên, phủ trùm khói đen trên mục tiêu. Khói tan, chúng tôi tưởng như nằm mơ, chiếc xe tăng vẫn chậm rãi tiến tới, nòng đại bác trên chiến xa vẫn khạc lửa dữ dội vào tuyến phòng thủ căn cứ. Muôn cố gắng bắn thêm hai trái nữa vẫn vô hiệu, anh xách súng dẫn đồng đội lăn xuống triền đồi khi thêm sáu chiếc tăng nữa cùng với bộ binh địch hò hét áp đảo tràn lên vị trí, chúng tôi hướng tất cả hỏa lực bắn che cho Muôn và một vài toán của Đại đội 32 rút về căn cứ, cùng lúc đó hai chiến đấu cơ A 4 Skyhawk và một phi tuần trực thăng võ trang Cobra của Mỹ xuất hiện, oanh tạc mạnh mẽ vào đội hình tấn công của địch.
Tất cả hỏa lực của đơn vị của tôi, cùng với một khẩu đội B3 trực xạ cận phòng và các tuyến tiên liệu được các pháo đội khác ở căn cứ A Lưới, Đồi 30 bắn yểm trợ đã tạo nên một hàng rào lửa vững chắc, chặn hết lực lượng xung kích của Bộ Binh địch ngay tại vị trí cũ của Muôn, xác địch ngã trên triền đồi, lăn xuống vực thẳm, ngổn ngang như những khúc gỗ từ một khu rừng vừa đốn vội, chưa bao giờ chúng tôi phải bắn nhiều như thế, hai khẩu M60 đã thay nòng liên tục, quạt từng giây đạn quét phủ lên mặt trận, phải nói Yến bắn đại liên thật tài, chân hai càng được xếp gọn, nòng súng tựa hờ lên công sự tạo một tầm chuyển dịch rộng lớn và dễ dàng cho xạ trường, để từ đó phủ gọn tuyến tiếp cận của địch dưới tầm khống chế của con gà nòi dũng mãnh.
Mất sự hướng dẫn của Bộ Binh, chiến xa địch khựng lại, như muốn chỉnh lại đội hình cho một đợt xung phong khác với hơn mười chiếc đã ở trong tầm quan sát của chúng tôi. Ngay lúc đó hai chiếc Skyhaw nối đuôi sà xuống sau trái khói chỉ điểm, từng trái napal hừng hực xé gió quăng xuống mục tiêu chính xác, dũng cảm, mặc cho hỏa lực phòng không đạn chi chit phủ kín đường bay. Trận địa địch bùng lên trong cánh rừng xăng đặc, hai chiếc xe tăng tiền kích ngập trong khói lửa bốc cháy dữ dội, lính xe tăng nhảy ra khỏi xe, người cháy phừng như ngọn đuốc, lăn lộn, quơ quào rồi ngã gục theo tiếng nổ bung của chiến xa trúng đạn. Lên tinh thần, Khinh binh Thông cùng với ba chiến sĩ khác băng vọt ra khỏi chiến hào, chạy nhanh xuống lưng chừng đồi, cõng về được hai thương binh của ĐĐ 32 và một của trung đội mình từ tổ tiền đồn rút về, nửa đường thì bị trúng đạn. Hạ sĩ Nhất Muôn đã tử trận tại vị trí đó. (3)
N + 18, Từ sáng, tất cả hai nhóm phi hành đoàn 6 người của cả hai chiếc H34 được lệnh ra nằm sẳn tại các giao thông hào gần bãi đáp chờ nguyên cả một phi đội gồm 3 chiếc H34 của phi đoàn 219 mang tiếp liệu vào đồng thời tải thương binh Dù và bốc luôn cả 6 người cùng một lúc.
“Sáng ngày 25 tháng 2 năm 1971, Tôi và anh Bửu cùng vài thương binh Dù nấp chung với nhau trong một hầm trú ẩn. Ðến trưa khi chúng tôi bắt đầu nghe tiếng máy nổ xa xa thì cũng là lúc địch khởi đầu trận "tiền pháo" dồn dập lên đồi 31. Qua lỗ châu mai từ trong hầm cứu thương nhìn qua bên kia đồi đối diện, cách nhau một cái yên ngựa, tôi thây rõ hai chiếc xe tăng T-54 của cộng quân tiến lên xếp hàng ngang, cùng với quân tùng thiết dày đặc chung quanh nhắm đỉnh đồi chúng tôi mà nhả đạn. Những tia lửa từ nòng súng phụt ra, tôi và anh Bửu thụp đầu xuống cùng nhìn nhau như nhắc nhớ câu mà anh em trong phi đoàn thường nói với nhau mỗi khi lên đường hành quân "Trời kêu ai nấy dạ!".
Ngoài kia, trong từng giao thông hào binh sĩ Dù chống trả mãnh liệt, nhất là những pháo thủ pháo đội B trên Căn Cứ 31, với những khẩu pháo đã bị hỏng bộ máy nhắm vì pháo kích của địch, họ phải hạ nòng đại bác để bắn trực xạ thẳng vào xe tăng địch bên kia đồi và trong những loạt đạn đầu tiên đã hạ ngay được 2 chiếc T54. Nhưng để trả giá cho hành động dũng cảm này, nhiều binh sĩ Dù đã nằm xuống, có người nằm chết vắt trên những khẩu pháo của họ.” (4)
Trở về lại với trung đội 2, ĐĐ 33, các binh sĩ ND vẫn còn chiến đấu tại tuyến phòng thủ. Tình hình tồi tệ, tuyến phòng thủ thưa dần. Trước mặt là một lực lượng địch nhiều hơn gấp mấy chục lần, có luôn cả chiến xa dẫn đường.
“Trung đội đã chiến đấu, trước hết và duy nhất chỉ là vì sự sống còn của bản thân, phải lấy hết sức mình đương cự lại những bước chân của tử thần đang lần lượt gọi tên từng mạng sống, không còn con đường nào khác, không ai là anh hùng, không ai là dũng sĩ, không ai muốn “anh dũng hy sinh” mà vẫn phải chết như rơm như rạ.
Trận chiến vô cùng ác liệt, tất cả các sự kiện đã, đang và tiếp tục được mô tả, gần như diễn ra cùng một lúc, dồn dập, chồng chéo lên nhau, đan chặt vào nhau rồi như bị một sức mạnh vô hình xé bung ra trăm ngàn mảnh, mà Đồng, dù đã tận mắt chứng kiến, đang là một chiến binh trực tiếp chiến đấu trong những giờ phút gian nguy đó, vẫn không tài nào lột tả hết được tất cả mọi diễn biến hung bạo, tàn khốc của chiến trận..
Lợi dụng lúc thưa tiếng súng, tôi nhổm dậy luồn theo giao thông chạy dọc tuyến Trung đội, kiểm điểm lại lực lượng. Toán tiền đồn sáu người chỉ về được ba, hai người chết tại vị trí, Muôn đã để nỗi ước mơ bình thường của mình vỡ vụn từ sau lưng ra trước ngực trên đường về. Rồi ngay tại tuyến, một vị trí khác lại bị trúng đạn từ chiến xa địch khiến một chết; cái chết của người lính tử trận giống nhau từ thiên cổ, không phân biệt bên này hay bên kia chiến tuyến, cũng đen điu đau đớn, cũng co quắp quằn quại, tay bấu chặt lấy mặt đất như không đành lìa nỗi bọt bèo của cuộc sống…
Trong khi phía chúng tôi, áp lực địch tạm thời giảm nhẹ tuy họ vẫn còn ở đó, thì phía bên kia, tuyến phòng thủ của Trung đội 3 lại vô cùng nguy khốn. Toán tiền đồn năm người của trung đội, do một binh nhất khinh binh chỉ huy, tại một chỏm đồi thấp hướng Tây Nam căn cứ vừa bị tràn ngập, sau khi đã chiến đấu đến người lính cuối cùng, ngoan cường, đẩy lui bốn đợt xung phong của địch, tôi đã nghe trong máy tiếng gào khàn khàn tuyệt vọng lồng trong tiếng súng vang trời của những người quyết tử của truyền thống một đổi năm, mười nếu chẳng may thất thế. Không cường điệu chút nào khi tuyên dương họ như những anh hùng đã chết trong vinh quang, danh dự khi địch tràn lên vị trí bằng không biết bao nhiêu xương máu đánh đổi.
Ngay tại vị trí này, địch nhanh chóng bố trí một cụm hỏa lực mạnh mẽ gồm 2 cây 82 ly không giật và một 12ly8 vừa phòng không, vừa bắn trực diện, khống chế trọn vẹn vị trí của Trung đội 3. On la chói lói trên máy để xin lệnh Đại Đội…nó bắn quá chịu hông nổi, sập bốn hầm chết hết rồi. Đại đội lại gọi tôi, hỏi có tăng cường cho 3 được không? Tố báo cáo tình hình trên tuyến của mình và đoán chắc hướng tấn công chính là ngay tại nơi đây, khi phía trước mặt không phải là năm hay sáu chiến xa, con số đã trên mười chiếc đếm được và vô số bộ binh địch đang lúc nhúc dưới những cành lá ngụy trang.
Pháo địch vẫn rót tràn đều lên vị trí, san bằng, sạt phẳng mọi thứ. Có điều bây giờ chúng tôi không còn lo lắng, vì không còn phân biệt được đâu là pháo phe ta, đâu là “cà nông” phe địch trừ khi nó nổ , mà đã nổ rồi thì phận ai nấy biết, đỉnh đồi trở nên bằng phẳng, và hình như đã thấp hơn phần nào so với khi chúng tôi vừa mới đến, nhờ thế chỉ cần quay lưng nhìn về phía thằng 3, chúng tôi cũng nhận rõ vị trí lợi hại của cụm hỏa lực đó, một vài trái bắn hụt lao vèo qua phía chúng tôi rồi mất hút nổ xa xa, họ bắn liên tục nên họ quên một điều là cùng chiến đấu với chúng tôi còn có pháo đội B3. Tôi khom người chạy lên vị trí khẩu trọng pháo, chỉ cho trung Sĩ Nhất khẩu đội trưởng vị trí 82 không giật của địch. Và nòng pháo từ từ hiệu chỉnh, tôi nín thở theo cái gục đầu chầm chậm của khẩu pháo 105 ly hướng về mục tiêu…và “Bắn”. Người hạ sĩ pháo thủ giật cò, viên đạn rời nòng trực chỉ khâu đội địch Ầm…chúng tôi nhảy lên reo hò sung sướng khi nhìn thấy rõ ràng khẩu 82 ly không giật của địch tung bắn lên trời sau tiếng nổ chính xác. Chỉ một viên đạn thôi, các chiến sĩ pháo binh đã triệt tiêu hiểm họa đó.
Tuyến của chúng tôi nằm cách xa Bộ chỉ huy Đại Đội, nên gần như độc lập tác chiến, tôi chỉ kịp thông báo cho Đại Đội là địch bắt đầu tấn công trở lại, rồi nằm hụp xuống nghe lằn đạn veo véo trên đầu, đội hình địch từ triền núi bên kia xuất hiện đông đảo trên đỉnh đồi rồi chia nhau tràn xuống, lấp ló trồi sụt dưới mưa bom bảo pháo, pháo địch bắn ta, nếu quá tầm cũng nổ trên đầu địch, bom đồng minh yểm trợ, lạng lách thế nào không biết, cũng roi ngọt xớt xuống đầu ta, bêu đầu sứt trán, la hét om sòm tiếng Đức, tiếng Mỹ, thây kệ mẹ nó, đằng nào cũng phiêu diêu miền cực lạc.
