HOME-Au
HOME-Au
24h
24h
USA
USA
GOP
GOP
Phim Bộ
Phim Bộ
Videoauto
VIDEO-Au
Home Classic
Home Classic
Donation
Donation
News Book
News Book
News 50
News 50
worldautoscroll
WORLD-Au
Breaking
Breaking
 

Go Back   VietBF > Announcement|Thông Báo > Member News | Tin thành viên


Reply
 
Thread Tools
Old 09-30-2020   #281
trungthuc
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
Join Date: Jul 2020
Location: California
Posts: 11,671
Thanks: 413
Thanked 6,042 Times in 3,695 Posts
Mentioned: 18 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 391 Post(s)
Rep Power: 33
trungthuc Reputation Uy Tín Level 10trungthuc Reputation Uy Tín Level 10trungthuc Reputation Uy Tín Level 10trungthuc Reputation Uy Tín Level 10trungthuc Reputation Uy Tín Level 10
trungthuc Reputation Uy Tín Level 10trungthuc Reputation Uy Tín Level 10trungthuc Reputation Uy Tín Level 10trungthuc Reputation Uy Tín Level 10trungthuc Reputation Uy Tín Level 10
Default

Quote:
Originally Posted by hoanglan22 View Post



Vào cuối năm 1975, hàng ngàn tù nhân sĩ quan cấp tá của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa từ nhiều trại tập trung cải tạo vùng chung quanh Sài-Gòn đã bị chuyển về nhốt tại trại tù Suối Máu, Tam- Hiệp, Biên- Hòa.

Một đêm giữa tháng 10, 1975, từ Long Giao, tôi bị chuyển tới đây trên một chiếc Molotova bít bùng kín mít. Tôi bị dẫn vào khu K2. Hai tuần sau có lệnh “biên chế,” tôi lại bị chuyển sang khu K3. K3 chỉ chứa sĩ quan cấp thiếu tá. Tôi bị giam ở đây từ ngày 1 tháng 11, 1975 cho tới ngày lên tàu Sông Hương ra Bắc (tháng 7, 1976.)

Thời gian này, tin tức truyền thanh, truyền hình về tình hình thế giới càng lúc càng xấu đi. Người ta đồn rằng, hình như Cộng-Sản Việt-Nam đang trên đường tiến chiếm Thái-Lan. Thế Giới Tự Do như càng lúc càng xa chúng tôi hơn.

Anh em chúng tôi gặp nhau thường ngày, tụ tập từng nhóm, đánh cờ tướng, tán gẫu, bàn chuyện nhà cửa, gia đình, nước non, thời quá khứ. Trong những lúc tụ tập chuyện trò, chúng tôi nghe bạn bè rỉ tai rằng, “Chính quyền Giải Phóng” đang nghiên cứu hồ sơ cá nhân của từng người, để xét tha (?) Cũng có tin bi quan, cho rằng chúng tôi sắp bị đưa ra Tòa án Nhân dân để xử tội. Chúng tôi thực sự hoang mang, chẳng biết tương lai mình sẽ đi về đâu.

Tôi ở Lán 24 thuộc K3 (danh từ VC gọi Lán là nhà, K là Khối.) Mỗi lán chứa khoảng hơn 40 tù nhân, trong Lán 24 đó có vài cựu Sĩ quan Ðà Lạt gồm anh Trần Ngọc Dương (K10), Nguyễn Lành (K16), Hoàng Thế Bình (K18), Tạ Mạnh Huy (K19), khóa 20 có Ngô Văn Niếu và tôi (Vương Mộng Long). Lán tôi cách Lán 17 vài thước. Lán 17 có ba anh Biệt Ðộng Quân K20 Võ Bị là Nguyễn Cảnh Nguyên, Trịnh Trân, và Quách Thưởng. Trong cảnh đói khát thường xuyên, chúng tôi phải chia nhau từng mớ rau dền, tán đường thẻ, miếng cơm cháy.

Lán 24 lúc nào cũng hôi thối đầy ruồi nhặng, vì nó nằm trên đường đi ra cầu tiêu, mà bệnh kiết lỵ của tù nhân cải tạo ở đây hầu như bất trị.

Anh trưởng Lán 24 tên Trần Thành Trai, nguyên là Y sĩ Thiếu tá làm việc tại Quân y viện Duy-Tân, Ðà-Nẵng. Bác sĩ Trai luôn luôn xác định lập trường của anh là quyết tâm “học tập tốt” để được tha về với vợ con, vì vậy mỗi lệnh của ban chỉ huy trại đưa xuống, anh luôn luôn tìm cách thi hành đúng đắn.

Thằng Niếu, bạn tôi, được một chân làm bếp, nó ăn uống dưới bếp, nên phần cơm của nó dư, được mang về tiếp tế cho tôi và anh Nguyễn Phong Cảnh, người nằm cạnh tôi.

Vào những ngày cuối năm Ất Mẹo, không khí ở đây trở nên rộn rịp vô cùng. Những người liên lạc được với gia đình thì có những gói quà nhỏ gởi vào cho ăn Tết, những kẻ ít may mắn hơn thì đành trông chờ vào những gì ban chỉ huy trại ban cho. Thời gian này, các lán gấp rút tập văn nghệ để trình diễn đêm Giao Thừa.

Ðể khỏi tập ca hát nhảy múa, tôi tình nguyện làm công tác tạp dịch, quét tước. Trong khi mọi người ca múa, xả rác, tôi đi lượm rác và xách nước về cho bạn cùng lán rửa mặt rửa tay.

Hai ngày trước Tết, lán tôi phải tập họp đi làm cỏ ngoài rào K3.

Trại Suối Máu vốn dĩ là trại tù Phiến Cộng Tam-Hiệp của Quân Khu 3 Việt-Nam Cộng-Hòa. Trại có hai khu, hai hệ thống hàng rào. Lớp rào trong nhốt tù, rồi tới khu canh tù, ngoài cùng là rào mìn phòng thủ. Trại tù Phiến Cộng này có 6 khối. Mỗi khối cách biệt nhau bởi một khoảng đất trống, có rào mìn. Từ khối này muốn liên lạc với khối kia chúng tôi phải hét lên mới nghe tiếng nhau.

Ra khỏi hàng rào thứ nhất, tôi chứng kiến vài sự đổi đời.

Cái miếu thờ Thổ Ðịa trở thành cái chuồng nuôi heo. Nhà Thờ và Niệm Phật Ðường của trại tù binh đã thành chuồng gà sản xuất. Sư và Cha, Tuyên úy của trại này, chắc cũng đi tù đâu đây không xa!

Ngoài xa, bên kia hàng rào mìn là bãi cỏ trống rồi tới đường Quốc lộ 1.Trên Quốc lộ, xe Lamb chạy xuôi ngược; người người vội vàng buổi chợ cuối năm. Có vài bàn tay giơ lên ngoắc ngoắc về hướng trại tù, đôi người dân có liên hệ, hoặc ai đó còn nhớ tới chúng tôi, những sĩ quan cấp tá của Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa, những người bảo vệ chế độ đến giờ cuối cùng, và những người chậm chân, chạy không kịp, đang bị nhốt ở đây, trong khu nhà tù do chính tay Công-Binh Việt-Nam Cộng-Hòa xây dựng lên trước đó nhiều năm.

Sáng nay bầu trời màu xanh, không một gợn mây. Từ hướng phi trường Biên-Hòa, bên kia cánh đồng trồng khoai mì, những chiếc F5 thực tập lên, xuống, lượn vòng…

Ðưa tay chỉ những cánh chim sắt đang bay trên trời cao, anh bạn Thiếu tá Không Quân, Trần Chiêu Quân nói với tôi rằng, sau 30 tháng 4, có một số phi công của Việt-Nam Cộng-Hòa bị trưng dụng để huấn luyện cho phi công Bắc-Việt lái những máy bay chúng ta còn để lại.

Những chiếc F5 sáng như bạc đảo lộn trong không gian. Tiếng rít của phi cơ làm cho tâm hồn người cựu chiến binh nao nao.

Làm sao quên được? Lần đầu ra trận (Tháng 2, 1966). Hôm đó, cũng vào một sáng đầu Xuân, đơn vị tôi án binh dưới chân núi Trà-Kiệu (Quảng-Nam) chờ lệnh xuất phát. Tôi ngồi bên bờ Nam sông Thu-Bồn, say sưa nhìn những cánh F-4C, F-5A Hoa Kỳ đan nhau trên vùng trời Bắc. Bên kia sông, vùng trách nhiệm của Trung Ðoàn 51 Biệt Lập, khói đạn bom cuồn cuộn…

Rồi tới trận Mậu- Thân (1968) với những chiếc Skyraider dềnh dàng, chậm rãi phóng từng trái Napalm dài như chiếc xuồng màu trắng, lướt trên đỉnh 1632 cuối phi đạo Cam-Ly, Ðà-Lạt. Khi bom chạm mục tiêu, từ đó, những sợi lửa lân tinh trắng xanh, trông giống như những cái vòi bạch tuộc, vươn cao…

Còn nữa…

Nhớ thời chống giữ Pleime, ngày ngày, tôi nghe quen tiếng L19 lè xè của Võ Ý (K17VB). Chiếc L19 như cánh diều mảnh khảnh, lững lờ quanh đỉnh Chư Gô, hay trên Ia Drang, thung lũng Tử Thần…

Chúng tôi trông chờ đôi lúc trời trong, những phi tuần A-37 theo nhau tuôn bom… chờ những chiếc trực thăng rà sát đọt cây, lướt trên ngọn cột cờ căn cứ. Cơ phi, xạ thủ trên tàu chỉ kịp đạp vội xuống sân trại vài thùng điện trì, đạn, gạo sấy, con tàu đã lật bụng đảo một vòng, thoát chạy về Ðông. Phòng không như lưới, thảy xuống cho nhau được thùng nào, hay thùng nấy! Thảy đồ xong là chạy. Ðồ tiếp tế, có thùng còn nguyên dạng, có thùng vỡ tan, có thùng bay vào bãi mìn. Như thế cũng quý hóa lắm rồi! Cám ơn anh em Phi đoàn 229 Lạc Long!

Rồi đêm xuống, cứ như “Ðúng hẹn lại lên!” Chiếc AC 47 của anh Trần Bạch Thanh (K17) đã có mặt trên vùng.

“Thái Sơn! Ðây Hỏa Long gọi!”

Những đóm hỏa châu lập lòe, vừa trải rộng tầm quan sát cho người trấn giữ tiền đồn, vừa làm cho họ cảm thấy ấm lòng.

Ðã mất rồi, ngày xưa ấy! Giờ này tôi đang đứng nhìn những cánh chim sắt chao lượn trên đầu, người lái không phải là quân bạn.

Tiếng động cơ F5 nghe sao quá xót xa!

o O o

Tôi đang nhổ cỏ thì thấy một đoàn người từ hướng ban chỉ huy trại hò nhau khiêng một cái cổng gỗ rất to vừa đóng xong.

Tấm bảng nền đỏ chữ vàng “Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập Tự Do” được nâng niu như trứng trên vai những người tù nhễ nhại mồ hôi. Những người tù đang bị sức nặng của cái cổng đè trĩu trên vai. Họ phải lên gân chân mỗi lúc bước tới trước.

Mới vài tháng trước đây họ còn là những vị chỉ huy oai phong lẫm liệt. Giờ đây đành cam thân sống cảnh đọa đày, đóng vai những anh thợ mộc bất đắc dĩ không công. Ngày nào họ cũng ra đi rất sớm, chiều tối mới trở về trại. Họ dựng những cái cổng chào. Họ tu sửa, sơn phết những khẩu hiệu trên tường. Họ trồng lại hàng rào trại.

Mọi việc làm này là để chào đón ngày Quốc-Hội Việt-Nam Thống-Nhất ra đời. Những vị sĩ quan cao cấp này đã khởi đầu nghề thợ mộc của họ bằng những cái bảng “Không Có Gì Quý…” ở trại tù Tam-Hiệp.

Tôi có quen vài người trong số những “cải tạo viên” hằng ngày xuất trại làm mộc, như vị sĩ quan cựu Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân/ Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa và vị sĩ quan cựu Tiểu Ðoàn Phó Nhảy Dù. Cả hai vị đó, sau này nơi đất Bắc, đã thành hai ông đội trưởng nổi tiếng. Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh!

Chỉ chín tháng sau ngày chế độ Cộng-Hòa sụp đổ, giờ đây tôi đang chứng kiến một hoạt cảnh không ai có thể tưởng tượng nổi: Trên trời, phi công Việt-Cộng đang lái F5; trước cổng trại tù, sĩ quan cấp tá Việt-Nam Cộng-Hòa đang dựng cổng chào; quanh rào trại tù, sĩ quan cấp tá Việt-Nam Cộng-Hòa đang làm cỏ. Nơi nơi, người người, chuẩn bị đón Xuân. Mỗi người mang một tâm sự riêng…

Tới trưa, khi nghe tiếng kẻng phát cơm của nhà bếp, chúng tôi được dẫn trở lại trong vòng rào trại K3. Khi đi ngang qua sân bóng chuyền, tôi thấy người ta đang cá độ nhau trận đấu tay đôi đang diễn, một bên là Thiếu tá Trần Ðạo Hàm, cựu vô địch nhảy cao của Quân Ðội Việt-Nam Cộng-Hòa, bên kia là một tay Thiếu tá Không Quân. Anh Lê Hữu Khái (K15) và thằng bạn Nguyễn Bích (K20) của tôi đang nhảy tưng tưng cổ vũ cho anh Hàm vì anh Hàm là “gà nhà”, Võ Bị khóa 17! Cái miệng thằng Bích lớn lắm, nó la hét vỗ tay, bình luận ào ào. Anh Hàm thật là may mắn, có cái loa phóng thanh cỡ bự Nguyễn Bích cổ vũ nên anh có vẻ như đang dẫn điểm.

Tôi thấy nhiều người đã để ghế “xí” chỗ tốt cho buổi TV văn nghệ tối; ngày nào cũng thế, cứ đến trưa là bà con đem ghế ra đặt sẵn trên sân bóng để “xí” chỗ xem phim TV của đài Sài-Gòn Giải-Phóng. Ai chậm chân thì không còn chỗ tốt. Thời gian này TV Sài-Gòn Giải-Phóng liên tiếp chiếu bộ phim nhiều tập “Trên Từng Cây Số” và “Ðại úy Ðen” của Ba-Lan.

Trong các lán, có nhiều bạn tụ tập bóc lột nhau bằng những con bài. Xì phé, sập xám và mạt chược là những môn chơi phổ thông khắp nơi trong trại. Tôi đã chứng kiến nhiều anh thua bạc phải bán cả những quà cáp từ gia đình gởi vào, như kem đánh răng, thuốc lào, thuốc tây để trừ nợ.

Sau Tết ít lâu, tôi nghe một câu chuyện đau lòng ở K3 năm ấy: có một vị Thiếu tá Quận trưởng khi cắt bánh thuốc lào làm đôi để chi cho chủ nợ một nửa, thì phát hiện ra một bức thư “chui” của người nhà giấu trong ruột bánh thuốc lào. Bức thư vắn tắt đôi lời làm đau lòng người đọc:

“Chị ấy đã gởi hai đứa con của anh cho bà nội của chúng nuôi. Chị đã đi lấy chồng rồi! Anh đừng buồn, ráng học tập lao động cho tiến bộ để sớm được thả về mà nuôi dạy con anh.”

Cái tin bất ngờ sét đánh ấy đã làm cho ông Quận sững sờ, buông rơi những con bài Cơ, Rô, Chuồn, Bích…

Từ đấy, tôi thấy ông suốt ngày thẫn thờ bên rào, nhìn về phía xa xôi. Ðôi lúc tỉnh táo, ông ôm cây Guitar, đàn solo những bài nhạc xưa, buồn đứt ruột.

Tôi bồi hồi nhớ lại lời Tổng thống nói ngày nào:

“Ðất nước còn, còn tất cả. Ðất nước mất, mất tất cả!”

Ôi! Lời Tổng thống nói thật là hữu lý!

Tổng thống ơi! Chúng tôi đã cố gắng hết sức mình để giữ nước, nhưng chúng tôi đã không thể giữ nổi. Chúng tôi lấy làm xấu hổ vô cùng! Sao Tổng thống không ở lại giữ nước với chúng tôi? Lúc này chúng tôi đã “mất tất cả” rồi Tổng thống ơi!

Về tới lán, tôi nhận được một vỉ thuốc ho, một nắm xôi đậu xanh, và mười cục đường tán do anh bạn Phan Văn Hải gởi cho.

Tôi, Phan Văn Hải, cùng ba anh bạn khóa 20 Võ Bị là Phan Ðộ, Huỳnh Bá An, Trần Hữu Bảo, xuất thân từ trường Nam Tiểu Học Ðà-Nẵng. Chúng tôi là học trò của cô giáo Phạm Thị Tịnh Hoài, lớp Nhất C.

Phan Văn Hải là sĩ quan khóa Ðặc biệt Thủ Ðức, anh về phục vụ cùng đơn vị Biệt Ðộng Quân của tôi ở Pleiku. Những ngày cuối của cuộc chiến, Thiếu tá Phan Văn Hải giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 89 Biệt Ðộng Quân. Khi đi tù, bạn tôi không có ai thư từ, tiếp tế, nhưng hắn bài bạc rất giỏi, nên lúc nào cũng sung túc.

Chiều hôm đó, anh lán phó hậu cần, Hải Quân Thiếu tá Bùi Tiết Quý thâu tiền của trại viên trong lán, gởi cán bộ trại mua giùm mì gói, tương, chao, xì dầu và đường tán để ăn bồi bổ thêm trong ba ngày Tết. Tối đến, sau khi đã chia hết phần đường cho người mua, anh Quý cạo được một chén đường chảy dính trong thùng giấy và bao giấy gói đường. Anh ung dung ngồi thưởng thức nồi chè đặc biệt, nấu bằng đường mót được với hột su su và mấy hạt bắp non anh trồng được bên rào. Làm đội phó hậu cần cũng có chút bổng lộc!

Sáng Ba Mươi Tết, lại gặp ngày tổ tôi trực lán, tôi và một số bạn bị chỉ định xuống làm việc tăng cường cho Lán 9 nhà bếp. Tôi phụ việc vo gạo cho thằng Niếu và anh Cung. Những tạ gạo đựng trong bao viền chỉ xanh rất cũ được chuyển về từ bưng biền. Gạo thì mốc vàng, mốc xanh.

Những tổ sâu gạo to như nắm tay. Khi tôi tách những cái tổ sâu ra từng phần nhỏ thì những con sâu gạo trắng ngần có khoang, béo núc, to gần bằng đầu đũa và dài cả phân, ngo ngoe, ngo ngoe…

Anh Cung không cho phép tôi vứt bỏ những cái tổ sâu ấy, anh nói rằng nếu vứt bỏ sâu đi thì hết gạo, “Nếu vứt sâu đi thì còn cái gì mà ăn? Cứ nấu tưới đi! Sâu cũng bổ béo, cũng nhiều Prồ-tê-in, sâu gạo chứ có phải là dòi ở ngoài chuồng xí đâu mà ngán!”

Khi chảo cơm bắt đầu sôi thì nhiều khách khất thực nước cơm đã cầm ca đứng đợi. Anh Cung cho vài người, mà cũng từ chối đôi người. Người có phần, thì riu ríu cám ơn, người không có phần tiu nghỉu ra về, miệng lầm bầm, “Ð! M!… Ð!M!..”

Những trại viên nhà bếp gọi đám người chờ xin nước cơm là “Ðội quân cầm ca.” Chữ “cầm ca” ở đây không có nghĩa là ca sĩ, ca hát, hay ca kỹ mà có nghĩa đen chỉ sự cầm cái ca U.S dùng để đựng nước uống, cái ca nằm dưới cái bi-đông bộ binh ấy mà!

Dân “cầm ca” phải đứng xếp hàng cả giờ đồng hồ trước cửa lò cơm để chờ xin một ly nước cơm. Nước cơm có Vitamin B1 chữa được bệnh phù thủng (?) Chuyện xếp hàng trước, xếp hàng sau, đôi lúc cũng gây ra ẩu đả.

Sau này, khi ở trại tù Phú-Sơn 4, Thái-Nguyên, tôi có đọc một tài liệu nói về cái chất độc của nấm cúc vàng từ gạo mục, gạo mốc. Nấm cúc vàng có chứa một loại chất độc nguyên nhân gây ung thư gan. Nước cơm lại là phần đậm đặc nhất của chất độc nấm cúc vàng từ gạo mốc. Không biết có bao nhiêu nạn nhân của bệnh xơ gan sau này có mặt trong đội quân “cầm ca” ngày ấy?

Chiều Ba Mươi Tết, bữa ăn có thịt heo kho. Thằng Niếu đem thêm về cả phần lòng heo bồi dưỡng nhà bếp của nó.

Thời buổi khó khăn, thuốc lá bắt đầu khan, những tay nghiền miền Nam bắt đầu nói chuyện thuốc lào.

Những danh từ “điếu cày,” “điếu bát,” “Cái Sắn,” “Hố Nai,” “Vĩnh Phúc,” “Tiên Lãng” nghe mãi cũng quen tai.

Anh Hoàng Kim Thanh, Liên Ðoàn Trưởng Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân của tôi, từ bên K4 nhờ ai đó chuyển cho tôi được một bao thuốc lá 555 và một lạng cà phê.

Trong khi thằng Niếu và anh Cảnh lo bếp núc cúng Tất Niên thì tôi đi vòng vòng tán dóc với anh bạn Lưu Văn Ngọc, cựu Sĩ quan Quân Pháp Quân Ðoàn II.

o O o

Tối Ba Mươi Tết ở K3 Suối Máu không khí thật là rộn rã tưng bừng. Mọi lán đều đã chuẩn bị sẵn sàng chương trình văn nghệ chào đón Chúa Xuân. Sân khấu văn nghệ được thiết lập giữa sân tập họp. Ðèn điện sáng choang. Cờ Mặt Trận Giải- Phóng Miền- Nam che kín cả sân khấu.

Trước giờ văn nghệ, loa phóng thanh truyền đi những bản nhạc từ đài Sài- Gòn Giải- Phóng mà Tô Lan Phương là giọng ca chính. Những nghệ sĩ tù cũng ăn mặc tươm tất để sẵn sàng trình diễn giúp vui. Ðàn ghi-ta, trống, sáo đều làm bằng vật liệu lấy từ kho của nhà bếp như tôle, củi, ván gỗ…các nghệ nhân tự đẽo gọt, cắt xén, dán, ghép thành các nhạc cụ.

Tám giờ tối, buổi “Liên hoan văn nghệ” đêm Ba Mươi Tết bắt đầu.

Mở màn chương trình là bài đồng ca “Như có Bác” tôi không nhớ do lán nào trình diễn.

Kế tiếp, cựu Thiếu tá Không Quân Hoàng Ðình Ngoạn (K17 VB) lên đài trong tiếng hoan hô vỗ tay của “đồng bọn” tù Võ Bị.

Anh vừa hát được nửa bài tình ca, nhạc vàng “Mùa Xuân Trên Ðỉnh Bình Yên” thì bị cán bộ Cộng-Sản chặn lại, đuổi xuống đài. Lý do, “Nhạc Ngụy ủy mị!”

Sau đó, chỉ những bài hát “Giải Phóng” mới được phép trình diễn.

Trên sân khấu, tiếng sáo trúc Tô Kiều Ngân lâm ly bài “Mùa Xuân Trên Thành Phố HCM” hòa ca cùng tiếng sáo miệng của Nguyễn Tuyên Thùy. Tôi cũng nghe vọng lại từ các khu khác, đại để, bạn tù cũng chỉ hát những bài ca eo éo, nghe rợn tóc gáy, như “Cô Gái Vót Chông,” “Tiếng Ðàn Ta Lư,” “Năm Anh Em Trên Chiếc Xe Tăng” vân vân…

Khắp 6 khu của trại tù đều sáng rực ánh đèn và vang rền tiếng nhạc…

Năm mới đang từ từ tiến về…

Ðến khi màn trình diễn của Lán 24 vừa được giới thiệu, thì tôi bỏ chạy về lán. Tôi ngồi một mình trong cái nhà tôle vắng tanh. Nỗi đau đớn nhói tim tôi!

Ngoài kia, bạn cùng lán của tôi, không tự nguyện, đang phải đóng vai “Dân quân chống Tầu, chống Tây, chống Mỹ, chống Ngụy” trong một vở trường kịch. Khi họ tập bài bản trong lán, tôi biết họ cũng đau lòng lắm.

Bạn Võ Bị của tôi, Tạ Mạnh Huy vì là Tây lai phải đóng giả làm Tây cho người ta trói. Thằng Niếu phải đóng vai “Biệt Ðộng Quân Ngụy” giơ tay đầu hàng để anh Dương người Bắc, đóng vai bô lão nông dân Việt Nam “đả đảo”. Mỗi lần tập xong, các bạn tôi đều buồn, họ đề nghị anh lán trưởng Trần Thành Trai cho tập một kịch bản lịch sử “Vua Quang Trung diệt quân Thanh” nhưng anh lán trưởng không đồng ý.

Anh Trai nói, “Ban chỉ huy trại đã ra lệnh” cho anh phải thực hiện cho được trường kịch này để mừng Giao Thừa, vì nó có tính cách “Lô gích lịch sử” (?)

Và đêm ấy, anh đội trưởng Trần Thành Trai đã thực hiện thành công xuất sắc vở trường kịch “Việt Nam 4000 năm anh hùng.”

Ngay sau khi bế mạc buổi văn nghệ mừng Xuân Bính Thìn, mùa Xuân đầu tiên của nước “Việt Nam Thống Nhất” cũng là mùa Xuân đầu tiên quân và dân Miền Nam mất nước, anh đội trưởng Trần Thành Trai đã được ban chỉ huy trại “tuyên dương công lao” trước trại.

Khi trên sân khấu người diễn kịch bắt đầu hát bài “Tiến Quân Ca” thì tôi bật khóc.

Một mình, ngồi trong đêm tối, tôi nức nở khóc vùi. Tôi chưa bao giờ thấy cái khóc lại có hiệu lực chữa đau đớn hiệu nghiệm như đêm ấy!

Chợt tôi nghe tiếng chân ai ngoài cửa lán. Rồi tiếng lên đạn súng AK…

Thình lình, tia đèn pin chiếu ngay mặt tôi, làm mắt tôi chói lóa.

“Anh kia! làm gì ngồi khóc đấy? Sao không đi “rự nễ” mừng Xuân?”

Tên bộ đội đi tuần tra lớn tiếng hỏi.

Tôi lấy tay che mắt, nhưng không nhìn thấy gì. Tôi lặng thinh. Tiếng quát lại tiếp:

“Anh có mồm không thì bảo? Câm à? Sao không giả nhời tôi?”

Tôi vẫn ngồi im. Ánh đèn đảo một vòng quanh vách lán rồi tắt. Căn phòng tối om. Tôi nghe tiếng chửi:

“Ðịt mẹ thằng câm! Mới xa nhà có mấy tháng mà đã nhớ nhà phải khóc. Ông đây xa nhà hai ‘lăm’ rồi mà ông có khóc đâu! Ðồ không biết xấu hổ!”

Tôi vẫn lặng thinh.

“Rầm!” Tên bộ đội giận dữ, đóng sập cửa lán.

“Chảng!” Nó còn bồi thêm một cái đá cật lực vào vách tôle.

Vài giây sau, tôi nghe tiếng dép râu bước đi xa dần về hướng sân. Tôi nhìn đồng hồ tay (ngày đó chưa có lệnh thu giữ tư trang của tù) đúng lúc này hai cái kim lân tinh vừa chập nhau trên số 12: Giao Thừa!

Ngoài sân tiếng ca hát còn đang tiếp tục. Tôi mồi một điếu thuốc 555. Trong trí óc tôi, hình ảnh những Giao Thừa đã qua trong đời hiện về, mờ nhạt như từ thế giới nào rất xa…

Ngày xưa, mỗi độ Giao Thừa, cho dù lúc đó tôi đang đi hành quân với một toán Biên Vụ (Viễn Thám) quân số chỉ có 6 người, lần mò trên những nhánh của hệ thống “Ðường mòn Hồ Chí Minh” trên đất Lào, hoặc len lỏi trong rừng tre gai Plei-Trap Valley, hay lúc tôi đang chỉ huy cả năm trăm, sáu trăm quân trấn giữ Pleime, hoặc ải địa đầu Bu-Prang miền biên giới Việt Miên, tôi không lần nào quên nghe chương trình Giao Thừa của Ðài Phát Thanh Quân-Ðội.

Giao Thừa Xuân Bính-Thìn là Giao Thừa đầu tiên trong đời, tôi không tìm thấy lá cờ nước tôi, không nghe được câu hát: “Này công dân ơi! Ðứng lên đáp lời sông núi…”

Bài quốc ca này đã đi vào lịch sử. Một thế hệ đã hát nó với cả bầu máu nóng trong tim. Bao nhiêu người thân của tôi, bao nhiêu bạn bè của tôi đã cống hiến tuổi trẻ và cả thân xác mình cho bài ca đó. Một thế hệ đã lớn lên thành người với bài ca đó. Một thế hệ sẽ mang nó theo, xuống tuyền đài…

Chợt tiếng anh lán trưởng Trần Thành Trai vọng lại trên loa phóng thanh:

“Ðổi đời đã tới! Cách Mạng đã thành công!”

Tiếng hô lặp lại hai chữ “Thành công!” của trại viên vang dội đêm Trừ Tịch. Tôi cảm thấy tiếng hoan hô đã làm rung những tấm tôle trên mái.

Trời đêm Trừ Tịch tối đen.

Tôi không biết những vạt đen ẩn hiện sau hè, là bóng những bụi rau dền, giàn mùng tơi hay những hồn ma đói cuối năm chập chờn.

Ngoài xa vẳng lại, từ bên K4, ai đó bắt đầu hát bài “Lá Ðỏ”…

o O o

Vài năm sau, tôi nghe tin, cựu Y sĩ Thiếu tá Trần Thành Trai của quân y viện Duy-Tân, Ðà-Nẵng, đã được tha khỏi trại cải tạo. Bác sĩ Trai đã cùng Bác sĩ Trần Ðông A, cựu Y sĩ Thiếu tá Nhảy Dù, nổi tiếng sau những ca mổ tách rời trẻ song sinh ở Sài-Gòn. Tôi cũng đã nghe tin, giờ này, Bác sĩ Trai đang là một “Dân biểu” của Quốc Hội nước Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ Nghĩa Việt-Nam.

Nhân ngày đầu Xuân Ất Dậu (2005), tôi nhớ lại chuyện xưa, ba mươi năm trước. Nhớ những bạn Võ-Bị, cựu tù Lán 24 Suối Máu, Tam- Hiệp, Biên- Hòa.

Trong số những người bạn đó, thì hai người đã qua đời, là Hoàng Thế Bình và Ngô Văn Niếu. Còn những bạn khác như Dương, Lành, và Huy thì đang ở Mỹ, không rõ họ có còn nhớ chuyện ngày xưa hay không?

Riêng tôi, cái đêm Giao Thừa ba mươi năm trước ấy đã trở thành không thể nào quên, vì đó là lần đầu trong đời, tôi đón năm mới với thân phận một người tù mất nước…!!!

VML – K20 –

Lời bàn

Tập thể tù ở đâu cũng có những tên anten, làm chó săn !!, nhưng không nhiều ,tuy nhiên theo tôi có lẻ trong tất cả các trại tù thì các trại mà anh em là thành phần tù binh bị bắt tại mặt trận thì tinh thần vững vàng ,do hầu hết và gần như đồng nhất là lính tác chiến các binh chủng ,hiếm có các loại lính bàn giấy, yễm trợ...nên ngang tàng quen rồi, tính hào hùng có trong máu.