Bắn phá một hồi, hai chiếc Shyhaw rời vùng và nhanh chóng mất hút cuối chân trời, còn lại hai Cobra đảo lui đảo tới ạch đùng ạch đùng mấy dây hỏa tiễn trúng ngay vào đám xe tank cũng chẳng thấy hề hấn gì, trực thăng bắn cứ bắn, chiến xa địch vẫn tiến trong đội hình tấn công dưới sự che chở của hỏa lực phòng không. Lần này họ thay đổi chiến thuật sau khi đã nướng khá nhiều bộ binh trong đợt xung phong trước, thiết giáp xung kích mở đường, bộ binh lom khom lấp ló theo sau, không còn hò hét ngậu xị.
Hai chiếc phản lực khác vào vùng lần này là Phantom F4C, trong khi hỏa lực phòng không cũng đã áp sát chân đồi, OV10 lảng vảng trên cao bắn trái khói chỉ điểm cho Phantom lao xuống mục tiêu. Điều không may cho chúng tôi là trong đợt tấn công đầu tiên của phi tuần này, trái bom lửa vừa phủ lên chiến xa, thì đồng thời chiếc F4 cũng bị bắn tung đuôi trong khi ngóc đầu lên sau đợt oanh kích. Múi dù sặc sỡ mở bung trước khi con tàu bốc cháy, lảo đảo đâm vào vách núi nổ vụn. Thế là tất cả máy bay có mặt trong khu vực, kể cả hai chiếc Skyhaw mới vào vùng chưa bắn một phát đạn, bảo về cho phi công lâm nạn chờ trực thăng cấp cứu. Chúng tôi không rõ họ có cứu được đồng đội hay không, nhưng từ giây phút đó, chiến trường gần như bõ ngõ cho chiến xa lồng lên áp đảo.
Xe tăng địch lập tức ào ạt xung phong, hai…ba…năm bảy mười một chiếc tất cả cùng lao xuống, bỏ lại bộ binh phía sau, một chiếc bò ngang chông chênh bên sườn đồi, lãnh nguyên trái pháo 105 ly trực xạ hất nhào xuống vực thẳm, chúng vừa bắn vừa tiến và đã chiếm được bãi trực thăng. Mọi người đã thấy khả năng diệt tăng của M72 không nhiều và không thể bắn ở khoảng cách quá xa nên phải chờ đợi. Tất cả hỏa lực của chúng tôi chỉ có thể tạm thời trì hoãn tốc độ tiến quân của bộ binh địch trong trời gian ngắn, khi chiến xa chưa tiếp cận vị trí và tách chúng ra.
Hạ sĩ Nhất Chính và Tiểu đội Khinh binh lãnh nhiệm vụ đón đánh đợt đầu tiên khi xe tăng vượt qua bãi đáp, tiến vào yên ngựa hẹp trước khi bám vào căn cứ, đây là địa thế duy nhất có thể khống chế đội hình địch, bắt buộc chúng phải lần lượt từng chiếc một theo hàng dọc tiến lên. Chính dẫn theo Bình, Tám và Ngôn, mỗi người một cây M72, luồn theo giao thông hào, chận ngang con đường xuống bãi tiếp tế. Chuẩn Úy Nghĩa muốn theo Chính, tôi nhìn anh ái ngại, thôi Nghĩa à! Cần gì phải vội, anh ở đây chờ thay tôi là tốt nhất, ai cũng sẽ có phần…Tôi nghĩ thầm nhưng không nói với Nghĩa đã thấm cái đau xót trước những thân xác đồng đội ngay từ mặt trận đầu tiên của đời quân ngũ, mặt anh hừng hực, mắt long lên như con thú bị thương. Tâm lý chung của những kẻ đang không còn đường trở lại, và thế là phải vượt lên phía trước, vượt qua cái hèn bản chất của chính mình, không còn một khái niệm gì giữa cuộc sống và cái chết, mà có khi chết còn thanh thản hơn sống.
Chúng tôi hồi hộp nhìn theo hai chiếc xe tăng dẫn đầu đang bò theo con dốc hẹp, đám bộ binh đã bị hai cây đại liên gài chéo cánh sẻ, cùng với tốc đội bắn nhanh của M16 đè đầu, nằm dán xuống đất lãnh pháo, bò lui bò tới không theo kịp chiến xa, kể như thiết giáp đã bị mù nên nó cũng thận trọng xử dụng tối đa cây đại bác dọn đường.
Chính chờ chiếc đi trước bắt đầu ghếch mũi súng lên đầu dốc, phơi toàn bộ cái ức xám xịt trước mũi súng, khoảng cách chừng hai mươi mét, anh bình tĩnh bóp cò, trái đạn đen thui vẽ một đường thẳng chớp nhoáng lao vào mục tiêu, nổ bùng vào cái mặt ù lỳ dị hợm, tưởng như mọi thứ phải tan tành hay bốc cháy trước sức công phá trực diện của trái hỏa tiễn, thế nhưng chiếc chiến xa chỉ khẽ khựng lại, như có vẻ giật mình chút đỉnh, rồi lại tiếp tục tiến lên, không cháy, không nổ, không hề suy suyển. Thấy nguy, Tám bồi thêm một trái trúng ngay hông pháo tháp khi nó vừa vượt ngang tầm, vẫn khỗng hề hấn gì, thế là cả toán đành dạt ra, ném tới tấp lựu đạn vào gầm xe, trong khi chiếc xe đi sau cũng vừa bám theo được và tác xạ đại liên tới tấp vào vị trí của Chính, tên xạ thủ 12ly8 chưa bắn được bao nhiêu đã lãnh nguyên một tràng M16 gục xuống, xác hắn vắt vẻo trên thành xe.
Trung đội 2 bất lực để cho chiếc số 1 tiến thẳng vào căn cứ, chiếc số 2 vừa nối theo thì Chuẩn Úy Nghĩa nhảy phắt lên, thẩy gọn một trái M26 vào trong lòng pháo tháp, anh chưa kịp nhảy xuống thì trúng đạn, gục chồng lên xác địch thủ cùng lúc với tiếng nổ “bụp” tức tối, khói từ trong chiếc chiến xa bốc lên, sao nó vẫn chạy, vẫn tiến lên phía trước? nó chạy quờ quạng thêm một đoạn ngắn rồi nổ tan ra thành hai mảnh, pháo tháp bật ngược ra sau cùng với xác của Nghĩa.
Được chiếc số một mở đường, cả đám xe tăng cùng ào ạt tiến lên kéo bộ binh đông như kiến cỏ, lúp xa lúp xúp, một chiếc trờ tới ủi chiếc bị cháy xuống sườn núi, lấy đường tiến lên, trong lúc chiếc số 1 đã vào hẳn vị trí trung tâm, bắn phá Bộ Chỉ Huy Pháo Đội và mon men tìm tới Lữ Đoàn. Đồng và lính của anh cố gắng dùng hết hỏa lực trì hoãn bước tiến của xe tăng địch, nhưng vô ích. Không có một trái M72 nào có khả năng công phá vỏ thép chiến xa dù các chiến binh đã thừa gan góc tiếp cận từ mọi hướng, trước, sau, hông, bụng, pháo tháp, bánh xích. Chúng đóng kín pháo tháp, chỉ xử dụng đại bác và đại liên song hành càn lên hầm hố, công sự, giao thông hào. Mũi xung kích của địch càn lên chiếc hào, xé Trung Đội 2 của Đồng ra làm hai mảnh, với tình thế đó, bắt buộc phải ra khỏi vị trí cố thủ, đánh cận chiến với…xe tăng. (5)
Toán phi hành của Th. úy Khánh vẫn còn núp trong giao thông hào khi chiến xa địch bất chấp tổn thương vẫn tiếp tục bò dần đến vị trí của anh, theo sau lưng lúc nhúc cả trăm lính tùng thiết. Tiếng nổ của đạn nhỏ đạn lớn, tiếng đạn rời nòng 105ly bên cạnh, tiếng ầm ỉ của chiến xa địch, tiếng la hét của người bị thương lẫn những binh sĩ đang chiến đấu cọng thêm với mùi bụi đất, của khói, mùi thuốc súng, mùi của…thần chết khiến Khánh co rúm người trong hầm.
“Không ngờ, chỉ mỗt lúc sau 2 xe tăng khác ở phía sau tiến tới ủi những chiếc xe cháy xuống triền đồi rồi lại hướng súng đại bác về đồi chúng tôi mà bắn! Sau vài loạt đạn, một phi tuần 2 chiếc F4 xuất hiện nhào xuống oanh tạc vào đội hình địch, và lại phá hủy thêm 2 xe tăng nữa. Trong tiếng bom đạn tơi bời, tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng máy nổ của những chiếc H34 đang vần vũ trên cao như lo lắng cho số phận những đồng đội của mình. Cho đến khoảng sau 5 giờ chiều thì địch tràn lên chiếm được đồi. Chúng lùng xục từng hầm trú ẩn kêu gọi binh sĩ Dù ra đầu hàng. Biết không thể làm gì hơn, tôi và anh Bửu tháo bỏ súng đạn cá nhân, chui ra khỏi hầm.” (4)
Trở về lại với trung đội 2 vẫn đang cận chiến với chiến xa và lính tùng thiết của địch. Tình hình quá hổn loạn, cận chiến nơi này, phản kích nơi kia. Bắn Bắn. Quăng Quăng. Theo linh tính. Theo trực giác. Nằm xuống rồi lại ngồi dậy. Lăn qua hố này, rồi đến hố khác. Đứng dậy bắn một tràng đạn, thụp xuống khi kịp thấy lóe sáng của B40 hướng về mình rồi tiếng nổ chát tai sau lưng…
Sau đây là những giây phút cuối cùng của trận đánh trên Đồi 31:
“Đã có bốn chiếc tăng địch lọt vào căn cứ, trong lúc bộ binh vẫn còn vất vả phía ngoài, chúng tôi vẫn để hai cây đại liên, và hai cây khác của Trung Đội 1 vừa mới chuyển qua, bắn ghìm bộ binh, phần còn lại lao vào tăng địch, chiến trường không chỉ là của Trung Đội, mà cả Đại Đội đã lồng lên, bu kín các chiến xa, mặc cho nòng súng xe quay tròn gạt xuống. Nhưng làm gì được? Đã bắn hết số M72 để gãi ngứa chúng, đã ném không biết bao nhiêu lựu đạn để làm nhột chúng, đã chỉa nòng M16 thật gần chỉ bắn vỡ được kính mắt mèo…không lẽ lấy răng mà cắn? Sức cùng lực tận, hai cây đại liên vừa hết đạn là bộ binh nương theo khói lửa tràn lên, không biết cơ man nào mà đếm, chúng tôi vừa đánh vừa lùi, lùi trên xác đồng đội, lùi trên những đôi mắt đớn đau tuyệt vọng của những anh em bị thương không còn người cứu chữa đang nằm chờ chết.
Cả ngọn đồi đã trở thành biển lửa và máu khi tất cả hỏa lực của hai bên đều tập trung tác xạ vào một tọa độ duy nhất, dù mục đích vẫn khác nhau rất xa…”bắn lên đầu tôi đi! Vĩnh biệt! Bắn lên đầu tôi đi! Vĩnh biệt!” Trên tần số Đại Đội đã vọng lên lời từ biệt gởi khắp bốn phương. Câu hét trong máy truyền tin của Đ. Úy Đương trở thành bất diệt. Hai chiếc phản lực chúi xuống đỉnh đồi, chùm bom đen đủi lao xuống mục tiêu là một bầy xe tăng bốn năm chiếc, và cả chúng tôi mình trần thân trụi. Tôi sững sờ đứng như trời trồng nhìn chùm bom lao xuống đầu mình, thật nhanh, thật nhanh, thật gần và gần hơn nữa, rồi chỉ kịp ôm nón sắt nằm chúi vào vách đá trong một loạt tiếng nổ vang rền, long trời, đất đá, sắt thép, mảnh bom, mảnh thịt người, rơi lào rào, lịch bịch. Đồng minh oanh tạc thật chính xác! Bom đạn không chỉ thả trên đầu quân địch mà luôn cả ngay trên đầu của chính quân ta trong một nghĩa cử anh hùng của những người quyết chống trả đến phút cuối cùng. Đỉnh đồi nát bấy những mảnh vỡ của công sự, những chiến sĩ cuối cùng của pháo đội B3 cùng với Đại Úy Nguyễn Văn Đương, người Pháo Đội trưởng vẫn kiên cường cho đến phút cuối cùng trong những cố gắng gan góc, tác xạ trực diện vào xe tăng địch đang loay hoay, lúng túng trước địa hình lồi lõm, hầm hố mà khoảng cách chỉ là năm, mười mét. Kể từ lúc đó, chiến địa mất hẳn liên lạc với Pháo Đội B3.
Ba phần tư ngọn đồi đã nằm trong tay địch, chúng tôi chỉ còn giữ được một phần Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, Lữ Đoàn, nhưng không còn ai trong những vị trí đó. Tất cả đã ra ngoài cùng sát vai chiến đấu, và hệ thống chỉ huy liên lạc vẫn duy trì đầy đủ cho đến cấp trung đội, dù trên thực tế, một trung đội còn không quá 10 người còn khả năng chiến đấu. Sau khi tái phối trí lực lượng, chúng tôi được lệnh trực tiếp của tiểu đoàn, tổ chức một cuộc phản kích toàn bộ trên trận tuyến, cố gắng chiếm lại các vị trí đã mất với hy vọng không quân sẽ yểm trợ hữu hiệu để giữ vững căn cứ.
Khi đã qua phần mở màn đầy kịch tính của lo âu, sợ hãi nơi con người thèm sống, khi mà khói súng đã quyện vằn vện với mồ hôi trên mặt, khi những vết máu đồng đội đã đông cứng trên hai tay người lính chiến, thì khái niệm sống, chết bỗng trở thành vô nghĩa, nhất là trong hoàn cảnh không còn có thể chọn lựa như ở đây, tất cả chỉ còn là định mệnh. Vì thế, tất cả đã hăm hở lao lên trong một cố gắng tuyệt vọng, lại bắn, lại thụt M72, lại ném lựu đạn, lại leo tràn lên xe tăng địch, mà bây giờ đã có bộ binh phối chiến, mặt đối mặt với lưỡi lê báng súng, lăn xả vào nhau bắn giết, đâm chém, lại loay hoay không biết phải làm gì với khối sắt di động đó, lại bị thương, lại ngã gục giữa bom bầy pháo lũ, pháo nổ chụp, pháo công phá, pháo nổ chậm, trên đầu chụp xuống, dưới đất nổ hất tung lên, phạt ngang lưng, chém ngang cổ. Bom, pháo cả hai bên cùng bắn vào một chỗ, lính cả hai phía cùng chia nhau lãnh đủ, đạn bắn thủng xuyên màng tang trổ ra sau ót, óc vỡ tung ra với máu, vài cái nón sắt lăn lông lốc trên những đôi dép râu tuột quai, nhầy nhụa trong một dòng nước đỏ ối đang khởi thủy vết chảy ngoằn ngèo của một dòng sông máu. Xác chết từ hai phía thân ái ôm chầm lấy nhau rồi đổ ụp xuống nằm cạnh nhau hiền hòa như chưa hề quen biết làm ngọn núi chợt cao lên với muôn ngàn lời ai oán.
Đợt phản kích cuối cùng này không đủ sức mạnh để đạt hiệu quả mong muốn, và từ dưới chân đồi tràn lên một đợt sóng biển người và chiến xa khác. Địch tung toàn bộ lực lượng vào đợt tấn công quyết định, trong khi phía chúng tôi đã sức cùng lực tận, đành chấp nhận rút lui theo lệnh trục tiếp từ Th. tá Lê Hồng, trưởng Ban Ba TĐ3ND, để hạn chế thêm thương vong.
Đơn vị rút xuống khe núi, trung đội của tôi chỉ còn lại sáu người, có Thượng sĩ Đàng và Trung sĩ Yến. Hạ sĩ Nhất Chính đã tử trận khi một chiếc chiến xa địch nghiến qua người sau khi anh đã bị thương trong đợt phản kích. Tiểu đội khinh binh chỉ còn lại Thông, Ngôn và Tám. Tôi lại được xuống cấp làm tổ trưởng khinh binh, dẫn hai ông tổ phó mở đường rút cho đơn vị, mang theo được rất ít thương binh nhẹ, trong đó có Bé, trung đội trưởng trung đội một.
Cái đau bại trận thấm lên từng khuôn mặt mệt mỏi, chán chường, không đủ can đãm nhìn thẳng vào mắt nhau, dù chỉ để đôi điều chia sẻ. Tôi bổng hổ thẹn vô cùng trước giọt nước mắt âm thầm lau vội của Thượng sĩ Đàng, ông đã yêu những người lính trong trung đội bằng tình yêu thương ruột thịt, nên cũng đau gấp vạn lần từ thiếu vắng, tang hoang, buồn tủi trước cái nhìn trân trân vô hồn của Thông và Tám. Họ đang nghĩ đến số đồng đội bị thương đang chờ chết trong tay địch, điều mà từ trước tới nay, chưa ai một lần nghĩ tới.
Rừng chiều bổng đỗ mưa, tiếng sấm gào cùng với tiếng pháo tàn trận, dội vào vách núi, vỡ vụn ra những âm thanh buồn bã của hồi chuông tử biệt, mưa tuôn rì rào trên lá, rì rào lời kinh chiêu hồn vang vọng. Trung đội lầm lủi tiến về phía trước, theo sự hướng dẫn của ĐĐ 31 còn nguyên vẹn, đang tiến về căn cứ, và chờ chúng tôi ở hai cây số đông đông bắc. Trong khi ở một hướng khác, ĐĐ 34 cũng đang đón phần còn lại của ĐĐ32, trước khi tập hợp tại một vị trí định sẵn. Chờ lệnh mới.
Nhận lệnh trực tiếp từ tiểu đoàn, tổ chức chốt chặn, để tất cả thương binh nặng, nhẹ mang theo được, sẽ cùng ĐĐ 31 và bộ chỉ huy tiểu đoàn rút trước qua triền núi bên kia, sau đó, sẽ tìm gặp ĐĐ 34 đang cùng với một bộ phận khác của tiểu đoàn di chuyển cách đó chừng bốn cây số đông đông bắc, móc nối, dẫn đường cho hai cánh quân gặp nhau.
Nhiệm vụ nghe có vẻ nhẹ nhàng, nhưng quả thực, khi đồng đội cuối cùng khuất sau hẽm núi, Đồng cảm thấy vô cùng cô đơn với năm người còn lại. Và trên đồi 31 vẫn ầm ì tiếng pháo truy kích của xe tăng địch bắn vu vơ vào vách núi.
Chắc chắn khi leo lên được đỉnh Đồi 31, địch đã gánh chịu một sự tổn thất không thể bù đắp nổi về quân số, nên họ đã không còn khả năng tổ chức truy kích, vì thế, “trung đội sáu người” bớt được gánh nặng nghênh cản để lần mò theo tiếng súng hướng dẫn, tìm về đại đội bạn. Cho đến quá nửa đêm thì gặp nhau, và chỉ kịp siết chặt nắm tay chào hỏi, gấp rút quay theo đường cũ, theo chân ĐĐ 34, về gặp lại tiểu đoàn trước khi trời sáng. Thời gian không còn thuộc về chúng tôi.
Đoàn quân lần dò trong bóng tối của trùng điệp núi rừng, bám vai nhau tuôn dần xuống dốc núi dựng đứng, cố gắng tiến thật nhanh về điểm hẹn, nơi đó, một đơn vị bạn đang trên đường tiếp ứng. Đến gần sáng, đơn vị chúng tôi gặp được quân bạn đang hướng tới đồi 31 cùng với chiến xa, Qua mấy ngày sau, đơn vị tôi được trực thăng bốc về Khe Sanh. (5)
Sau đây là những gì xẩy ra cho nhóm phi hành đoàn sau khi họ tháo bỏ súng ống, bước ra khỏi hầm:
“Về phía KQ, tôi, anh Bửu, On và Sơn bị trói bằng dây điện thoại và bị dẫn giải ra Bắc Việt chung với tất cả tù binh khác. Không thấy anh Giang và Em đâu. Chúng tôi bắt đầu thăm hỏi các SQ và binh sĩ Dù tù binh trên đường đi. Cuối cùng tôi gặp được anh Long là người ở chung trong hầm với anh Giang khi cộng quân kêu các anh ra đầu hàng. Ðến lần thứ 3 các anh vẫn không chịu ra nên chúng thảy lựu đạn chày và bắn xối xả vào hầm. Anh Long chỉ bị thương nhẹ nên chúng bắt theo, còn anh Giang vì bị thương nặng gãy cả 2 chân không đi được nên bị chúng bỏ lại và chết ở trong hầm. Về phần Mêvô Em thì bị lạc đạn trúng bụng đổ ruột ra ngoài, khi bị bắt dẫn đi Em cứ 2 tay ôm bụng giữ lấy ruột mà không hề được băng bó vết thương nên đi được một khoảng không chịu được đau đớn, Em gục chết ở bên đường.
Thế là Phi Đoàn 219 ghi thêm vào quân sử của mình thêm một thiệt hại: 2 phi hành đoàn trên chiến trường Hạ Lào. Trong đó anh Giang và Em đã vĩnh viễn ở lại trên đồi. Ngọn đồi quyết tử 31. Những người còn lại của 2 phi hành đoàn đó là Bửu, On, Khánh và Sơn thì sa vào tay địch, bị đưa đến những bến bờ vô định, biết còn có ngày về hay không? (4)
Cùng với nhóm phi hành 4 người của Khánh, hầu như toàn bộ chỉ huy LĐ3ND tại Đồi 31 đã bị bắt làm tù binh, bao gồm Đ.tá Nguyễn Văn Thọ LĐ Trưởng LĐ3ND, Th.tá Nguyễn V. Đức trưởng Ban 3 LĐ3ND, Tr.tá Bùi V. Châu TĐT TĐ3PBDù, Đ.úy Đào V. Thương trưởng ban 3 TĐ3PBDù, Đ.úy Nguyễn Quốc Trụ phụ tá Ban 3 LĐ3ND, Đ.úy Lê Đình Châu ĐĐ trưởng công vụ LĐ3ND, Th. úy Nguyễn Văn Long Ban 3 LĐ3ND, Tr. Úy Đinh Đức Chính sĩ quan không trợ… cùng nhiều quân nhân các cấp. Tất cả đều bị trói tay và xô, đẩy, kéo đi rất tàn nhẫn và rất nhanh trong đêm vì địch sợ bị truy kích hoặc B52 trải thảm. Những ngươi đi chậm, ngay cả những thương binh, đều bị la mắng, đày đọa, đánh bằng báng súng, thậm chí cho chết. Riêng Th.úy Vinh, người chỉ huy toán Điện Tử ND đến Đồi 31 trên cùng chiếc H34 bị lâm nạn của Bùi Tá Khánh, cũng bị bắt tù binh, nhưng đã can đãm trốn thoát được bằng cách buông người truột xuống sườn đồi ngang qua một khúc quẹo trong đêm.