DQY cũng bị tó trên bãi biển Thuận An nên cũng như anh em là thành phần tù binh mà luôn luôn hảnh diện điều đó ,sau này cũng có thập thò vài tên anten là bị trừng trị thẳng tay, thậm chí sau 5-6 năm khi trại đọc lịnh tha tên anten gộc không dám ra về vì anh em bà con chờ sẵn bên ngoài để đập cho chết, hắn phải năn nỉ bộ đội ,năn nỉ anh em nói giùm tha cho hắn ra. DQY thuộc trại tù Cồn Tiên-Ái Tử Bình Điền mà gốc là khi trước thuộc Đoàn 76 giam giử tù binh thành lập từ trước trận Điện Biên rồi chuyễn vào Nam phía bên kia biên giới Lào trong chiến tranh từ 54 tới 75.Tiếp tục cho tới khi giao lại cho bò vàng.

DQY cũng xin kể một lần làm anten theo lịnh cán bộ trại :
- Khoãn năm 1978 vào một đêm đẹp trời, DQY được( hay Bị ) cán bộ kêu lên khung ,vừa đi vừa băn khoăn Mẹ họ lại có tên nào báo cáo cái chi rồi ,tự vấn thì thấy mâm mô cũng có, từ bài bạc ,mua bán đổi chát, hay phát biểu linh tinh...thôi kệ nó tới đâu thì tới.Nhưng khi lên thì thấy thái độ cán bộ vui vẻ ,ôn tồn hỏi han ,À, cái này mới lạ vì DQY biết bản thân mình thuộc loại không chịu tiến bộ !!, nhưng cán bộ quản giáo cho biết là dạo gần đây thấy DQY có tiến bộ , nhưng theo trên khung nói là chưa đủ cần phải tiến bộ nhiều hơn nữa bằng cách giúp cho anh em trong lán trại cùng tiến bộ ,DQY phải báo cáo những ai có tư tưởng chưa tốt ,còn cải thiện linh tinh, còn quan hệ dân khi ra ngoài lao động...nói chung là làm anten. Chà kẹt dử đa, lúc đó mà say NO thì nó oánh chết mẹ, mà làm theo lịnh thì DQY không làm được, cuối cùng DQY có kế sách thoát thận
Khi về tới lán anh em bu hỏi vì thấy lạ, mấy lần trước kêu lên xong lúc về là lết, có khi máu me tùm lum vì được tẩm quất tận tình ,DQY bảo đãm khi có dịp kể lại các hình phạt đã trải qua, sẽ thấy chuồng cọp Côn Sơn ,tra tấn này nọ không tàn bạo bằng ( DQY bây giờ vẫn còn sẹo dài cả gang tay dưới thắt lưng phía sau ngay lá gan kết quả trận đánh hội đồng 4 tên vệ binh theo chỉ thị của tên Trình là Chính ũy trại : Đánh cho nó chết !!!

Sau khi về lán DQY xin anh em chú ý nghe DQY nói: Thưa anh em, cán bộ kêu tôi lên và giao nhiệm vụ là về giúp đở cho anh em tiến bộ, cho nên từ nay khi anh em thấy mặt tôi thì hạn chế nói năng linh tinh, bớt cải thiện hoặc làm kín đáo hơn.....nói chưa hết thì thấy tên vệ binh bước vào bảo: Mày lên đây, bước ra khỏi lán là hắn đấm DQY liền, Lên tới khung DQY cứ kêu oan là tôi chỉ làm theo lời cán bộ dặn dò. Kết quả là cắt thăm gặp ,bị cách chức anten ngay. Đấy lần làm anten của DQY chưa được tới 5 phút là bị cách chức còn bị đấm.

Người ta đi tù thì ráng khai là gia đình cách mạng, riêng phần DQY thì anh em nói là mày hả, gia đình liều mạng thì có ,ông già 13 niên hơn ,ông chú ruột cùng với ông anh bà con 17 niên hơn về cuối cùng ( dân tình báo ) anh ruột là giặc lái...cho nên DQY cũng có đi thăm nuôi như người ta, thăm ông già ,ông chú..
Nói đến trại "cải tạo" Suối Máu này làm tôi nhớ vào năm 1977 khi từ KàTum (Tây Ninh) chuyển trại về đây do bọn Polpot khuấy phá vùng biên giới, được đưa vô K4 (dành cho cấp Thiếu úy + Trung úy), không khí ở đây tuy ổn nhưng vẩn có tình trạng "ăng-ten" tìm cách chọt anh em nào phát ngôn bừa bãi hầu được "điểm tốt" để xét tha trở về sum họp với gia đình.
Và hậu quả là những người "thay lòng đổi dạ" này đã nhận nhiều trận đòn vào ban đêm như bị trùm mềm và bị đánh túi bụi (nhưng không gây thương tích) từ các anh em trong trại.
Có thể thấy rằng tuy căm ghét những kẻ "ăng-ten" này, nhưng vì tình đồng đội, không có một ai nở xuống tay hạ thủ, gây thêm nhiều đau đớn vô ích nửa, vì nổi đau mất nước, nổi đau xa gia đình, xa vợ con còn lớn hơn những gì chúng tôi đang trãi qua lúc bấy giờ.

Last edited by trungthuc; 09-30-2020 at 23:01.
trungthuc_is_offline   Reply With Quote
The Following 4 Users Say Thank You to trungthuc For This Useful Post:
hoanglan22 (10-01-2020), hoathienly19 (09-30-2020), huudangdo1 (10-01-2020), phokhuya (10-04-2020)
Old 10-01-2020   #282
hoathienly19
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 1,482
Thanks: 2,322
Thanked 1,734 Times in 804 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 24 Post(s)
Rep Power: 8
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default NGÀN NĂM MÂY BAY

NGÀN NĂM MÂY BAY





NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI BIÊN HÒA , NỖI ĐAU CÒN ĐÓ !





Cuối tháng 11 năm 1967, Đại Đội 17 – Khóa 25 Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Đức chúng tôi được vinh dự làm Đại Đội dàn chào, khánh thành Đài Tử Sĩ của Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa vừa được Công Binh xây dựng.


Trung Tướng Trần Văn Trung – Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị - thay mặt Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa khánh thành.

Toàn Đại Đội sinh viên sĩ quan chúng tôi trong quân phục vàng, đứng dàn chào hai hàng từ ngoài đường, dưới chân Bức tượng Thương Tiếc, dài vào đến chân đài Tử Sĩ.


Hàng quân chắc dài hơn 200 mét. Trên bậc thang đi lên Đài Tử Sĩ thì tay trái mỗi sinh viên đều cầm thêm bó đuốc đang cháy. Quang cảnh buổi lễ vô cùng trang nghiêm, lắng đọng.






Sau khi Tướng Trung đọc xong diễn văn, thì nghe có tiếng ai đó tiếp đọc sang sảng bài văn tế dài cả tiếng đồng hồ.


Chen lẫn trong từng đoạn là tiếng tiêu ai oán như gọi hồn núi sông. Có khi là tiếng trống trận bừng bừng khí thế.

Rồi tiếp theo là nhạc chiêu hồn tử sĩ trỗi lên nhè nhẹ, hòa trong bài văn tế.

Lúc đó toàn vùng đồi nghĩa trang vang lên nhiều âm thanh lẫn lộn , hòa tan vào nhau , khi nhặt khi khoan, lúc hùng dũng, lúc nhẹ nhàng , làm cho tâm hồn mọi người hiện diện nơi đó như say như tỉnh. Ai cũng thấy rợn người, cảm giác như có hàng ngàn hàng vạn oan hồn đang tụ tập mọi nơi trong vùng đồi thấp nầy.


Tiếng trống rộn ràng như thúc giục lên đường, hòa tan trong tiếng tiêu nhè nhẹ trong mây:

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi





Buổi lễ kéo dài hơn 2 giờ mới kết thúc mà dư âm còn lắng đọng trong lòng mọi người quá nhiều nỗi xót xa ngậm ngùi.

Năm đó vì mới xây dựng , nên Nghĩa trang chỉ mới có chừng ngót một ngàn ngôi mộ.


Sau nầy khi chiến sự leo thang , tốc độ mai táng tử sĩ càng ngày càng gia tăng .

Nhất là khi cuộc chiến leo thang đến chót đỉnh vào mùa Hè đỏ lửa năm 1972.

Tử sĩ chở về nghĩa trang càng nhiều thì thành phần cơ hữu của nghĩa trang cũng phải gia tăng theo.


Họ là thành phần tạp dịch, lo việc hậu sự của tử sĩ như :

Tắm rửa tử thi, tẩn liệm, đào huyệt, xây mộ… Từ một trung đội thành một đại đội khi cuộc chiến chấm dứt năm 1975.





Song song đó, Công Binh Cơ Giới cũng bận rộn không kém. Họ tiếp tục đào đất, xây cất thêm những công trình khác. Theo sơ đồ tổng quát toàn khu như đường sá ngăn chia từng khu mộ, bức tường Vành Khăn Tang …


Vào sâu trong trung tâm nghĩa trang, còn có Đài Tử Sĩ được xây trang trọng trên ngọn đồi thấp có hàng trăm bậc thang đi lên.


Trước đài có cổng Tam Quan uy nghi… Giữa nghĩa trang là một tháp xi măng cao 43 mét gọi là Nghĩa Dũng Đài, Chung quanh Nghĩa Dũng Đài là một bức tường lớn hình tròn gọi là Vành Khăn Tang.


Không biết ai đặt tên cho bức tường nầy Vành Khăn Tang ? Sao mà nghe ai oán , thê lương, não lòng cho người sống và cả cho những linh hồn người lính đã trở về cùng cát bụi, đã nằm im lìm theo năm tháng đi qua .






Từng dãy mồ tiếp nối, dài thêm theo từng ngày, từng tháng. Bia mộ nằm thẳng hàng, yên lặng, bình đẳng, hàng hàng, lớp lớp, mút tầm mắt cho đến cuối chân đồi. Việc xây thêm mồ mả đó dừng lại vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Như một định mệnh, như một sự an bài !






Lúc khánh thành thì nghĩa trang chỉ có ngót nghét ngàn ngôi mộ. Thế mà khi cuộc chiến chấm dứt vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 , tổng số mộ phần ở đây đã lên gần 16 ngàn ngôi mộ.


Đó là chưa kể nhiều tử sĩ đã được thân nhân đưa về đất nhà, mà con số nầy thì vô phương tổng kết.





Tại nghĩa trang nầy cũng có hơn mười ông Tướng nằm chung với thuộc cấp của mình. Trong số đó có Đại Tướng Đỗ Cao Trí; nằm lại bình đẳng – Huynh Đệ Chi Binh.






Theo đồ án dự trù xây cất thì chung quanh vành tròn bức tường Vành Khăn Tang nầy , sẽ thi công nhiều công trình điêu khắc nghệ thuật ghi lại những chiến tích oai hùng chống ngoại xâm của dân tộc ta qua các triều đại , từ thuở vua Hùng mở nước kéo dài cho đến ngày nay.


Việc thi công trên còn đang tiếp diễn hàng ngày, thì xảy ra biến cố 30 tháng 4 năm 1975 .


Những phá hoại lớn bắt đầu từ đó ở nghĩa trang nầy qua nhiều bàn tay của bên thắng cuộc.






Nhà cầm quyền cộng sản quản lý nghĩa trang nầy cắt bỏ 10 mét phần đầu của Nghĩa Dũng Đài đem đâu mất, phần nầy bắng thép, chắc mắc.

“Thương Tiếc” bị xe cần cẩu giựt sập, chở đi biệt tăm. May quá có một ký giả người Pháp chụp được hình lúc pho tượng bị kéo sập, phổ biến lên mang nên nhiều người xem được.






Còn nhiều thứ trong nghĩa trang bị cs đánh cắp, chia chác nhau không ai dám kiểm soát. Con cóc làm sao dám kiện ông Trời ?





Đứng trên khu vực dưới chân Nghĩa Dũng Đài, ta thấy cả một cánh đồng mộ chí trùng trùng điệp điệp, dài đến mút mắt .


Một quang cảnh tiêu điều, hoang vu nhưng lại có giá trị lịch sử, trong suốt thời gian điêu tàn vận nước vừa qua:

Tủi thân người lính nằm trong mộ

Nợ máu xương nầy …biết hỏi ai ?

Đêm bấc hồn oan theo bóng đóm

Vật vờ ghềnh bãi …ánh ma trơi






Đại Đội 17 – Khóa 25 Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức chúng tôi , vào tháng 11 năm 1967, là những nhân chứng tận mắt ngày bắt đầu xây dựng Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Và nhiều sinh viên khóa 25 nầy còn sống sót cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 trong đó có tác giả, lại cũng chứng kiến sự khép cửa Nghĩa trang vĩnh viễn .


Một giai đoạn đau buồn của đất nước Việt Nam đã đến và cũng đã đi qua.

Cầu xin anh hồn của 16 ngàn tử sĩ cùng độ trì, phù hộ cho Nghĩa trang không bị tàn phá tiếp.


Xin hỏi núi cao, xin hỏi sông dài, hỏi em bé lên ba, hỏi bà già tám chục, thì chắc chắn rằng hồn thiêng sông núi và toàn dân Việt đều một lòng muốn bảo vệ Nghĩa Trang yêu dấu nầy.






Lúc nào toàn dân ở trong nước cũng như ở hải ngoại cũng dành một góc trang trọng trong lòng, tôn kính những người con anh hùng đã nằm xuống.


Mười sáu ngàn tử sĩ nầy đã đem máu đào bảo vệ từng tấc đất ngọn rau và họ đã đền nợ nước. Mà than ôi !


Kết quả khác nào như việc làm vô ích của những con dã tràng xe cát Biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì !

Xin đọc bài thơ “Nghĩa Trang” dưới đây:

Nghĩa Trang

Ở đây lớp lớp mồ vô chủ

Nào có ai dành một nén hương ?

Ở đây tối tối hồn oan khóc

Tiếng dế đêm sâu não nuột buồn

Bao nhiêu mộ chí nằm nghiêng đổ

Bạn với trâu bò mỗi giấc trưa

Lối nhỏ hoang tàn gai mắc cỡ

Nào ai thăm viếng lúc sang mùa ?

Người từ tuyến lửa chở về đây

Tử sĩ Binh Long ngăn đá đầy

Từng dãy Poncho về bãi H.

Trực thăng lên xuống bụi mù bay

Về đây rũ sạch trần duyên cũ

Lặng lẽ đi về cõi tịch liêu

Về đây hoàn tất phần chung sự

Đồi thấp thiên thu lộng gió chiều

Ở đây bình đẳng nằm thanh thản

Kẻ trước người sau…những dãy mồ

Ở đây tất cả là huynh đệ

Mật thiết nhau từ mảnh vải sô

Đồi vắng chiều hôm ai đứng đó

Bàng hoàng lịch sử đã sang trang

Xa xa Châu Thới xanh màu núi

Thánh giá nghiêng xiêu lệ mấy hàng

Người sống hôm nay còn thẹn mặt

Với hồn tử sĩ với trăng sao

Ngoài kia pho tượng …đi đâu mất

Chiếc bệ còn nguyên nỗi nghẹn ngào

Ở đây tháng Bảy mùa ân xá

Luống những điêu tàn chẳng khói hương

Ai thỉnh cho hồi chuông siêu độ ?

Giải oan hồn phách lạc mười phương

Bao nhiêu suối lệ , bao nhiêu máu

Rồi cũng ô hô kiếp dã tràng

Một sớm Xuân về nghe bão tới

Sơn hà xao xuyến lệ dầm chan

Từ đấy miền Nam…thành khánh tận

Sạch trơn bờ cõi…trắng tay chung

Nổi trôi vận nước bèo mây dạt

Xí xóa cho rồi cuộc phế hưng

Tủi thân người lính nằm trong mộ

Nợ máu xương nầy …biết hỏi ai ?

Đêm bấc hồn oan theo bóng đóm

Vật vờ ghềnh bãi …ánh ma trơi

Nhân chứng là đây…từng dãy mộ

Đoạn trường chi lắm núi sông ơi !

Có nghe tiếng quốc buồn bi thiết

Hòa tiếng mưa rơi cuối…cuối trời

(Sài Gòn trong tôi/ Hồ Thanh Nhã)
hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following 4 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (10-01-2020), huudangdo1 (10-01-2020), phokhuya (10-04-2020), tcdinh (10-01-2020)
Old 10-01-2020   #283
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,409
Thanks: 21,697
Thanked 38,211 Times in 12,889 Posts
Mentioned: 636 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7249 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Cái loa



Nhà ông Năm ở vùng Cây Quéo, trong một đường đất nhỏ quanh co không ăn thông qua con đường nào khác. Trong cái ngõ cụt đó chỉ có sáu bảy cái nhà cất theo kiểu xưa, kèo cột gỗ, ngói âm dương. Một vài nhà cũng đã được “tân trang” với mặt tiền đúc bê-tông cẩn gạch màu... Điểm đặc biệt là nhà nào cũng có đất chung quanh đầy cây kiểng và cây ăn trái. Cho nên, tuy ở sát nách thành phố mà thấy như ở đâu trong xa miệt vườn vậy! Và thật là yên tịnh. Nhà ông Năm có nhiều cây vú sữa. Giống vú sữa này màu tím, chỉ to bằng nắm tay, nhưng giòn và ngọt lịm. Bà Năm trồng vú sữa một thời với những cây ăn trái khác, hồi mới mua nhà đất. Sau này, vú sữa lại là nguồn huê lợi của ông bà Năm, bởi vì năm nào trái cũng sai quằn. Bạn hàng ngoài chợ Bà Chiểu thường hay vào đây “mua mảo cả vườn” khi cây vừa mới trổ bông... Cây vú sữa lớn nhứt nằm gần hàng rào phía trước, cành gie ra ngoài. Những cành này lại ít trái. Có lẽ tại vì ngoài đường gió nhiều nên làm rụng bớt bông. Đến mùa vú sữa, trẻ con trong xóm hay tới đó thọc vú sữa, nhưng chúng có xin phép đàng hoàng và không bao giờ làm ồn. Chúng có... “tư cách” như vậy là nhờ lời dặn dò của trẻ con những thế hệ trước: “Đừng ăn cắp! Ông Năm không ưa đâu. Ổng kêu lính bắt chết. Cứ xin là ổng cho hà. Mà cũng đừng làm ồn, ổng ghét lắm!”. Rồi cứ như vậy, trẻ con thế hệ này truyền cho trẻ con thế hệ sau... vv từ không biết bao nhiêu năm, đã thành nếp. Cho nên, khi vú sữa chín tới là hằng ngày nghe giọng trẻ con “đánh tiếng” từ ngoài rào: “Dạ thưa ông Năm cho tụi con xin vài trái vú sữa, nghen”. Có khi nghe tiếng ông Năm “Ừa” vói ra ngoài. Nhưng thông thường, sau khi xin phép như vậy rồi là chúng yên tâm thọc vú sữa. Và ngầm hiểu “Ổng làm thinh là ổng ừa đó!”. Một hôm, ăn trộm chuyền theo mấy cành vú sữa vào nhà ông Năm. Thời may, người nhà hay kịp nên nó đu người phóng ra ngoài tẩu thoát. Sau lần đó, các con ông Năm định cưa hết mấy cành gie ra ngoài, nhưng ông Năm không chịu. Ông nói: “Má tụi bây trồng mấy chục năm mới được như vậy. Cưa chi uổng. Để đó qua mùa tới cho mấy đứa nhỏ trong xóm nó ăn, nó vui!”. Rồi ông giải quyết vấn đề: “Sợ trộm vô thì tụi bây kéo kẽm gai chằng chịt trên đó, tía thằng nào mà dám trèo?”. Nhờ vậy, trẻ con trong xóm vẫn được ăn dài dài mỗi mùa vú sữa.
... Tháng tư 1975. Trong bầu không khí hỗn loạn của miền Nam, mấy đứa con ông Năm kéo hết gia đình về tá túc ở nhà ổng để cùng nghe ngóng, bàn tính. Cuối cùng là quyết định di tản. Ông Năm không chịu đi.
- Tao già rồi. Năm nay tám mươi chớ ít đâu. Đi đứng phải chống gậy mà tụi bây biểu tao di tản cái nỗi gì? Mà cho dầu tao còn sức, tao cũng không đi đâu hết. Nhà cửa đất đai này là của mồ hôi nước mắt của má tụi bây và của tao, bỏ sao được. Còn mồ mả của má tụi bây ở Gò Vấp, ai coi? Thôi! Tụi bây đi, đi! Đừng lo cho tao!
Vậy là ông Năm ở lại với đứa cháu gái gọi ông bằng ông chú. Cô này - năm nay trên ba mươi, chưa có chồng – ở dưới quê lên giúp việc cho ổng, “coi trong coi ngoài”, từ ngày bà Năm mãn phần, nghĩa là đã bốn năm năm...

Trong lúc bên ngoài đường lớn thiên hạ chạy rần rần, nhốn nha nhốn nháo, ông Năm vẫn bình thản nằm trên võng đọc sách, hút thuốc, uống trà. Lâu lâu, chống gậy ra vườn săm soi mấy chậu kiểng, bắt sâu, tỉa nhánh. Xem rất ung dung nhàn hạ!
Thấy cô cháu gái cứ “chạy ra chạy vào”, ông cười:
- Mầy làm cái gì mà như gà mắc đẻ vậy, Hai?
- Trời ơi... Người ta nói Việt Cộng nó vô tới rồi mà ông biểu con không lo sao được?
- Lo cái gì? Người ta có chức tước, có vòng vàng, có tài sản to, có cơ sở lớn... mới sợ tụi nó vô nó giết nó lấy. Chớ... cái thứ dân quèn như tao với mầy thì có khỉ gì cho tụi nó lấy?
- Dạ mà sao con cũng hồi hộp quá hà!
- Cái mà mầy phải lo là coi gạo nước ở nhà còn đầy đủ không.
- Dạ đồ dự trữ mấy cô chú mang lại đây để đầy nhà. Ông với con ăn cả mấy tháng mới hết!
- Ờ! Vậy là yên tâm một phần. Bởi vì mình không biết cái vụ này nó kéo dài tới bao lâu đây!
“Cái vụ này”, mà ông Năm nói, chỉ kéo dài có mươi hôm rồi chấm dứt vào ngày 30 tháng tư...

Tiếp theo đó là kiểm kê – kiểm kê đủ thứ - là khai báo – khai báo cũng... đủ thứ (biết cũng khai, không biết cũng khai!), là hội họp học tập từ đường lối chủ trương đến sổ hộ khẩu sổ gạo... Ông Năm cứ phải chống gậy đi với con nhỏ cháu nay tới tổ, mai tới phường, bữa khác tới ban... vv. Ông Năm có phàn nàn rằng ông già rồi mà cứ bắt đi tới đi lui, thì được “mấy ông cách mạng” giải thích : “Ai cũng phải học tập hết. Không như thế thì làm sao thông suốt được đường lối chủ trương của Đảng và Nhà Nước, làm sao thực hiện được quyền làm chủ của nhân dân? Ngoài ra, sự có mặt thường xuyên của các chú các bác trong buổi họp càng làm cho bọn trẻ chúng cháu thêm hồ hởi phấn khởi. Các chú các bác có nhất trí không nào?”.

Mỗi lần đi họp, về đến nhà là ông Năm ngã người lên võng, vừa đong đưa vừa hút thuốc liên miên, không nói một tiếng. Thấy vậy, một hôm đứa cháu gái an ủi:
- Ai sao mình vậy. Đều trời hết chớ phải có mình mình đâu mà ông buồn.
- Tao đâu có buồn! Tao giận chớ đâu có buồn! Cái giống gì mà ăn nói ngang như cua, không biết lễ nghĩa gì hết. Cũng may là xóm mình không có nhà nào di tản, nên tụi nó không có tiếp thu để chen vô ở như mấy xóm ngoài mặt tiền. Nghe nói tụi nó ồn ào và hay dòm ngó lắm. Cái ngõ của mình còn đầy đủ bà con, nhứt là vẫn được yên tĩnh như từ hồi xưa tới giờ, là mình có phước đó!

Một buổi sáng, đang nằm đọc sách, ông Năm bỗng nghe xào xạc trên mấy cành vú sữa phía trước. Bỏ kiếng lão, nhìn ra, thấy gió thổi từng cơn. Yên tâm, ông tiếp tục đọc sách, không để ý đến nữa. Trưa đó, đang thiu thiu ngủ ông bỗng giựt mình hết hồn vì tiếng la chát chúa phát ra từ một cái loa nào đó ngay trước nhà ông: “Chú ý! Chú ý! Phòng lương thực chiều nay phân phối rau cải. Mời bà con khẩn trương kẻo rau cải úng thúi chúng tôi không chịu trách nhiệm!”. Tiếng trong loa phát ra nghe điếc con ráy, còn lập đi lập lại nhiều lần, làm ông Năm phát bực. Ông chống gậy bước ra xem. Thì ra “tụi nào” đã gắn một cái loa to trên mấy cành vú sữa! Ông hậm hực trở vô, đầu gậy chống xuống mặt sân gạch nghe côm cốp, miệng lẩm bẩm: “Đù cha tụi nó! Quyền gì mà nó gắn loa ở nhà người ta? Quyền gì mà nó làm mất sự yên tịnh của xóm người ta?”.

Ông Năm không biết – có đi đâu mà biết – rằng công tác “quan trọng hàng đầu” của nhà cầm quyền là cho gắn loa để đưa tiếng nói của Nhà Nước đến tận... lỗ tai của nhân dân. Để đừng ai trách rằng: “Tôi không hay không biết gì hết!”. Cứ nhét riết vô lỗ tai, nhét rồi nhét nữa, không thể nói là không... nghe! Mà cho dù không muốn nghe, cuối cùng rồi cũng phải thuộc! Đó là một quy luật máy móc, nó “vô” trong óc hồi nào không hay. Biết như vậy, nên Nhà Nước cho gắn loa cùng khắp: hang cùng ngõ hẻm, ngã tư ngã ba, chợ búa trường học... thậm chí đến bịnh viện là nơi cần sự yên tịnh! (Có người nói: chung quanh bịnh viện có bảng “Cấm bóp còi” đàng hoàng mà Nhà Nước không tôn trọng luật lệ gì hết. Nói như vậy là sai, là “lý luận chưa đạt yêu cầu”. Bảng “Cấm bóp còi” chớ có cấm bắt loa nói cho dân nghe đâu?).

Tuy nhiên, có một nơi mà Nhà Nước không cho gắn loa: đó là nghĩa địa. Không phải tại vì Nhà Nước biết tôn trọng “giấc ngủ ngàn thu” của những người quá cố, mà tại vì Nhà Nước sáng suốt, biết rằng có nói ở đó cũng không có... ma nào nghe! Đỉnh cao trí tuệ có khác!

Chịu trận được mấy hôm, bực mình quá, ông Năm nhứt định đi thưa. Ông chống gậy đi một mình – con cháu gái bận đi họp hội đoàn gì đó.
Đầu tiên, ông đi gặp ông tổ trưởng. Ông này dẫn qua ông tổ phó an ninh. Ở đây, sau một lúc bàn qua tính lại (bởi vì họ cũng không rành cái tổ chức cách mạng quá mới mẻ này), cả ba kéo nhau đến công an phường. Anh này tỏ vẻ sành sỏi, giải thích dông dài thế nào là hàng ngang thế nào là hàng dọc, ta tổ chức có khoa học nên theo hệ thống dọc chớ không theo hệ thống ngang... vân vân, rồi vân vân, rồi vân vân. Để cuối cùng kết luận một cách rất... “bài bản”:
- Đấy! Rõ như thế đấy!
- Tôi không hiểu gì hết! Tôi chỉ muốn biết bây giờ anh giải quyết cái loa của tôi làm sao đây?
- À! Chuyện này không thuộc diện xử lý của tôi! Cụ nên đến Ủy ban nhân dân quận xem. Không! Cụ phải đến Ủy ban nhân dân phường trước. Ta theo hàng dọc, phải đi từ dưới lên trên. Phải...
Ông Năm chán nản xách gậy đi ra, bỏ mặc hai ông tổ trưởng tổ phó ngồi ngẩn ngơ với cái mà họ gọi là “vụ việc quá căng”!
Gọi xích lô, ông Năm đi thẳng lên quận. Ở đây, người ta chỉ ông đi đúng chỗ. Mừng quá, ông thuật lại vụ cái loa của ông cho người thanh niên ngồi sau bàn viết đầy hồ sơ (Anh này có vẻ cán bộ, vì thấy ngồi trong văn phòng mà vẫn đội nón cối xiêng xiêng giống như còn đi dưới nắng!). Rồi ông kết:
- Nhờ cậu giải quyết giùm, tôi cám ơn.
- Bác có làm đơn khiếu nại chưa?
- Ủa? Phải làm đơn nữa sao?
- Coi? Đi thưa thì phải có đơn. Chớ nói khơi khơi vậy lấy gì mà giải quyết?
Nghe như vậy, ông xách gậy quay ra đi thẳng.
Tối đó, ông ngồi dưới đèn rị mọ viết đơn. Cả đời ông chưa kiện cáo ai bao giờ, cho nên ông cứ viết rồi xé, xé rồi viết. Đến chừng ông đọc được vừa ý thì đã mất gần hai tiếng đồng hồ!

Sáng hôm sau, ông “vác đơn lên quận”. Gã thanh niên hôm qua mở ra đọc, châm chú. Và có vẻ... nghiền ngẫm từng câu từng chữ hay sao mà thấy đọc khá lâu. Ông Năm chống gậy ngồi chờ. Một lúc sau, gã đứng lên – vẫn đội nón cối xiêng xiêng – cầm lá đơn đi vào phòng trong. “Chắc là để báo cáo cho trưởng phòng” – ông Năm nghĩ như vậy (Nhờ đi họp đi hội liên miên mà ổng bây giờ nghĩ và nói bằng từ ngữ cách mạng một cách... trơn tru, từ lúc nào không hay biết! Cái hay của chế độ là ở chỗ đó. “Cứ nhai tới nhai lui cho tụi nó nghe riết là tụi nó sẽ nhập tâm thôi”). Độ mười phút sau, gã trở ra với một người cán bộ khác đứng tuổi hơn. Ông ta vui vẻ chào ông Năm, tay cầm lá đơn phe phẩy như cầm quạt:
- Chào bác. Chuyện này các đồng chí đó làm bậy. Rồi ta sửa sai thôi. Bác về đi, yên tâm. Họ sẽ tháo gỡ trong ngày hôm nay cho bác.

Ông Năm cám ơn, rồi ra về. Ngồi trên xích lô, ông nghĩ: “Ít ra, cũng có người biết điều như vậy chớ! Lâu nay mình nghĩ quấy cho họ cũng tội.”
Lối gần trưa, ông nghe có tiếng xe máy dầu ngừng phía ngoài rào, kế đó là mấy cành vú sữa dao động một lúc lâu rồi yên. Ông vui vẻ nói với đứa cháu gái:
- Rồi! Họ gỡ rồi! Mầy thấy không, Hai? Họ cũng đàng hoàng chớ đâu đến nỗi.
Xế chiều, đang nằm đọc sách trên võng, ông bỗng giựt mình vì tiếng phát thanh chát chúa ình ình ình ình của nhạc tiến quân. Lần này, nghe còn lớn hơn hồi cái loa nằm trên cành vú sữa! Ông vội vã chống gậy ra ngoài cổng coi là cái gì. Thì ra cái loa bây giờ đã được gắn trên trụ đèn đường nằm ở phía đối diện, miệng loa hướng về phía nhà ông Năm! “Tiên tổ nó! Hèn gì!”. Ông Năm hậm hực trở vô thay đồ rồi hối hả gọi xích lô lên quận.
Lần này, ông đòi gặp thẳng ông trưởng phòng. Ông nói với gã thanh niên ngồi ngoài, mà ông dộng đầu gậy xuống sàn gạch nghe côm cốp. Đủ thấy ông bực mình đến đâu!
Nghe to tiếng, ông trưởng phòng bước ra, ngạc nhiên:
- Họ chưa gỡ cái loa cho bác à?
- Gỡ rồi! Mà họ đem gắn ở trụ đèn phía bên kia đường thì cũng như vậy thôi.
- Bác nói không đúng! Sao cũng như vậy được? Hồi gắn loa trên cây nhà bác mà không có sự đồng ý của bác, đó là sai, là phạm chủ quyền của bác. Tôi nhất trí điều đó. Còn bây giờ gắn trên cột đèn thuộc phạm vi của Nhà Nước, nằm trên lối đi công cộng, là đúng chớ đâu có sai.
- Đành rồi. Nhưng điều mà tôi muốn nói là tôi già rồi, cần được yên tĩnh, mà cái loa nó ồn quá. Tôi...
- À! Chỗ này là bác hiểu sai. Nhà Nước đâu phải gắn loa để làm ồn. Nhà Nước gắn loa để hằng ngày báo cáo cho nhân dân những gì Nhà Nước đã làm, những thành quả của cách mạng, từng tháng, từng quí, những đường lối chủ trương của đảng đề ra... Bác thấy không? Quan trọng lắm chớ! Đó là trách nhiệm hàng đầu của Nhà Nước đối với nhân dân mà bác nói là làm ồn sao được!

Ông Năm không nói thêm một tiếng, chống gậy côm cốp đi ra mà có cảm tưởng như mình vừa nói chuyện với... một bức tường!
Về nhà, ông nằm ngã người lên võng, chửi đổng mà như tự chửi mình:
- Đu mẹ bà nó! Nếu biết như vầy, hồi đó tao đã di tản cha nó rồi.
Từ đó, trên cái bàn thấp kê gần võng để để trà, thuốc, sách của ông Năm, thấy có hai cục bông gòn nhỏ! Và lúc nào đi họp đi hội, ông cũng cố ý nhét vô lỗ tai hai cục gòn bự cho người ta thấy! Có ai ra dấu hỏi thì ông trả lời lớn tiếng như nói với người điếc:
- Từ ngày tôi nghe loa phát thanh của Nhà Nước, tự nhiên tôi bị... thúi lỗ tai. Kỳ quá!

Tiểu Tử
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	171c186e5c2db573ec3c.jpg
Views:	0
Size:	115.9 KB
ID:	1663389  
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (10-01-2020), huudangdo1 (10-01-2020), phokhuya (10-04-2020), trungthu (10-02-2020)
Old 10-03-2020   #284
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,409
Thanks: 21,697
Thanked 38,211 Times in 12,889 Posts
Mentioned: 636 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7249 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Dốt Hay Nói Chữ



Thường thường những kẻ thiếu hiểu biết, ít học khi viết văn hay dùng những chữ cầu kỳ khiến trở nên dị hợm. Miền Nam gọi đó là “Dốt Hay Nói Chữ”. Ngày nay thảm trạng “Dốt Hay Nói Chữ” lan tràn trong nước và trên hai trang tin BBC và VOA tiếng Việt. Trong nước, miệng thì hô hào “thoát Trung” mà ngôn ngữ thì lai Tàu lạ hoắc. Đó là loại tiếng Tàu thời Mao Trạch Đông, không phải là tiếng Hán đã được cha ông ta Việt hóa và sử dụng cả ngàn năm nay. Thí dụ:

1) BBC ngày 26/7/2019: Ở Việt Nam bây giờ cái gì cũng “diện mạo”. Hai chữ “bộ mặt” đã chết trong ngôn ngữ Việt Nam. Thí dụ: Thay vì viết, “Để tạo bộ mặt mới cho nông thôn”, lại viết, “Để tạo diện mạo mới cho nông thôn.” Rồi, “Để tư pháp VN có diện mạo đẹp hơn thì cần tôn trọng luật sư.” Bài này của Ô. Luật Sư Ngô Ngọc Trai gửi cho BBC từ Hà Nội.

2) BBC ngày 6/8/2020: “Biển Đông: Việt Nam cần tính đến kịch bản Trung Quốc 'tấn công' từ nhiều hướng?” Kịch bản là một kế hoạch được tính toán từ trước và diễn tiến theo thứ tự, lớp lang. Câu văn không dị hợm chỉ là, “Việt Nam cần tính tới tình thế/trường hợp Trung Quốc tấn công từ nhiều hướng.” Ở Việt Nam bây giờ cái gì cũng “kịch bản”. Giá chứng khoán, giá vàng lên xuống cũng kịch bản. Rồi cuộc tranh cử tổng thống Hoa Kỳ cũng kịch bản. Rồi những cuộc va chạm ở Biển Đông cũng kịch bản. Đúng là một thứ tiếng Việt dị hợm, điên khùng.

3) BBC tiếng Việt ngày 12/8/2020: “Việt Nam tồn tại nhiều khoảng trống lãnh đạo?” Câu hỏi ở đây là, “khoảng trống lãnh đạo” là gì? Là không có lãnh đạo gì hết, ai muốn làm gì thì làm? Hoặc thiếu người có khả năng lãnh đạo? Viết một câu văn mơ hồ như thế này có lẽ tác giả cũng chẳng hiểu mình viết gì !

4) BBC tiếng Việt ngày 13/8/2020: “Bình luận đa chiều về vụ đình chỉ Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung”. Câu văn giản dị và có học chỉ là, “Những ý kiến khác nhau về vụ ngưng chức Chủ Tịch TP. Hà Nội Nguyễn Đức Chung.” Ngày xưa ở Miền Nam, ông ký giả nào viết, “bình luận đa chiều” chắc phải đưa ông này vào nhà thương điên Biên Hòa quá. Rồi nào là, “tạm đình chỉ công tác”. Tại sao không viết “ngưng chức” cho ngắn gọn? Công tác là công việc, còn “chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố” sao gọi là “công tác” được?

5) BBC tiếng Việt ngày 13/8/2020: “Khởi tố vụ án cán bộ gần cận Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung.” Khởi tố là khởi tố một cá nhân nào đó chứ không thể “khởi tố vụ án”. Khi nói “vụ án” tức là đã đưa ra tòa xét xử rồi đâu cần phải khởi tố nữa? Ngoài ra người ta nói, “thân cận” chứ không nói “gần cận”. Tiếng Việt như thế mà cũng đòi cầm bút.

6) BBC tiếng Việt ngày 13/8/2020: “Những người phụ nữ đã tạo thành các chuỗi dây người tại Belarus.”. Chẳng ai nói, “chuỗi dây người” mà người ta nói “nắm chặt tay nhau để làm thành một hàng rào”.

7) Điểm chuẩn và điểm sàn. Hiện nay trong nước các nhà giáo dục ông bà nào cũng có bằng Tiến Sĩ nhưng tiếng mẹ đẻ lại không hơn học sinh Trung Học năm xưa nên chế ra những từ ngữ thật lạ lùng. Thí dụ: Điểm thấp nhất để được xét tuyển biến thành điểm sàn. Điểm để được trúng tuyển (bằng hoặc cao hơn) gọi là điểm chuẩn. Nghe nói điểm sàn và điểm chuẩn sinh viên trong nước cũng ngơ ngác chẳng hiểu gì cả phải cần thông dịch viên cho nên đã phải xin giải đáp. Trang tin CỔNG THÔNG TIN TUYỂN SINH ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG LỚN NHẤT VIỆT NAM đã phải giải thích về các danh từ bí hiểm này. Ngày nay ở Việt Nam cái gì vui, hấp dẫn, ngoạn mục như đá bóng, đưa xe đạp, trình diễn văn nghệ, giá vàng lên xuống bất thường… được gọi là “kịch tính”. Món ăn truyền thống như bánh giày, bánh chưng biến thành “món ăn kinh điển”. Và rồi cái gì cũng “siêu” như “siêu ngon”, “siêu rẻ”, “siêu trường, siêu trọng”. Đúng là ở với cộng sản không điên cũng khùng cho nên bằng mọi cách phải trốn đi. Bây giờ giai cấp quyền thế tham nhũng cả trăm triệu đô-la, trốn đi bằng cách bỏ ra vài triệu mua nhập cảnh/hộ chiếu (visa) của Đảo Sip. Đảo Síp (Cyprus) nằm trong Liên Hiệp Âu Châu và có thể tự do di trú trong 166 quốc gia.

8) Vượt ngưỡng: Trong nước bây giờ chữ nghĩa của cả quốc gia lại do bọn bát nháo, ít học, đứng bến mánh mung quyết định rồi cả nước “học tập” và nói theo. Thậm chí cả các ông thủ tướng, tổng bộ trưởng cũng nói theo như con vẹt. Thí dụ: Vượt chỉ tiêu, vượt mức, vượt qua con số…biến thành vượt ngưỡng! Thí dụ: Báo Pháp Luật Việt Nam ngày 21/8/2020, “Hàn Quốc: Số ca nhiễm Covid-19 lần đầu vượt ngưỡng 300 sau hơn 5 tháng.” Tự điển Việt Nam trong nước định nghĩa “Ngưỡng là đoạn gỗ dài để ngang mà giữ lấy cánh cửa, ngưỡng cửa”. Như vậy chỉ có “bước qua ngưỡng cửa chứ làm gì có vượt ngưỡng?” Thảm họa văn hóa trong nước càng nói ra càng xấu hổ.

9) Rồi cũng lại VOV ngày 18/9/2020: “Bà mẹ một con Đường Yên trẻ trung, xinh đẹp như thiếu nữ đôi mươi tại sự kiện.” Tôi đố quý vị hiểu câu văn này nói gì. Thực ra cô người mẫu một con này xuất hiện trong một màn trình diễn thời trang và trông vẫn đẹp như gái chưa chồng…nhưng được viết bằng đoạn văn vô cùng bí hiểm và bát nháo.

10) Rồi thì “rung động lòng người” hay “chinh phục được lòng người”, “vô cùng xúc động” biến thành “tan chảy” và “đốn tim”. Thí dụ: Báo Người Lao Động ngày 27/8/2020, “Tan chảy với hình ảnh và điệu bộ của Trúc Nhi-Diệu Nhi.” Hai em bé nói ở đây sinh đôi dính vào với nhau được các bác sĩ giải phẫu tách ra và các em đã sinh hoạt bình thường khiến mọi người vui mừng hay thương cảm nay được bọn bát nháo biến thành “tan chảy”. Rồi chinh phục được khán giả biến thành “đốn tim”. Thí dụ: Báo Thanh niên, “ca sĩ Hà Vân ‘đốn tim’ người nghe với ca khúc về Phật giáo”. Hiện tượng “tan chảy” và “đốn tim” nhiễm ô cả hải ngoại. Trong một chương trình bình luận thời sự của SET (Saigon Entertainmnent TV) ở Nam California, ông điều khiển chương trình thay vì nói, “Việc Việt Nam mua nông phẩm ở các tiểu bang Cộng Hòa làm Ô. Trump đẹp lòng vì giúp ông tái đắc cử.” lại nói, “Việc Việt Nam mua nông phẩm ở các tiểu bang Cộng Hòa đã đốn tim Ô. Trump.”

11) VOV ngày 19/9/2020: Ban biên tập của đài này tiếng Việt quá kém nên không hiểu nghĩa của hai chữ “đầu tiên” và “hàng đầu”. Đầu tiên chỉ về thời gian. Còn hàng đầu chỉ về thứ bậc/thứ tự cho nên mới viết, “Mỹ coi Trung Quốc là thách thức chính sách đối ngoại đầu tiên.” Thế mà cũng tự nhận là tờ báo và tiếng nói tiêu biểu cho cả quốc gia. Câu văn đúng phải viết, “Mỹ coi Trung Quốc là thách thức chính sách đối ngoại hàng đầu.”

12) VOV ngày 19/9/2020: “Sắp công bố thương hiệu bánh Trung thu kém chất lượng”. Thế nào là bánh trung thu kém chất lượng? Chỉ có trời mới biết. Nếu nó không hợp vệ sinh hoặc không ngon…thì nói rõ ra. “Kém chất lượng” là gì? Đúng là ngu dốt cho nên nói ẩu mà cứ tưởng mình đúng và khắp cả nước cứ nhai đi nhai lại ba chữ “kém chất lượng”. Đúng ra phải nói “phẩm chất kém” hoặc “không hợp vệ sinh”.

13) VOV ngày 19/8/2020: “Viện Kiểm Sát nói có cơ sở chứng minh quan hệ tình cảm giữa ông Tài và bà Thúy.” Trong luật pháp người ta không nói “có cơ sở” mà phải nói “có bằng chứng”. Ngu dốt thế mà cũng đòi viết báo. Nguyên do cũng chỉ vì bị nhồi sọ từ thuở nhỏ cho nên nói như con vẹt và không cần suy nghĩ gì hết.

14) VOV ngày 20/9/2020: “43 năm tham gia LHQ: Tạo ra “Thương hiệu Việt Nam” trong hoạt động ngoại giao đa phương”. Trời đất quỷ thần ơi! Tên tuổi của một quốc gia mà lại gọi đó là “thương hiệu”. Đúng là ngu dốt không thể tưởng tượng được! Nếu có học sẽ viết, “43 năm tham gia LHQ: Tạo ra ‘Tên tuổi Việt Nam’ trong hoạt động ngoại giao đa phương.”

Việt Nam ngày nay không còn ăn độn ngô, khoai, sắn và bo bo nữa. Cả làng quê cũng xây lâu đài, “biệt phủ” còn sang hơn cả Âu Châu, xe hơi đắt tiền giá vài trăm ngàn Mỹ Kim. Thế nhưng ngôn ngữ lại là một thứ bát nháo như nồi cám heo. Nguyên do là vì các nhà ngôn ngữ, bác học, giáo sư, nhà văn, nhà biên khảo thuộc thế hệ truyền thống đã chết hết cả rồi. Cầm nắm ngôn ngữ dân tộc ngày hôm nay là một phường bát nháo trưởng thành trong ăn độn, xếp hàng tại cửa hàng bách hóa tranh nhau từng miếng thịt mỡ nhỏ bằng ngón tay, từng khẩu phần vải không đủ may một chiếc quần đùi, buôn lậu, mánh mung, trộm cắp, gian lận… cho nên dù có học gì, giàu có thế nào đi nữa…thì vẫn chỉ là một phường vô cùng ngu dốt, tham lam, gian dối và phá hoại. Cứ thử nhìn vào phong trào diệt tham nhũng hiện nay cho thấy từ hàng tổng bộ trưởng tới thứ trưởng, tướng công an, tướng trong quân đội, đô đốc hải quân, tổng giám đốc các ngân hàng, bí thư tỉnh ủy, chủ tịch UBND, huyện ủy, xã ủy bị tù, bị mất chức…cho thấy hệ thống cầm quyền tại Việt Nam đã ung thư, thối rữa như thế nào. Khi bụng đói và đạo đức suy đồi thì tất cả đều tan nát. Trong nước “đạo đức suy đồi”, “thối nát” không nói mà lại che dấu bằng cách dùng danh từ “biến chất”. Cả nước có “chất” gì tốt đâu mà “biến”? Bản chất cộng sản vốn đã xấu rồi, nếu có “biến”đi thì tốt chứ sao lại lên án? Rồi thì các quan mua bằng cấp giả, ăn cắp luận án của người khác để có bằng Cao Học (nay gọi là thạc sĩ), Tiến Sĩ để được tiến cử vào chức vụ lớn hơn. Cái này gọi là ‘biến chất” hay bản chất là gian dối? Ở Mỹ cũng có những vụ ông/bà triệu phú hối lộ để con cái được vào học các trường danh tiếng nhưng đã bị lôi ra tòa xét xử. Sao không thấy trong nước xử phạt các ông/bà này? Làm chính quyền cai trị là “phụ mẫu chi dân” mà gian trá thì đừng trách đất nước sao tan nát. Cổ nhân có câu, “Nhà dột từ nóc dột xuống” tức cha mẹ không ra gì thì con cái hư hỏng. Đất nước loạn ly không phải tại dân trước mà chỉ vì vua thì u mê ám chướng, quan lại thì tham ô vơ vét. Một đất nước mà vua anh minh, trăm quan liêm chính thì đất nước làm sao loạn ly được? Ngoài ra đất nước lụn bại là vì không có nhân tài hoặc có nhân tài mà không biết sử dụng. Khi có nhân tài thì đất nước phát triển và ngửng mặt với năm châu bốn biển. Ngày xưa Đào Duy Từ không được Chúa Trịnh trọng dụng bèn vào nam, Chúa Nguyễn biết đây là kỳ tài cho nên đã mở nghiệp lớn ở phương nam. Ở đâu cũng vậy, đảng nào nắm quyền thì cử đảng viên của mình vào những chức vụ quan trọng trong chính quyền. Thậm chí bổ nhiệm thẩm phán Tối Cao Pháp Viện cũng lựa người cùng với lập trường của đảng mình. Thế nhưng đưa bọn “con ông cháu cha, thái tử đảng” vô tài bất tướng vào những chức vụ quan trọng trong chính quyền thì chúng sẽ phá nát đất nước.

Còn đối với hải ngoại, thua một trận chiến không đáng sợ bằng thua về văn hóa và tư tưởng. Chúng ta thừa kế cả một nền văn chương, học thuật, ngôn ngữ tuyệt vời của cha ông để lại rồi được Miền Nam phong phú hóa với đầy đủ ngữ vựng cho tất cả các bộ môn, tại sao lại đi bắt chước loại ngôn ngữ không có học? Chinh phục được lòng người, tạo thiện cảm sao không nói mà nói “đốn tim”? Cảm động, xúc động sao không nói mà lại nói “tan chảy”? Căn nhà sao không nói mà nói “căn hộ”. Gia đình sao không nói mà nói “hộ dân”? Giải tỏa đất đai sao không nói mà nói “giải phóng”? Giải quyết công việc, lọc chất thải… sao không nói mà nói “xử lý”? Tiết kiệm, rẻ tiền sao không nói mà nói “kinh tế”? Du lịch, thăm viếng sao không nói mà nói “tham quan”? Bực tức, bị dồn nén, bất mãn sao không nói mà lại nói “bức xúc”? Bài giảng sao không nói mà nói giáo trình? Gặp gỡ, trao đổi, thân hữu sao không nói mà lại nói giao lưu? Tác động qua lại sao không nói mà nói tương tác? Đoạn đường không nói mà lại nói “cung đường”. Cung là một đoạn cong như “hình vòng cung”, cây cung là cây cong để bắn mũi tên. Rồi “kích thích kinh tế” không nói mà lại nói “kích cầu”. Kích cầu là sự bịa đặt chữ nghĩa một cách điên khùng. Ngay cả tự điển Việt Nam trong nước cũng không có hai chữ “kích cầu”. Cả ngàn năm nay người ta thường nói: kích thích, kích động, kích động nhạc, thuốc kích dục, kích thích tố. Danh từ “stimulus” tự điển trong nước dịch là “sự kích thích” nay bọn bát nháo bịa ra là “kích cầu”. Rồi việc tuyển chọn, đề cử người (trong đại hội đảng) không nói mà lại dùng những câu nhức đầu như “công tác nhân sự” (BBC tiếng Việt). Rồi cũng lại BBC tiếng Việt, “Việt Nam hiện nay còn thua xa các triều đại phong kiến về trong việc quy hoạch và đào tạo nhân tài.” “Quy hoạch nhân tài” là gì thưa ông tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện? Từ xưa đến nay người ta nói, “đào tạo và sử dụng nhân tài” chứ không ai nói “quy hoạch nhân tài” như quy hoạch một thành phố, một đô thị. Tiếng Việt điên khùng và bát nháo thấm cả vào hàng tiến sĩ, nói mà không biết đúng sai. Nói “quy hoạch nhân tài” cũng như nói “xưởng đẻ” vậy. Đúng là ngôn ngữ của Việt cộng và làm đảo lộn cả ngôn ngữ truyền thống của tổ tiên.

Tôi sẽ còn tiếp tục phải viết vì nếu không viết, không vạch ra được cái kịch cỡm, bát nháo, ngu dốt của ngôn ngữ Việt ở trong nước ngày nay và trên trang tin BBC…sẽ đắc tội với con cháu mai sau.

Đào Văn Bình
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	tieng-Viet-1.jpg
Views:	0
Size:	39.0 KB
ID:	1664562  
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (10-03-2020), huudangdo1 (10-03-2020), phokhuya (10-04-2020), trungthu (10-04-2020)
Old 10-03-2020   #285
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,409
Thanks: 21,697
Thanked 38,211 Times in 12,889 Posts
Mentioned: 636 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7249 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Chuyện tình thời chiến tranh

Lời nói đầu:“Đây là câu chuyện thật của chị tôi, Cô giáo S. Trường Tiểu Học C.G và Thiếu Úy T.B Thủy Quân Lục Chiến. Bài viết này xin đề tặng cho 2 người và cũng để hoài niệm một thời tuổi trẻ Việt Nam trong chiến tranh”


* * *
Vâng, Câu chuyện ấy xảy ra vào thời kỳ chiến tranh đau thương khốc liệt.


Năm 1967, trong một đêm giao tranh giữa du kích quân và lính Nghĩa quân tại C.G, một trái lựu đạn đã bất ngờ rơi trúng vào nhà dân...


Ánh chớp như sấm sét ghê rợn giáng xuống đầu chúng tôi. Một tiếng nổ kinh hoàng! Rồi thì mái ngói vỡ toang cùng các thứ vật dụng trong nhà đổ sập xuống...


Trong phút giây hoảng loạn, trong tiếng súng đạn kinh hồn vẫn còn đang say mùi bắn giết bỗng nổi lên tiếng thét thất thanh của Chú tôi: “Trời ơi! cứu! cứu, cứu con gái tôi! trời ơi! chết! chết con gái tôi rồi....!”


Vâng, đó chính là cái đêm mà định mệnh đã chụp xuống cuộc đời chị tôi 1 màu đen tăm tối!


Chị không chết nhưng nguyên cánh tay trái của chị đã mất đi vĩnh viễn và 1 mảnh lựu đạn nhắm ngay vào lá phổi của chị, nằm nguyên ở đó như 1 kỷ vật nhức nhối mà đến chết vẫn phải còn mang theo.


Năm ấy chị tôi tròn 20 tuổi, xinh đẹp, dịu hiền với mối tình đầu đẹp như giấc mơ.


Người yêu của chị là lính (như phần lớn thanh niên thời ấy đều trở thành lính chiến) Anh là lính Hải quân, được tin dữ, Anh xin 48 giờ phép đặc biệt để tức tốc trở về bên chị, tiếp máu cho chị, túc trực ân cần chăm sóc chị trong bệnh viện với tất cả tình yêu chân thành, tha thiết. Để rồi, khi hết phép, anh ngậm ngùi ra đi...


Mọi người ứa nước mắt mỗi khi nhìn chị nhưng chị lặng lẽ không khóc. Chị nhắm mắt lại, quay mặt vào tường để không nhìn thấy ai và cũng không muốn ai nhìn thấy mình.


Vết thương lành, rời bệnh viện chị trở về nhà và trở thành 1 người khác. Lúc chưa bị thương chị là 1 cô gái vui tươi, hòa mình, thân thiện với mọi người. Giờ thì chị lặng lẽ như chiếc bóng, ít tham gia vào sinh hoạt chung của gia đình và tránh mọi giao tiếp bên ngoài.


Từ nơi xa, người yêu chị liên tục gởi thư về. Lá thư đầu tiên Anh đề cập tới ngày cưới. Chị đọc thư xong ôm mặt khóc vùi. Lá thư thứ 2 chị không mở ra và cũng không khóc, lá thứ 3 lại đến và lá thứ 4, thứ 5... chị vẫn không mở ra, cứ thế, những lá thư xếp chồng lên nhau trên mặt bàn viết. Chị không khóc cũng không hồi âm... Rồi thì, những lá thư thưa dần, thưa dần theo những tháng ngày lặng lẽ, ảm đạm của chị tôi. Mọi người ái ngại nhưng không ai dám nói ra điều gì, lỡ sơ suất lại khiến cho chị đau buồn thêm.


Trung tâm chỉnh hình Saigon làm tặng cho chị 1 cánh tay giả vì thế khi ra ngoài chị có thể mang nó vào và có thể tự mình đi xe đạp. Ống tay áo che dấu cánh tay giả nên ít người nhận ra. Chị đạp xe thong thả, 2 bàn tay đặt lên ghi đông xe như 1 cô gái bình thường. Từ sau ngày bị nạn, trang phục của chị tôi đặc biệt thay đổi màu. Chị đã bỏ hẳn những bộ cánh tươi thắm của 1 thời thiếu nữ để mặc toàn những chiếc áo đen như thiếu phụ để tang chồng. Màu đen điểm trang cho gương mặt chị vốn đã đẹp càng thêm đẹp não nùng với một nét thơ man mác, một nét duyên u ẩn đến lạ kỳ. Chị thường đạp xe lui tới những nơi mà người ta cũng mặc áo đen như chị đó là Tu Viện của các soeurs dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn...


Thời gian dần trôi, vết thương trên thân thể đã quen và vết thương lòng chừng như đã bớt đau. Năm 1969, Chị tôi bắt đầu vào nghề giáo. Ty giáo dục ưu ái cấp sự vụ lịnh cho chị về dạy trong 1 trường tiểu học ở quê nhà.


Thế là từ ấy, ngôi trường dần dần tạo nên cho chị 1 niềm vui sống... nhưng màu đen thì vẫn còn đó, vẫn là tà áo đen ngaỳ hai buổi đến trường.


Yêu nghề, yêu trẻ, đặc biệt là yêu các em học trò côi cút, khó nghèo, chị đã dùng 1 phần lương cô giáo để bù đắp cho những mảnh đời trẻ thơ bất hạnh qua những bộ quần áo mới, bút mực sách vỡ và cả tiền bánh sáng mỗi ngày.... Học trò rất yêu cô và đồng nghiệp ai cũng mến thương “cô giáo áo đen”! Ông Hiệu Trưởng, một thầy giáo già, có lần trong buổi họp nhà trường đã cao hứng đọc lên mấy câu thơ:


“Cô giáo trường tôi với cánh tay còn lại.

Vẫn lật hàng ngàn trang sách vở.

Vẫn phê hàng vạn điểm học trò.

Như đóa hoa trong thời chinh chiến.

Nở buổi ban mai bom đạn tơi bời.

Cô giáo trường tôi với cánh tay còn lại.

Vẫn góp bàn tay tô điểm cuộc đời...”.


Một tràng pháo tay nồng nhiệt nổi lên như niềm vui trong trẻo vang vọng cả sân trường. Lần đầu tiên mọi người nhìn thấy cô giáo áo đen nở một nụ cười hạnh phúc.


Những năm ấy, tình hình chiến sự càng lúc càng sôi động. Hỏa châu thắp sáng những đêm tối đầy bất trắc. Đạn pháo kích nổ vang trong thành thị và tiếng oanh tạc cơ gầm rú thả bom đáp trả. Những cuộc hành quân truy kích và những cánh quân về ngang thôn xóm nghỉ ngơi dăm ba ngày để rồi tiếp tục lên đường đi chinh chiến.


Mùa đông năm 1970, Một đoàn lính Thủy Quân lục chiến dừng chân ghé lại quê tôi. Lều bạt dựng tạm trên những cánh đồng vừa mới gặt còn thơm mùi rạ mới. Những chiếc võng dù giăng mắc rải rác bên những rặng dừa xanh rợp bóng và ngay cả bên hàng hiên yên ả của khu dân cư... Đó đây trong thôn xóm, trên con phố chợ, những anh lính trẻ dạo chơi, cười nói bông đùa với các cô thôn nữ... Nhóm khác ngồi trong quán nhỏ nhậu nhẹt tưng bừng với rượu ba xị đế và mấy con khô nướng thơm lừng như món quà tự thưởng sau những ngày hành quân gian khổ, sống chết khôn lường... Lặng lẽ hơn, có anh lính ngồi trong quán cà phê, trầm tư trong khói thuốc, nghe nhạc hoặc viết thư cho gia đình hay cho người yêu bé nhỏ.


Ngay chiều hôm dừng quân, đang khi thơ thẩn dạo chơi trong làng, nhằm giờ tan học, Thiếu úy TB bắt gặp 1 tà áo đen giữa một đàn học sinh từ cổng trường túa ra như đàn bướm trắng chấp chới bay. Anh bàng hoàng nhìn thấy khuôn mặt cô giáo trẻ xinh đẹp như một bông hoa tím u ẩn nỗi niềm riêng. Cô đi giữa đàn em thơ tíu tít, có em nắm lấy tay cô, có em ngước mặt lên kể lể điều gì đó khiến cô mỉm cười xoa đầu... Một sức hút lạ thường bắt anh phải theo gót chân cô... Nhà cô giáo cách xa trường độ 400m, dọc theo lối nhỏ một bên là dòng sông, một bên là khu vườn dừa xanh ngát. Chiều xuống êm đềm. Gió sông mát cả tâm hồn. Tà áo đen tung bay, tung bay cùng với làn tóc chấm ngang vai đang đùa vui theo gió cuốn. Vô tình không biết có một người lính đi theo mình, cô giáo vẫn hồn nhiên bước đi về tới tận nhà. Khi xoay người lại để đóng cửa rào, cô chợt bắt gặp bên kia đường một người lính Thủy Quân lục chiến tần ngần đứng đó như đang lạc bước... Nhưng việc ấy không để lại 1 điều gì khác trong tâm trí cô bởi lẽ thỉnh thoảng vẫn có 1 đoàn quân ghé ngang qua làng và các anh lính vẫn thường đi loanh quanh đây đó.


Ngày hôm sau là Chúa Nhật. Buổi sáng cô gái đi nhà thờ dự lễ mi sa. Khi tan lễ cô trở về nhà, vẫn trên con đường ven sông vắng vẻ, yên bình. Mặt trời buổi sáng ửng hồng trên rặng dừa phía đông. Cô gái vừa đi vừa bâng quơ nhìn chiếc bóng của mình đổ dài lên phía trước, bất chợt cô nhận ra có một cái bóng thứ hai của ai đó. Tự dưng cô quay lại nhìn thì thấy một quân nhân dáng hình cao lớn đang bước theo sau. Cô bỗng nhớ lại hình như đó là anh lính chiều hôm qua mà cô đã nhìn thấy trước cửa nhà. Cô không nhìn rõ gương mặt anh, chỉ thoáng thấy đôi mắt sáng nổi bật trên khuôn mặt dày dạn nét phong sương và một mái tóc bỗng mà những cuộc hành quân dài ngày nên chưa kịp hớt ngắn. Tâm trí cô giáo trẻ chợt dấy lên một cảm giác lúng túng pha lẫn chút linh cảm mơ hồ, bất an... Cô vội vã bước đi, không dám nhìn ra sau nữa. Trên mặt đường không còn thấy chiếc bóng người quân nhân tiến lên, có lẽ anh ta đi chậm lại hoặc đã quay đi hướng khác.


Ngày hôm sau Thứ Hai, Cô giáo lại đến trường mà không biết rằng anh lính ấy ngồi trong quán nước trước cổng trường chờ cho đến giờ tan học để theo gót chân cô đi về trên lối nhỏ...


Thiếu úy T.B, một anh chàng Thủy Quân Lục Chiến kiêu bạt đã từng đặt chân lên 4 vùng chiến thuật, một chàng trai gan lỳ biết bao lần xông pha trong lửa đạn, ngạo nghễ giữa tử sinh, một nam nhân hào hoa bao phen từng trải chốn tình trường... Thế mà giờ đây bên cạnh một dòng sông hiền hòa trôi chảy anh bỗng đắm đuối, lụy tình một cô giáo miền quê!


Anh ngồi đó uống từng ngụm cà phê đắng, trầm tư trong làn khói thuốc để rồi nguồn cảm hứng tuôn trào lên giấy trắng. Anh viết miên man như chìm sâu vào một cỏi mộng du... Chỉ đến khi tiếng trống trường vang lên báo giờ tan học, anh vội vã đút cuốn sổ tay vào túi áo trận bạc màu, vuốt lại mái tóc bồng bềnh và đứng lên xao xuyến đợi chờ...


Ngày một, ngày hai trôi qua... dân chúng trong khu phố nhỏ kháo nhau chuyện ông sĩ quan Thủy quân lục Chiến trồng cây si cô giáo, và, chính chị tôi cũng đã hiểu ra điều đó khi nhận ra buổi tan trường nào cũng có người ấy lặng lẽ nối gót theo sau, không suồng sã, không bâng quơ lấy 1 lời...