Vừa đi vừa bị bắt chạy theo tiếng la hét, chửi rũa của bọn lính áp giải, với 2 tay trói ké sau lưng, mà trời lại sinh tội đổ mưa, Khánh rất khó khăn theo kịp đoàn người. Kẻ nào bị té ngã nếu không có sự giúp đở của bạn tù khác thì thật vất vả để tự đứng dậy. Sau một đêm bị thúc giục đi nhanh không nghỉ, tất cả toán tù binh được cho dừng chân vào sáng sớm hôm sau. Càng xa mặt trận bao nhiêu, niềm hy vọng được cứu thoát bởi toán Lôi Hổ hay trinh sát Dù càng nhỏ dần trong lòng Khánh và mọi người. Có đôi lúc anh cầu mong B52 thả bom ngay trên toán tù đang lầm lủi đi trong đêm vì anh nghĩ may ra anh có thể thoát được giữa những hổn loạn của bom nổ, lở có chết thì cũng chấp nhận dễ dàng hơn là phải sống tù đầy trong tay bọn CS khát máu này.
Toán tù binh Đồi 31 của Khánh di chuyễn với nhau như vậy trong gần 2 tuần liên tiếp, đa số là đi bộ, có vài ba chặng đường thì bị dồn cứng chở trên xe molotova. Nhìn ai cũng xơ xác, thiểu nảo, thiếu ăn thiếu ngủ, quần áo trận rách tươm. Khi đến thành phố Vinh, mọi người được lệnh dừng lại, và ở đó trong 4 ngày, qua đêm ở những hợp tác xả. Dân làng xung quang có chạy đến xem, nhưng không một ai có bất cứ một hành động ghét bỏ thù hận nào và bị toán lính gát đuổi đi. Từ Vinh, toán tù binh Đồi 31 có thêm những bạn tù mới từ các đơn vị chiến đấu khác như TQLC, BĐQ và Bộ Binh; tất cả lại bị lùa lên những toa xe lửa bịt bùng và chở thẳng ra Hà Nội, vào ngay trại tù đầu tiên ở Ngã Tư Sở.
Nhà tù này là một biệt thự của Pháp ngày xưa. Nơi đây có trên một chục phòng, đã từng giam giữ tạm một số tù binh phi công Mỹ, với những tên tuổi còn ghi trên tường. Chúng chia cứ 6 người ở chung một phòng, không phân biệt quân binh chủng hay cấp bậc. Nơi này có trên một chục phòng như vậy.
Trong khi toán tù binh trong đó có Th.úy Khánh đang trên đường bị dẫn độ ra Bắc, thì vào ngày 28 tháng 2, 1971, từ một vị trí chếch về hướng Đông và không quá xa Đồi 31, lần lượt toàn bộ TĐ3ND được trực thăng vận về lại Khe Sanh. Tổn thất nặng của tiểu đoàn chỉ gom phần lớn ở ĐĐ 33 của Đồng và 32 của Đ.úy Thiếp, ngoài ra các ĐĐ 30, 31 và 34 hầu như còn nguyên vẹn. Trong suốt thời gian nằm dưỡng quân tại chổ, TĐ3ND tái bổ sung và trang bị lại đơn vị. Dù được bổ sung, Trung đội 2 của Đồng tạm thời chỉ có 16 người, kể cả người chỉ huy, bằng một nữa của cấp số bình thường.
Qua tin tức của các” phóng viên chiến trường” trong nước cũng như ngoại quốc, mà đa số ngồi nhâm nhi cà phê ở Givral, La pagoda, hay nếu gan dạ lắm cũng chỉ quanh quẩn ở Bộ Tư Lệnh tiền phương Quân đoàn I, Đông Hà, Khe Sanh, thêu dệt lên những bản tin thật giật gân, bi thảm hóa một trận thua vốn là lẽ thường của chiến tranh để cho rằng, quân ta thất thủ đồi 31 tức là toàn bộ Lữ đoàn 3 Nhảy Dù đã bị tiêu diệt. Thông tin kiểu đó, đã vô tình ám ảnh những đơn vị chưa được tung vào mặt trận, mà hiệu quả tâm lý chi phối phần lớn khả năng chiến đấu.
Họ không hề biết rằng, ngay sau cuộc hành quân Lam Sơn 719 chính thức chấm dứt vào đầu tháng 4, 1971, từ Huế, khi màn diễn binh tại Phú Vân Lâu kết thúc, thay vì được không vận về Sài gòn để dưỡng quân như thường lệ, thì sân bay mà LĐ2ND đáp xuống lại là phi trường Cù Hanh, Pleiku đất đỏ. Tin hành quân bí mật cho đến nổi quá nhiều binh sĩ ND tức giận và đạp nát bao nhiêu nón lá bài thơ mua sẳn cho người nhà tại hậu cứ Saigon. Lữ Đoàn 2 ND dưới quyền chỉ huy của Đ.tá Trần Quốc Lịch, gồm có các TĐ5ND, TĐ6ND, TĐ11ND, TĐ2PBND cùng các đơn vị yểm trợ như Quân Y, Công Binh, Trinh Sát…, đã lao ngay vào một mặt trận căng thẳng khác: Giải tỏa căn cứ hỏa lực 6 ở Dakto, Tân Cảnh do một đơn vị thuộc Sư đoàn 22 Bộ Binh trú đóng, đang bị Sư đoàn 320 Cộng quân vây hãm từ nhiều tuần qua. LĐ2ND đã đánh tan 2 trung đoàn 66 và 28 cùng với 1 tiểu doàn phòng không của Bắc Việt khiến địch phải rút khỏi chiến trường.
Sau chừng 3-4 tháng nằm tù ở Ngả Tư Sở, toán tù binh của Khánh được đưa đến một nhà tù khác có tên Bất Bạc, nằm sâu trong rừng núi của Sơn Tây. Tại đây, có sẳn nhiều tù binh khác của VNCH, thuộc mọi binh chủng bị bắt từ nhiều mặt trận khác nhau ở Miền Nam. Từ đây trở đi, Khánh cùng các bạn tù binh khác bắt đầu một cuộc sống thực tế đầy trắc trở, cùng cực, với lao động khổ sai, tuyên truyền, thù hằn của bọn cai tù được dạy sẳn sàng bắt lổi, nhục mạ, la lối chưởi bới, đánh đập, giam đói, chà đạp danh dự và phẩm giá của người tù binh. Chúng càng ra tay tuyên truyền, đối xữ tàn tệ bao nhiêu thì Khánh và các bạn tù lại càng cương quyết, bền bỉ và quyết chí phải sống để còn là nhân chứng cho chính sách đối xữ tàn nhẫn của CS đi ngược lại quy ước tù binh Genève bấy nhiêu. Sở dĩ những tù binh trong trại vẫn hiên ngang kiên cường vì ai cũng biết sau lưng mình còn có cả một nước VNCH của mình, bao nhiêu anh em trong binh chủng đang chờ đón mình về, rằng mình không bị bỏ quên. Vì vậy họ không bao giờ có cảm tưởng họ bị bỏ rơi, nghiệm thấy bị bắt tù binh chỉ qua là một biến cố kém may mắn bất cứ một quân nhân tại mặt trận cũng có thể gặp phải, tuy nhiên vẫn còn hơn bị thương tật vĩnh viễn hoặc bị chết.
Anh đau xót nhìn những niên trưởng thường xuyên bị chúng hạch sách, đày đọa, hay quấy nhiễu vô cớ; những anh em tù khác bị thương tật, nặng có nhẹ có, bị đối xữ tàn nhẫn. Người người đều có lúc bị suy sụp tinh thần, nhưng nhìn chung ai ai cũng giữ vững niềm tin, lòng can cường và sự đoàn kết, luôn binh vực nhau ngay cả những khi bị chúng làm áp lưc. Chính vì vậy, các bạn tù rất thương yêu nhau, đùm bọc nhau, chia xẻ với nhau từng miếng ăn, công việc nặng nhọc, tâm sự vui buồn, lời cầu nguyện… Anh em thỉnh thoảng nhắc đến chuyện phim “Cầu Sông Kwai”, mà hầu như mọi người cùng thời với Khánh đều có xem, căn dặn nhau phải sống tư cách như các tù binh người Anh trong phim. Cũng vì vậy anh em tù thường xuyên hay huýt sáo bản nhạc trong phim nổi tiếng ấy. Với Khánh, anh luôn cảm thấy mình may mắn hơn nhiều bạn tù khác vì anh không những độc thân, mà ngay cả người yêu anh chưa có để thầm thương nhớ hay khóc thầm để phải suy sụp tinh thần.
Vào gần cuối năm 1972, có lẻ do những cuộc không tập ngày càng ác liệt của Không Quân Mỹ trên Miền Bắc, nhóm tù binh của Th.úy Khánh bị di chuyễn đến trại tù Tràng Định nằm ở Lạng Sơn.
“Đêm mùa đông giữa rừng núi Lạng Sơn trời lạnh căm căm thật là khó ngủ. Để chống trả cái lạnh, chúng tôi phải hai đứa một cặp đem hết mền ra, một phần để lót lưng vì nằm trên giường tre, gió cứ tha hồ luồn theo kẽ hở vào ve vuốt sống lưng, phần còn lại thì dùng để đắp. Vì trời lạnh không có chú muỗi nào dám vo ve nên chúng tôi hạ luôn mùng xuống làm mền. Có bao nhiêu quần áo, chúng tôi mặc hết vào người rồi chui vào đống mùng mền, dựa lưng nhau mà tìm giấc ngủ. Phải một lúc sau mới có chút hơi ấm và vì mệt mỏi sau một ngày làm việc quần quật chúng tôi cũng chìm dần vào giấc ngủ.
Đang thiu thiu chúng tôi bỗng choàng thức dậy bởi tiếng loa léo nhéo ở giữa sân trại:
“Đả đảo đế quốc Mỹ đã dùng B-52 ném bom rải thảm vào bệnh viện Bạch Mai và khu vực dân cư ở thủ đô Hà Nội. Bọn chúng đã lật lọng không chịu ký hiệp định mà hòng dùng sức mạnh quân sự để khuất phục nhân dân ta, bắt đảng và nhà nước ta phải ký một hiệp định với nhiều bất lợi cho ta. Nhân dân ta quyết đập tan âm mưu của đế quốc Mỹ và tố cáo tội ác dã man của chúng trước dư luận thế giới”.
Dù bị mất giấc ngủ, chúng tôi hết sức nôn nao và xì xầm bàn tán với nhau vì đây là sự việc lạ lùng chưa từng xảy ra trong suốt 2 năm tù lao động khổ sai khắp các miền rừng sâu bắc Việt. Trong chế độ tù đày mà cộng sản gọi là cải tạo, việc lao động nặng nhọc phải đi đôi với nhồi sọ chính trị mà việc đọc báo, nghe loa phát thanh là một chính sách lớn vì họ lập luận rằng cứ cho nghe mãi rồi cũng phải tin. Dĩ nhiên chỉ có những tin tức hạn chế do một đài của nhà nước, và sau khi đã được bóp méo, vo tròn theo ý họ rồi mới cho cả toàn dân miền Bắc nghe. Điều này cho thấy nhà nước cộng sản không hề tôn trọng người dân mà họ vẫn tôn làm chủ, vì trong khi họ theo đuổi hơn 4 năm trời một cuộc tranh đấu chính trị trên bàn hội nghị mà kết quả có tầm ảnh hưởng rất quan trọng cho vận mệnh của đất nước thì người dân chẳng hề biết một tí gì hết. Cho đến khi Hà Nội ăn bom B52, chẳng dấu ai được họ mới la ầm lên đổ thừa cho đế quốc Mỹ. Thế mà hôm nay không hiểu tại sao bỗng dưng họ lại phát thanh cho toàn dân nghe một bản tin thuộc loại cơ mật như vậy.