Đến ngày thứ bảy, (đúng một tuần lễ ngày đoàn quân dừng chân nơi xóm nhỏ). Khi Cô giáo đang ở trong lớp học trông chừng học sinh cắm cuối làm bài thì người lính đột ngột xuất hiện. Anh gõ nhẹ vào cửa lớp rồi đứng nghiêm chào cô giáo theo kiểu nhà binh. Ngỡ ngàng không kịp phản ứng, cô giáo ngồi sững sờ bất động. Người lính tự động bước vào, tiến đến bên cô, đặt lên bàn viết một tờ giấy học trò sạch sẽ, phẳng phiu trong đó là một bài thơ với tựa đề: NÓI VỚI TÀ ÁO MÀU ĐEN, được viết bằng nét chữ rõ, đẹp, mạnh mẽ và đầy cảm xúc. Anh lính nhìn cô giáo mỉm cười rồi khẽ nghiêng đầu quay bước.


Nói với tà áo màu đen


Ai dám bảo màu đen màu tang chế

Màu u buồn và màu của thê lương

Màu tăm tối như đêm dài tận thế

Như tương lai bị nghẽn lối ngăn đường

Riêng ta thấy chỉ 1 mình ta thấy

Màu đen cười, cười bằng mắt bằng môi

Màu đen reo trong gió lùa tóc rối

Màu u buồn màu áo của em tôi

Màu kín đáo như lời yêu chưa ngỏ

Màu bâng khuâng màu ấp ủ tình dài

Màu dẫn lối cho ta vào thương nhớ

Màu hoang đường như câu chuyện tương lai

Màu đen ơi ôi màu đen huyền hoặc

Hồn ta say theo tà áo em bay

Tình vỗ cánh ta nghe chừng chóng mặt

Không rượu nồng không ma túy mà say...



(Thiếu úy T.B )


Sau này chị tôi kể lại không biết tại sao khi đọc xong bài thơ ấy chị bỗng dưng khó thở, nước mắt trào ra... Chị đã cố ngăn mà không ngăn được... Cuối cùng chị cảm thấy rã rời và gục đầu trên bàn viết. Đám học trò nhớn nháo lo sợ, Em trưởng lớp chạy đi báo động với cô giáo lớp kế bên... Buổi dạy gián đoạn... Thầy Hiệu Trưởng cho người đưa chị tôi về bằng xe Honda.


Thiếu úy TB chỉ kịp nhìn thấy một chiếc xe chạy ra khỏi cổng trường, phía sau yên xe cô giáo áo đen úp mặt vào vai cô giáo bạn... Anh băn khoăn, lo sợ và khắc khoải mong cho đến sáng hôm sau là Chúa Nhật để đón gặp cô giáo ở trước cổng nhà thờ. Nhưng lòng chị tôi đang xao xuyến, bất an, Chị muốn trốn tránh người ấy, chị không đi lễ nhà thờ và chị định bụng sẽ xin nghỉ dạy một tuần để lánh mặt sang nhà Ngoại làng bên.


Thế nhưng vào lúc nửa đêm thứ bảy rạng sáng Chúa Nhật, đoàn quân được mật lênh điều đi nơi khác. Các lều bạt, quân trang, quân dụng được sắp xếp gọn gàng và nhanh chóng... Tiếng xe nhà binh nổ máy, từng chiếc, từng chiếc rầm rộ lên đường trong đêm vắng. Những chàng trai Thủy Quân Lục Chiến chen nhau đứng dựa vào thành xe, mắt nhìn về phía trước, mỗi người một ý nghỉ miên man...


Thời chiến tranh, biết nói gì hơn! Đường trường xa, những chuyến xe tiếp tục đưa những người lính đến những chiến trường đẩm máu. Biết có lần nào trở về chốn cũ? Dẩu sao cũng nói lời từ biệt và cám ơn một tuần lễ dưỡng quân nơi xóm nhỏ êm đềm...


Thiếu úy TB chợt nhớ đến một câu văn trong tập truyện của Duyên Anh: Giã biệt em và ngôi trường, Anh ra đi với nỗi buồn thơm ngát”.


Hình ảnh cô giáo với chiếc áo dài đen sẽ còn ở trong trái tim người lính cho đến khi nào?


Rồi sẽ có một tà áo xanh hay áo trắng ở trạm dừng quân nào đó tiếp tục đem đến cho anh một niềm hạnh phúc mới? Dẫu thoáng qua nhưng phút đam mê lãng mạn ấy chính dòng suối mơ tưới mát tâm hồn khô cháy của người lính trên những nẽo đường tàn khốc của chiến tranh mà nơi ấy giữa bom đạn vô tình, kẻ chinh nhân không thể hẹn ngày về....


50 năm đã trôi qua kể từ ngày ấy.


Chị tôi không còn trẻ nữa.


Giờ đây chị đã là một cô giáo già hưu trí, vẫn sống độc thân bên cạnh dòng sông cũ.


Đã hơn 70 tuổi rồi, đã ít nhiều hiểu được những uẩn khúc, éo le của cuộc đời...


Thỉnh thoảng nhắc lại chuyện xưa, chị mượn lời cổ nhân đã dạy: “Bất cứ ai có tình cảm, có lòng thương mến đối với mình thì đừng hỏi tại sao. Hãy mở lòng ra đón nhận. Những người bạn đến hay đi qua đời ta đều để lại dấu ấn. Hãy học cách cám ơn họ, vì nhờ họ mà ta nếm hưởng được đủ hương vị của cuộc đời!”


Vâng, 50 năm đã trôi qua kể từ ngày ấy.


Thiếu úy TB kiêu dũng ngày nào giờ cũng đã trên dưới 80 …


Nếu anh còn sống sót sau cuộc chiến chinh, ước mong ở một nơi nào đó anh sống vui, sống đẹp với tuổi già thơ nhàn.


Nếu đọc được dòng chữ này anh khắc hiểu bài viết hôm nay chính là một hoài niệm để TẠ LÒNG XƯA CŨ!


Trước khi dừng bút, xin được nói thật lòng:


Thiếu úy TB, Anh làm thơ rất hay! Bài thơ tỏ tình của anh thật mãnh liệt, đáng yêu! nó nằm trong số những bài thơ tình tuyệt vời của thế kỷ 20 đấy! Vì thế mà chị tôi vẫn còn giữ mãi bài thơ ấy của anh cho đến tận hôm nay...!


Nguyễn thị Tự Tập
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (10-03-2020), huudangdo1 (10-03-2020), phokhuya (10-04-2020), trungthu (10-04-2020)
Old 10-05-2020   #286
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,409
Thanks: 21,697
Thanked 38,211 Times in 12,889 Posts
Mentioned: 636 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7249 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Chợ trời



Nói đến “chợ trời” chắc ai cũng biết. Ở đó, người ta bán đủ thứ, không cần xếp “ngành nghề” gì cả, hàm-bà-lằng! “Thượng vàng hạ cám” gì đều ngang nhau hết. Rất bình đẳng, không “phân biệt giai cấp”, không “kỳ thị chủng tộc”. “Anh” ti-vi loại “xịn”, loại tổ bố, loại “made in Japan”, vẫn đứng cạnh “anh” quạt máy nhỏ xíu cỡ bằng bàn tay loại “không made in gì cả”. Những món hàng ăn cắp vẫn ngang nhiên... kề vai với những món hàng thuộc diện “bảo đảm có phắc-tuya đàng hoàng”. Và cùng đứng rất tự nhiên, không kênh kiệu tự tôn, không tự ti mặc cảm. Thậm chí đến đồ thiệt đồ giả cũng... đứng chung với nhau, lẫn lộn một cách rất hài hòa thân thiết! Cái thế giới “chợ trời” đúng là cái thế giới lý tưởng bởi vì đã san bằng được giai cấp và mọi dị biệt đều được hòa đồng...
Vậy mà sau “ngày cách mạng thành công”, chánh quyền cách mạng đã “cách mạng” chợ trời ráo riết. Nay càn quét chỗ này, mai càn quét chỗ kia. Chợ trời rách nát te tua, rồi mất dạng. Rồi hiện trở lại, rồi lại mất dạng... vv nhiều lần. Giống như trò cút bắt.
Chính trong thời gian kể trên, một hôm đi ngang Lăng Ông Bà Chiểu, tôi “được” một anh thanh niên kè theo hỏi nhỏ mà cặp mắt láo liên:
- Chú mua quần tây không chú?
Thật bất ngờ và cũng thật bất thường làm tôi phải lấy ngay “tư thế cảnh giác”. Do bản năng và nhứt là do thói quen sau này – tôi muốn nói sau cuộc đổi đời vĩ đại – lúc nào cũng phải thủ thế, luôn luôn coi chừng lời ăn tiếng nói, luôn luôn coi chừng hành động của mình, luôn luôn coi chừng những người chung quanh... Bởi vì không biết lúc nào trắng lúc nào đen, không biết ai là ai nữa. Thấy chẳng còn ai tin ai nên tôi cũng chẳng dám tin ai. Vậy là lúc nào cũng có ngay một phản ứng rất... thời đại: nghi ngờ!
Tôi nghi gã thanh niên “có ý gì”. Bởi vì nói bán quần tây mà đi hai tay không, lại còn phì phà điếu thuốc đầu lọc mà chính bản thân tôi – công nhân viên với ngạch trật “kỹ sư bậc hai trên sáu” – không đủ tiền để mua hút! Tôi vội nhìn quanh: chẳng còn ai hết ngoài tôi và gã. Vậy là ở đây không có loại “chợ trời mi-ni” để gã có lý do bắt mối chào hàng. Tôi nghiêm nghị trả lời:
- Không!
Gã vẫn đeo theo:
- Mua giúp con mà chú. Quần tây thứ tốt, loại đa-cờ-rong nhập cảng đàng hoàng.
Tôi làm thinh, tiếp tục bước đi và vẫn tiếp tục... thủ. Bỗng, gã đổi giọng than thở:
- Chú không biết chớ bây giờ chợ trời bị dẹp hết, còn chỗ đâu mà buôn bán. Dân chợ trời rã ra đi bán chui lẻ tẻ vẫn bị “cum” như thường. Khổ lắm chú ơi! Bữa nay con lang bang xóm này cầu may mà sáng giờ chưa bán được cái quần nào hết. Chú mua giúp đi chú!
Tôi không cần quần nên không cần mua. Nhưng vẫn thắc mắc:
- Anh nói bán quần mà đi tay không, có thấy hàng họ gì đâu?
Anh ta nhăn mặt:
- Trời ơi! Cầm trong tay cho tụi nó thấy đặng mang họa à!
Rồi hắn dừng bước, để điếu thuốc lên khóe môi, một tay ôm vạt sơ-mi lên, một tay chỉ vào quần hắn đang mặc:
- Nè! Quần đây nè! Thiệt mà! Chú coi đi!
Tôi thật ngỡ ngàng, không biết phải nói gì làm gì. Gã cầm lấy bàn tay tôi đặt lên hông gã:
- Đây! Chú rờ coi! Đa-cờ-rong thứ thiệt mà. Còn mới tinh hà!
Tôi vẫn chưa hết ngỡ ngàng, tay mân mê một cách máy móc chéo vải quần của hắn. Thấy vậy, giọng hắn trở nên vồn vã:
- Để con cởi ra cho chú coi nghen!
Gã dợm mở nút quần, tôi cản lại:
- Đừng! Đừng! Tôi không mua đâu.
- Hay là chú muốn coi quần màu khác? Cũng đa-cờ-rong.
Không đợi tôi trả lời, hắn phun mẩu thuốc trên môi, lẹ làng kéo phẹt-mơ-tuya xuống. Rồi một tay ôm vạt áo, một tay tuột quần khỏi mông, để lộ bên trong một cái quần khác màu sậm hơn! Hắn xoay người qua xoay người lại để... bày hàng, rồi nói:
- Cái này “xịn” hơn. Đa-cờ-rong Mỹ mà. Chú rờ coi! Bảo đảm chưa mặc lần nào hết!
Tôi bỗng thấy tội nghiệp anh ta vô cùng. Và tôi đoán rằng bên trong còn một cái quần thứ ba nữa, bởi vì tôi vừa nhận ra là anh ta ốm tong ốm teo, dư sức để mặc dễ dàng ba cái quần.
Tôi đặt tay lên vai gầy của hắn, thân mật:
- Chú không mua đâu. Đừng mất thì giờ. Tốt hơn cháu nên chào hàng người khác đi!
Trong lúc tôi bỏ đi, hắn còn nói vói theo:
- Chú chưa coi hết mà! Còn một cái nữa nè!
Tự nhiên, hai chân tôi bước nhanh hơn, bước dài hơn. Làm như muốn chạy.



Tiểu Tử
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	85-bodoics-di-cho-troisg.png
Views:	0
Size:	399.5 KB
ID:	1665529   Click image for larger version

Name:	Rag-to-cover-the-slot.png
Views:	0
Size:	481.8 KB
ID:	1665531  
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
huudangdo1 (10-05-2020), phokhuya (10-09-2020), trungthu (10-06-2020)
Old 10-05-2020   #287
tbbt
R6 Đệ Nhất Cao Thủ
 
tbbt's Avatar
 
Join Date: Dec 2009
Posts: 2,666
Thanks: 2,543
Thanked 7,090 Times in 2,161 Posts
Mentioned: 80 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 1205 Post(s)
Rep Power: 24
tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9
tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9tbbt Reputation Uy Tín Level 9
Default

Quote:
Originally Posted by hoanglan22 View Post


.................... .................... .................... .......

Tôi sẽ còn tiếp tục phải viết vì nếu không viết, không vạch ra được cái kịch cỡm, bát nháo, ngu dốt của ngôn ngữ Việt ở trong nước ngày nay và trên trang tin BBC…sẽ đắc tội với con cháu mai sau.

Đào Văn Bình


:haf ppy:
tbbt_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to tbbt For This Useful Post:
trungthu (10-06-2020)
Old 10-05-2020   #288
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,409
Thanks: 21,697
Thanked 38,211 Times in 12,889 Posts
Mentioned: 636 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7249 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Buổi chiều cuối cùng



Bây giờ là 6 giờ chiều ngày 29 tháng Tư năm 1975. Đó là buổi chiều cuối cùng tôi còn là lính. Tôi được gọi lên gặp Hằng Minh (danh hiệu truyền tin của Tướng Tư lệnh Sư đoàn).

Trước buổi trưa, chiến tuyến cuối cùng của VNCH là Trảng Bom (Biên Hòa). Lúc này Long Bình đã là địa đầu chiến tuyến. Trước ngày 16.4, quân ta còn đánh nhau với quân CSBV tại Phan Rang. Thời gian càng dài ra thì chiến tuyến càng thu ngắn lại. Sau đó là Bình Thuận, Bình Tuy, rồi Xuân Lộc. Quân và dân Xuân Lộc đã anh dũng chiến đấu suốt 12 ngày đêm, với quân số tương đương một sư đoàn, đã chống đở thắng lợi 4 sư đoàn quân CSBV, đã tạo nên chiến tích thần kỳ. Nhưng cuối cùng Xuân Lộc cũng bị bỏ ngỏ vào đêm 20 rạng ngày 21.4. Lực lượng trấn thủ được lệnh lui binh về Biên Hòa lập phòng tuyến mới để bảo vệ Biên Hòa và Thủ đô Sài Gòn.

Vào lúc quá trưa, cộng quân bắt đầu pháo kích kho đạn Long Bình. Những tiếng nổ long trời lở đất, khói đen bốc lên ngùn ngụt, cao tận mây xanh. Từ buổi sáng, phòng tuyến Trảng Bom đã vỡ. Một Tiểu đoàn của Trung đoàn 43BB bị địch quân đông gấp bội, với chiến xa trợ chiến, đã tràn ngập vị trí. Vị Tiểu đoàn trưởng được ghi nhận mất tích. Mất Trảng Bom, chiến tuyến cuối cùng của VNCH là Long Bình.

Tôi dời Bộ chỉ huy Tiểu đoàn vào bên trong căn cứ, đặt tạm tại văn phòng của Ban chỉ huy Đại đội Quân Cảnh Sư đoàn.

Khi Tiểu đoàn xuống núi (Núi Thị) để hành quân triệt thoái khỏi Xuân Lộc, quân số khá đầy đủ, với hơn 500 tay súng. Nhưng vì là đơn vị sau cùng triệt thoái khỏi mặt trận, một mình đơn độc, không có không quân và pháo binh yểm trợ, đạn dược thiếu hụt, lại bị Sư đoàn 341/CSBV truy đuổi liên tục trong khu rừng rậm, từ lâu vốn là căn cứ địa của VC, nên đã bị hao hụt rất nhiều. Vì lẽ đó, lần đầu tiên đơn vị được giao một nhiệm vụ khá nhẹ nhàng là bảo vệ Bộ Tư lệnh Sư đoàn, trong lúc các tiểu đoàn bạn phải lên tuyến đầu chống chọi với cộng quân tại chiến tuyến Trảng Bom.

Lối 9 giờ sáng, Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn III kiêm Vùng 3 Chiến thuật bay trực thăng đến BTL/SĐ để gặp Tư lệnh các đại đơn vị: SĐ5, SĐ18, SĐ25, và Lữ đoàn 3 Xung kích. Nhưng hiện diện chỉ có hai tướng là Lê Minh Đảo, TL/SĐ18BB và Trần Quang Khôi, TL/LĐ3XK. Lúc này BTL/QĐ đã di chuyển về Sài Gòn. Sau cuộc họp mặt chớp nhoáng để ban chỉ thị giữ Biên Hòa, Tướng Toàn vội vả bay đi mà không bao giờ trở lại. Có lẽ đây là những chỉ thị cuối cùng trong tư cách là Tướng Tư lệnh Quân đoàn. Theo “Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954 – 1975” của các tác giả Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Đại tá Lê bá Khiếu, và Tiến sĩ Nguyễn Văn, thì vào một ngày của tháng 3.1975, Quân đoàn III được lệnh Bộ Tổng Tham Mưu, nghiên cứu bãi đổ bộ tại Phước Tuy cho hai Sư đoàn Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ khi hữu sự. Khi Tướng Dương Văn Minh nhậm chức Tổng Thống chiều ngày 28.4.1975, bận lo tổ chức nội các, lo hòa giải và hòa hợp với cộng sản, Tướng Toàn tìm mọi cách liên lạc với giới chức có thẩm quyền về việc liệu có việc đổ bộ của hai Sư đoàn TQLC Hoa Kỳ? Nhưng không gặp được ai. Sau khi họp mặt và ban lệnh cho hai Tướng Đảo và Khôi tại Long Bình là phải giữ Biên Hòa , Tướng Toàn bay về Gò Vấp. Sau đó bay ra Soái hạm Blue Ridge của Đệ Thất Hạm đội Mỹ, để yêu cầu xác nhận. Nhưng đó chỉ là “quả lừa.”

Cũng buổi sáng ngày 29.4, lối 8 giờ, trong lúc các đơn vị QLVNCH trên khắp các mặt trận, Sư đoàn 5 tại Lai Khê, Sư đoàn 25 tại Củ Chi, Sư đoàn 18 tại Biên Hòa, Sư đoàn 22 tại Bến Lức, và tại Vùng 4, quân sĩ của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam với các Sư đoàn 7, 9 và 21, đang anh dũng chiến đấu với quân thù, thì cựu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã bay ra Hạm đội 7 bằng trực thăng riêng Huey của mình. Trước khi bay đi, Tướng Kỳ ghé lại Bộ Tổng Tham Mưu, tình cờ gặp Trung tướng Ngô Quang Trưởng, và rủ rê cùng đi. Có nguồn tin cho rằng Tướng Kỳ mời Tướng Trưởng bay về Miền Tây gặp Tướng Nam để bàn chuyện cứu nước. Nhưng trực thăng đã trực chỉ ra biển đông. Được biết quân sĩ tại Vùng 4 đã tiếp tục chiến đấu với quân thù, dù có lệnh buông súng của Dương Văn Minh. Họ chỉ buông súng tan hàng sau khi nghe tin các Tướng chỉ huy của họ là Trần Văn Hai (TL/SĐ7BB), Lê Văn Hưng (TLP/QĐ), và Nguyễn Khoa Nam (TL/QĐ) tuẩn tiết. Buổi chiều ngày 28.4, tại xứ Tân Sa Châu thuộc quân Tân Bình, Tướng Kỳ nói chuyện với những người Bắc Kỳ Di cư, những người đã một lần năm 1954, bỏ nhà bỏ cửa, bỏ ruộng vườn, bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, trốn chạy cộng sản vào Nam. Tướng Kỳ hô hào đoàn kết, cùng nhau chiến đấu chống bọn CSBV xâm lược. Khi nghe Tướng Kỳ tâm sự rằng ông sẽ ở lại chiến đấu cùng đồng bào đến giọt máu cuối cùng, ai ai cũng nức lòng. Ông còn khôi hài rằng qua Mỹ sẽ không có “mắm tôm để ăn”. Đồng bào đã hoan hô Tướng Kỳ hết mình. Một hy vọng mong manh đang nhen nhúm! Hay nói như cách nói qua lời của một bài hát: “Có Tin Vui Giữa Mùa Tuyệt Vọng”.

Sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, bàn giao lại cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương, Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng BTTM/QLVNCH cũng đệ đơn lên Tổng Thống Tân nhiệm xin nghỉ việc. Nhưng Tổng Thống Huơng vẫn lưu nhiệm, và ông chỉ ký Sắc lệnh giải nhiệm Đại tướng Viên trước khi bàn giao chức vụ Tổng Thống cho Tướng Dương Văn Minh. Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng BTTM kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận được cử thay thế. Nhưng Tướng Khuyên cũng rời bỏ nhiệm sở buổi trưa ngày 29.4. Các Tướng có chức có quyền bắt đầu rời bỏ nhiệm sở, tìm cách trốn chạy trước khi quân CSBV vào đến Sài Gòn. Lúc đó tại Sài Gòn, vị sĩ quan cao cấp nhất và thâm niên là Trung tướng Vĩnh Lộc, liền được Tổng thống Dương Văn Minh mời giữ chức TTMT đang bỏ trống. Đồng thời cựu Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (sau này được biết Hạnh đã bị VC móc nối) được gọi tái ngũ, giữ chức Phụ tá TTMT cho Tướng Vĩnh Lộc. Vừa nhận chức TTMT, Tướng Vĩnh Lộc triệu tập cuộc họp tại Bộ TTM, yêu cầu “mọi người đừng bỏ đi, hãy ở lại để làm việc với tất cả trách nhiệm”. Tướng Vĩnh Lộc điện thoại về Vùng 4, nói chuyện với Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, bàn kế hoạch đưa Chính phủ hoặc những nhân vật đầu não về Miền Tây. Dưới quyền của Tướng Nam, còn nguyên vẹn các Sư đoàn 7, 9, 21, Không Quân, Hải Quân, lực luợng ĐPQ và NQ. Tướng Lộc liên lạc với Tư lệnh Không Quân và Tư lệnh Hải Quân cùng lên đài Truyền hình, nhưng không thực hiện được. Trong cố gắng cuối cùng, ông ban Nhật lệnh kêu gọi quân sĩ tiếp tục chiến đấu, miệt thị đám tướng lãnh và sĩ quan bỏ ngũ, rời nhiệm sở là “những con chuộc nhắt!” Nhưng lối 6 giờ sáng ngày 30.4, cùng với Trung tướng Trần Văn Trung, Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Chiến tranh Chính trị, cũng đã tìm đường di tản, cũng làm “những con chuột nhắt”.

Lúc tôi đến căn phòng nhỏ nằm sát đàng sau Văn phòng Tư lệnh, Tướng Đảo đang dùng cơm chiều. Ông ngồi đó, cô đơn, ăn cơm một mình. Một Trung úy Pilot ngồi cạnh đang đọc báo. Các vị Đại tá, gồm Nguyễn Văn Mai, TLP/SĐ, Huỳnh Thao Lược, TMT/SĐ, Hứa Yến Lến, TMP/HQ & TV, Dương Phún Sáng, Chánh Thanh Tra, đều đứng. Không ai nói gì, chỉ im lặng. Không khí trầm lắng. Có lẽ các vị vừa họp bàn xong. Đâu ngờ đây là cuộc họp cuối cùng của các vị. Trên khuôn mặt, ai ai đều mang nặng nét ưu tư. Một lúc sau, các vị đều rời khỏi phòng đi đâu đó. Giờ đây chỉ còn lại Tướng Đảo, viên Phi công trực thăng và tôi. Ông mời tôi dùng cơm. Tôi từ chối. Ông khui chai rượu Tây mời uống. Khui hộp bánh Lubico mời ăn. Tôi hỏi khẻ vị Trung úy:

- “Chỉ một mình anh thôi sao?”

- “Vâng, ông Tướng có thể làm co-pilot.”

Tướng Tư lệnh hỏi han tình hình của đơn vị, nhất là tinh thần quân sĩ. Tôi cứ tình thật trình bày. Sau cuộc triệt thoái khỏi Xuân Lộc, là đơn vị rút ra cuối cùng, phải đơn độc chiến đấu không có không quân và pháo binh yểm trợ, phải chống chỏi trước một lực lượng địch đông gấp bội, bị thiệt hại nhiều, tinh thần căn thẳng, thể xác rã rời, chưa lấy lại sức. Thật ra những người lính của tôi đã chịu đựng quá nhiều. Là một trong những đơn vị có thành tích chiến đấu dũng mãnh trong Sư đoàn, nhiều lần Tiểu đoàn tôi đã nhận lãnh những nhiệm vụ khá nặng nề, và luôn luôn đã hoàn thành xuất sắc. Vì lẽ đó, con số thương vong thường cao. Nhưng người lính QLVNCH vẫn “xem Thái sơn nhẹ tựa hồng mao!” Vào những ngày như những ngày hôm nay, những ngày của giờ thứ 25 cuộc chiến, đơn vị nằm sát đuờng Quốc lộ, chứng kiến hàng đoàn người dân di tản, và tin tức lan truyền từ Sài Gòn, rằng đã có nhiều người bỏ nước ra đi, trong đó không ít các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp. Con đường QL1 từ Kẻ Sặt đến cầu Đồng Nai, đi ngang qua BTL/SĐBB từ mấy ngày qua trở nên chật hẹp. Người nguời gồng gánh, xe ba-gác, xe lam, xe ngựa, xe trâu, xe bò, và xe vận tải, chất đầy người và hành lý, vội vàng xuôi về Sài Gòn. Hình như Sài Gòn là nơi mà mọi người dân tị nạn chiến cuộc có thể nương náu an toàn. Tình hình xáo động. Người lính chiến từ nhiều tháng nay không có tin tức gì về gia đình. Nhưng “Việc công là trọng, niềm tây sá nào”. Quân sĩ của tôi, hầu hết vẫn ở lại chiến đấu. Tinh thần không nao núng! Dù là chiến đấu một cách vô vọng! Họ ở lại, bởi vì các cấp chỉ huy trực tiếp của họ vẫn còn ở lại. Yếu tố quan trọng nhất, vị anh cả của họ, Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo vẫn còn ở lại. Buổi chiều trong cuộc họp tại Bộ Tư lệnh, tôi là sĩ quan tác chiến, không phải tham mưu nên không tham dự, chỉ nghe kể lại, rằng ông Tướng đã khẳng định cùng thuộc cấp, rằng ông sẽ không đi đâu cả, rằng ông sẽ ở lại chiến đấu sát cánh cùng anh em. Vợ con ông cũng ở lại, gia đình ông không ai bỏ đi.

Ông khuyên tôi cố gắng giữ Long Bình. Nếu giữ được Long Bình thì Long Bình là của mình! Ông nói: “Một Phái đoàn của Chính phủ do Giáo sư Bùi Tường Huân, Bộ trưởng Quốc Phòng của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đã đi gặp đối phương tại một nơi nào đó trên xa lộ Đại Hàn, để bàn chuyện ngưng bắn “da beo”. Sau này được biết, Phái đoàn của Bùi Tường Huân đã bị cộng quân giữ lại, bị bắt làm con tin. Dương Văn Minh bị lừa. Nhà Sư Thích Trí Quang đã bị lừa. Để rồi cả Miền Nam bị lừa.

Ăn cơm xong, ông Tướng đến ngồi bên chiếc bàn nhỏ, có điện thoại bàn. Ông gọi vào Dinh Độc Lập xin gặp Đại tá Đẩu, Tùy viên của Tổng Thống. Nhưng người trả lời trong máy tự xưng là Trung tá, hình như tên Thọ, Phó Tùy viên. Trung tá Thọ cho biết, hiện Tổng Thống đang chủ tọa cuộc họp Nội Các. Tướng Đảo trình bày tổng quát tình hình, và xin lệnh Tổng Thống được đưa Sư đoàn 18BB về thiết lập tuyến phòng ngự bên bờ Nam sông Đồng Nai để ngăn chận địch từ hướng Đông. Phía Bắc và Tây Bắc có Sư đoàn 5 của Tướng Lê Nguyên Vỹ, và Sư đoàn 25 của Tướng Lý Tòng Bá, phía Nam có Sư đoàn 22 của Tướng Phan Đình Niệm. Với lực lượng phòng thủ như vậy, chúng ta có thể giữ được Sài Gòn. Cuộc điện đàm kết thúc với lời hứa của Trung tá Thọ, rằng sẽ trình lại với Tổng Thống và sẽ liên lạc với Tuớng Đảo cho biết quyết định. Được biết sau khi nhậm chức Tổng Thống, Dương Văn Minh đã bổ nhiệm Trung tướng Vĩnh Lộc làm Tổng Tham Mưu Trưởng, và cựu Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (đã giải ngũ), làm Phụ tá TTMT. Nhưng Tướng Vĩnh Lộc vừa mới nhậm chức chưa hiểu rõ tình hình. Tướng Tư lệnh Quân đoàn thì đã bỏ nhiệm sở. Do đó Tướng Đảo phải làm việc trực tiếp với Dinh Độc Lập, vì Tổng Thống là Tổng Tư Lệnh Tối Cao của QLVNCH.

Được biết, vào những ngày cuối cùng, Đại tướng Vanuxem của Pháp có mặt ở Sài Gòn, thường vào ra Dinh Độc lập. Chính vị tướng này đã khuyên Tổng Thống Dương Văn Minh cố gắng để cho quân đội cầm cự thêm 48 tiếng đồng hồ thì sẽ có giải pháp chính trị có lợi cho VNCH. Theo Tướng Vanuxem, nếu có lời yêu cầu, quân Trung cộng sẽ tràn vào Bắc Việt, áp lực CSBV ngừng tấn công. Một giải pháp chính trị có lợi cho VNCH sẽ được thi hành. Nhưng Tổng Thống Dương Văn Minh đã từ chối. Ông chỉ tin Thầy Thích Trí Quang, là người môi giới để ông tiếp xúc và đàm phán với “người anh em phía bên kia”. Nhưng khi Phái đoàn đàm phán do Giáo sư Bùi Tường Huân (Bộ trưởng Quốc phòng) cầm đầu, ra xa lộ Đại Hàn gặp VC, thì bị VC giữ lại làm con tin. Sau nhiều lần thúc dục Thầy Trí Quang không kết quả, Dương Văn Minh tuyệt vọng, đã than: “Thầy hại con rồi!”

Trở lại bàn ăn, Tướng Đảo cho biết, lối 12 giờ khuya nay, BTL/SĐ sẽ dời về Thủ Đức. Trung đoàn 43BB và Trung đoàn 52 vẫn ở lại Long Bình. Một lần nữa ông khuyên tôi cố gắng giữ cho được Long Bình. Tôi chỉ dám hứa là làm hết sức mình.

Gặp Tướng Tư lệnh xong, tôi lại được lệnh đi gặp Đại tá Trung đoàn trưởng Lê Xuân Hiếu. Đó là cuộc họp mặt cuối cùng, trong buổi chiều cuối cùng của tôi với các đơn vị trưởng bạn. Chỉ có hai Tiểu đoàn trưởng là tôi, 2/43, và Thiếu tá Nguyễn Văn Dư, 3/43. Tiểu đoàn trưởng 1/43 được ghi nhận là mất tích, trong một trận giao tranh ác liệt tại Trảng Bom sáng nay. Được biết Thiếu tá Dư bị bọn “cách mạng 30” dùng búa đánh chết tại nhà ở Vũng Tàu, sau ngày tan hàng 30.4. Sau khi nghe tôi trình bày chỉ thị tôi vừa nhận trực tiếp từ Tướng Tư lệnh, Đại tá Hiếu đưa ra hai kế họach:

1. Kế hoạch Alpha: Tiểu đoàn 2/43 thi hành theo chỉ thị nhận trực tiếp từ Tướng TL Lê Minh Đảo.

2. Kế hoạch Bravo: Tiểu đoàn 2/43 sẽ di chuyển qua bên kia sông Đồng Nai, lập tuyến phòng ngự từ cầu Đồng nai đến cầu Ghềnh, dọc theo bờ Nam con sông.

Đúng 12 giờ đêm, trực thăng Tư lệnh cất cánh. Tiếp theo sau đó là BTL với các phòng ban, cùng các đơn vị kỹ thuật và tiếp vận thuộc BTL bắt đầu di chuyển. Được biết, Tướng Đảo đã hoàn trả chiếc trực thăng về cho Sư đoàn 3/KQ. Ông đã di chuyển bộ cùng binh sĩ qua ngã cầu Ghềnh. Đây là lần thứ hai Tướng Tư lệnh đi bộ cùng binh sĩ khi triệt thoái. Lần thứ nhất là đêm 20 rạng ngày 21.4, Tướng Đảo đi bộ cùng binh sĩ trong cuộc triệt thoái khỏi Xuân Lộc về Bà Rịa. Đây là cuộc triệt thoái thành công nhất. Sự hiện diện của vị Tướng Tư lệnh, cùng di chuyển bộ với binh sĩ là yếu tố thiết yếu cho sự thành công. Một lần nữa, Tướng Đảo lại di chuyển bộ trên đường triệt thoái.

Lúc gần sáng, tôi nhận lệnh thi hành “Kế hoạch Bravo”. Đơn vị rời Long Bình, di chuyển qua hướng cầu Đồng Nai. Vài chiếc xe tăng địch xuất hiện. Chúng nổ súng một lúc, rồi lại trở lui. Đoàn quân tiếp tục di chuyển. Toán tiền phương đã đến cầu. Nhưng đơn vị bảo vệ cầu chận lại, không cho đi qua. Tôi phải cho lệnh đổi hướng qua ngã cầu Ghềnh. Khi toán quân cuối cùng qua khỏi cầu thì trời đã hừng sáng. Tôi gặp BCH Trung đoàn đang dừng chân trên đoạn đường dốc gần cầu. Theo kế hoạch đã định, Tiểu đoàn bắt đầu rải quân, thiết lập chiến tuyến. Tôi đặt BCH/Tiểu đoàn trong một khu vườn có vòng rào bao quanh. Đơn vị cuối cùng là Đại đội 2/2 của Đại úy Võ Văn Mười cũng bắt đầu rải quân. Nhưng nhìn về hướng cầu Đồng Nai, cách xa vài trăm mét, không tin vào mắt mình, xe tăng và xe chở quân CSBV đang di chuyển trên xa lộ. Chúng đã vượt qua cầu. Cây cầu vẫn còn đứng nguyên! Tại sao cây cầu không bị giật sập? Đơn vị bảo vệ cầu đã biến đi đâu? Tối hôm qua Tướng Đảo cho biết tất cả các cây cầu bắt qua sông Đồng Nai, gồm cầu Đồng Nai, cầu Ghềnh và cầu Mới đều đã được công binh đặt mìn. Cầu sẽ bị đánh sập, nếu cộng quân tiến qua cầu. Nhưng sự việc đã không xảy ra. Sau này được biết chính tên phản tướng Nguyễn Hữu Hạnh, với tư cách Quyền TTMT đã cấm không cho giựt sập cầu, để cho bộ đội CSBV thuận lợi tiến chiếm Sài Gòn. Đây là thành tích “dâng Bác và Đảng” mà tên Hạnh đã khoe trong một bài phỏng vấn của báo Tuổi Trẻ cách đây vài năm, nhân dịp kỷ niệm “Đại thắng Mùa Xuân” của CSBV.

Một đoàn chiến xa quân CSBV, gồm T-54, PT-76, xen lẫn những chiếc Molotova chở đầy bộ đội đang di chuyển trên xa lộ hướng về Sài Gòn. Được biết đó là quân của Tướng Nguyễn Hữu An, Chỉ huy Quân đoàn 2/CSBV được lệnh đưa bộ đội của hắn, “hợp đồng” cùng 4 cánh quân khác, tiến nhanh về Sài Gòn. Theo kế hoạch ban đầu của “Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh”, quân của Tướng Hoàng Cầm, Chỉ huy Quân đoàn 4/CSBV sẽ tiến về Sài Gòn. Nhưng 12 ngày chạm trán Sư đoàn 18BB, Tiểu đoàn 82/BĐQ, Lữ đoàn 1 Dù, lực lượng ĐPQ và NQ Long Khánh, Quân đoàn 4/CSBV bị tử vong hơn 6 ngàn bộ đội, và 37 chiếc xe tăng bị phá hủy. Chỉ huy sở Sư 341 và các đơn vị “tập kết”, chuẩn bị tiến về Biên Hòa, bị hai trái bom BLU-82 đánh trúng, hơn 10 ngàn bộ đội bị loại ra khỏi vòng chiến, nên không còn khả năng tác chiến. Một sĩ quan bị bắt khi đơn vị bị quân CSBV tràn ngập, trong trận giao tranh ác liệt tại Trảng Bom buổi sáng ngày 29 cho biết:

“Khi bị áp giải đến gặp tên “Thủ trưởng E” (Trung đoàn trưởng), hắn nói: “May mà anh gặp chúng tôi. Nếu anh bị đơn vị kia bắt (ý hắn muốn nói các đơn vị thuộc Sư 341) thì đã bị giết ngay tại chỗ.”

Thấy còn vài chiếc lẹt đẹt chạy sau, tôi cho lệnh nổ súng. Lối 4 chiếc xe tăng dừng lại, quay nòng súng hướng về chúng tôi nổ súng. Những tràng đại liên 12.8 ly ào ào xối xả, nhưng không lâu. Rồi 4 chiếc xe đó lại quay đầu xe hướng về Sài Gòn, tiếp tục chạy. Chúng cố chạy nhanh cho kịp đoàn quân đang hung hăng hướng về Sài Gòn.

Tôi tự hỏi, nếu đơn vị giữ cầu Đồng Nai để cho Tiểu đoàn tôi qua cầu, nếu đơn vị tôi đã vào vị trí trước khi cộng quân qua cầu, nếu cầu Đồng Nai bị đánh sập thì chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng trang sử đã lật. Những trang sử oai hùng của quân và dân VNCH đang lùi dần vào dĩ vãng. Một trang sữ mới đầy đau thương và nước mắt đang ghi lại biết bao nỗi ô nhục của người dân Việt do bọn cầm quyền ngu dốt ngự trị tại “Bắc Bộ Phủ” cam tâm làm tay sai cho kẻ thù truyền kiếp phương Bắc.

Buổi chiều cuối cùng kéo dài đến 11 giờ 30 trưa hôm sau, ngày 30.4. Tiếp theo là bóng đêm. Bóng đêm đã đổ ập xuống trời Nam. Đã bao nhiêu năm qua, hừng đông vẫn chưa ló dạng.

Rút chốt

Tao mệt lắm đốt cho tao điếu thuốc
Máu ra nhiều khát nước quá mày ơi
Chưa, tao chưa đền xong nợ nước
Nhưng phải đành bỏ lỡ cuộc chơi?

Bọn VC có vô mày cứ bỏ tao ở lại
Cõng tao theo, mày không chạy thoát đâu
Hôm qua hay tin vợ tao sanh con gái
Đành làm cha bất nghĩa với đứa con đầu

Áo tao còn mấy băng M-16
Mầy lấy đi bắn tụi nó cầm hơi
Nhớ phụ đám nhỏ mở con đường máu
Chừa cho tao trái Lựu Đạn này thôi

Có về ngang nhà, mày nhắn với Ba Má tao
Thằng Hai vẫn khỏe, cuối năm về ăn Tết.
Rút nhanh đi ! VC đã tới sát bên rào...
Tao ở lại chờ tụi nó lên cùng chết.

Bảo Định và BH
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	1588180940-image1.png
Views:	0
Size:	229.0 KB
ID:	1665773  
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (10-06-2020), huudangdo1 (10-07-2020), phokhuya (10-09-2020)
Old 10-05-2020   #289
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,409
Thanks: 21,697
Thanked 38,211 Times in 12,889 Posts
Mentioned: 636 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7249 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Ngước mắt tìm Biển Đông

Ngước mắt tìm Biển Đông
Quê nhà xa vời vợi
Mây chập chùng mênh mông
Ngày về không còn đợi.

Tháng Tư rồi tháng Tư
Câu chuyện buồn cổ tích
Vết thương xưa nát nhừ
Sau một thời bi kịch.

Tháng Tư rồi tháng Tư
Tuổi đời đang chồng chất
Sao ta còn ưu tư
Về những gì đã mất?

Ngước mắt nhìn Biển Đông
Anh em mình mất xác
Còn lại xương cốt không
Hay ngàn đời tan tác?

Đừng bao giờ hỏi anh
Sao hồn còn quay quắt?
Chuyện từ thời Xuân Xanh
Tốn làm chi nước mắt!!!

Trần Thu Miên


Từ 30.4.1975 tới 30.4.2020

Đã 45 năm qua, từ ngày 30.4.1975, “chúng ta”, những người tị nạn cộng sản ở hải ngoại, hay tự nhận là chống cộng, hay “người Quốc gia”, vẫn không quên cái ngày đen tối ấy.

Hàng năm, tới ngày đen tối ấy, được gọi là Tháng Tư Đen, hay Ngày Quốc Hận, chúng ta đều làm lễ tưởng niệm, viết bài, làm thơ, đặt nhạc, vẽ tranh… nói lên niềm uất hận, nỗi đau buồn, hoài niệm một thời thái bình an lạc không còn nữa, hay để “Tôn Vinh Cuộc Chiến Đấu Thần Thánh của Quân Lực VNCH”, như nhan đề một cuốn sách của Luật sư kiêm Bình luận gia Phạm Kim Vinh.



Chúng ta gần như hoàn toàn bỏ quên những người “vợ lính”, trong khi chính những người phụ nữ được gọi một cách thiếu kính trọng ấy là những người chịu nhiều hy sinh nhất, nhiều đau khổ nhất, nhiều mất mát nhất trong cuộc phân tranh khốc liệt kéo dài suốt hai thập niên trên mảnh đất miền Nam mà ngày nay cả hai miền Nam Bắc đang biến thành thuộc địa của Trung cộng, đúng như lời tự thú của Lê Duẩn, tổng bí thư đảng CSVN: “Ta đánh đây là đánh cho Liên-Xô, cho Trung Quốc”.

Vậy thì còn tương lai nào cho Việt Nam, 45 năm sau “Ngày Quốc Hận”? Năm nay vì cơn dịch COVID-19 do Trung cộng gây ra đang làm chao đảo cả thế giới nên không có lễ tưởng niệm, nhưng trên mạng đã có nhiều bài viết về Tháng Tư Đen, trong đó có một bài đặc biệt viết về “vợ lính”. Đúng ra, đây là tự truyện của người vợ cố Thiếu Tá Hồ Đăng Nhựt, qua ngòi bút của bà Lưu Trùng Dương. Bài viết khá dài, xin trích đăng lại một phần dưới đây:

Chồng tôi là một sĩ quan trưởng toán Delta của đơn vị, tôi yêu anh ngoài cái vóc dáng phong sương, thêm vào hình ảnh hiên ngang, oai hùng của nét trai thời đại. Có địa danh nào thiếu dấu chân anh? Từ vùng đất Lào vi vu gió tanh mưa máu, Pleime gió núi mưa rừng, Đồng Xoài, Bình Giả… máu đổ thịt rơi. Tận đỉnh gió rét mưa phùn của đất Bắc hiểm nghèo chập chùng bất trắc, hiểm họa rình rập theo những bước chân xâm nhập, nỗi chết toa rập cùng sương lam chướng khí chực chờ.

Nha Trang, quê hương có rặng thuỳ dương và bờ cát trắng, đơn vị chồng tôi được đồn trú tại đó vào năm 1964. Căn cứ trưởng là ông đại úy Nguyễn Văn Khách, vị sĩ quan này đã thành lập 5 toán nhảy, mỗi toán không hơn 6 người do một sĩ quan Việt và hai cố vấn Mỹ đảm trách… Cho đến bây giờ, dù trải qua bao dâu bể vẫn không thể xói mòn tâm trí tôi, tôi vẫn còn nhớ cảnh một trận lụt lớn ngập cả thành phố, và cả trại Hoàng Diệu căn cứ của Mỹ cũng như trại Đằng Vân của LLĐB.

EM HỎI ANH BAO GIỜ TRỞ LẠI?



Đến năm 1965, ở Vũng Tàu có một trận chiến rất lớn đó là trận Bình Giả. Lúc này các toán trưởng chuẩn bị theo các trực thăng để thi hành công tác xâm nhập, ngăn chận những nơi Cộng quân di chuyển, tôi chỉ biết có thế thôi. Làm sao tôi có thể vui được, có thể an lòng được trong tâm trạng nỗi lòng chinh phụ dõi bóng chinh phu. Cứ mỗi lần chàng chuẩn bị đi vào “miền gió cát”, nhảy vào giữa lòng đất địch là mỗi lần tôi xót xa thầm hỏi: bao giờ chàng trở lại? Ai có từng là vợ của chiến binh mới thông cảm nỗi lo âu, niềm đau đợi chờ, sự cô đơn từng phút của người vợ lính trong thời chiến chinh. Ôi, Đồng Xoài, Bình Giả… đất bằng sẽ phong ba, khói lửa ngút ngàn và chồng tôi sẽ đi vào chốn ấy. Tôi thắt thỏm, tôi héo hon theo từng bước anh đi, tôi đợi anh về mà lòng tơi bời vụn nát….sợ anh về trên đôi nạng gỗ, tôi nghẹn ngào nghĩ đến ngày anh trở về “bên hòm gỗ cài hoa…” chỉ nghĩ thế thôi mà nước mắt tôi lặng lẽ lăn dài. Tôi rời Nha Trang, tạm biệt chàng, tạm biệt những ngọn thùy dương rì rào những đêm tựa đầu nhau nghe sóng biển ngoài khơi, mang theo kỷ niệm những năm tháng bên chồng trở về gia đình tôi tại Sàigòn.

Sài gòn không có biển, không có thùy dương cát trắng, tôi cảm thấy bồi hồi nôn nao nhớ, bâng khuâng và nuối tiếc những ngày nồng nàn phấn hương đã vội qua…. “Sài gòn đẹp lắm, Sài gòn ơi”, Sài gòn vẫn nhộn nhịp bao tà áo, từ quán cà phê Continental giọng hát trầm ấm, truyền cảm của Sĩ Phú vọng ra “nắng Sài gòn em đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”. Trời ơi, tôi còn tâm trí nào để chìm đắm trong những giòng âm thanh đó, tôi vội bước nhanh để xa rời tiếng hát như muốn rượt đuổi theo. Một sự tương phản đầy ray rứt như diễu cợt, cách vài mươi cây số đường chim bay, súng nổ đạn bay, thây người ngã qụy. Khuôn mặt diễm lệ Sài gòn, Hòn Ngọc Viễn Đông, mà đối với tôi, nó như những loại trang sức diêm dúa trên thân xác loang lổ đạn bom, trên hình hài còm cõi của Mẹ Việt Nam. Tôi làm gì có áo lụa Hà Đông để mặc, nỗi ước mơ đó đối với tôi là vô nghiã, tôi chỉ cần có chàng, tha thiết bên chàng mà thôi. Nhất định anh phải trở về và về nguyên vẹn hình hài nha anh, nha Hồ Đăng Nhựt dấu yêu của em!

Chồng tôi từ hậu cứ Nha Trang về Vũng Tàu để chuẩn bị hành quân. Buổi chiều, nhận được tin của người anh gọi tôi ra để gặp chàng. Năm đó tôi mang thai đứa con đầu lòng được ba tháng, đến cổng trại vào lúc 6 giờ chiều, tôi đã gặp Thiếu Tá Thơm, Đại úy Mai Viết Triết và Đại úy Xuân đang đứng trước trại. Tôi hỏi xin cho gặp chàng, các ông ấy nói: "thím đã đến trễ mất rồi, Nhựt mới vừa từ giã chúng tôi bước ra bãi phi cơ trực thăng". Từ trong vô thức não nùng chợt ùa về loáng thoáng bên tai những vần thơ Cung Oán Chinh Phụ: “Bóng chàng đỏ tợ ráng pha, ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”. Cũng một buổi chiều chiến chinh năm xưa, người chinh phụ tiễn đưa chinh phu lên đường ra trận mạc, con tuấn mã trắng phau như màu tuyết hí vang lừng, cất vó uy nghi nổi bật bên giáp trận rực đỏ như màu ráng cuối trời quan tái. Tôi, hôm nay đơn lẻ, nước mắt đoanh tròng, đứng nhìn theo từng chiếc trực thăng từ từ cất cánh, tiếng động cơ ầm đùng, gió bụi xoáy cả một vùng, tâm tư tôi rối bời như cỏ úa, loạn cuồng theo từng vòng quay cánh quạt, lòng quặn thắt từng cơn nhìn đàn chim sắt khuất dần về hướng đông bắc Bình Giả trong màu tím thẳm của sương khói hoàng hôn mờ nhân ảnh… Bình Giả, một địa danh đang sôi sục lửa chiến tranh, thần chết đang đợi chờ, chốc nữa đây chàng sẽ hiện diện nơi đó. Trận đánh này có nhiều đơn vị bộ binh, kể cả tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Cuộc giao tranh đã quyết liệt diễn ra, tiếng bom đạn vọng về.

Cộng quân tổn thất nặng nề, nhiều chiến sĩ Quốc Gia cũng đã hy sinh. Những toán hoạt động của chồng tôi đã bị lộ, nên anh đã băng rừng vượt suối mấy ngày đêm liên tục mới ra được núi Thị Vãi tại Bà Rịa. Chàng đã nguyên vẹn trở về, cám ơn Thượng Đế che chở cho chàng, chúng tôi bên nhau những ngày phép ngắn ngủi tại Sài gòn.

Đến năm 1966, các anh toán trưởng cũng lần lượt mỗi người một nơi, riêng chồng tôi vẫn ở lại đơn vị cũ. Lúc bấy giờ Chỉ Huy Trưởng trại Đằng Vân là Phan Duy Tất, ông này về không bao lâu lại thành lập thêm mấy toán nữa. Tôi nhớ những toán trưởng rất trẻ là: Ngô Văn Thơm, Tô Mười, Nguyễn Ngọc Thiệp, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Văn Biên, v.v… các toán trưởng lần lượt thay phiên nhau đi hết cuộc hành quân này đến cuộc hành quân khác. Các địa danh đẫm máu như Phú Bài, Bồng Sơn, Chu Lai, Khe Sanh, Huế..., cường độ chiến tranh leo thang, tiếp theo là Pleime, trận chiến này, các đội và trưởng toán đã hy sinh rất nhiều.. Trong cảnh đạn lửa trùng điệp, nhiều phi công trực thăng của Không Lực VNCH, khi thấy đồng đội bên dưới bị nguy khốn đã bất chấp mạng sống, liều thân trong các phi vụ đổ quân và tiếp tế lương thực. Nhiều chiếc đã bị bắn rơi tan tành, lửa bốc cháy ngút trời. Lúc đó có Trung úy phi công trực thăng Nguyễn Văn Vui, liều một phen sinh tử đem mạch sống cho đồng đội bằng những thùng lương thực. Từ trên cao Trung úy Vui thình lình “cúp” máy cho phi cơ rơi xuống như khối sắt và quay 180 độ, gần đến mặt đất cho trực thăng nổ máy lại, thán phục thay người phi công dũng cảm của QLVNCH.

Đầu năm 1967, tôi lại mang thêm đứa thứ hai mới sanh gần một tháng. Vợ của anh Nguyễn Ngọc Thiệp cùng sanh một lượt, cô này là em chồng của tôi. Lúc này chồng tôi đang hành quân tại Vùng 2 Chiến Thuật sắp về. Tôi được tin từ Sài gòn và ra hậu cứ đón chồng, thường khi mỗi lần xong công tác là anh được đi phép. Trong lúc chờ phi cơ trở về Sàigòn, anh Nguyễn Ngọc Thiệp bị tử nạn do thùng tiếp tế lương thực từ trực thăng Mỹ rớt xuống, cái chết của anh Thiệp rất thảm thương. Ôi, chinh chiến bất hạnh từng ngày đến với dân tộc Việt Nam, đứa con của anh Thiệp mới chào đời còn đỏ hỏn đã vĩnh viễn không thấy mặt cha và vành khăn sô oan nghiệt vội quấn trên đầu người vợ trẻ. Hôm sau chồng tôi đưa xác Thiệp -người em rể – trở về Sàigòn an táng. Những ngày phép qua mau trong sự buồn bã, mất mát của người thân. Anh trở lại đơn vị, tôi lại theo chàng về Nha Trang sau 3 tháng sanh nở.

Năm Mậu Thân 1968, tôi trở về Sài gòn và đứa con thứ ba đã chào đời. Việt Cộng đột nhập và tấn công thành phố Sài gòn, khắp các tỉnh lỵ đều nổ súng. Trong trận Mậu Thân, chồng tôi lại mất thêm một đồng đội, Trung úy Nguyễn Văn Tùng đã tử trận tại Tòa Tỉnh Trưởng Nha Trang lúc hai bên kịch chiến. Nửa năm sau ông Phạm Duy Tất đã thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến Thuật, chồng tôi đã phục vụ trong LLĐB từ năm 1962 đến năm 1968. Lúc này anh được lệnh thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến Thuật nhận chức vụ Trung Tâm Hành Quân của C3 tại Biên Hòa. Sau đó ông Chỉ Huy Trưởng là Trung Tá Phạm Duy Tất đưa anh nhận chức làm Yrưởng trại Chí Linh ở Sông Bé, được một thời gian anh đi qua trại Tống Lê Chân ở Bình Long và Lộc Ninh. Đến năm 1969 anh coi trại Tống Lê Chân, sau cùng anh về B3 hành quân ở B15 cho đến năm 1972.

Đến cuối 1972 Lực Lượng Đặc Biệt được lệnh giải tán để bổ xung qua các lực lượng bạn như: Biệt Động Quân Biên Phòng, Nha Kỹ Thuật và các quân binh chủng khác. Anh đã chọn về Sở Liên Lạc thuộc Phòng 7 Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu và làm việc tại đó cho đến cuối năm 1974.

Đầu năm 1975, anh được lệnh đi nắm Bộ Chỉ Huy nhẹ ở Chiến Đoàn 2 tại Ban Mê Thuột và Kontum. Lúc này tình hình chiến sự trở nên căng thẳng, hỗn loạn, phương tiện di chuyển vô cùng khan hiếm và khó khăn. Hai ngày ròng rã chờ đợi tại phi trường Tân Sơn Nhất nhưng vẫn không có phi cơ, anh đành lên phi trường Biên Hòa và đã được lên đường sau đó. Khi đến trình diện tại Chiến Đoàn 2, mỗi sĩ quan phải thay phiên nhau hành quân 10 ngày. Đến ngày 20 tháng 3 năm 1975, Thiếu Tá Cao Triều Phát đã đem lương lên căn cứ hành quân để phát cho anh em. Ông Thiếu Tá Phát bảo chồng tôi, "'mày' đã xong công tác rồi, có đi theo chuyến bay này về không"? Anh không muốn xa đồng đội trong lúc này, nhất là lúc tình hình đang rối ren vì được lệnh sắp rút quân để di tản chiến thuật, hơn nữa các bạn anh đề nghị thôi chúng mình sẽ về chung cho vui. Vì vậy, anh đã nhờ Thiếu Tá Phát mang tiền lương về cho tôi, anh chỉ giữ lại 500 đồng để tiêu xài và nhắn là vài hôm sau anh sẽ về Sài gòn.

Trên đường rút quân “Triệt Thoái Cao Nguyên”, dọc theo Quốc Lộ, sự di chuyển rất hỗn tạp. Anh được lệnh thượng cấp dẫn quân đi tiên phong để mở đường, bảo vệ và đưa dân chúng về đồng bằng tránh khỏi nạn đao binh và cướp bóc. Sáng ngày 25 tháng 3, anh gởi điện về gặp tôi và báo ngày mai sẽ gặp mẹ con tôi tại Sài gòn. Chỉ còn 24 giờ ngắn ngũi, tôi chờ đợi trong sự hồi hộp xen lẫn niềm vui cho cuộc tương phùng. Chiều cùng ngày, trên đường rút quân, anh cùng Thiếu Tá Hải và vài sĩ quan nữa trên xe, một trái đạn B40 từ phiá Cộng quân mai phục bắn trúng ngay người tài xế cháy không còn xác, Thiếu Tá Hải văng ra khỏi xe bị cháy đen, riêng chồng tôi bị dập nát mặt nhìn không ra. Trong xe chết 3 người, còn lại 3 người đều bị thương không nguy hiểm đến tánh mạng.

Như thường lệ mổi sáng, từ khu cư xá gia binh của trại Nguyễn Cao Vĩ, trên chiếc Honda ra cổng đưa con đi đến trường, tôi đã thấy Trung úy Thọ và Thượng sĩ Sanh, hai người này chận tôi lại, đôi mắt ái ngại và ngập ngừng cho tôi biết hung tin: "Xin chị bình tĩnh, tin chính xác báo cho biết Đại úy Hồ Đăng Nhựt đã tử thương trên đường rút quân chiều hôm qua". Tôi như bị sét đánh, tim tôi như ngưng đập, trước mặt tôi cảnh vật bỗng tối sầm và đảo lộn, tai tôi ù lên những tiếng kêu quái dị, mặt đất bỗng nhiên nhấp nhô dậy sóng. Tôi rụng rời, tôi chao đão, tôi ngã qụy, chiếc xe Honda với đứa con tôi cũng đổ theo. Các anh em mang tôi vào bệnh xá, sau khi hồi phục tôi làm thủ tục đi nhận lãnh xác chồng.

Một trong hàng vạn chuyển kể đầy nước mắt của người vợ lính!




"Ngày mai đi nhận xác chồng, ngày mai đi nhận xác anh, cuồng si thuở ấy hiển linh bây giờ". Trời ơi, Hồ Đăng Nhựt ơi! Anh đã bỏ mẹ con em, anh đã bỏ lại bạn bè và đồng đội trong lúc đất nước đang hồi nghiệt ngã. Tôi cùng các anh em đi đến Nghiã Trang Quân Đội tại Biên Hòa, được một chú lính đưa tôi đi qua dãy hộc tủ chứa đựng tử thi và cuối cùng chúng tôi dừng lại. Dừng lại để chấp nhận một sự bẽ bàng, dừng lại để gói trọn một vụn vỡ đến tê dại toàn thân, nhận một kiếp đời góa phụ. Chiếc hộc tủ gói gọn hình hài của Thiếu Tá Hải và thân xác chồng tôi đang nằm bất động. Trời ơi! “Em không nhìn được xác chàng, anh lên lon giữa đôi hàng nến chong”, thi hài chồng tôi nằm trên chiếc băng ca, khuôn mặt đã bể nát, tôi chỉ nhận diện chàng qua tấm thẻ bài. Tấm thẻ bài này nó đã từng theo chàng qua những đoạn đường máu lửa, nó đã từng ấp ủ nhớ thương về người vợ bé nhỏ và đàn con dại mỗi khi dừng bước quân hành giữa lưng đồi của rừng khuya tịch mịch, cuối rặng sim bạt ngàn. Bây giờ “áo bào đã thay chiếu, anh về đất” yêu đương kia đã cùng anh chấp cánh bay tới một vùng trời miên viễn...

(ngưng trích)

Bản nhạc “Ngày mai đi nhận xác chồng” của Phạm Duy có lẽ là bản nhạc gây xúc động nhiều nhất tại miền Nam Việt Nam trong thời chiến đã được mượn lời từ bài thơ “Tưởng như còn người yêu” của Lê Thị Ý mà ít người được biết. Nhà thơ Lê Thị Ý định cư tại Vùng Hoa Thịnh Đốn từ nhiều năm nay, và chưa bao giờ… lập gia đình. Có lần hỏi chị lấy cảm hứng ở đâu để viết những câu thơ diễn tả tình cảm chân thành gây xúc động như vậy, và cũng không buồn phiền khi đứa con tinh thần của mình bị thay họ đổi tên, nhà thơ cười buồn, trả lời:

Những người làm thơ thường có một tâm hồn nhạy cảm và thường “thương vay khóc mướn.” Nhưng khi làm bài thơ “Thương Ca 1” tôi đã thật sự khóc, vì lúc đó, chiến tranh lan tràn trên quê hương và tại Pleiku, nơi tôi cư ngụ, những hình ảnh đau thương, tang tóc xảy ra quanh tôi hàng ngày, hàng đêm…Cho nên tôi đã đau nỗi đau của người lính, tôi đã đau nỗi đau của các cụ già, các em thơ. Và tất nhiên tôi đã đau nỗi đau của người vợ mất chồng vì súng đạn…

Những thành phố mà tôi đã sống, đã đi qua: Saigon, Nha Trang, Đà Lạt... và cả yhủ đô nước Mỹ giàu mạnh, cũng chẳng làm cho tôi quên được Pleiku trong những ngày lửa đạn. Do đó, đề tài trong thơ tôi, thường thì không thoát ra khỏi hình ảnh quê hương và người tình lính chiến.

Không biết tự bao giờ, tên bài thơ “Thương Ca” của Lê Thị Ý hay là bản nhạc “Tưởng Như Còn Người Yêu” sau khi Phạm Duy phổ nhạc, đã biến mất! Có lẽ mấy lời mở đầu bài thơ tuy thật giản dị, nhưng tràn đầy xúc động, nên khán thính giả, không ai bảo ai, không hề có văn bản chính thức, đã cùng cho bài thơ, bản nhạc, một cái tên mới: “Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng”.

Dù tên bài thơ, bản nhạc, là gì đi nữa, thì vẫn chỉ nói lên được một phần trong những đau thương ngút ngàn của người dân Việt, người phụ nữ Việt trong cuộc chiến Quốc Cộng suốt hai mươi năm.

Nhà thơ ngừng lại trong vài giây rồi thở dài nói nhỏ: “Bây giờ nhắc lại thì cũng chỉ là những câu chuyện của một thời đã qua”.

Vâng, đúng như câu nói của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mà nhiều người thường nhắc lại: “Nước mất là mất tất cả”. Tất cả đều vô nghĩa.

Ký Thiệt
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	1588064559-tu1.png
Views:	0
Size:	383.0 KB
ID:	1665777   Click image for larger version

Name:	1588064570-tu2.png
Views:	0
Size:	477.5 KB
ID:	1665778   Click image for larger version

Name:	1588064580-tu3.png
Views:	0
Size:	109.1 KB
ID:	1665779  

The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (10-06-2020), huudangdo1 (10-07-2020), phokhuya (10-09-2020), trungthu (10-06-2020)
Old 10-06-2020   #290
hoathienly19
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 1,482
Thanks: 2,322
Thanked 1,734 Times in 804 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 24 Post(s)
Rep Power: 8
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default AM THỜ 626 VONG LINH TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VNCH TẠI TRẠI TÙ KHỔ SAI BA SAO - NAM HÀ

THẮP NÉN HƯƠNG LÒNG - AM THỜ 626 VONG LINH TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VNCH TẠI TRẠI TÙ KHỔ SAI BA SAO - NAM HÀ


Bia thờ 626 linh hồn những người tù xấu số đã nằm xuống trong cô đơn và buồn tủi tại trại tù lao động khổ sai Ba Sao





Xin kính cẩn nghiêng mình "thắp nén hương lòng" trước tấm bia không mộ của 626 người tù chính trị VNCH đã chết trong nhà tù Ba Sao, Nam Hà giai đoạn 1975-1988; và rất nhiều những người tù chính trị VNCH khác đã chết oan khiên trong ngục tù cộng sản.