Tối hôm sau và những hôm kế tiếp, sau khi ăn cơm, chúng tôi nhanh chóng thu xếp rồi lên giường nằm vừa bàn chuyện vừa ngóng tai chờ nghe loa. Cái loa thường ngày chúng tôi ghét cay ghét đắng vì âm thanh chát chúa của nó, bỗng dưng hôm nay chúng tôi lại mong được nghe những gì nó mang đến. Quả nhiên, qua chiếc loa, người xướng ngôn với giọng đanh thép, ngoài bài xã luận một chiều thường lệ, còn cho biết “bộ đội phòng không anh dũng đã bắn rơi nhiều máy bay B52, bắt sống nhiều giặc lái Mỹ”.
Chúng tôi lại được dịp luận bàn: nhiều là không đếm được, không đếm được tức là không có gì để đếm”.
Từ khi bị bắt trên chiến trường Hạ Lào, chúng tôi coi như không biết ngày về trừ khi có một hiệp định được ký kết giữa các bên tham chiến trong đó có quy định việc trao trả tù binh bị giam giữ. Lâu nay chúng tôi âm thầm chịu đựng mọi nghiệt ngã trong trại giam cộng sản cũng chỉ vì hy vọng vào hiệp định Paris với việc ký kết thành công và thi hành đúng đắn mới là con đường giải thoát chúng tôi ra khỏi nhà tù cộng sản. Phải chăng hôm nay ước vọng của chúng tôi đang thành sự thật?
Qua những bản tin nghe được, dần dà chúng tôi có thể tổng hợp lại và suy đoán như sau. Hội nghị Paris 4 bên được hình thành sau trận thảm bại Tết Mậu Thân của cộng sản với mục đích giải quyết trong hòa bình cuộc chiến Vĩệt Nam. Nhưng sau 4 năm cò kè, mặc cả giữa Hà Nội và Washington, có lúc tưởng đi đến chỗ bế tắc, đến mùa hè năm 1972 những trận đánh ngày càng khốc liệt ngoài chiến trường cho thấy hội nghị đang đi đến giai đoạn chót. Cộng sản cố đánh Quảng Trị ở vùng 1, Tân cảnh ở vùng 2, Lộc Ninh ở vùng 3 để chiếm đất. Về phía Mỹ thì kể từ ngày 14 tháng 6 năm 1972 các cuộc ném bom đã leo thang ra ngoài vùng giới hạn vĩ tuyến 20 đến tận gần biên giới với Trung Cộng. Trận cường tập 12 ngày đêm ở thủ đô Hà Nội là cú đấm knock out cuối cùng của Mỹ.
Quả nhiên, một tuần sau, quên hết những lời chỉ trích gay gắt trước đó, chiếc loa cho biết Hà Nội tưng bừng trải thảm đỏ tiếp đón trọng thể Ngoại Trưởng Kissinger đến thăm Việt Nam. Khoảng đấu tháng 2, 1973, sau 3 ngày viếng thăm, Hà Nội lại “lưu luyến” tiễn chân Kissinger và không quên tặng không cho ông tiến sĩ 3 tù binh phi công Mỹ đang bệnh nặng cần chữa trị.
Ít lâu sau trước Tết Quý Sửu, ngày 27 tháng 1 năm 1973 hiệp định Paris được ký kết giữa 4 bên và sau đó được 12 cường quốc bảo đảm thi hành đúng đắn nhằm đem lại hòa bình cho Việt nam.
Hơn một tuần sau, như thường lệ vào sáng sớm ngày thứ hai chúng tôi chuẩn bị lãnh cuốc xẻng, dao rựa đi cuốc đất, đốn cây thì bỗng được lệnh miễn lao động, mặc quần áo dài lên hội trường tập họp. Linh tính báo cho chúng tôi biết có điều quan trọng xảy đến.
Quả như vậy, sau lời mở đầu của trại trưởng trung tá Quân “rắn”, tên thượng tá chính trị viên Thường “vẹt” (vì đặc tính nói lập đi lập lại không biết ngượng miệng) của trại tù đọc và giải thích từng điều một trong bản hiệp định. Đại khái điều 1 các bên tôn trọng lãnh thổ của nhau, điều 2 tôn trọng chủ quyền, điều 3 ngưng bắn kể từ ngày ký hiệp định, điều 4 các bên cam kết trao trả hết các nhiên viên quân sự và dân sự bị bắt trong chiến tranh chậm nhất là 2 tháng sau ngày hiệp định có hiệu lực.
Chúng tôi liếc nhìn nhau vui sướng. Đúng là niềm hy vọng của chúng tôi đã thành hiện thực. Và theo quy định của bản hiệp định, chỉ còn tối đa 2 tháng nữa là chúng tôi được trao trả về cho chính phủ Việt Nam Cộng Hoà.
Đến đây Thường “vẹt” nhấn mạnh:
- Tuy nhiên, việc thả các anh về chủ yếu vẫn là do các anh có lao động tốt, học tập tốt hay không thì chính phủ ta mới căn cứ vào đãy mà khoan hồng cho các anh thôi.
Thường “vẹt” tiếp tục thao thao những điều khoản khác, nhưng chúng tôi không còn thiết tha nghe nữa. Là người có học, ai cũng biết rằng khi đã ký kết một hiệp định thì phải thi hành đúng đắn những gì hiệp định đã quy định chứ không thể vin vào những chính sách bình thường của quốc gia mình được. Giải thích như vậy chứng tỏ Hà Nội coi như không có hiệp định nào trên đời này cả. Chúng tôi cảm thấy ngao ngán, nhưng vẫn còn một phần nào hy vọng vì bản hiệp định đã được các cường quốc bảo đảm trong đó có cả đàn anh Trung cộng của Hà Nội.
Cuối cùng, Quân “rắn” kết thúc buổi họp và nói tiếp:
- Thôi, các anh cố gắng học tập lao động tốt để sớm trở về với gia đình. Và để đánh dấu cho một mùa xuân hoà bình trên đất nước, trại được trên cho phép tổ chức một cái Tết thật to, có bánh kẹo, có thịt lợn, thịt trâu và có cả văn nghệ nữa”. (6)
Niềm vui rộ lên, cả trại nhốn nháo vui mừng với bao nhiêu hy vọng sẽ được trao trả về Miền Nam sau hiệp định Paris. Các bạn tù được cho phép tự tổ chức văn nghệ mừng Xuân năm 1973.
“Một nhóm anh em có máu văn nghệ, thích ca hát được thành lập gồm có anh Trụ, anh Bửu, anh Hạnh, Siêm, Dự và tôi. Chúng tôi bàn bạc với nhau để chọn bài hát. Đã gọi là hoà giải thì phải có cả nhạc bản của cả hai miền Nam, Bắc chứ. Bàn đi tính lại cuối cùng chúng tôi lựa các bài như sau : Ly rượu mừng, Nối vòng tay lớn, Đôi bạn (nhạc của Phạm Duy phổ thơ Hoàng trung Thông là nhà thơ tiền chiến hiện còn sống ở Hà Nội), Chuyện hàng cây (của một nhạc sĩ lô-can trong trại, chuẩn uý Trần thanh Hùng phổ thơ của một thi sĩ không có tiếng ở ngoài bắc), bản Romance de l'Amour sẽ do anh Trụ độc tấu tây ban cầm và một đoạn sớ Táo Quân sẽ do anh Khoan diễn tấu. Vì tất cả đều bị kiểm duyệt trước nên chúng tôi phải dò từng chữ, nhất là những bản nhạc xuất bản ở Miền Nam, nếu cần thì đổi lời chút ít để tránh đụng chạm.
Sáng mùng một Tết, chúng tôi ngồi túm trong lán trại, ăn kẹo uống trà, hút thuốc lào. Năm nay Tết lớn nên anh em mỗi người được phát thêm một điếu thuốc thơm Tam Đảo ngoài 3 điếu thuốc đen Trường Sơn thường lệ. Lác đác một vài quản giáo ghé vào các lán thăm xã giao chúc Tết. Ngoài sân trại cũng có vài nhóm anh em tù đứng tán chuyện, thấp thoáng bóng áo xanh bộ đội chen với màu áo trắng xọc đỏ của tù nhân.
Sau bữa cơm chiều, lúc 7 giờ tối, mọi người tập trung vào hội trường xem văn nghệ. Chúng tôi trình diễn không micrô, nhạc cụ thì mượn được của cảnh vệ một đàn guitar thêm vào với cây guitar tự tạo bởi Dự và anh Trụ. Vậy là xôm tụ rồi.
Để mở đầu, anh Bửu trưởng ban văn nghệ có vài lời cám ơn trại đã cho phép trình diễn văn nghệ và cuối cùng xin trại nhớ thi hành hiệp định một cách đúng đắn để anh em chúng tôi sớm được trao trả về Miền Nam.
Sau đó toàn ban văn nghệ chúc Tết mọi người bằng bản nhạc quen thuộc Ly rượu mừng. Màn thứ hai do Siêm, một chuẩn uý sư đoàn 1 với giọng ca khá giống Chế Linh trong bài Trường sơn đông, Trường sơn tây. Bản nhạc chấm dứt, anh em vỗ tay tán thưởng nhất là bộ đội, quản giáo. Sang đến bài Nối vòng tay lớn do Dự, thiếu uý viễn thám TQLC tay đàn miệng hát, đã lôi cuốn mọi người cùng vỗ tay theo nhịp vang động cả hội trường. Tiếp đến là bài Đôi bạn hát bởi anh Hạnh, sĩ quan đề lô của sư đoàn 1, buồn buồn như quê nghèo sỏi đá miền trung. Bản nhạc vừa dứt, Hạnh ngoắc tay về phía Khánh, từ hậu trường Khánh tiến tới đứng sát bên Hạnh; cả hai chúng tôi song ca bản Tình khúc cho em của Lê uyên Phương, một bản nhạc không có trong chương trình. Hơi bất ngờ một chút, rồi anh em mọi người đồng vỗ tay, huýt sáo. Hứng chí chúng tôi đi 2 bè thật hay. Chợt Khánh nhìn thấy từ hàng ghế đầu, mặt đanh lại Quân “rắn” đứng lên đi thẳng ra ngoài. Vài quản giáo và cảnh vệ cũng đi theo.
Bản nhạc dứt, trong tiếng vỗ tay tán thưởng, anh Trụ đang sửa soạn thế ngồi để chơi bản Romance thì Thường “vẹt” tiến tới quay xuống mọi người nói :
- Thôi đủ rồi, giải tán.
Mọi người vừa đi vừa cười nói, bàn tán. Ban văn nghệ chúng tôi vừa thu dọn nhạc khí xong thì quản giáo Hoàng “choắt”, người nhỏ xíu cao chừng 1 mét rưỡi, vào bảo chúng tôi đi theo anh ta sang nhà họp của cảnh vệ. Tại đây đã có Quân “rắn”, Thường “vẹt” cùng vài cảnh vệ đứng chung quanh sát tường. Chỉ vào băng ghế đối diện, Quân “rắn” hầm hầm bảo:
- Các anh ngồi xuống đây.
Rồi Quân “rắn” rít qua 2 hàm răng :
- Ai cho các anh hát nhạc vàng? Các anh vượt quy định, không đăng ký trước.
Anh Bửu phân trần:
- Đấy chỉ là tình cảm đằm thắm thương vợ, nhớ tình nhân mà anh em chân thành bộc phát ra.
- Các anh lợi dụng chúng tôi hoà hoãn, định dùng nhạc vàng để lung lạc tình cảm chân chính của chúng tôi hay sao? Đừng tưởng có cái hiệp định mà chúng tôi sợ không dám đụng đến các anh hả! Nói cho các anh biết thả hay không là ở tôi này. Nhốt các anh suốt đời cũng còn được. Bọn lính Tây Điện Biên Phủ ta còn giữ đến bây giờ, huống hồ các anh.