Lời đầu


Lẽ ra, câu chuyện này phải được chúng ta kể cho nhau nghe một cách trọn vẹn. Tiếc rằng, vì một số lý do ngoài ý muốn, “người trong cuộc” (1) đã ngừng sự giúp đỡ tôi nên việc thu thập, tìm hiểu thông tin đã bị gián đoạn.


(1) Người trong cuộc:
Những người đã giúp đỡ tôi có được thông tin để viết bài viết này. Tên các nhân vật trong bài đã được thay đổi.

Hơn nữa, xuất phát từ nhu cầu an toàn cá nhân của nhân chứng, nỗi lo về sự can thiệp hầu phá vỡ sự bình yên, tôn nghiêm của ngôi Chùa - nơi đặt tấm bia thờ 626 người tù chính trị nên người viết đã phải rất cân nhắc khi chuyển tải thông tin đến bạn đọc.

Nhưng tôi tin, câu chuyện dù không được kể trọn vẹn như mong muốn cũng sẽ khiến chúng ta thấy xót xa cho Thân phận quê hương.

Một Thân phận quê hương được phản chiếu từ Thân phận của những người con Việt bị bức tử bằng cách này hay cách khác trong một giai đoạn khốc liệt, đau thương nhất của lịch sử.






Phần 1: Chuyến tàu vét


Sau khi cưỡng chiếm miền Nam, một trong những hành động đầu tiên mà chế độ cộng sản thực hiện là trả thù những người từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).

Hầu hết những cựu quân nhân cán chính, những viên chức từng làm việc trong chính quyền VNCH, hoặc bị nghi ngờ thuộc thành phần này đều bị đưa đi “ cải tạo”, nhưng thực chất là chịu lưu đày tại các nhà tù trên khắp cả nước. Một trong những nơi khét tiếng tàn bạo ở miền Bắc, từng giam cầm hàng ngàn cựu quân nhân cán chính VNCH là nhà tù Ba Sao, Nam Hà.

Con tàu cuối cùng chở tù chính trị từ Nam ra Bắc có cái tên rất thơ mộng:

Sông Hương .

Rời Sài Gòn ngày 18/4/1977,
sau 2 ngày 3 đêm (2), tàu cập bến Hải Phòng, tiếp tục hành trình lưu đày tù ngục của 1200 con người thuộc “bên thua cuộc”.

(2) Hai ngày ba đêm :
Dựa vào lời kể của nhân chứng và qua hồi ký “Tôi phải sống” của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ

“Chúng tôi, cứ hai người bị chung một chiếc còng.

Vừa lên đất liền, hai bên đường đã có người dân Miền Bắc đợi sẵn. Họ ném gạch đá vào chúng tôi.

Vừa ném, vừa chửi rủa, mạ lỵ rất thậm tệ. Nhiều người trong số chúng tôi bị ném trúng, vỡ đầu, chảy máu và thương tích”.







Đấy là lời kể của ông Nam, một trong những người tù bị đẩy ra Bắc trong chuyến tàu Sông Hương. Khi cộng sản cưỡng chiếm Miền Nam, ông Nam đang là thiếu úy quân đội VNCH. Chi tiết này cũng được Linh mục Nguyễn Hữu Lễ thuật lại trong cuốn hồi ký “Tôi phải sống”.

Từ Hải Phòng, số tù nhân này bị tách ra để chia rải rác cho các trại giam khác. Bài viết này xin chỉ đề cập tới những người tù ở Ba Sao, Nam Hà.


Không riêng gì những người tù Ba Sao, hầu như tất cả những người từng phục vụ trong chính quyền VNCH đều bị bắt sau biến cố 30/4/1975. Một số bị đưa ra Bắc ngay thời kỳ đầu. Nhiều người khác bị giam cầm ở miền Nam sau vài năm mới bị chuyển ra Bắc, rồi lại trở ngược vào Nam để tiếp tục cuộc đời lao tù cho đến ngày chết, hoặc trở về khi sức cùng lực cạn.






Nhà tù Ba Sao lại “rộng cửa” đón thêm vài trăm người từ chuyến tàu vét Sông Hương, nơi đang đọa đày hơn 600 tù VNCH đã bị chuyển đến từ những chuyến tàu trước đó.


Tôi có dịp hỏi chuyện linh mục Nguyễn Hữu Lễ (ngài hiện đang sống tại New Zealand) và một nhân chứng khác (sống tại Sài Gòn), thì nhà tù Ba Sao thời bấy giờ chia làm 4 khu giam giữ.


Khu A :



Giam cầm các thành phần thuộc viên chức chính phủ, dân biểu, nghị sĩ, sĩ quan cao cấp như :

- Thượng nghị sĩ Huỳnh Văn Cao

- Bộ trưởng Đàm Sỹ Hiến

- Bộ trưởng Trần Ngọc Oành

- Tướng Lê Minh Đảo

- Ông Văn Thành Cao

- Tướng Nhu

- Tướng Trần Văn Chơn, ông Nguyễn Văn Lộc…, hay lãnh tụ Quốc dân đảng là

- Ông Vũ Hồng Khanh.

Khu B :


Giam những quân nhân cán chính, những người bị buộc tội “phản động” như

- Linh mục Nguyễn Hữu Lễ

- Linh mục Nguyễn Bình Tỉnh...

Khu C : Giam tù hình sự miền Bắc.


Khu Mễ:


Giam cầm những người bệnh tật, đau yếu. Trong khu Mễ lại có một khu “Kiên giam”.

Khu “Kiên giam” dành cho các tù nhân bị kỷ luật với điều kiện giam giữ vô cùng khắc nghiệt. Đã có rất nhiều tù nhân chết trong khi bị “kiên giam”.






“Chúng tôi bị chuyển từ nhà tù miền Nam tới nhà tù Ba Sao miền Bắc trong chuyến tàu Sông Hương vào tháng 4/1977. Lúc ấy nhóm của tôi có 350 người ra đi từ trại Giaray tỉnh Xuân Lộc.

Ở Ba Sao được 9 tháng, tôi bị chuyển lên trại Quyết Tiến còn gọi là “Cổng Trời” thuộc tỉnh Hà Giang, nằm sát ranh giới Trung Quốc.

Một năm sau đó tôi về trại Thanh Cẩm, tỉnh Thanh Hóa.

Mười năm sau, tức tháng 1/1987,
tất cả tù chính trị miền Nam còn sót lại rải rác trong các trại miền Bắc được dồn hết về trại Ba Sao, Nam Hà, trong đó có tôi. Nhưng đội của tôi trước khi tôi rời Ba Sao ra đi nay đã chết quá phân nửa.

Tết năm đó có một đợt tha tù, được tổ chức rất ồn ào.

Đến tháng 5/1987, tất cả số tù nhân từ miền Nam còn sót lại, được chuyển hết về Nam để ở tù tiếp.

Chỉ còn “sót lại” 3 người ở miền Bắc, đó là linh mục Nguyễn Bình Tỉnh, anh Nguyễn Đức Khuân và tôi. Hầu hết họ đã chết. Chết vì tuyệt vọng, đói rét, suy kiệt, tiêu chảy, kiết lỵ và nhiều bệnh khác”.

Tác giả Bút ký “Tôi Phải Sống” bùi ngùi kể lại.


Tôi rùng mình tự hỏi, có bao nhiêu tù nhân chính trị đã chết trong suốt thời kỳ từ 1975 trở về sau ?

Bao nhiêu ở nhà tù Ba Sao ? Bao nhiêu ở Cổng Trời, Thanh Hóa, Phú Yên, Xuân Lộc, Xuyên Mộc, Hàm Tân, Bố Lá...?

Bao nhiêu người đã bị bách hại bởi chính người đồng bào ruột thịt mang tên “cộng sản”, và chết lặng câm ở khắp các nhà tù từ Bắc-Trung-Nam trên dải đất đau thương này ?

Không ai biết chính xác, nhưng số người phải bỏ xác ở khắp các nhà tù hẳn không phải là con số ít.

Một ngày nào đó, chế độ cộng sản sẽ phải trả lời những câu hỏi này trước quốc dân đồng bào. Cũng như trả lại sự thật lịch sử cho Dân tộc này.





Phần 2 : Tấm bia thờ 626 người tù chính trị


“Có một tấm bia thờ những người tù đã chết ở trại Ba Sao, Nam Hà. Nghe nói tấm bia được đặt trong một ngôi chùa ở Miền Bắc.

Ngoài tấm bia ra còn có một ngôi Am thờ (3) những người tù này được dựng ngay khu đất thuộc trại giam. Người làm tấm bia này là một cựu Giám thị nhà tù Ba Sao. Em cố gắng đi tìm các anh ấy nhé !”.


(3): Am:
Trong tín ngưỡng tôn giáo là nơi thờ Phật, thờ cúng thần linh hoặc vong linh. Am có phạm vi, diện tích nhỏ hơn Miếu.


Một người anh, cũng là cựu tù chính trị hiện sinh sống tại Pháp đã nhắn tôi như thế. Tôi chưa bao giờ trải qua cảm xúc đặc biệt và đầy ám ảnh như lần này. Chuyện thật khó tin :

Một trùm cai tù cộng sản dựng một tấm bia và Am thờ những người tù Việt Nam Cộng Hòa !


Câu dặn dò “em cố gắng đi tìm các anh ấy nhé” làm tôi xót xa. Hình như tôi sắp làm một công việc rất khó khăn và cũng rất thiêng liêng. Hai chữ “các anh” không còn là cách xưng hô nữa mà là tiếng gọi gần gũi, thân thương của những người chung khát vọng.

Chứ theo tuổi tác, họ là bậc cha chú của tôi- đứa nhóc Bắc kỳ sinh sau biến cố 1975.

Mãn án tù nhà (4), tôi lên đường.

(4): Mãn hạn tù nhà: Với tôi, án quản chế là một hình thức tù tại nhà. Tôi hết án quản chế vào tháng 9/2015.


Địa chỉ ngôi Chùa không chính xác nên tôi phải đi tìm hơn hai ngày mới đến nơi. Đó là một ngôi Chùa nhỏ, nằm khiêm tốn bên một con phố khá đông đúc. Sư trụ trì đi vắng, tôi lang thang cho hết thời gian rồi trở lại vào buổi chiều.

- Thưa thầy, con được người quen giới thiệu đến đây. Nghe nói nhà Chùa có đặt một tấm bia thờ những người tù đã chết ở trại Ba Sao, Nam Hà ?

Nghe tôi nhắc đến tấm bia, nét mặt thầy tái đi, không giấu được vẻ bối rối.

- Bác Thanh giới thiệu con đến đây.

Nhận ra người quen, sư thầy trở nên cởi mở hẳn.

Sư thầy kể rằng vài năm trước, cô Thu Hương (một Phật tử) đưa viên cựu Giám thị đến gặp sư thầy.

Viên Giám thị trao cho sư thầy một danh sách gồm 626 người tù đã chết trong trại Ba Sao từ năm 1975 đến 1988.

Vị này ngỏ ý muốn làm một tấm bia đặt trong nhà Chùa để thờ cúng các hương linh. Đây không phải ngôi Chùa đầu tiên họ gõ cửa. Những ngôi Chùa trước đều từ chối vì sợ. Các vị sư trụ trì không muốn giữ một danh sách toàn “sĩ quan ngụy” và công khai đặt tấm bia thờ người tù ngay trong Chùa.

- Có cách nào liên lạc với hai người ấy không thưa thầy?

- Khó lắm. Người Giám thị sau khi làm xong tấm bia thì không trở lại đây nữa. Chỉ có cô Thu Hương thời gian đầu vẫn hay tới Chùa tụng kinh và thắp hương cho 626 vị ấy.

Nhưng kể từ khi đứa con trai 15 tuổi của Thu Hương bị tai nạn giao thông chết hai năm trước, cô ấy không tiếp xúc với ai nữa.

- Thầy có nghe nói đến ngôi Am thờ 626 vị này không?

Tôi hỏi, không giấu nổi vẻ hồi hộp khi chờ câu trả lời.

- Đúng là có cái Am thờ. Nhưng tôi chưa tới thăm bao giờ. Nghe nói nằm trong vùng đất của trại giam thì phải.

- Vậy ai có thể đưa con tới đó ?

- Chỉ có người Giám thị và cô Thu Hương thôi. Nhưng Thu Hương thì như tôi vừa nói đấy, cô ấy buồn chán, tuyệt vọng từ ngày mất con nên không còn thiết chuyện gì. Còn người Giám thị thì từ đó không thấy trở lại nữa. Số điện thoại cũng đổi rồi.

Tôi bắt đầu nhìn thấy sự mịt mù phía trước.

Người giữ sổ sách đi vắng. Sư thầy hẹn tôi dịp khác trở lại, sẽ cho tôi xem danh sách 626 người tù. Thầy dẫn tôi xuống nhà linh, nơi đặt tấm bia.

Tôi cảm thấy rợn rợn khi bước chân vào Nhà linh, nơi đặt di ảnh của những người quá cố. Có mấy người đội khăn tang đang ngồi tụng kinh cho người thân mới qua đời.

Tìm mãi không thấy tấm bia đâu. Tôi bắt đầu lo. Sư thầy quả quyết rằng tấm bia đặt ở phòng này nhưng lâu ngày không nhìn lại nên ngài không nhớ chính xác vị trí nào.

- Ôi đây rồi ! Sư thầy reo lên.

Tôi sững người lại. Vừa nhìn thấy tấm bia, nước mắt tôi ứa ra.

Tôi không xác định được cảm xúc của mình lúc đó. Vui vì đã “tìm thấy các anh”, như lời người anh đồng tù nhắn nhủ, hay buồn vì tôi lại chứng kiến thêm một nỗi đau đớn của quê hương?

Tôi lập cập lục tìm trong túi xách chiếc máy ảnh. Tôi hay bị lúng túng mỗi khi cảm xúc bị “quá độ”.





Sư thầy dặn chỉ chụp tấm bia thôi, đừng để những di ảnh xung quanh lọt vào ống kính.
Cảm giác tủi thân và xót xa khiến tôi không nói nổi tiếng “vâng” một cách rõ ràng.





Trước khi về, tôi gửi một ít tiền để sư thầy giúp việc nhang khói cho “các anh”.

Tôi cầm theo nải chuối, mấy quả cam thầy vừa cho, chậm rãi cuốc bộ trên con phố. Tôi không khóc, nhưng cổ họng nghèn nghẹn và bước chân nặng nề.

Một tuần sau tôi trở lại Chùa. Sư thầy đi vắng. Vừa nghe tiếng tôi trong điện thoại, sư thầy nhận ra ngay:

- Chị Nghiên hả ? Tiếc quá ! Thầy đã hỏi người trông coi sổ sách của nhà Chùa rồi. Nhưng chị ấy nói là danh sách đã được hóa đi từ hôm Rằm tháng bảy.

Tôi chết đứng người. Cố gắng lắm tôi mới thốt lên được một câu nghe như không phải giọng của mình.

- Sao lại đốt hả thầy, sao thế được?

- Thì nhà Chùa nghĩ là không cần dùng đến danh sách ấy nữa nên tiện dịp lễ Vu Lan thì hóa luôn cùng với áo mũ, vàng mã chị ạ.

- Thầy ơi ! Thầy làm ơn kiểm tra lại giúp con với. Cái danh sách ấy... 626 người tù... thầy ơi, thầy làm ơn!

Tôi cố gắng trấn tĩnh để van lơn.

- Thầy không thể làm gì hơn chị Nghiên ạ. Chúng tôi sẽ hương khói đầy đủ cho các vị ấy.

Nói xong, sư thầy cúp máy.

Một cảm giác còn tệ hơn sự tuyệt vọng. Tôi ôm mặt ngồi thụp xuống giữa đường. Một đứa bé từ đâu chạy lại, trân trân nhìn tôi. Hình như bộ dạng tôi làm đứa bé sợ. Nó co chân chạy, không ngoái lại nhìn.

Bấy giờ tôi nhận thấy, có một thứ cảm xúc rất giống với nỗi buồn, rất giống với niềm tuyệt vọng. Nhưng không hoàn toàn như thế. Thứ cảm xúc thật khó gọi tên.

Tôi về nhà, lầm lỳ đến vài hôm.








Không thể dễ dàng bỏ cuộc được, tôi quyết định đi Nam Hà để tìm đến ngôi Am thờ. Người anh đồng tù buồn rầu bảo:

- Không có cô Thu Hương hay vị Giám thị dẫn đường, em không tìm được đâu.

Lần này thì tôi thật sự tuyệt vọng. Tấm bia, danh sách và Am thờ, tôi chỉ hoàn thành một phần ba công việc.

Tôi nghĩ đến người Giám thị.

Không biết vì lý do gì viên Giám thị lại làm một việc cấm kỵ và mạo hiểm như thế. Hơn ai hết, người này phải ý thức được mức độ nguy hiểm của việc mình làm, nhất là nếu thông tin bị lộ ra ngoài. Chắc chắn phải có một lý do sâu xa và rất đặc biệt để người này làm thế.

Vì lợi nhuận ư ? Không ai dại dột vì chút giá trị vật chất mà đánh đổi cuộc sống bình yên của mình. Vả lại, bản thân nghề cai tù đã là một cơ hội để làm giàu một cách rất an toàn.

Người anh đồng tù và bác Thanh lý giải rằng, niềm tin tâm linh đã thúc đẩy người Giám thị và cô Thu Hương làm như thế. Có thể người Giám thị sợ bị vong hồn của những người tù tìm đến hỏi tội chăng ? Lý giải này không hẳn là vô lý.


Tôi đã từng nghe và được biết những chuyện tương tự như thế khi còn trong nhà tù Thanh Hóa. Đã là cai tù, không ít thì nhiều, không chủ ý thì cũng bắt buộc phải dính vào tội ác. Song dù với lý do gì, thì hy vọng cũng có phần trăm nào đó của sự ăn năn, của chút lương tâm bị hối thúc.


Tôi vốn không mê tín, không tin chuyện dị đoan nhưng tin rằng luôn có một thế giới tâm linh đang nhìn ngó thế giới con người. Ước gì một ngày nào đó, duyên cớ run rủi để chúng ta được biết trọn vẹn câu chuyện về 626 người tù chính trị Ba Sao, Nam Hà.

Chúng ta cần được biết về số phận của những người từng bị cộng sản bách hại để hiểu về một giai đoạn lịch sử đã tạo nên thân phận đau thương của dân tộc này.





Phạm Thanh Nghiên
danlambaovn.blogspot .com

Last edited by hoathienly19; 10-06-2020 at 17:48.
hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following 3 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (10-07-2020), huudangdo1 (10-07-2020), phokhuya (10-09-2020)
Old 10-07-2020   #291
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,409
Thanks: 21,697
Thanked 38,211 Times in 12,889 Posts
Mentioned: 636 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7249 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Buồn đến kiếp nào nguôi!



1.Quận Hoài Nhơn, 1969, một năm sau Tết Mậu Thân.

Tôi nhận lệnh dẫn một nửa Đại đội 202 CTCT, từ Ba Gi (Qui Nhơn), đại bản doanh của Sư Đoàn 22BB, ra tăng phái cho Trung đoàn 40 –lúc ấy đóng tại Đệ Đức, trên đường Bồng Sơn và Tam Quan. Nửa đại đội được chia làm hai toán. Mỗi toán gồm trên dưới mười người do một chuẩn úy chỉ huy, hằng ngày, theo lịch trình, đi xuống các xã ấp thuộc quận, hoặc bằng xe dodge cơ hữu, hoặc thỉnh thoảng, vì lý do an ninh, bằng trực thăng của Sư đoàn I Không Kỵ (1st Cav) Hoa Kỳ, để làm công tác, một cách độc lập, nhưng đôi khi phối hợp với một toán Dân sự vụ Mỹ. Xuống những xã, ấp xa xôi, hai toán chúng tôi phải tự bảo vệ lấy, và vì thế được trang bị súng ống tương đối đầy đủ, và các toán viên thường là lính tác chiến lâu năm hoặc bị thương đổi về, có nhiều kinh nghiệm chiến trường. Ít khi phải nhờ đến sự trợ giúp của những đơn vị địa phương quân hay nghĩa quân.

Tôi nhớ buổi sáng hôm đó là ngày 25 tháng 12, đúng lễ Giáng Sinh. Chuẩn úy Hoàng, một trưởng toán, bị bệnh. Tôi phải đi thay, dẫn toán của anh đến ấp Vĩnh Phụng, xã Hoài Xuân –nằm dọc, cũng như những xã khác của quận Hoài Nhơn, trên hai bờ sông Lại. Không khí cuối năm vắng ngắt, đơn điệu, đến độ nhàm chán. Tại những vùng quê hẻo lánh Việt Nam thời ấy không có nhà thờ, không tổ chức mừng Giáng Sinh rầm rộ như dân thành thị, Sài Gòn, hay Nha Trang của tôi, chẳng hạn, dù có đạo hay không. Không có tiếng chuông giáo đường ngân nga, rộn rã. Không có, như bây giờ, cây sapin giăng đèn lấp lánh, và ông già Nô-En đứng trước cửa siêu thị, rung chuông leng keng, chúc lễ và phát quà cho trẻ em. Chỉ có một ngôi nhà thờ duy nhất tại thị trấn Bồng Sơn cho toàn quận Hoài Nhơn, và dân Công giáo, từ các xã ấp, phải lên đó để dự lễ mỗi sáng Chúa Nhật.

Chúng tôi đến Vĩnh Phụng làm công tác Dân sự vụ và Tâm lý chiến. Như thường lệ. Nghĩa là bắc loa kêu gọi dân trong ấp đến tập họp trên một khoảng đất trống, rộng, và chung quanh có bóng cây xanh mát, gần trụ sở ấp, rất an toàn. Tại đây, họ được y tá khám bệnh thông thường, phát thuốc tại chỗ, hoặc được xe của toán chở về bệnh xá Bồng Sơn trong trường hợp bệnh nặng, cấp cứu… Hay được nghe một toán viên nói chuyện, nhắc nhở: đề cao chính nghĩa quốc gia, kêu gọi đồng bào đừng bỏ xóm làng, “lên núi thoát ly” theo Việt Cộng, đừng “ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản” v.v… Các em nhỏ được phát kẹo bánh, tập vở, bút mực, và sau đó được tập bài quốc ca VNCH hay những bài hát quen thuộc, ví dụ, tôi nhớ, Việt Nam, Việt Nam nghe từ vào đời… Việt Nam, nước tôi…hay Đây Bạch Đằng giang, sông hùng dũng của nòi giống Tiên Rồng…

Làm xong bấy nhiêu công việc thì đã hết buổi sáng. Tôi cho cả toán nghỉ ngơi, ăn trưa và tự do đi lại trong ấp, nhưng không quá xa, chờ đến giờ trở về Đệ Đức. Còn tôi và một vài anh lính trải poncho nằm trên cỏ, bên gốc cây, ngước nhìn ánh nắng lấp lánh chiếu qua vòm lá và nghe tiếng chim hót líu lo trên cành. Một số toán viên, còn trẻ, xin đi vào nhà dân, để thăm hỏi các cụ già và, tôi đoán, để nhân dịp, tán gẫu với các cô mơn mởn đào tơ, má hồng môi thắm tự nhiên. Thực vậy, theo cặp mắt cá nhân, chủ quan, của tôi, gái Bồng Sơn và Tam Quan nổi tiếng đẹp nhất vùng Bình Định, nếu không muốn nói cả Vùng II Chiến Thuật.

2.Tôi đang lim dim mắt, miên man suy nghĩ chuyện đời, và một anh lính đang nghêu ngao một bài vọng cổ, thì bỗng một tiếng mìn nổ vang, từ bờ ruộng, không xa chỗ tôi nằm bao nhiêu. Giật mình chồm dậy, chụp vội cây súng, và thấy một làn khói đen tỏa bay trong không gian. Nghe tiếng kêu la của vài em nhỏ hớt hải chạy về phía tôi: “Ông Thiếu úy ơi, có con nhỏ Út bị thương nằm kia kìa…” Cũng đoán biết được chuyện gì đã xảy ra, cả toán tất tả đi theo các em, về phía cánh đồng, súng cầm tay, trong tư thế sẵn sàng nhả đạn. Đến nơi, thấy nằm gục nửa dưới ruộng, nửa trên bờ, một bé gái, tức “con nhỏ Út”, độ tám, chín tuổi, cao và gầy đét như khúc củi, mình mẩy và mặt mày đầy máu, nhuộm đỏ cả chiếc áo cụt trắng. Mấy đứa trẻ mách: Út ra ruộng sớm, mót lúa, đã đạp phải mìn gài sẵn. Chưa biết của bên nào. Tôi thận trọng, đưa mắt quan sát hiện trường, xem có quả mìn hay lựu đạn nào chưa nổ, hay một tên du kích nào đang rình chờ chúng tôi.

Y tá Thám cúi xuống, cầm lấy tay Út bắt mạch, rồi đặt ống lên ngực nghe nhịp thở, tiêm một mũi thuốc không tên, mà anh nói để “cầm máu”, và cho uống hai viên aspirine để giảm đau, trong khi tôi choàng tay, cẩn thận, đỡ bé ngồi dậy. Người bé mềm nhũn, miệng rên nho nhỏ, liên tục. Vì trái mìn bẫy đặt ngược hướng, sợi dây kíp khá dài, và nổ khi Út đứng khá xa, nên thân thể còn nguyên vẹn, không nát bấy, chỉ bị ghim đầy những miểng sắt li ti. Gương mặt xinh xắn của bé, có vẻ già dặn trước tuổi, lúc ấy xanh như tàu lá, và cặp mắt lờ đờ ngước nhìn tôi. Thám quay sang, kín đáo khẽ lắc đầu, và tôi hiểu. Từ thân thể Út máu tiếp tục chảy từng giọt, chắc bé đau đớn lắm. Bé kêu khát. Tôi mở bi đông, đổ nước vào nắp, cho bé uống vài hớp nhỏ. Vừa suy tính rất nhanh. Tại các ấp, như Vĩnh Phụng, làm gì có trạm cấp cứu, nhân viên y tế, hay thuốc men. Chở đi Bồng Sơn không kịp nữa, vì bé đã yếu lắm rồi, lả người trong vòng tay tôi. Gọi máy PRC 25 về trung đoàn, buổi trưa, không gặp ai. Gọi thẳng Sư đoàn 1st Cav Mỹ xin trực thăng tải thương thì không biết tần số, và tốn thời gian lắm, lại sợ họ không tin mình. Không còn biết làm gì hơn, tôi dùng khăn ướt lau sơ máu trên mặt, trên tay của bé và cầu nguyện cho bé gắng gượng thêm độ nửa giờ nữa thôi –thời gian vừa đủ để xe chúng tôi chở kịp về tới Bồng Sơn.

Bỗng Út mở to mắt, nhìn thẳng vào tôi, ngơ ngác, như vừa tỉnh cơn mê từ một cõi nào rất xa xôi. Bé thều thào hỏi:

– Con qua nổi không chú?

Tôi liếc nhanh về phía y tá Thám, rồi gật đầu:

– Qua nổi chứ con! Nếu con hứa là con gượng thêm nửa giờ nữa…

Bé mở hé đôi môi, cố gắng mỉm cười khó khăn, lắc nhẹ đầu, và đáp khẽ:

– Không kịp đâu chú, con biết con không sống nổi, con mệt quá rồi. Khi nãy trong giấc mơ, con có gặp ba cô mặc áo trắng tinh, có hai cánh trên lưng, nói đang chờ để rước con đi…

Rồi Út tiếp, giọng rời rạc, càng lúc càng nhỏ dần, nhỏ dần:

– Chú ơi, con muốn được ôm, trước khi chết… con là đứa mồ côi, không cha không mẹ, không người thân thích… con ở đợ, mót lúa cho nhà người ta… không có ai thương con hết… con muốn được ôm, một lần này thôi…

Tôi bật khóc, ôm bé vào lòng, hôn lên trán, lên tóc bê bết máu, mà nước mắt tuôn rơi như mưa, chảy xuống ướt chiếc áo trận, hòa lẫn với máu của bé chưa khô. Vừa lúc ấy, trên cặp môi tím ngắt bé như cố nở một nụ cười mãn nguyện. Rồi ngoẹo đầu vào ngực tôi, bé làm động tác muốn giơ hai cánh tay lên, nhưng không đủ sức, lại bỏ xuống, và nửa giây sau, bé từ từ nhăm mắt, và trút hơi thở cuối cùng trong tay tôi. Tất cả diễn ra không đầy bốn phút, từ lúc gặp bé nằm ở bờ ruộng.

Tôi nhẹ nhàng buông xác bé xuống, đặt nằm ngay ngắn trong tấm poncho còn mới của tôi. Bé đã được liệm bằng poncho, giống như một người lính chiến thật sự. Giống như những đồng đội của tôi chết trận, mà tôi được chứng kiến, tại Ban Mê Thuột, Kontum, Phan Thiết… năm nào. Chung quanh, mọi người vẫn đứng yên, lặng thinh, mắt đỏ hoe, kể cả tốp lính địa phương quân vừa kịp đến để chứng kiến cảnh tượng thương tâm này. Tôi biết, cũng như tôi, những người lính, rất chai lì vì phải thường trực thách đố với cái chết cận kề, và định mệnh tàn nhẫn, không khóc dễ dàng. Nhưng trước thân xác gầy guộc, đẫm máu, của Út, một bé gái nạn nhân vô tội của chiến tranh khốc liệt, phi lý, cây cỏ cũng khóc theo, huống chi người. Khi tôi hỏi, mìn do ai gài, một anh địa phương quân nói lớn, có vẻ tức giận:



– Mìn của mấy thằng du kích Việt Cộng gài đó, ông thầy. Còn ai trồng khoai đất này. Sáng nay, tụi em chưa kịp đi gỡ thì con nhỏ Út ra ruộng sớm, đạp trúng. Tội nghiệp nó quá.

Tôi giao tấm poncho gói xác Út cho nhóm địa phương quân và moi tiền từ bốn túi quần, cộng với tiền gom góp của anh em tự nguyện trong toán, không đếm bao nhiêu, nhưng đoán khá bộn, đưa hết cho trung sĩ trưởng nhóm, và nói:

– Tôi nghe nói bé Út mồ côi, nghèo khổ, nên nhờ các anh mua cái hòm cho bé và làm phước, chôn cất tử tế giùm. Còn thiếu bao nhiêu các anh bù giúp cho.

3.Trên đường về lại Bồng Sơn, cả toán không ai nói với ai một lời nào. Giống như một lần trước đó không lâu, khi chúng tôi chở đến bệnh xá quận lỵ một bé trai mười tuổi từ một ấp, xã khác, gần hơn, đã đạp phải lựu đạn cũng của Việt Cộng –bị thương khá nặng, nhưng sống sót, vì được cứu kịp thời, chỉ phải cưa một chân. Tôi ngồi im, như tượng đá, và mắt vẫn còn cay sè. Đến Bồng Sơn, đi ngang nhà trọ của Thơ Thơ, tôi bảo tài xế dừng lại, chờ tôi mười phút. Nàng mở cửa, thấy quần áo tôi dính đầy máu, hoảng hốt kêu lên:

– Trời ơi, anh bị thương phải không?

Tôi lắc đầu, gượng mỉm cười. Nàng ôm tôi vào lòng, siết chặt, như sợ tôi biến thành mây bay đi, và tôi kể hết câu chuyện bé Út. Nàng vừa nghe vừa rơm rớm nước mắt. Rồi nghẹn ngào nói nhỏ:

– Tội nghiệp bé quá. Tối nay em sẽ thắp nhang khấn vái cho hồn bé được siêu thoát. Sau khi nghe chuyện này, em yêu anh quá, em yêu anh hơn, em yêu anh mãi mãi. Mãi mãi, anh biết không? Cái chết cũng không bao giờ có thể chia lìa hai đứa chúng ta.

Hôm sau, Hoàng hết bệnh, tôi trả lại toán để anh dẫn xuống Vĩnh Phụng tiếp tục công tác thường nhật. Còn tôi, từ đó cho đến ngày rời bỏ Bồng Sơn trở về Bà Gi, tức hơn nửa năm sau, không bao giờ đặt chân lên ấp đó nữa, dù chỉ ghé qua một lần. Để tránh nhớ một trong những kỷ niệm thảm thương nhất, nếu không muốn nói một kỷ niệm thảm thương nhất, trong suốt đời lính. Sau ba tháng, tôi được lệnh của trung đoàn ngưng công tác tại quận Hoài Nhơn, và điều động cả hai toán ra Tam Quan –một quận lỵ nguy hiểm nhất của Bắc Bình Định.