Rồi Quân rắn đổi giọng:
- Cảnh vệ đâu? Tống chúng nó vào nhà kỷ luật ngay. Quần áo, chăn màn thì cho đứa nào đem xuống cho chúng nó sau. Đi nhanh!
Thế là chúng tôi bị dẫn đi xuống khu nhà kỷ luật. Khu nhà kỷ luật nằm ở cuối trại gần trạm canh. Khu này được dựng bằng gỗ chắc chắn. Cứ 2 phòng một cạnh nhau, mỗi phòng độ 3 thước vuông với một cái giường tre vừa đủ nằm. Không có cửa sổ và chung quanh rào dây kẽm gai kiên cố.
Chúng tôi mỗi người bước vào căn xà lim của mình. Vắng vẻ, lạnh lẽo và dư thừa thì giờ để nghiền ngẫm về chính sách hoà giải của người cộng sản” (6)
Sau nhiều tuần được “vỗ béo”, khẩu phần dinh dưỡng tăng, lao động tối thiểu, anh em tù binh đều phấn khởi, lâng lâng với cảm giác mình không bị bỏ rơi bởi quốc gia mình. Vài tháng sau Hòa Đàm Paris được ký kết, nhóm tù binh bị bắt tại Lào như Khánh không được trao trả. Không phải vì lao động không giỏi hoặc học tập không tốt. Đến lúc đó mới thấy bọn CS thâm hiểm. Chúng gian xảo tráo trở cho rằng nhóm tù binh bị Pathet Lào bắt tại Lào, và vì chưa có hiệp định nào ký kết giữa VNCH và Pathet Lào, nên không thể trao trả tù binh VNCH bị Pathet Lào bắt trên nước Lào. Đương nhiên chúng đã nghĩ trước những kẻ hở này khi ký kết Hòa Đàm nên mặc nhiên trở mặt, lật lọng vào phút chót. Thế là bao nhiêu hạnh phức và kỳ vọng của nhóm tù binh Hạ Lào được trở về Miến Nam biến thành mây khói, bao mơ ước bị sụp đổ tan tành. Sau đó là những ngày tăm tối, buồn bả tuyệt vọng, suy sụp đến chết người dưới sự giam cầm tàn ác ngày một tăng.
Rồi lại chuyễn trại đến Cao Bằng trong năm 1974. Rồi tin Miền Nam bị tan rả dần, Mỹ quyết định bỏ rơi người bạn đồng minh của mình khiến quân đội VNCH đành phải thúc thủ buông súng, VNCH hoàn toàn mất vào tay CS Bắc Việt vào 30 tháng 4, 1975. Một cú atemi ác nghiệt chém vào tử huyệt mọi tù binh còn lại trong trại. Biết từ đây không còn một sức mạnh, một thế lực nào khả dĩ cứu vớt họ. Cơn ác mộng đen tối bao phủ toàn trại khi họ biết từ đây họ sẽ vĩnh viễn mất tự do.
Khánh lại được chuyễn đến một trại tù mới tên Nghĩa Lộ tại Yên Bái, và nằm ở đó thêm một thời gian dài nữa. Trại tù này, cũng như bao trại tù mà Khánh đã ở qua, hoàn toàn không có bóng dáng của các tù binh trong những tháng cuối cuộc chiến tại Miền Nam VN hoặc những tù cải tạo sau này. Trong những lần lao động bên ngoài trại, thỉnh thoảng Khánh gặp dân trong vùng. Đa số tử tế với tù nhân, đôi khi còn cho củ khoai, củ sắn.
Ngày 7 tháng 6, 1976, từ trại tù Nghĩa Lộ, Th.úy Không Quân Bùi Tá Khánh của chiếc trực thăng H34 bị bắn và đáp khẩn xuống Đồi 31 tại Hạ Lào tháng 2, 1971, được thả cho về nhà cha mẹ ở đường Lý Thái Tổ, quận 10, Sài Gòn. Sau trên 5 năm làm tù binh ở Miền Bắc.
Tr. úy Nhảy Dù Phạm Đồng của Đồi 31 Hạ Lào, sau lần bị thương tật ở đầu gối phải trong trận đánh tháng 3, 1972 tại Căn Cứ Hỏa Lực 5 ở Tân Cảnh, Pleiku, từ giả nhiệm vụ tác chiến và trở về làm việc hành chánh tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù ở Trại Hoàng Hoa Thám cho đến ngày 30 tháng 4, 1975. Trình diện cải tạo, Phạm Đồng ở tù học tập gần 8 năm.
Anh Bùi Tá Khánh, một thân một mình, vượt biên thành công vào năm 1981, đến nước Mỹ năm 1982. Định cư đầu tiên ở San Jose, anh di chuyển sau đó qua Denver vào năm 2005.
Anh Phạm Đồng định cư ở Denver sau khi đến Mỹ vào năm 1993 với vợ và hai con qua chương trình HO.
Trong một buổi tiệc do anh chị Phạm Đồng tổ chức tại tư gia nhân dịp đón mừng vợ chồng chúng tôi đến chơi Denver tháng 4, 2017, anh Hoàng Gia Viễn, một cựu Tr.úy phi công F5, đến tham dự với vợ cùng 2 cặp vợ chồng đàn em trong Không Quân VNCH, cũng là cư dân Denver. Đây là lần đầu tiên anh chị Đồng gặp gở 2 căp vợ chồng trẻ tuổi này, mà anh Viễn cho biết một người là sĩ quan chuyên về bảo trì phi cơ ở phi trường quân sự Pleiku, và người kia là sĩ quan phi hành trực thăng. Chuyện trò qua lại trong bửa ăn, và sau màn giới thiệu sơ khởi, anh phi công trực thăng buộc miệng tâm tình anh là phi công của Phi Đoàn 219, chuyên lái trực thăng H34, không một ngày tù cải tạo nhưng lại là tù binh ở ngoài Bắc. Vào chi tiết hơn nữa, anh tóm tắc câu chuyện đời phi công của anh, mà ngay chính anh Hoàng Gia Viễn, người đàn anh KQ, cũng chưa hề nghe qua. Ngang giữa câu chuyện trực thăng H34 của anh lâm nạn và phải đáp xuống Đồi 31 trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, gia chủ Phạm Đồng bật đứng dậy “tôi cũng ở Đồi 31 thời gian đó…”.
Thế là hai anh, Bùi Tá Khánh và Phạm Đồng, đồng loạt cùng đứng lên, xô ghế tiến sát gần nhau và ôm choàng lấy nhau, nhích ra rồi lại ôm nhau lại, nắm chặc tay nhau, mắt nhìn nhau, miệng cười lớn, mừng rở như tìm thấy lại một người thân quý nhất trong đời bị thất lạc từ nhiều năm qua. Giữa tiếng chúc mừng, vổ tay hoan hỷ của bàn tiệc.
Sau đó, từng người một, thay phiên nhau cụng ly chúc mừng sự trùng phùng quá đặc biệt và kỳ thú này. Sự ngẫu nhiên hi hữu như do trời định. Thật vậy, một người là sĩ quan Nhảy Dù cấp trung đội chiến đấu sống còn tại Đồi 31, người kia là sĩ quan phi hành trực thăng H 34 đáp khẩn trên Đồi 31 rồi bị kẹt tại đó. Cả hai đều là nhân chứng trong những ngày cuối của Đồi 31, để sau đó một người trở thành tù binh bị dẫn độ ra tận Miền Bắc, người kia chiến đấu đến giây phút cuối và sống sót rút khỏi Đồi với chỉ 6 người còn lại của trung đội mình. Về sau, một người tiếp tục chiến đấu cho Miền Nam đến tận ngày mất nước, người kia không được trao trả theo cam kết Hiệp Định Paris. Cả hai đều chưa từng gặp nhau, chưa hề biết hoặc nghe tên nhau khi còn tại Đồi 31 hay ngay cả sau này khi là tù binh hay tù cải tạo trong suốt cả 46 năm. Hôm nay cả hai bất ngờ gặp nhau. Trong một buổi tiệc không tên. Ngay tại Denver dù cả hai từng sinh sống tại thành phố này hơn cả mươi năm qua. Quả là diệu kỳ. Còn gì vui sướng cho bằng! Còn gì nhiệm mầu hơn nữa!
Như mọi người có mặt trong đêm, cá nhân tôi thật xúc động, nhất là sau khi nghe cả hai anh Khánh và Đồng lần lượt kể câu chuyện của mình từ Đồi 31 cho đến về sau. Như một chia xẻ chân thành, tôi vuột miệng “tôi xin phép được ghi lại câu chuyện độc đáo có một không hai này và lấy đề tựa ngay từ bây giờ: H 34 trên Đồi 31”. Toàn thể đều tán thành và nâng cao ly rượu.
Et voila.
Mission Viejo, Tháng 1, 2018
Vĩnh Chánh
Từ trái qua phải: chị Khánh, chị & anh Tạ Quang Thạch ( KQ/ Pleiku), anh Bùi Tá Khánh, anh & chị Vĩnh Chánh, chị & anh Phạm Đồng, anh Dược Sĩ Nguyễn Hữu Tiến (Quân Y Nhảy Dù), anh & chị Hoàng Gia Viễn (phi công F5), anh Đoàn Vũ (TĐ14ND, mà vợ là người bấm máy chụp hình).
Anh Phạm Đồng và anh Bùi Tá Khánh bên nhau, 46 năm sau khi cùng có mặt trên Đồi 31 (hình chụp tháng 8, 2017 tại Denver)
chú thích :
1) : Mặt Trận Ngoại Vi.Tác giả: Phan Hội Yên
(2) : Vào Đồi 31 Hạ Lào. Tác giả: Kingbee Bùi Tá Khánh
(3) : Đồi 31. Tác giả: Phan Hội Yên
(4) : Chuyến Bay Tử Thần. Tác giả: Kingbee Bùi Tá Khánh
(5) : Ngọn Đồi Vĩnh Biệt. Tác giả: Phan Hội Yên
(6) : Tết Hòa Giải. Tác giả: Bùi Tá Khánh
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
Last edited by hoanglan22; 11-13-2018 at 03:30.
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Tiểu sử:
Binh chủng Truyền Tin được thành lập cùng với Q LVNCH kể từ khi Quốc Gia Việt nam được Pháp trả một phần độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp, để bảo vệ lảnh thổ quốc gia đương đầu với bộ đội kháng chiến do Cộng sản Quốc Tế yểm trợ .
Hồi đó, vị Tổng Tham Mưu trưởng được chỉ định là một vị tướng lảnh trong quân đội Pháp biệt phái sang quân độI Việt nam Cộng Hòa, vì vậy vị chỉ huy trưởng Viển Thông củng là một sỉ quan cao cấp trong quân đội viển chinh Pháp tại Ðông Dương .Các vị chỉ huy trưởng trực thuộc củng như các đơn vị trưởng đều là người Pháp ; đa số sỉ quan Truyền tin VN được đào tạo trong nước, ngoại trừ một số nhỏ được chọn lọc gởi đi học tại trường Truyền Tin Montargis .
Mải cho đến khi người Pháp rút khỏi Ðông Dương và trao trả trọn vẹn chủ quyền lại cho VN, nền Ðệ Nhất Cộng Hòa được thành lập và canh tân lại Quân Ðội Việt Nam, binh chủng Truyền Tin mới thật sự do người VN chỉ huy . Từ đó hầu hết các sỉ quan Truyền Tin được gởi đi Hoa Kỳ tu nghiệp để làm nồng cốt cho việc tổ chức lại hệ thống Truyền Tin theo quân đội Hoa Kỳ .
Nhiệm Vu:
Binh chủng Truyền Tin cung cấp phương tiện liên lạc nhanh chóng, liên tục và cẩn mật cho QLVNCH về diện địa củng như về chiến thuật giửa các đơn vị lưu động và các Bộ Tư Lệnh Hành Quân .
Thánh tổ Truyền Tin là là một vị Ðại thần nhà Lê, ông Trần nguyên Hản. là người đả dung chim bồ câu để thông tin từ đơn vị hành quân về hậu cứ ;vì vậy chim Bồ Câu được tiêu biểu cho Binh chủng Truyền Tin .
Tổ chức:
Ạ .Binh chủng Truyền Tin hồi thời Pháp được thành lập và tổ chức như sau :
1. Thành phần lảnh thổ:
a .Tại Trung ương : BCH Viển Thông QÐVNCH, trực thuộc Bộ TTM/QÐVNCH
-Phòng Mật Mả Trung Ương, trực thuộc BCH VT
-Trung t âm Truyền Tin TTM, trực thuộc BCHVT
-Cơ sở Vật Liệu Truyền Tin (ECMT)
-Trưòng Truyền Tin (tại Liên trường Vỏ khoa Thủ Ðức)
b. Tại Quân Khu : Bộ chỉ huy Viển Thông Quân Khu I, II, III & IV
trực thuộc BTK/QK
-Ðại đội Truyền Tin địa phương 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8
-TTHL Truyền Tin (CITT 1, 2, 3, 4)
-Kho Vật Liệu Truyền Tin địa phương (ERMT 1, 2, 3, 4)
c. Tại Tiểu Khu :Phòng Truyền Tin Tiểu Khu trưc thuộc Tiểu Khu,
Biệt đội Truyền Tin Tiểu Khu
2. Thành phần Lưu Ðộng
a . Lử đoàn Lưu Ðộng : Ðơn vị Truyền Tin Lử đoàn Lưu Ðộng 1, 2 v.v…
-Biệt đội Truyền Tin Lưu Ðộng 1, 2 v.v…
b. Chiến dịch : Ðội Truyền Tin Chiến dịch/Hành quân .
B.
(đoạn nầy không thấy rỏ vì SEAL mực đậm quá ở trang 45, nhờ Hòa bổ túc lại)
1. Thành phần Lảnh Thổ :
a . Tại Trung Ương : Bộ chị huy Viển Thông QÐVNCH trực thuộc
Bộ TTM/QÐVNCH
-Phòng Mật Mả Trung Ương
-Tiểu đoàn 1 Truyền Tin
-Ðại đội 1 Khai Thác Truyền Tin
-Ðại đội 1 Siêu tần số
-Tiểu Nha Vật Liệu Truyền Tin (sau đổi ra Sở Vật Liệu Truyền Tin)
-Ðại đội 1 Tồn Trử trung ương(sau sát nhập lại và đổi ra ..)
-Ðại đội 1 Sửa Chửa trung ương (Tiểu đoàn 1 Tiếp Vận trung ương)
-Trường Truyền Tin Vủng Tàu
b .Tại Quân Khu :Bộ chỉ huy Viển Thông Quân Khu Thủ Ðô 1, 2, 3, 4,
trực thuộc BTL/QK
-Ðại đội Truyền Tin Ðịa Phương 1, 2, 3, 4, 5
-Ðại đội Khai Thác Truyền Tin
-Ðại đội Tồn Trử Ðịa Phương
c. Tại Tiểu Khu :Phòng Truyền Tin Tiểu Khu, trực thuộc Tiểu Khu,
Biệt đội Truyền Tin Tiểu Khu
2. Thành phần Lưu Ðộng :
a . Sư dơàn Dả Chiến
-Phòng Truyền Tin SÐC 1, 2, 4, 5, 7
-Ðại đôi Truyền Tin SÐC 1, 2, 4, 5, 7
b. Sư đoàn Khinh Chiến:
-Phòng Truyền Tin SDKC 11, 12, 13, 14, 15, 16
-Ðại đội Truyền Tin SÐKC 12, 13, 14, 15, 16
c. Ðơn vị Trừ bị :
-Phòng Truyền Tin Binh chủng Nhảy Dù
-Ðại đội Truyền Tin Lử đoàn Nhảy Dù
-Phòng Truyền Tin Binh chủng TQLC
-Ðại đội Truyền Tin Liên đoàn TQLC
-Phòng Truyền Tin Binh chủng Biệt Ðộng Quân
-Ðại đội Truyền tin BÐQ
C. Cho đến khi cường độ chiến tranh lên tới cực điểm là lúc quân lực Hoa Kỳ tham chiến sau ngày cách mạng 1-11-63. binh chủng Truyền Tin lại canh tân một lần nửa để có thể làm việc song hành với ngành Truyền Tin của quân đội Ðồng Minh, đồng thời yểm trợ cho một đội quân trên 1 triệu người phối trí trên 4 vùng Chiến thuật .Bộ chỉ huy Viển Thông QÐVNCH được tổ chứa lại thành Phòng 6/TTM và Cục Truyền Tin .P6/TTM phối hợp với P.6 Không quân và P.6 Hải quân ;Cục Truyền Tin phụ trách Lục quân và Tiếp vận . Tổ chức Truyền Tin tăng trưởng như sau, kể cả các cơ sở và hệ thống do Hoa Kỳ giao lại :
1. Thành phần Lảnh Thổ :
ạ . Tại Trung Ương :
-Phòng 6 Bộ Tổng Tham Mưu
-Cơ Quan Quản Trị Viển Liên (CMA)
-Cục Truyền Tin
-Liên đoàn 65 Truyền Tin
-Căn cứ 60 Tiếp Vận Truyền Tin
-Cơ sở Yểm Trợ vật Dụng Viển Liên (AMSF)
-Trường Truyền Tin Vủng Tàu
b. Tại Vùng Chiến Thuật :
-Phòng 6 Vùng chiến Thuật 1, 2, 3, 4
-Tiểu đoàn 610 Truyền Tin
-Liên đoàn Khai Thác Truyền Tin Ðịa Diện 65, 66, 67
-Tiểu đoàn Yểm Trợ Truyền Tin (thuộc Liên đoàn Tiếp Vận)
c. Tại Tiểu Khu
-Phòng Truyền Tin Tiểu Khu
-Biệt đội truyền Tin tiểu Khu
2. Thành phần Lưu Ðộng :
a . Sư đoàn Bộ binh :
-Phòng Truyền Tin Sư đoàn 1, 2, 4, 5, 7, 9, 18, 21, 22, 23, 25
-Tiếu đoàn Truyền Tin SÐBB
b. Ðơn vị Trừ bị :
-Phòng Truyền Tin Sư đoàn Nhảy dù
-Tiểu đoàn Truyền Tin Sư đoàn Dù
-Phòng Truyền Tin Sư đoàn TQLC
-Tiếu đoàn Truyền Tin Sư doàn TQLC
-Phòng Truyền Tin ……
-Ðại đội Truyền Tin ……. (phần nầy đọc không rỏ)
HỆ THỐNG :
A ………………….(phần nầy đọc không rỏ)
B. Kỷ thuật : Vô tuyến điện thoại và điện tín dung tần số AM là phương tiện chính từ Trung Ương cho tới Ðịa phương, dùng mật mả Carte SLIDEX để bảo mật . Ðiện thoại chỉ giới hạn tại các địa phương an ninh như thành phố, quận lỵ, tính lỵ mà thôi . Ðến năm 1957 điện thoại tự động được thiết lập tại Sàigòn với 4 Tổng đài Cộng Hòa, Cường Ðể, Công Tâm và Công Lý .Các đơn vị hành quân dùng các máy lưu động thuộc tầng số AM hoặc FM và điện thoại với dây dả chiến nối vào các tổng đài nho 12 hay 24 đường dây. Cho đến cuối thập niên 50 mới được viện trợ máy giai tần đơn (SSB) dung cho vô tuyến viển thoại và máy siêu tầng số .Khi quân đội Hoa Kỳ sang tham chiến thiết lập hệ thống cố định như đài Viển thông Liên Kết (ICS) dùng tần số truyền sóng xuyên chân trời (troposheric propagation) , tổng đài Tan dem. Đài giây cáp ngầm đại dương tại Ðà Nẳng, Qui Nhơn, Nha Trang và Vủng Tàu để liên lạc giửa VN với Honolulu và Satahip . Ðó là chưa kể các máy móc khác như sensors dung trong chiến tranh điện tử .Sau Hiệp Ðịnh Paris 1973 quân đội Hoa Kỳ rút về nước đả để lại tất cả các hệ thống kỷ thuật nói trên cho Binh chủng Truyền Tin QLVNCH .
C. Tiếp Vận :
Tất cả các dịch vụ tiếp liệu và sửa chửa các vật dụng truyền tin trong quân đội dù trong Binh chủng hay thuộc Binh đoàn đều do Tiểu Nha Vật Liệu Truyền Tin, sau nầy là Cục Truyền Tin đảm trách .Hệ thống tiếp vận truyền tin được ấn định từ trên xuống dưới và từ đơn vị yểm trợ tới đơn vị được yểm trợ .Vì vậy máy móc truyền tin của đơn vị hành quân được các Biệt đội Yểm Trợ sửa chửa hoặc thay thế ngoài trận địa tới cấp 3, cấp 4 được đưa về Tiểu đoàn Yểm Trợ và cấp 5 được đưa về Căn Cứ 60 Tiếp vận Truyền Tin tân trang lại .
Kết luận :
Binh chủng Truyền Tin đả trưởng thành trong khói lửa chiến tranh từ giai đoạn sơ khai cho đến ngày trở thành binh chủng tân tiến như Binh Chủng Truyền Tin quân đội Hoa Hỳ đó là nhờ sự cố gắn và tinh thần cầu tiến của các quân nhân các cấp đả dày công học hỏi, trao dồi kỷ thuật, tôn trọng kỷ luật của QLVNCH .Trong suốt thời kỳ chiến tranh dành Ðộc Lập và bảo vệ Tự Do cho miềm Nam VN, Binh chủng Truyền Tin đả cung cấp hệ thống thông tin liên lạc hửu hiệu cho QLVNCH trong chiến dịch Hạ Lào, Mùa Hè đỏ lửa, trong chiến thắng Quảng Trị, An Lộc …; tất cả chúng ta đều hảnh diện là quân nhân phục vụ trong Binh chủng Truyền Tin, hậu thân của một Trần nguyên Hản, đại thần nhà Tiền Lê nước Việt .
(1) Vì không có tài liệu tham khảo, tài liệu nầy được viết dựa vào trí nhớ của một số sỉ quan cao cấp BCTT .Nếu có điều chi cần bổ túc xin gởi về :
Hội Ái Hửu Binh Chủng Truyền Tin
11212 Faye Ave .
Garden Grove, CA 92840
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
Lan Anh bỏ vô phần mềm chỉnh sửa lỗi chính tả, có khoảng vài trăm lỗi, ko biết vì lí do gì. Ở dưới là đã sửa lại rồi đó cụ Hoàng Lan.
Quote:
Quân lực Việt Nam Cộng Hòa
BINH CHỦNG TRUYỀN TIN
Tiểu sử:
Binh chủng Truyền Tin được thành lập cùng với QLVNCH kể từ khi Quốc Gia Việt nam được Pháp trả một phần độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp, để bảo vệ lãnh thổ quốc gia đương đầu với bộ đội kháng chiến do Cộng sản Quốc Tế yểm trợ .
Hồi đó, vị Tổng Tham Mưu trưởng được chỉ định là một vị tướng lĩnh trong quân đội Pháp biệt phái sang quân độI Việt nam Cộng Hòa, vì vậy vị chỉ huy trưởng Viễn Thông củng là một sỉ quan cao cấp trong quân đội viễn chinh Pháp tại Ðông Dương .Các vị chỉ huy trưởng trực thuộc cũng như các đơn vị trưởng đều là người Pháp ; đa số sỉ quan Truyền tin VN được đào tạo trong nước, ngoại trừ một số nhỏ được chọn lọc gởi đi học tại trường Truyền Tin Montargis .