4.Rồi qua bao nhiêu thăng trầm, trong suốt bốn mươi bảy năm kể từ Noël 1969 đó, tôi cố quên cái chết của bé Út, cũng như của Thơ Thơ –đã gục ngã trên đường di tản tháng 4 năm 1975, khi đoàn người chạy loạn bị Việt Cộng pháo kích. Cố quên và xem tất cả như một dĩ vãng tàn khốc và kỷ niệm thảm thương của chiến tranh, của một thời để yêu và một thời để chết. Cố quên, nhưng không thể được.

Đặc biệt bé Út. Quả thế, cứ mỗi cuối năm khi mùa Giáng Sinh tới, và cứ mỗi lần tôi giơ tay ôm hug ai, thì hình bóng tội nghiệp của bé bỗng dưng lại hiện về trong tâm trí, với thân xác đầy máu và thương tích, với vẻ mặt đau đớn tột cùng, với những lời trối trăng, đứt quãng, “con muốn được ôm… không ai thương con hết…” Hỡi ơi, buồn này biết đến kiếp nào mới nguôi? Bé hiện về như một ám ảnh dịu dàng, vời vợi. Như một linh hồn nhỏ mồ côi, trắng tinh như tờ giấy mới, lạc loài giữa trần ai quỷ ma ác độc. Như một quý nhân phù trợ mà hương linh lẻ loi còn mãi lẩn quất bên người, hơn cả chiêm bao, qua suốt nửa thế kỷ. Để cùng với Thơ Thơ –người rất yêu dấu bên dòng sông tương tư ngày nào– nắm tay tôi, dắt đi qua những phong ba của cuộc đời.

Portland, ngày Giáng Sinh, 25/12/2016

Kim Thanh
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	15588144906_f706cc1079_b.jpg
Views:	0
Size:	75.1 KB
ID:	1666777   Click image for larger version

Name:	biet-dong-quan-qlvnch.jpg
Views:	0
Size:	90.7 KB
ID:	1666778  
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (10-07-2020), huudangdo1 (10-07-2020), phokhuya (10-09-2020), trungthu (10-08-2020)
Old 10-07-2020   #292
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,409
Thanks: 21,697
Thanked 38,211 Times in 12,889 Posts
Mentioned: 636 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7249 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Một câu chuyện thương tâm



Một câu chuyện thương tâm, chỉ có người dân Miền Nam mới hiểu thấu câu Nước Mất Nhà Tan sau ngày mất Nước.

Tôi Nguyễn Văn Đề, sinh ra là một ngôi sao xấu trong những ngôi sao
xấu nhất của bầu trời đất Việt. Cha mẹ tôi nghèo lại phải sinh sống
trong một miền quê hẻo lánh gần một vùng núi rừng heo hút, xa xôi, đất
cày lên sỏi đá.

Tôi chưa bao giờ được cắp sách đến trường. Do đó, từ lúc mới lên bảy,
tôi được một nhà phú hộ mướn chăn dê.

Với đàn dê 40 con, hằng ngày tôi phải lùa chúng vào các triền núi đá
từ sáng sớm tinh sương đến chạng vạng tối mới về. Cả ngày chăn đàn dê
gặm cỏ. Chiều đến tôi phải gom dẫn chúng về nhà phú hộ. Công việc chỉ
đơn thuần như thế. Còn việc trả công, tôi không hề hay biết. Đó là
việc của người lớn: – Của cha mẹ tôi và nhà phú hộ.

Sáng sớm được mẹ đánh thức, tôi rửa ráy qua loa rồi rủng ra rủng rỉnh
dẫn đàn dê vào núi cho chúng tự tìm thức ăn.

Sáng nào cũng vậy, mẹ trao cho tôi một nắm cơm vắt, đựng trong mo cau
với một ít muối ớt, gói trong miếng lá chuối khô. Đó là bữa cơm trưa
hàng ngày của tôi.

Tôi chưa bao giờ biết ăn sáng hay lót lòng bao giờ. Ngay cả buổi cơm
cũng chỉ có muối ớt. Họa hoằn lắm mới được thay đổi bữa cơm với một
con cá lép khô muối mặn bằng hai ngón tay. Đó là bữa ăn khá thịnh
soạn, ngon miệng nhất đời chăn dê mà tôi đã hoan hỉ lắm rồi.

Ngồi ăn nghe tiếng lục lạc rủng rẻng trên cổ của bầy dê cũng vui tai quá đỗi.

Đời tôi thăng hoa hơn, năm 1973, vừa đúng 18 tuổi, tôi xin đăng vào
Nghĩa Quân, được tuyển mộ và thăng chức ngay là Nghĩa Quân Viên-một
cấp bậc nhỏ nhoi nhất trong hàng ngũ Nghĩa Quân. Tôi hãnh diện được
xúng xính trong quân phục ‘lính áo đen’.

Đời tôi bắt đầu sáng lạn hơn thằng chăn dê rồi đó! Tôi được dạy cho
biết cách sử dụng súng trường Carbin M1 và trong khi đó, “Em Một”
(Carbin M1) là ‘người tình’ đi theo tôi trong suốt quãng đời lính
tráng này.

Tôi được phục vụ ngay tại địa phương nơi tôi chào đời và lớn lên trong
đói nghèo, cơ cực. Tiểu đội của tôi gọi là ‘tiểu đội thám báo’.

Nói ‘thám báo’ cho oai, chứ thực ra, nhiệm vụ chính của tiểu đội là
ban ngày canh gác trụ sở Xã, ban đêm tiểu đội thường xuyên di chuyển
từ địa điểm này đến địa hình khác với mục đích tránh sự dòm ngó, quan
sát theo dõi của địch, để khỏi bị tấn công sát hại.

Tuy tránh giao tranh với địch song anh tiểu đội trưởng gọi nhiệm vụ đó
là ‘phục kích đêm’ để phá vỡ đường dây liên lạc của Việt Cộng.

Vào đầu tháng tư năm 1975, tiểu đội di chuyển đến một bờ ruộng. Tuy
nói là ẩn núp, ngụy trang, che dấu để tránh sự quan sát của địch, song
chúng tôi cũng phải chia phiên ra canh gác cẩn mật. Khi phát hiện
địch, chúng tôi cố ý ẩn nấp để tránh giao tranh và sáng hôm sau sẽ báo
cáo để thỉnh thị quyết định của thượng cấp.

Nào ngờ đêm hôm đó, cái đêm định mệnh của đời tôi và cũng là một đêm
tận cùng của tên du kích Việt Cộng, từ rừng núi rình mò về thôn xóm để
nhận tiếp tế. Đêm hôm đó, chẳng may hắn lơ đễnh thế nào mà đi lọt vào
ổ phục kích của chúng tôi. Lúc đó là phiên gác của anh Cường nhưng anh
ta ngủ gà ngủ gật, mắt nhắm mắt mở, khi tỉnh giấc anh thấy một bóng
đen xuất hiện quá gần chỗ anh đang gác. Giật mình, anh Cường nổ súng
bắn một băng tiểu liên và tên du kích ngã gục sau phát đạn khai hỏa
đầu tiên của anh ta.

Sáng hôm sau, chúng tôi lật xác tử thi địch để nhận dạng và biết rõ
tên du kích là một người dân trong xã vừa thoát ly gia đình theo Việt
Cộng, khoảng vài tháng trước. Hắn ta theo du kích vào rừng và làm liên
lạc viên cho đám du kích.

Sau đó chúng tôi được lệnh mang xác anh du kích về Xã để cho thân nhân
anh ta nhận xác về chôn cất.

Đây là một chiến thắng đầu tiên kể từ ngày thành lập tiểu đội mang tên
‘thám báo’ của chúng tôi.

Lẽ dĩ nhiên một tiểu đội ‘áo đen’ làm gì có phương tiện tải thương để
chuyên chở tử thi địch như các đơn vị Chủ Lực Quân hay Địa Phương
Quân.Vì thế, hôm ấy chúng tôi phải dùng 2 cây sào tre, rồi lấy áo đi
mưa cá nhân, kết hợp làm băng ca, khiêng tử thi tên du kích về xã.

Chúng tôi thay phiên nhau, hai người một, kẻ trước người sau, ì ạch
khiêng cái xác từ bờ ruộng này đến bờ đê khác. Gần đến trụ sở Xã,
chúng tôi được lệnh của anh trung đội trưởng cho đặt tử thi trước trụ
sở Xã.

Rủi ro cho tôi khi khiêng tử thi về gần đến nơi, người bạn khiêng phía
sau vừa bảo tôi vừa thả buông băng ca xuống:

– Đặt xác nó tại đây đi!

Anh bạn vừa thả băng ca thì trời bất chợt đổ cơn mưa rào. Tôi đem lòng
thương hại kẻ xấu số nên cố nắm chặt hai cáng băng ca, lôi xác tử thi
vào thẳng trong chợ để xác khỏi bị…mưa ướt.

Đó là lòng nhân từ của bất cứ ai cũng phải cư xử với người chết như
thế. Tôi vừa đặt tử thi xuống, bất ngờ một người đàn bà đập thình
thịch vào lưng tôi, nhục mạ, chửi rủa om sòm:

– “Cái quân trời đánh! Chồng tao đi thăm ruộng về khuya. Bọn mày giết
chồng tao!!” rồi lôi xác xềnh xệch như lôi kéo một con chó. “Trời ơi
là trời!”

Tôi định giải thích nhưng nghĩ lại bà ta cũng có cái đau khổ của người
vợ bị mất chồng, nên tôi đành cắn răng chịu đựng, bỏ đi mà không cần
giải thích cặn kẽ cho bà ấy.

Một tháng sau, tháng tư đen năm 1975, đổ sụp về, tất cả các sĩ quan từ
thiếu úy trở lên phải trình diện học tập cải tạo tại các trại tập
trung lao động khổ sai.

Các anh em hạ sĩ quan, binh sĩ và Nghĩa Quân được học tập tại địa
phương 20 ngày thì được cho về sinh hoạt với gia đình. Riêng tôi lại
bị vợ của tên du kích, nay là chủ tịch Ủy Ban Quân Quản kiêm Ủy Viên
Chính Trị Xã, ra lệnh chuyển tôi từ địa phương ra trại cải tạo Lam Sơn
với tội danh: Thành phần ác ôn, nguy hiểm, có nợ máu với nhân dân…

Những ngày đầu ở Lam Sơn, tôi cố tìm các anh em nghĩa quân khác mà tôi
quen biết. Tôi đã không tìm thấy bất cứ ai, kể cả anh Cường, người
Nghĩa Quân đã bắn chết anh du kích. Các ông trung đội trưởng, tiểu đội
trưởng, tôi cũng chẳng thấy ông nào. Thậm chí ngay cả các anh ‘linh áo
đen’ đã đi phục kích đêm hôm đó, cũng chẳng có ai!

Tôi bị phân bổ vào nhà H.22 gồm 50 thiếu úy, chỉ có một mình tôi là
Nghĩa Quân Viên.

Những ngày đầu, các ông thiếu úy cũng quá đỗi ngạc nhiên và hỏi tôi:

– Mày là thằng nghĩa quân quèn, sao lại trình diện vào đây để ngồi
tù?! Ủa, mày muốn tình nguyện học tập hả?

Có người thì nói ôn tồn, thương hại. Có ông thì nhìn tôi sòng sọc, gặng hỏi:

– Chứ bộ mày muốn mấy ổng trả lại cấp bậc nghĩa quân quèn cho mày hay sao?

Tuy bị hạch hỏi nhưng lúc nào tôi cũng ôn tồn, nhã nhặn trả lời:

– Dạ em đâu dám mơ ước như thế đâu thiếu úy!
Dù sao đi nữa, đời tôi cũng đã thăng hoa lắm rồi.

Ngày xưa, có bao giờ tôi được ăn chung, ngủ chung với các vị sĩ quan
trẻ này đâu. Thiếu úy, ít ra các ông ấy cũng là trưởng ban, trưởng
phòng, cuộc trưởng … gì đó trong chi khu, nên lúc nào tôi cũng kính
nể, tôn trọng các vị sĩ quan ấy.

Lao động trong trại tù chừng gần hai năm, các ông thiếu úy lần lượt ra về.

Tôi lại bị dồn vào ở tù chung với trung úy và đại úy. Đời tôi sao được
thăng cấp nhanh quá. Không bao lâu, chúng tôi bị chuyển ra trại Củng
Sơn, Phú Yên. Khoảng 3 năm có rất nhiều trung úy và đại úy lần lượt ra
về. Trại lại nhốt chung tôi với các ông thiếu tá mà ngày xưa tôi chưa
bao giờ dám xuất hiện gần các vị ấy vì các ông này ít ra cũng là các
cấp chỉ huy của đại úy Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng của tôi. Đời
tôi lại thăng hoa, thăng cấp nhanh như chớp. Càng được sống gần các vị
thiếu tá, tôi càng kính phục họ nhiều hơn. Các ông ấy hiền, đạo đức,
xem tôi như em út trong trại tù.

Sau đó, chúng tôi lại bị dời về A.30. Ở tù hơn 5 năm, hầu hết ai ai
cũng được về đoàn tụ với gia đình. Cá nhân tôi lại được thăng cấp ở
chung với một đại tá và 12 người tù chính trị khác mà trại gọi là ác
ôn, có nhiều nợ máu với nhân dân. Đời tôi tuy thăng hoa, thăng cấp
nhanh, nhưng càng thăng bao nhiêu thì ngày về lại càng xa tít mù khơi
bấy nhiêu. Tôi hết trông mong có ngày trở về gặp lại vợ con.

À, mà tôi quên kể cho quý vị nghe về gia đình, sự nghiệp, thân thế của tôi…

Năm 18 tuổi tôi cũng đã lập gia đình với con Nại. Cô gái này nhà cũng
nghèo, cũng được phú hộ mướn chăn dê như tôi. Cả hai chúng tôi thường
xuyên gặp nhau ở chỗ thả dê gặm cỏ. Không biết trời xuôi đất khiến thế
nào khi tôi gia nhập ‘quân áo đen’ dưới ‘cờ vàng ba sọc đỏ’ thì Nại
cũng vừa lớn, nó mắc cỡ không chịu chăn dê nữa. Mẹ tôi thấy nó siêng
năng, hiền lành như búp măng bụ bẫm nên mẹ tôi đem Nại về và nó trở
thành vợ tôi hồi nào tôi cũng chẳng hay biết gì!

Vợ chồng quê rất đơn giản, khỏi cần học những câu văn chương lãng mạn
để trao cho nhau làm gì cho mất thì giờ.

Tôi cũng không nhớ rõ, cái đêm động phòng hoa chúc ấy … ra làm
sao..Tôi đã nói với Nại những gì… âu yếm Nại như thế nào..nhưng sáng
ra, tôi thấy Nại nằm trọn trong vòng tay tôi. Tôi biết ngay, bây giờ
tôi đã có vợ. Gần một năm sau, Nại cho tôi hai đứa con trai sinh đôi
rất khoẻ mạnh. Một năm sau, Nại lại sinh đôi nữa. Đứa con gái chăn dê,
nay là người mẹ 4 con. Hồi đó, ‘quân áo đen’ không được hưởng phụ cấp
gia đình như anh em Chủ Lực Quân và Địa Phương Quân. Bản thân tôi, chỉ
được lãnh lương 1.200 đồng mà phải nuôi sáu miệng ăn. Khi tôi đi tù,
Nại một mình nuôi cha mẹ già tôi và bốn đứa con thật vất vả.

Suốt thời gian tôi bị tù, Nại thăm nuôi tôi được 3 lần: lần đầu khi
tôi mới bước chân vào trại Lam Sơn, lần thứ nhì tại trại A.30. Hồi đó,
trại cho tôi được ngủ đêm với Nại trong nhà ‘thăm nuôi” và Nại sinh
thêm đứa thứ năm. Lần thứ ba, khi được báo có người nhà thăm nuôi, tôi
vội vàng ra cổng trại thì được biết một thảm kịch đã xảy ra lôi thôi
cho gia đình tôi. Chiếc xe chở vợ của các tù nhân đi thăm nuôi chồng

bị lật và có hai người chết, trong đó có Nại. Xác Nại vì không có thân
nhân nhận nên địa phương nơi xảy ra tai nạn đã chôn xác Nại ven rừng.
Và năm đứa con tôi đưọc một người quen biết sinh sống cùng địa phương
của Nại cũng đi thăm nuôi chồng, mang giùm mấy đứa nhỏ vào trại giao
cho tôi.

Nại chết để lại 5 đứa con với một ràng bánh tráng, một ít mắm ruốc kho…

Năm đứa con, ngồi khóc vì không có mẹ, nên trại cho tôi dẫn chúng vào
trại để ở tù chung với tôi. Đời tôi bắt đầu rẽ một khúc quanh.

Nại chết, để lại hai đứa 7 tuổi, hai đứa 6 tuổi và một đứa chưa đầy
hai tuổi. Lúc đầu sáu cha con tôi được anh em cùng tù giúp đỡ. Anh em
bớt phần ăn ít ỏi của chính mình, chia sớt cho tôi để nuôi năm đứa
nhỏ. Sau đó trại thấy bất tiện nên cho tôi một cái lều tranh cũng
trong khuôn viên của trại tù và cấp ba tháng thực phẩm đầu tiên để tôi
tự túc nuôi con sau này.

Cảnh gà trống nuôi con. Tình cảnh hụt hẫng. Thức ăn thiếu thốn. Cuộc
đời dở khóc dở cười.

Một thời gian sau, nỗi sầu cũng đã lắng xuống nhiều, song hình ảnh của
Nại vẫn còn lắng đọng trong tâm trí tôi. Ngày ngày tôi cuốc đất trồng
khoai, trồng mì. Ba đứa con đầu cũng lẳng lặng theo sau tôi để phụ
giúp công việc lắt nhắt. Còn lại một đứa sáu tuổi ở nhà trông em hai

tuổi. Tối đến tôi bắt các con đi ngủ sớm. Tôi đã mất hẳn sự trầm tĩnh
và muốn bỏ cuộc. Ban đêm, năm đứa co rúm lại trong một cái mềm rách
trùm kín đầu ở một xó lều như muốn tránh những âm thanh dị kỳ, thét
gào của gió mưa bên ngoài. Tuy làm lụng rất vất vả nhưng hoa màu thu

hoạch cũng không đủ ăn. Thỉnh thoảng vào ban đêm, tôi dẫn con Thanh đi

đào mì và hái bắp trộm của trại về cho bầy con ăn thêm để tránh cái
đói đang hành hạ chúng.

Nào ngờ một đêm, tôi giật mình thức giấc thì thấy vắng mặt con Thanh -
đứa con gái đầu lòng mà thỉnh thoảng tôi dắt nó đi hái trộm bắp.

Tôi nhìn ra ngoài, bầu trời đen nnư mực. Mưa gió đang gào thét…

Tôi nghi ngờ là con Thanh đang đi bẻ bắp trộm. Tôi vội vã lách mưa đi tìm Thanh.

Sau một hồi tìm kiếm khắp các ruộng bắp, tôi cũng chẳng thấy nó ở đâu.

Trời tối thui như mực. Mưa rơi xào xạc, át hẳn tiếng kêu của tôi:

“Thanh! Thanh! Con ở đâu?” Nhưng tiếng kêu của tôi bị mưa gào, gió
cuốn mất hút trong không gian vô tận. Một chặp lâu sau, tôi nghĩ chắc
giờ này con Thanh cũng đã về nhà rồi nên tôi trở về. Quần áo xài xạc,
nhưng con Thanh vẫn chưa về nhà.

Đánh thức bốn đứa con, tôi gặng hỏi, mắng chửi cho một mẻ nhưng các
con chỉ ngơ ngác không biết chuyện gì đang xảy ra.

Tôi bảo các con đi ngủ tiếp và một mình ngồi chờ con Thanh về.

Một chặp lâu sau, tôi nghe tiếng súng bắn inh tai… Không biết chuyện
gì đã xảy ra thì khoảng nửa giờ sau, có tiếng la hét, hối hả của các
ông cán bộ đang đứng giữa nhà.

– Đêm hôm khuya khoắt mà mày sai con đi bẻ trộm bắp… Anh em công an đi tuần tra, tưởng nhầm con mày là tù trốn trại nên đã bắn chết nó rồi…
Khẩn trương theo tụi tao nhận xác nó về.

Điếng cả người, ruột gan tôi rối bời. Rụng rời tay chân, tôi vội chạy
theo họ. Đến nơi, tôi thấy con Thanh nằm chết thê thảm bên vũng máu.
Quanh bụng nó cột một sợi giây và nhét quanh mình chừng mười trái bắp
và hai củ khoai mì mà nó vừa mới nhổ. Trong môi miệng nó còn đang nhai
mấy hột bắp non. Do đó, tôi biết ban đêm vì đói, con Thanh ngủ không
được nên lén tôi đi bẻ bắp về cho các em nhai, không ngờ bị bắn chết
thê thảm như vậy.

Sáng hôm sau, tôi chôn Thanh mà lòng buồn rũ rượi. Tôi không còn một
chỗ nào trong tâm trí để căm thù. Ngôi mộ của Thanh nằm ngay trong
mảnh đất do cha con tôi khai phá. Ba ngày sau, tôi cúng mở cửa mả cho
Thanh bằng hai trái bắp và hai củ khoai mì đã đổi sinh mạng của nó.

Suốt đời Thanh là một chuỗi ngày dài bất hạnh vì thiếu tình thương của
cha, trong đói nghèo cơ cực của mẹ, và chết trong đói khát của cảnh tù
đày mà trẻ thơ mới có bảy tuổi đã phải nằm tù, gỡ lịch từng ngày với
cha. Thanh chỉ mong được ăn no, mặc cho đủ ấm, nhưng hoàn cảnh xã hội
đã hất hủi, không thương yêu nó.
Ngay cả trước 1975, vợ con của anh em lính Chủ Lực Quân và Địa Phương
Quân được lãnh phụ cấp gia đình, nên vợ con lính ai ai cũng đủ cơm ăn,
áo mặc. Còn vợ con của ‘quân áo đen’ thì đi chân đất, đầu trần, quần
áo tả tơi không một cấp lãnh đạo nào thèm quan tâm đến.

Hồi đó, anh em Nghĩa Quân chúng tôi cũng thuộc Q.L.V.N.C.H mà! Sao lại
phân biệt đối xử với anh em chúng tôi như thế?!
Sau 1975, tôi cũng bị ghép vào ‘ngụy quân’, cũng bị tù, bị hành hạ như
các anh em khác. Sao các ông ‘đỉnh cao của nhân loại’ không biết phân
biệt hành xử để ‘quân áo đen’ như tôi không bị dẫn con vào trại tù và
bị chết thảm như vậy?!

Bảy ngày sau, đúng vào ‘thất thứ nhất’, vào khoảng một giờ khuya, khi
tôi đang ngồi buồn và nghĩ đến hoàn cảnh của gia đình và cái chết thê
thảm của con Thanh …
Mưa đang rơi từng giọt như tiếng ai đang rên rỉ và sau đó tôi nghe
tiếng khóc của con Thanh. Tiếng khóc uất nghẹn, não nuột. Tôi mở cánh
cửa sổ bằng liếp tre nhìn ra ngoài. Mưa càng lúc càng to. Gió thổi ào
ạt. Dưới gốc một thân cây chồi, ngay chỗ chôn con Thanh, một vệt trắng

hiện lên…Tôi toát mồ hôi, tay chân lạnh ngắt. Tôi cố nhìn kỹ thì ra đó
là hình dáng của con Thanh.. Nó đang đứng trước mộ, khóc sướt mướt.
Quanh lưng cũng đang buột một sợi dây và treo tòn ten vài trái bắp như
lúc tôi nhận xác nó về. Tôi mất bình tĩnh và khóc nấc lên từng cơn. Có

bàn tay ai đó đang bám vào vai tôi. Con Nhàn, đứa con gái sanh đôi với
con Thanh, hai chị em giống như hai giọt nước. Con Nhàn đã đứng sau
lưng tôi tự hồi nào. Nó khóc ấm a ấm ức thật to tiếng. Tất cả các con
tôi đều thức dậy đang ở chung quanh tôi. Ngoài trời đang mưa. Con
Thanh vẫn còn đứng đó, nó khóc ngậm ngùi. Tôi hoảng hốt vừa nói với
các con tôi :”Để cha ra bồng con Thanh vào nhà” tôi vừa đẩy tấm liếp;
con Nhàn cũng chạy theo.

Nhưng khi ra đến mả thì hình dáng con Thanh không còn nữa. Tôi ngơ
ngác không biết chuyện gì đã xảy ra nhưng tôi vẫn còn bình tĩnh và
biết ngay rằng con Thanh đang bị chết oan, chết lạnh và chết đói trong
nỗi oan ức mà linh hồn của nó cũng chẳng có nơi nương tựa. Không biết
nghĩ sao tôi vừa khóc ừa vái trước mộ nó: “Ba đưa con vào nhà. Ba sẽ
luộc bắp cho con ăn.”
Sau đó tôi bồng con Nhàn vào nhà như thể tôi đã bồng con Thanh.
Vào nhà, tôi lấy một miếng gỗ nhỏ, tựa vào vách, rồi dùng bốn thanh
tre, chôn dưới đất làm bốn chân bàn để làm tạm bàn thờ cho con Thanh.

Trong khi đó, con Nhàn nổi lửa luộc hai trái bắp đẹt làm thức ăn cúng
cho con Thanh.
Tôi thấy trên bàn không có nước, tôi bảo con Nhàn lấy ly rót nước cúng
con Thanh.
Nhàn đi qua đi lại trong cái nhà tranh như đang tìm kiếm vật gì? Sau
đó nó lấy một cái gáo dừa đưa lên hỏi tôi: “Ba ơi! Nhà không có ly,
mình dùng cái chén này rót nước cúng chị Thanh được không ba?”

Nước mắt lưng tròng, tôi khẽ gật đầu.
Thế cũng xong, cũng qua một tuần cúng vái. Các em của Thanh vừa lạy
vừa khóc nức nở với tất cả lòng yêu thương người chị.

Tôi nhớ ra. Từ ngày vợ tôi đi thăm nuôi, xe bị lật chết. Nại chết tức
tưởi để lại năm đứa con cho tôi.. Kể từ ngày ấy đến giờ tôi cũng chưa
có cơ hội lập một cái bàn thờ cho Nại. Tôi vội tìm trong mớ giấy tờ có
cái chứng minh nhân dân của Nại. Tôi trang trọng vuốt hình vợ mình
trong Chứng Minh Nhân Dân; rồi nhẹ nhàng đặt hình của Nại lên miếng gỗ
mỏng làm bàn thờ. Tôi thờ chung hai mẹ con Nại và Thanh trên một manh
gỗ mỏng của thời phồn vinh giả tạo còn sót lại.

Từ hôm đó, Thanh cũng không về khóc nữa. Nó cũng biết an phận trong
cảnh lưu đày của một chế độ mà người bóc lột người… Thỉnh thoảng tôi
vẫn có những đêm ác mộng: “Nại bị chết kẹt dưới những đống hàng chồng
chất, máu me lênh láng còn Thanh thì đang nằm sóng soài trên một vũng
máu mà miệng vẫn còn nhai ngấu nghiến chưa nuốt xong mấy hạt bắp sống.

Duy Xuyên
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	637198223425498078emg.jpg
Views:	0
Size:	80.2 KB
ID:	1666811  
The Following 5 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
ez4me (10-07-2020), hoathienly19 (10-07-2020), huudangdo1 (10-07-2020), phokhuya (10-09-2020), trungthu (10-08-2020)
Old 10-09-2020   #293
hoathienly19
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 1,482
Thanks: 2,322
Thanked 1,734 Times in 804 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 24 Post(s)
Rep Power: 8
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default NGƯỜI CHIẾN SĨ VNCH

NGƯỜI CHIẾN SĨ VNCH :

KỶ NIỆM 65 NĂM THÀNH LẬP BINH CHỦNG THỦY QUÂN LỤC CHIẾN - PART 1





KỶ NIỆM 65 NĂM THÀNH LẬP BINH CHỦNG THỦY QUÂN LỤC CHIẾN - PART 2



Last edited by hoathienly19; 10-09-2020 at 18:30.
hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following 2 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (10-09-2020), phokhuya (10-09-2020)
Old 10-09-2020   #294
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,409
Thanks: 21,697
Thanked 38,211 Times in 12,889 Posts
Mentioned: 636 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7249 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Đại Bàng gãy cánh



Nghe nói ngày trước, khi tuyển một khóa sinh Không Quân, ngoài phần khám y khoa, còn có mục khảo sát về thẩm mỹ ngoại hình. Chẳng biết tin này có thiệt hay không, nhưng năm 1969 không còn thấy áp dụng nữa. KQ lúc này không còn ròng rã là những đấng hào hoa đẹp trai, mà đã lẫn lộn vào đó là vài khuôn mặt không mấy rạng rỡ. Nhân cơ hội này, Tú, Lương và tôi đã trà trộn vào thành phần “Thượng lưu của quân đội”.

Diễn tả lại dung mạo của thằng Tú, không gì điển hình hơn là nhắc lại câu nói của niên trưởng ngày huấn nhục ở Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang:

– Không hiểu ban tuyển mộ KQ mù cả hay sao mà ông lại lọt được vào đây!

Thật ra thằng Tú không đến nỗi xấu, nó chỉ bị rỗ hoa, miệng lúc nào cũng toe ra cười như cái loa của Tổng Lãnh Thiên thần Mi ca e. Nó nhỏ con nhưng có đặc tính là hễ giận ai thì hay nói:

– Ông vặn cổ mày bây giờ.

Hỗn danh nó là thằng Hố Lai, tuy nhà nó ở Sài Gòn. Phần tôi không biết căn cứ vào sách tướng số nào, mà thằng Tú nói tôi là thằng lừa thầy phản bạn, tiểu nhân và ra đời đụng đâu thua đó. Thằng Lương thì ngược lại, nó to con, da ngăm đen và có gương mặt rất nông dân chân chính, nên bọn tôi gọi nó là Võ Tòng Sát Tẩu. Con gái nhìn thấy nó cứ phải len lén quay đi chỗ khác, vì sợ nó tán nhầm.

Ba đứa chúng tôi thi nhau làm lung lay cái huyền thoại hào hoa của quân chủng. Nhập khóa 69A ở Nha Trang, Lương lớn nhất nên được tôn là sư huynh. Có một niên trưởng rất hắc ám tên là Thái hay phạt thậm vô lý nên Lương ra lệnh cho tụi tôi:
– Tao đặt tên cho thằng Thái là Dúi, nhưng tụi mày chỉ nên kêu nó là Dúi thôi chứ kêu Thái Dúi, nó biết nó phạt cho thì toé khói.

Tính Lương rất vui, một bữa kia nó thấy thằng Liên đang lau súng để gác đặc công gài chất nổ trong barrack (Chắc mọi người còn nhớ năm 1969 VC đã dùng plastic nổ doanh trại Trường HSQ Đồng đế làm chết rất nhiều khóa sinh) nó đến gần nhỏ nhẹ hỏi:

– Ê Leng, ke đẹ leng béng nghe bèng bèng hỉ?

(Ê Liên, cây đại liên bắn nghe bằng bằng hả)

Liên gốc người Quảng Nam nên nổi tam bành, xách súng đuổi Lương chạy vòng vòng trong barrack, miệng liên tục chửi:
– Tau béng xí mẹ thèng Béc Kỳ.
(Hình như nó nói: Tao bắn thấy mẹ thằng Bắc Kỳ) làm náo loạn cả Phi đội.