Mãi cho đến khi người Pháp rút khỏi Ðông Dương và trao trả trọn vẹn chủ quyền lại cho VN, nền Ðệ Nhất Cộng Hòa được thành lập và canh tân lại Quân Ðội Việt Nam, binh chủng Truyền Tin mới thật sự do người VN chỉ huy . Từ đó hầu hết các sỉ quan Truyền Tin được gởi đi Hoa Kỳ tu nghiệp để làm nòng cốt cho việc tổ chức lại hệ thống Truyền Tin theo quân đội Hoa Kỳ .
Nhiệm Vụ:
Binh chủng Truyền Tin cung cấp phương tiện liên lạc nhanh chóng, liên tục và cẩn mật cho QLVNCH về diện địa cũng như về chiến thuật giữa các đơn vị lưu động và các Bộ Tư Lệnh Hành Quân .
Thánh tổ Truyền Tin là là một vị Ðại thần nhà Lê, ông Trần nguyên Hãn. là người đã dùng chim bồ câu để thông tin từ đơn vị hành quân về hậu cứ ;vì vậy chim Bồ Câu được tiêu biểu cho Binh chủng Truyền Tin .
Tổ chức:
Ạ .Binh chủng Truyền Tin hồi thời Pháp được thành lập và tổ chức như sau :
1. Thành phần lãnh thổ:
a .Tại Trung ương : BCH Viễn Thông QÐVNCH, trực thuộc Bộ TTM/QÐVNCH
-Phòng Mật Mã Trung Ương, trực thuộc BCH VT
-Trung t âm Truyền Tin TTM, trực thuộc BCHVT
-Cơ sở Vật Liệu Truyền Tin (ECMT)
-Trường Truyền Tin (tại Liên trường Võ khoa Thủ Ðức)
b. Tại Quân Khu : Bộ chỉ huy Viễn Thông Quân Khu I, II, III & IV
trực thuộc BTK/QK
-Ðại đội Truyền Tin địa phương 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8
-TTHL Truyền Tin (CITT 1, 2, 3, 4)
-Kho Vật Liệu Truyền Tin địa phương (ERMT 1, 2, 3, 4)
c. Tại Tiểu Khu :Phòng Truyền Tin Tiểu Khu trực thuộc Tiểu Khu,
Biệt đội Truyền Tin Tiểu Khu
2. Thành phần Lưu Ðộng
a . Lữ đoàn Lưu Ðộng : Ðơn vị Truyền Tin Lữ đoàn Lưu Ðộng 1, 2 v.v…
-Biệt đội Truyền Tin Lưu Ðộng 1, 2 v.v…
b. Chiến dịch : Ðội Truyền Tin Chiến dịch/Hành quân .
B.
(đoạn này không thấy rõ vì SEAL mực đậm quá ở trang 45, nhờ Hòa bổ túc lại)
1. Thành phần Lãnh Thổ :
a . Tại Trung Ương : Bộ chỉ huy Viễn Thông QÐVNCH trực thuộc
Bộ TTM/QÐVNCH
-Phòng Mật Mã Trung Ương
-Tiểu đoàn 1 Truyền Tin
-Ðại đội 1 Khai Thác Truyền Tin
-Ðại đội 1 Siêu tần số
-Tiểu Nha Vật Liệu Truyền Tin (sau đổi ra Sở Vật Liệu Truyền Tin)
-Ðại đội 1 Tồn Trữ trung ương(sau sát nhập lại và đổi ra ..)
-Ðại đội 1 Sửa Chữa trung ương (Tiểu đoàn 1 Tiếp Vận trung ương)
-Trường Truyền Tin Vũng Tàu
b .Tại Quân Khu :Bộ chỉ huy Viễn Thông Quân Khu Thủ Ðô 1, 2, 3, 4,
trực thuộc BTL/QK
-Ðại đội Truyền Tin Ðịa Phương 1, 2, 3, 4, 5
-Ðại đội Khai Thác Truyền Tin
-Ðại đội Tồn Trữ Ðịa Phương
c. Tại Tiểu Khu :Phòng Truyền Tin Tiểu Khu, trực thuộc Tiểu Khu,
Biệt đội Truyền Tin Tiểu Khu
2. Thành phần Lưu Ðộng :
a . Sư đoàn Dã Chiến
-Phòng Truyền Tin SÐC 1, 2, 4, 5, 7
-Ðại đôi Truyền Tin SÐC 1, 2, 4, 5, 7
b. Sư đoàn Khinh Chiến:
-Phòng Truyền Tin SDKC 11, 12, 13, 14, 15, 16
-Ðại đội Truyền Tin SÐKC 12, 13, 14, 15, 16
c. Ðơn vị Trừ bị :
-Phòng Truyền Tin Binh chủng Nhảy Dù
-Ðại đội Truyền Tin Lữ đoàn Nhảy Dù
-Phòng Truyền Tin Binh chủng TQLC
-Ðại đội Truyền Tin Liên đoàn TQLC
-Phòng Truyền Tin Binh chủng Biệt Ðộng Quân
-Ðại đội Truyền tin BÐQ
C. Cho đến khi cường độ chiến tranh lên tới cực điểm là lúc quân lực Hoa Kỳ tham chiến sau ngày cách mạng 1-11-63. binh chủng Truyền Tin lại canh tân một lần nữa để có thể làm việc song hành với ngành Truyền Tin của quân đội Ðồng Minh, đồng thời yểm trợ cho một đội quân trên 1 triệu người phối trí trên 4 vùng Chiến thuật .Bộ chỉ huy Viễn Thông QÐVNCH được tổ chức lại thành Phòng 6/TTM và Cục Truyền Tin .P6/TTM phối hợp với P.6 Không quân và P.6 Hải quân ;Cục Truyền Tin phụ trách Lục quân và Tiếp vận . Tổ chức Truyền Tin tăng trưởng như sau, kể cả các cơ sở và hệ thống do Hoa Kỳ giao lại :
1. Thành phần Lãnh Thổ :
ạ . Tại Trung Ương :
-Phòng 6 Bộ Tổng Tham Mưu
-Cơ Quan Quản Trị Viễn Liên (CMA)
-Cục Truyền Tin
-Liên đoàn 65 Truyền Tin
-Căn cứ 60 Tiếp Vận Truyền Tin
-Cơ sở Yểm Trợ vật Dụng Viễn Liên (AMSF)
-Trường Truyền Tin Vũng Tàu
b. Tại Vùng Chiến Thuật :
-Phòng 6 Vùng chiến Thuật 1, 2, 3, 4
-Tiểu đoàn 610 Truyền Tin
-Liên đoàn Khai Thác Truyền Tin Ðịa Diện 65, 66, 67
-Tiểu đoàn Yểm Trợ Truyền Tin (thuộc Liên đoàn Tiếp Vận)
c. Tại Tiểu Khu
-Phòng Truyền Tin Tiểu Khu
-Biệt đội truyền Tin tiểu Khu
2. Thành phần Lưu Ðộng :
a . Sư đoàn Bộ binh :
-Phòng Truyền Tin Sư đoàn 1, 2, 4, 5, 7, 9, 18, 21, 22, 23, 25
-Tiếu đoàn Truyền Tin SÐBB
b. Ðơn vị Trừ bị :
-Phòng Truyền Tin Sư đoàn Nhảy dù
-Tiểu đoàn Truyền Tin Sư đoàn Dù
-Phòng Truyền Tin Sư đoàn TQLC
-Tiểu đoàn Truyền Tin Sư đoàn TQLC
-Phòng Truyền Tin ……
-Ðại đội Truyền Tin ……. (phần này đọc không rõ)
HỆ THỐNG :
A ………………….(phần này đọc không rõ)
B. Kỹ thuật : Vô tuyến điện thoại và điện tín dụng tần số AM là phương tiện chính từ Trung Ương cho tới Ðịa phương, dùng mật mã Carte SLIDEX để bảo mật . Ðiện thoại chỉ giới hạn tại các địa phương an ninh như thành phố, quận lỵ, tỉnh lỵ mà thôi . Ðến năm 1957 điện thoại tự động được thiết lập tại Sài Gòn với 4 Tổng đài Cộng Hòa, Cường Ðể, Công Tâm và Công Lý .Các đơn vị hành quân dùng các máy lưu động thuộc tần số AM hoặc FM và điện thoại với dây dã chiến nối vào các tổng đài nho 12 hay 24 đường dây. Cho đến cuối thập niên 50 mới được viện trợ máy giai tầng đơn (SSB) dung cho vô tuyến viễn thoại và máy siêu tầng số .Khi quân đội Hoa Kỳ sang tham chiến thiết lập hệ thống cố định như đài Viễn thông Liên Kết (ICS) dùng tần số truyền sóng xuyên chân trời (tropospheric propagation) , tổng đài Tandem. Đài dây cáp ngầm đại dương tại Ðà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang và Vũng Tàu để liên lạc giữa VN với Honolulu và Sattahip . Ðó là chưa kể các máy móc khác như sensors dung trong chiến tranh điện tử .Sau Hiệp Ðịnh Paris 1973 quân đội Hoa Kỳ rút về nước đã để lại tất cả các hệ thống kỹ thuật nói trên cho Binh chủng Truyền Tin QLVNCH .
C. Tiếp Vận :
Tất cả các dịch vụ tiếp liệu và sửa chữa các vật dụng truyền tin trong quân đội dù trong Binh chủng hay thuộc Binh đoàn đều do Tiểu Nha Vật Liệu Truyền Tin, sau này là Cục Truyền Tin đảm trách .Hệ thống tiếp vận truyền tin được ấn định từ trên xuống dưới và từ đơn vị yểm trợ tới đơn vị được yểm trợ .Vì vậy máy móc truyền tin của đơn vị hành quân được các Biệt đội Yểm Trợ sửa chữa hoặc thay thế ngoài trận địa tới cấp 3, cấp 4 được đưa về Tiểu đoàn Yểm Trợ và cấp 5 được đưa về Căn Cứ 60 Tiếp vận Truyền Tin tân trang lại .
Kết luận :
Binh chủng Truyền Tin đã trưởng thành trong khói lửa chiến tranh từ giai đoạn sơ khai cho đến ngày trở thành binh chủng tân tiến như Binh Chủng Truyền Tin quân đội Hoa Kỳ đó là nhờ sự cố gắn và tinh thần cầu tiến của các quân nhân các cấp đã dày công học hỏi, trau dồi kỹ thuật, tôn trọng kỷ luật của QLVNCH .Trong suốt thời kỳ chiến tranh giành Ðộc Lập và bảo vệ Tự Do cho miền Nam VN, Binh chủng Truyền Tin đã cung cấp hệ thống thông tin liên lạc hữu hiệu cho QLVNCH trong chiến dịch Hạ Lào, Mùa Hè đỏ lửa, trong chiến thắng Quảng Trị, An Lộc …; tất cả chúng ta đều hãnh diện là quân nhân phục vụ trong Binh chủng Truyền Tin, hậu thân của một Trần Nguyên Hãn, đại thần nhà Tiền Lê nước Việt .
(1) Vì không có tài liệu tham khảo, tài liệu này được viết dựa vào trí nhớ của một số sỉ quan cao cấp BCTT .Nếu có điều chi cần bổ túc xin gởi về :
Hội Ái Hữu Binh Chủng Truyền Tin
11212 Faye Ave .
Garden Grove, CA 92840
The Following 2 Users Say Thank You to Lan-Anh For This Useful Post:
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.