Mãn khóa quân sự trở về TSN, thi xếp lớp Anh ngữ, Lương học lớp 1100, tức lớp Anh ngữ vỡ lòng. Tôi rất ngạc nhiên vì trước khi sang KQ, Lương đã là Tr/s Thông Dịch Viên, nhưng nó tâm sự:

– Làm Thông Dịch Viên dễ hơn là học Anh Văn để du học. Hồi tao đi theo toán Dân Sự Vụ vô làng nọ để khám bệnh, phát thuốc cho dân chúng, có một bà khai bị bịnh mất ngủ, tao không biết dịch thế nào, nghĩ mãi mới ra câu; “Xi nô xì líp. Xi nít áp bờ rin”. Không biết thằng cha BS Mỹ có hiểu tao nói “She no sleep. She need apirin” không mà nó cũng phát cho bà ta một bốc thuốc.

Thấm thoát mấy tháng ở trường Sinh ngữ cũng qua mau, cả ba thằng chúng tôi lại gặp nhau ở Lackland, San Antonio , TX . Không biết thằng Lương kiếm ở đâu ra mà nhiều “bùa” lắm. Hôm trước khi thi test, nó mò xuống phòng tôi rồi bảo:

– Mày nhớ kỹ câu này “Có con chó cái cắn bạn đau chẳng ai đền. Bốn anh công an đi bên đường đỡ cho bạn”.

Tôi cũng chưa hiểu công dụng của lá bùa thì nó giải thích thêm:

– Cứ theo mẫu tự câu bùa mà khoanh vào. Có con chó cái nghĩa là bốn câu đầu là c, c, c và c; cắn bạn đau chẳng ai đền là c, b, d, c, a và d.

Quả thật bùa của nó rất linh, hôm đó tôi được 20/20. Lương xuống BX (Base Exchange) mua sắm, nó muốn mua một bộ đồ ngủ để mặc buổi tối. Ông nông dân này muốn đóng vai phú hộ trưởng giả ngày xưa. Nó ôm về một bịch ni lông trên đó đề rõ ràng chữ Pijama, nhưng mở ra thì cái quần cụt ngang đầu gối và cái áo cổ trái tim! Lương mặc vô trông rất cũn cỡn, nó chữa thẹn bằng câu khen: “Hết xẩy” rồi uốn éo đi tới đi lui như một tên GAY chính hiệu.

Đến nay hơn 30 năm đã trôi qua mà tôi vẫn còn hình dung được cái dung nhan Uất Trì Cung của nó rất tương phản với bộ đồ ngủ, mà tôi cứ ngờ ngợ là dành cho đàn bà. Lương ở khu GOẠP trong căn cứ (WAF: Woman Air Force) nhưng hầu như tuần nào nó cũng đón xe bus lên chỗ chúng tôi ở, những lúc này là lúc bạn bè tâm sự nhiều nhất, và cũng là lúc nó chọc thằng Tú nhiều nhất. Nó hỏi:

– Ê Hố Lai (Hố Nai) nghe nói ông cố nội mày ở gần nhà bà hàng xóm ông thầy đồ phải không?

Thằng Tú không hiểu nó muốn nói gì, nhưng cũng vặn lại:

– Ừ rồi sao?

– Vậy chắc mày rành điển tích lắm. Mày có biềt ông Lê Quý Đôn than rằng “Phi công nghèo lắm ai ơi. Áo thời thiếu nút quần thời thiếu lưng” không?

– Xạo vừa vừa thôi bố, thời đó làm gì đã có máy bay.
Lương gân cổ lên:

– Thằng nhãi ranh, nói có sách mách có chứng đây này. Ông Lê Quý Đôn có nói: Phi trí bất hưng. Phi công bất phú. Phi nông bất ổn. Phi thương bất hoạt. Phi công bất phú không phải lái máy bay nghèo mạt rệp là gì?

Thời gian du học sung sướng trôi qua nhanh, chúng tôi đều tốt nghiệp rồi về nước nhưng mỗi đứa một nơi. Lương ra Nha Trang lái A37; Tú lái trực thăng ở Phù Cát còn tôi Biên Hòa.

Hôm Lương về SG rủ tôi xuống xứ Bùi Thái thăm thằng Trinh, bạn cùng khóa 69A nhưng sau thiếu sức khoẻ phi hành nên đổi ra Bộ Binh. Lương nghe đồn là kế bên nhà Trinh có ông bán bánh mì bị ma bắt.

Câu chuyện thật hoang đường nhưng sự kiện thì rất khó giải thích theo khoa học. Khi chúng tôi đến Bùi Thái thì ông bán bánh mì vẫn còn nằm trong buồng, đầu tóc rụng trọc lóc.

Người nhà kể trước đây ông vẫn lên chợ Thủ Đức lúc ba bốn giờ sáng lấy bánh mì về bán rong. Hôm ấy như thường lệ ông chở một sọt đầy bánh mì đem về, khi chạy ngang Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa thì có người gọi lại mua cả sọt.

Ông nhìn mặt quen quen nhưng không nhận ra là ai. Mừng vì hôm nay được nghĩ sớm, ông ngủ một giấc nữa rồi ngồi dậy móc tiền ra đếm thì hỡi ơi, toàn là tiền vàng mã, loại để cúng người chết.

Lúc này ông mới sực nhớ lại khuôn mặt người mua bánh lúc sớm, đúng y như bức tượng Thương Tiếc mà ông vẫn thấy mỗi ngày khi chạy ngang qua nghĩa trang! Ông Bánh Mì hồn phi phách lạc, ông ốm luôn và mấy hôm sau thì tóc rụng sạch.

Lương trầm ngâm nói:

– Nghĩa Trang Quân Đội linh lắm. Nếu có chết, tao thích nằm ở đó hơn là nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi.

Vài tuần sau trong lúc ngồi hớt tóc, tôi đọc báo thấy phân ưu kín cả trang cuối, đọc kỹ thì ra đó là thằng Tú, vừa gãy cánh ở Phù Mỹ, Qui Nhơn. Tôi lặng người, thương tiếc một đứa bạn thân vừa hy sinh cho dân tộc.



Năm 1973 Lương đang bay A37 ở Nha Trang thì chuyển về phi đoàn F5 Biên Hòa. Nó tâm sự là tuổi mình cũng đã lớn, gia đình muốn nó “có nơi có chốn để gửi tấm thân”, nên lập gia đình với một người mà Lương mô tả là hết xẩy. Khoảng hơn năm sau, có đứa con trai đầu lòng nó khoe với tôi:
– Tao đặt tên con là Vũ, chữ vũ là mạnh, là mưa, là… nhiều nghĩa lắm.

Tôi chọc nó:
– Ừ “Vũ ỷ mạnh, Vũ ra Vũ múa. Vũ gặp mưa Vũ ướt hết lông”.

Lần cuối cùng tôi gặp Lương ở quán cà phê của phi đoàn nó, hôm đó nó đang trực hành quân. Tôi hẹn hai ngày nữa gặp nhau ở nhà Lương ngoài Tân Mai nhậu chơi.

Vài hôm sau, khoảng 5g chiều tôi từ SG lên Biên Hòa, vừa quẹo vào con hẻm nhỏ thì thấy chị của Lương. Tôi chưa kịp hỏi thì chị òa lên khóc:

– Thằng Lương nó đi hai ngày rồi không về.

Tôi tưởng nó biệt phái vùng khác nên nói:

– Biệt phái ít ngày rồi về chứ có gì đâu mà khóc.

– Không phải cậu ạ. Người ta nói nó nhảy dù khi máy bay bị bắn rớt.

Đoán là đã có chuyện khẩn cấp nên tôi hỏi vài câu rồi vọt vô phi đoàn, thấy Phi vụ lệnh có chiếc sẽ đi rescue chiếc F5 bị rớt tôi tình nguyện đi liền.

Khi chúng tôi đáp ở Bộ Tư Lệnh QĐ III để nhận tin tức của Quân Báo, thì vị Th/tá Trưởng phòng nói:

– Thôi anh về đi. Tin nhận được là tụi Trung Đoàn 24 Chiến xa BV đã bắt được phi công rồi!

Tôi trở về phi trường, lấy xe chạy ra nhà Lương thì chỉ gặp cô Mừng, cháu gái của Lương đang coi nhà. Tôi cũng không biết báo tin thế nào cho ổn nên xã giao vài câu rồi ra sạp báo đầu đường mua tờ Tuổi Ngọc, trở lại đưa cho cô bé, trong đó có kẹp tờ giấy ghi vài dòng: “Cậu Lương đã bị VC bắt. Báo cho ba má cháu biết”.

Hôm ấy đứa con trai của Lương mới được 20 ngày.

Đời phi công, có lẽ khổ tâm nhất là lúc đi báo cho thân nhân biết bạn bè mình gẫy cánh. Có một lần tôi phải ra Biên Hòa báo tin là thi hài Đ/úy Hoài đã tìm thấy ở Hạ Lào. Tôi cứ đinh ninh rằng gia đình ông đã biết Đ/úy Hoài chết trước đó cả tuần lễ. Thực ra BTL/KQ chỉ báo là ông bị mất tích vì chưa lấy được xác. Khi tôi báo tin xong, cô em gái Hoài la lên:

– Má ơi, anh Hoài chết thật rồi.

Cô ngã ra bất tỉnh. Cả nhà vang tiếng khóc.

Khi tôi đổi ra Phù Cát, nghe đồn là SĐ 25BB có thấy một xác chết lâu ngày ở trong rừng, còn mặc đồ bay, tôi cứ ngờ ngợ, không biết có phải là xác của Lương không.

Năm 1978 sau khi đi tù về, tôi bị quản chế nên thường bị Công an gọi tập trung lên Huyện, gặp một người trông quen lắm, anh ta gọi tôi:

– Ê Toàn, tao là Hà Diên Tuynh bạn học ngày xưa đây. Có phải mày quen thân với thằng Lương lái F5 không?

Thì ra trước đây tôi cũng tưởng thằng Tuynh đi BB tử trận ở Bù Na gần Đồng Xoài.

Tôi ngạc nhiên sao thằng này lại biết Lương (?)

Nó kéo tôi ra xa xa rồi kể:

– Tao bị bắt làm tù binh rồi bị đưa ra Bắc, nhốt chung một chỗ với thằng Lương lâu lắm.

Khi biết nó là pilot, tao mới hỏi nó có biết mày không, thì ra tụi mày là bạn cùng khóa. Thằng Lương gan cóc tía, mấy tay quản giáo đì nó lắm vì nó là “Lãnh tụ” trong tù của bọn tao đó. Cũng vì vậy mà hiện nay nó vẫn còn bị tù ngoài bắc đấy. Hôm tao về có ghé nhà nó đưa thư.

Tôi mừng khi nhận được tin này, nhưng cũng buồn cho số phận hẩm hiu của Lương, sau bao nhiêu năm tù tội mà vẫn chưa được thả cho về.

Tỵ nạn tại Mỹ, một lần trong giấc mơ tôi gặp lại Lương. Nó ôn chuyện cũ với tôi, về những lần đánh xe tăng vào Mùa Hè Đỏ lửa, về chuyện nó ốp thằng Trung (Nguyễn Thành Trung thả bom Dinh Đọc Lập) khi bắt gặp thằng này đi trượt patin ở Bình Triệu mà mặc đồ bay. Tôi mất liên lạc với gia đình Lương đã lâu, nhưng vẫn mường tượng bạn mình đã chết trong tù. Tôi mong mỏi có ngày nào đó được tin xác thực của Lương.

Vào đầu tháng giêng năm 2004, Email của Khóa 69A có bản tin nói rằng ít tháng trước khi mất nước, tại núi Bà Đen Tây Ninh, có một phi công trực thăng thuộc khóa 69A đã cứu được Phan Huy Bách cùng khóa với mình (Bách là con của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát) khi chiếc A37 bị bắn rơi và Bách kịp bung dù. Còn hai phi công nữa cũng lái A37 thì bị VC bắt, trong đó có Trần Văn Lương, tự Lương Răng Vàng.


Tôi trả lời email trên là Lương Răng Vàng không rớt tại núi Bà Đen; Lương cũng không còn lái A37 nữa mà vào năm 74 nó đang lái F5 và rớt khi đang lái loại máy bay này, chứ không phải mãi đến năm 75 mới bị bắn rơi với chiếc A37.

Ít lâu sau, Nguyễn Tài Cơ cho tin đích xác: Lương đã chết trong một trại tù miền bắc. Hoàng Gia Viễn bạn học cùng khóa T28 với Lương còn cho biết chị Lương đang sống ở Washington và cho số phone để anh em liên lạc.

Cuối cùng tôi đã liên lạc được với chị Lương. Hiện nay chị đang sống với người em tại Seattle. Cháu Vũ đã học thành tài và đang làm việc ở California. Chị cho tôi biết kể từ khi Lương bị bắt, gia đình không được một tin tức gì, cho mãi đến sau ngày mất nước mới nhận được tin chồng còn sống và bị giam ở ngoài bắc. Qua bao nhiêu khổ ải chị mới tìm ra chỗ trại giam, lúc này Lương đã bị bịnh thật nặng, chỉ còn da bọc xương, bạn bè phải cõng ra chỗ thăm nuôi.

Trở về SG, chị vội vã mua thuốc men để ra thăm lần nữa, nhưng không kịp nữa rồi, có người được thả về tới báo tin anh Lương đã nằm xuống vĩnh viễn ngay vào ngày kỷ niệm hôn nhật của hai người, tại một vùng đất có tên là trại Đô Lương, Nghệ Tĩnh, có ám số là AH 118 NT K2. Chị Lương đã nhiều lần cố gắng tìm hài cốt của chồng nhưng chưa kết quả. Chị hy vọng một ngày rất gần sẽ kiếm được mộ phần của chồng để di chuyển về miền Nam.

Vậy là hơn 30 năm, chúng tôi đã nhận tin tức chính xác về Lương, đêm hôm đó tôi ngủ mơ gặp lại nó đang đứng cười, không nhận ra hai đứa đang ở đâu, nhưng cả hai đều vui vẻ lắm.

Nơi cõi thiên thai nào đó có phải Lương đang hài lòng vì cuối cùng, toàn thể các bạn đồng khóa cũng đã biết số phận của Lương, tuy buồn thương nhưng cũng thật dũng cảm, một cánh đại bàng đã gãy cánh nơi chiến trường, sa vào tay địch, vẫn ngửng cao đầu lên đến ngày cuối của cuộc đời.

Lương, anh hồn mày nơi vĩnh hằng xin về với chúng tao, cả khóa 69A họp mặt lần thứ 40 kể từ ngày bọn mình quen nhau, để tưởng nhớ đến mày, thằng Tú, thằng Toản, thằng Sương… và nhiều đứa bạn khác đã nằm xuống cho quê hương mình.

Bọn tao đã liên lạc được với gia đình mày. Xin chúc mừng con mày, không hổ danh là con một phi công, cháu Vũ đã thành đạt nơi xứ người, tiếng Anh hẳn là lưu loát không còn phải nói “Xi nô xì líp” như mày ngày nọ.

Vợ mày, chị Lương đã ở vậy thờ chồng nuôi con khôn lớn từ ngày mày nằm xuống, cho dù lúc ấy tuổi mới ngoài hai mươi.

Hãy cùng chúng tao cầu nguyện cho quê hương mình mau quang phục, để chúng tao và những người thân của mày có dịp về lại Việt Nam, đón rước thi hài đại bàng gãy cánh trở về, cùng với hài cốt của những đồng đội đã bị tứ tán mọi nơi về an táng tại Nghĩa Trang Quân Đội, nơi mày từng ao ước được nằm bên cạnh những chiến hữu chung một màu cờ.

Phương Toàn
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	TTHLKhongQuanNhaTrang2.jpg
Views:	0
Size:	43.4 KB
ID:	1667827   Click image for larger version

Name:	VNAFPilotF5.jpg
Views:	0
Size:	40.4 KB
ID:	1667828   Click image for larger version

Name:	F5_2.jpg
Views:	0
Size:	29.3 KB
ID:	1667829  

The Following 5 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (10-09-2020), huudangdo1 (10-09-2020), phokhuya (10-11-2020), trungthu (10-10-2020), XIII (10-09-2020)
Old 10-09-2020   #295
hoathienly19
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 1,482
Thanks: 2,322
Thanked 1,734 Times in 804 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 24 Post(s)
Rep Power: 8
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default BA TÔI VÀ TRẠI TÙ VĨNH PHÚ

BA TÔI VÀ TRẠI TÙ VĨNH PHÚ





Vượt qua bao nhiêu cửa ải khó khăn, thủ tục nhiêu khê cuối cùng chúng tôi mới cầm được tờ giấy ra thăm ba tại trại cải tạo Tân Lập, Vĩnh Phú.

Tháng 2 năm 1979, hai mẹ con ra Hà nội bằng xe lửa. Sau khi hoàn tất mọi chuẩn bị sau cùng, chúng tôi cùng người gánh hàng thuê lên tàu chợ tuyến Cao Bằng Lạng Sơn để về ga Ấm Thượng.

Hành lý mang theo là hai bao tải đồ ăn gồm lương khô, thực phẩm, thuốc men, áo quần…bất kỳ cái gì cũng cần thiết cho người đang “học tập” cải tạo.

Năm 1978, tôi đã thăm được ba lần đầu tiên, đã biết trước địa điểm, lại háo hức mong gặp ba, chuyến đi lần này diễn ra suông sẻ nhanh chóng hơn trước rất nhiều.

Xuống ga Ấm Thượng, vượt qua gần 30 km đường bộ, 2 lần gọi đò qua những dòng sông nước chảy xiết, cuối cùng chúng tôi cũng đến được nhà khách K2 Tân Lập Vĩnh Phú vào lúc nửa đêm.

Chuyến đi vất vả nhưng mẹ chịu đựng gian khổ và khoẻ hơn tôi tưởng tượng rất nhiều. Nghĩ đến lúc gặp lại ba vào ngày mai, hai mẹ con suốt đêm thao thức không ngủ được.

Nằm bó gối ở một góc phòng, trong tiếng ễnh ương rên rĩ, tôi nhìn ra bên ngoài từ khe hở của vách tre lá của nhà khách ở một vùng đất gần biên giới Việt Hoa xa xôi, và cảm nhận cái nỗi thê lương của những tháng ngày mà ba tôi, người sĩ quan tù cải tạo, đã và đang trải qua.




Tiếp chúng tôi là một tay công an khá lớn tuổi với khuôn mặt rất hình sự. Tôi đưa giấy tờ, trình bày lý do, và xin phép được gặp ba. Gã cầm giấy tờ đi vào bên trong. Độ khoảng 15 phút, gã đi ra vẫn với khuôn mặt khó đăm đăm. Gã nói :

Rất tiếc không thể để hai người gặp tù nhân này được. Ông nhà đang bị kỷ luật vì vi phạm nội quy trại. Hai người có thể để thức ăn và đồ dùng lại chúng tôi sẽ chuyển cho ông.

Mẹ tôi bắt đầu khóc lóc và năn nỉ. Gã một mực cương quyết lắc đầu. Mẹ tôi càng lúc càng khóc to hơn.

Càng bị từ chối, nỗi uất ức càng lớn, bà bắt đầu nằm lăn ra sàn đất. Vừa la vừa lết, vừa khóc vừa hét. Gã công an lúng túng không biết xử lý cách nào. Những người đến thăm nuôi và cả những cán bộ của các bàn bên cạnh đều hướng về phiá chúng tôi.

Tình hình căng thẳng đến tai cấp chỉ huy trại. Một sĩ quan công an bước vào. Hai người thầm thì nhỏ to gì đó. Cuối cùng viên sĩ quan đến gặp chúng tôi, dịu giọng :

" - Thật ra chúng tôi rất muốn giúp bà nhưng quả thật hiện nay ông nhà đang bị kỹ luật bị giam ở ngoài trại cách đây rất xa. Thôi bà về đi. Tuần sau bà quay lại.

Tôi sẽ cho bà gặp ưu tiên với thời gian gấp đôi bình thường. Còn bây giờ bà cứ để thức ăn và đồ dùng chúng tôi hứa sẽ đưa tận tay ông nhà, không thiếu một thứ gì. "

Năn nỉ ỉ ôi cách mấy cùng không lay chuyển tên cán bộ quản giáo, tôi nghĩ chắc là hết cách. Chắc phải ở lại Hà Nội thêm một tuần. Nhìn khuôn mặt có vẽ hiền lành của viên sĩ quan công an, tôi nghĩ gã có vẻ thiệt tình.

Tôi nói nhỏ với mẹ, mình về thôi, ba bị kỷ luật. có xin cũng không được. Chịu khó về Hà Nội ngủ lây lất. Tuần sau lên lại hy vọng họ giữ lời hứa cho gặp được ba lâu hơn.





Trong khi quay lại bàn tiếp tân để làm thủ tục đưa thức ăn và đồ dùng cho ba, bỗng dưng tôi thấy một ánh mắt hơi khác lạ của một tù nhân làm nhiệm vụ đem nước chè xanh cho những người đến thăm nuôi.

Để ấm nước xuống bàn, người này đi chầm chậm về phiá chòi vệ sinh sau khi ngoái lại nhìn tôi, đôi mắt nhấp nháy kỳ lạ. Tôi xin phép gã cán bộ công an đi vệ sinh.


Bước vội vào phía trong vừa kịp thấy dáng khòm khòm của người tù nhân bước ra. Tôi bước vào, nhìn quanh cái chòi tiêu, tiểu được xây tạm bợ bằng lá tranh với cánh cửa tre nửa kín nửa hở.

Tôi ngồi xuống và nhìn quanh vách tre lá. Tôi có linh cảm hình như người tù nhân muốn cho tôi biết một điều gì đó. Tôi cố nhìn thật kỹ. Quả đúng như linh cảm, trên góc đòn tre phía trái của cầu tiêu, tôi thấy một mảnh giấy nhỏ, trên đó viết nguệch ngoạc một dòng chữ:

“ Ông Điềm bệnh nặng .”

Hoảng hốt tôi vội chạy ngược vào phòng tiếp tân. Dằn cơn xúc động tôi kéo mẹ ra góc phòng báo tin. Mẹ bình tĩnh và khôn ngoan hơn tôi tưởng rất nhiều. Bà quay trở lại bàn tiếp tân và nói:

Xin cán bộ cho tôi ở lại đây đợi chồng tôi về chứ bây giờ vừa đi vừa về Hà Nội cũng mất hai ngày.

Gã cán bộ nói láo trơn tru:

Ông bị biệt giam ở nơi rất xa, phải tuần sau chúng tôi mới đưa ông nhà ra găp bà được.


Đến lúc này nỗi uất ức trong lòng mẹ tôi bùng nổ, bà khóc và la hét to hơn:

“Mấy ông nói láo, tôi biết chồng tôi đau nặng, đồ sát nhân, sao không cho chúng tôi gặp. Các ông có còn là con người không?”





Đến lúc này thì mẹ tôi không còn biết sợ là gì nữa, Tất cả những oán hận chất chứa trong lòng bao lâu này được dịp thoát ra, không ai có thể ngăn được. Cả phòng khách của K2 bắt đầu nhốn nháo, ồn ào.

Nhiều người bu quanh mẹ tôi lúc này đang nằm lăn lộn dưới sàn đất cứng ngắt. Gã cán bộ chạy vào trong và đi ra cùng với viên sĩ quan lúc nãy. Gã dịu giọng nói với chúng tôi:

Xin bà bình tỉnh Mời bà và anh vào trong, chúng tôi sẽ giải quyết. Nói xong gã ra lệnh cho hai tay công an dìu mẹ tôi vào căn phòng phiá trong. Có lẽ không muốn những người thăm nuôi khác biết chuyện.

Căn phòng sạch sẽ hơn phòng bên ngoài nhiều. Viên sĩ quan công an nói:

- Bây giờ tôi xin nói thật về tình trạng của ông nhà. Thật ra ông đang bệnh và chúng tôi đang tích cực chữa chạy cho ông. Nay bà đã biết, tôi sẽ thu xếp cho bà vào gặp ông.

Ông nhà đang nằm ở bệnh xá, tôi sẽ cho người dẫn ông bà đi. Xin ông bà đợi một lát. Nói xong gã bước ra, nói nhỏ gì đó với công an trực.

Gã công an bước đi thật nhanh. Khoảng 40 hay 50 phút gì đó gã trở về, bước đi gấp gáp, hấp tấp. Lại thì thầm to nhỏ với viên chỉ huy. Tôi linh cảm có chuyện không hay. Lần này viên sĩ quan trầm giọng:

Thưa bà, chúng tôi vừa mới nhận được tin, mặc dù chúng tôi đã tận tình chữa trị, nhưng vì sức yếu, ông nhà vừa mất cách đây 5 phút. Chúng tôi xin chia buồn với bà. Chúng tôi sẽ đưa bà đi gặp ông lần cuối cùng.


Di ảnh Ông Lê Xuân Điềm, Thiếu Tá Cảnh Sát, Bộ tư lệnh Cảnh Sát Sài Gòn. Ông sinh năm 1924.


“Học tập cải tạo” tại K2 trại cải tạo Tân Lập, Vĩnh Phú. Mất ngày 10/2/1979 tại trại K2





Nghe tin dữ, mẹ tôi như điên cuồng. Bà nằm lăn ra đất. Vừa khóc vừa la. Không từ nào mà bà không đem ra. Không nhân vật nào bà không réo tên chửi. Vừa chửi vừa khóc, khóc đến khan cả giọng. Mồ hôi quyện với đất đỏ dính đầy áo quần, mặt mũi. Hết khóc rồi bắt đầu cười ngây dại.

Tôi ôm mẹ không nói được nên lời. Nỗi đau quá lớn làm thần kinh tôi như tê liệt. Ôm mẹ với trái tim nhói đau như kim châm và mẹ ngất đi.

Khoảng 15 phút sau, chúng tôi được dẫn di gặp ba. Nơi ba nằm là một căn nhà nhỏ đơn sơ gọi là bệnh xá nằm sâu trong K2 cách nhà khách khoảng 30 phút đi bộ.

Ba nằm trên một giường tre, thân hình gầy guộc, khuôn mặt ốm nhom như bộ xương khô. Hàm râu lổm chổm có lẽ được cắt ngắn một cách vội vàng không dài thòn như lần đầu tôi gặp.

Hình như đã hết nước mắt, mẹ không khóc yên lặng ngồi bệt xuống đất vói tay ôm lấy ba. Tôi ngồi xuống phiá bên kia. Hai mẹ con ôm choàng lấy ba. Vẫn còn hơi ấm của một cơ thể vừa mới qua đời. Mẹ vuốt mắt ba. Mắt trừng trừng nhìn ba. Hình như tôi thấy trong mắt mẹ màu đỏ của máu.

Sẽ không bao giờ tôi quên được cái hình ảnh của ba và mẹ tôi trong bệnh xá trại K2 Tân Lập hôm đó. Mẹ không khóc nhưng lại ngất thêm một lần nữa khi tôi định kéo mẹ đứng lên.





Sau này qua một người bạn tù của ba, lúc mẹ con tôi đến thăm trại, đang hấp hối nhưng ba tôi biết. Lúc đó ba đã rất yếu. Ba nói ba sẽ cố gắng sống để găp mẹ một lần và ba cố gắng húp được vài muỗng cháo trắng. Những muổng cháo trắng cuối cùng trước khi ra đi mãi mãi.

Giá mà tay cán bộ có một chút tình người thì có lẽ mẹ cũng được gặp ba một lần sau chót. Chỉ cần một lần mà thôi, của một cuộc tình ba mươi mấy năm.

Tôi biết ba đã không đành lòng ra đi. Đành lòng sao được hả ba, khi vượt hàng ngàn cây số từ nam ra bắc, chỉ còn cách một bước chân thôi mà mẹ không thể nói với ba những lời yêu thương sau chót, để được nghe một lời trăn trối sau cùng.

Tức tưởi và uất hận lắm ba. Mà thôi ba ơi. Cứ yên lòng ra đi rồi có ngày mẹ, ba và chúng con sẽ lại gặp nhau một nơi nào đó, trên thiên đàng. Chúng ta sẽ lại có những ngày tháng hạnh phúc bên nhau như thuở nào.





Để xoa dịu mẹ con chúng tôi, lần đầu tiên K2 có tổ chức một đám ma tù nhân tương đối đàng hoàng. Từ trước, đã có rất nhiều tù nhân chết ở đây. Toàn bộ được bó vào các manh chiếu mây tre rách rưới và được chôn vùi sơ sài trong các mảnh đất trống bên trong trại.

Ba có lẽ là người đầu tiên đưọc ưu tiên có hòm làm bằng gỗ ván thông dù rất mỏng dính. Chôn theo với ba là mấy bộ đồ rách bươm.

Cũng có 4 người tù khiêng quan tài. Phía trước và phía sau có 4 công an đi cùng.

Cũng có ly hương là cái chén ăn cơm cũ kỹ. Tôi cầm bài vị là một bức ảnh căn cước nhỏ xíu của ba còn sót lại trong trại. Mẹ đi sau quan tài. Đoàn đưa tang gồm 10 người lặng lẽ đi về phía một đồi trọc xa xa, phiá ngoài hàng rào trại K2. Trên đường đi, tôi để ý thấy có những gò đất với rất nhiều ngôi mộ vô danh.

Nơi chôn ba là một ngọn đồi, chỉ có một cây đa thật to. Những người tù đào vội một lớp đất không sâu lắm, hòm được đặt xuống và lấp lại. Thế là xong. Ba tôi, một sĩ quan cảnh sát miền nam thua cuộc, cuối đời nằm ở đây, một vùng đất gần tận cùng biên giới Việt Hoa.





Một mình, cô đơn, lạnh lẽo. Mẹ không còn nước mắt để khóc. Suốt buổi lễ cứ nhìn trừng trừng. Một khuôn mặt tưởng như vô hồn, nhưng tràn đầy oán hận. Một nỗi hận đến vô cùng. Tôi cắn chặt môi đến tươm máu. Thôi ba ơi, hãy yên nghỉ tạm nơi đây, con sẽ quay trở lại một ngày không xa.

Trước khi trở về, tôi cẩn thận ghi dấu vị trí ngôi mộ với một chữ thập ghép bằng hai nhánh tre và khắc tên ba trên gốc cây to trước mộ.

Hai năm sau, thương ba nằm một mình hiu quạnh, mẹ con tôi trở ra lại trại Tân Lập cùng với một người đảo mộ thuê từ Hà Nội. Không xin được giấy phép bốc mộ, nửa đêm chúng tôi đã lén lút đào chui và trải qua những giờ phút gian truân, nguy hiểm. Cuối cùng chúng tôi cũng đem ba về nằm bên cạnh ôn mệ trong mảnh đất phía sau nhà, dưới chân núi Ngự Bình Huế.






Từ khi đem được ba về nằm ấm cúng bên cạnh những người thân yêu, cuộc sống của gia đình tôi từng bước thay đổi và trở nên tốt đẹp hơn. Có quá nhiều cái tình cờ, may mắn mà dù không muốn tin, tôi cũng phải tin có sự che chở của ba, có sự sắp đặt của ơn trên.

Và nhờ đó gia đình mẹ và 9 anh em chúng tôi vượt qua được những ngày tháng khó khăn, tủi nhục, đen tối để đến cuối năm 1998 toàn bộ gia đình đoàn tụ trên miền đất thật xa quê nhà nhưng tự do này.

Là những người cuối cùng trong đại gia đình qua Mỹ theo diện đoàn tụ, vợ chồng chúng tôi cùng 3 con nhỏ về sống tại thành phố nhỏ Tulsa thuộc tiểu bang Oklahoma.

Vào cuối năm 1998, khi chúng tôi mới đến cư ngụ, Tulsa là một thành phố hiền hoà nhưng cũng thật buồn và trầm lắng. Người Việt không nhiều, nhưng may mắn cũng có một vài chợ Việt Nam, một vài quán ăn người Việt, không ngon lắm nhưng cũng làm vơi đi nỗi nhớ nhà của những đứa con mới vừa lưu lạc.

Lúc vừa mới đến, thấy gia đình 5 người chưa có công việc làm, mấy người bạn đề nghị chúng tôi đi xin housing và chế độ trợ giúp cho người low income.

Vào thời đó ở cái thành phố đất rộng người ít này, việc xin trợ cấp của chính phủ tương đối dể dàng. Ai cũng khuyên vì với tuổi đời gần 50, một vợ và 3 con còn nhỏ, tội gì phải đi làm cho vất vả, ở nhà của chính phủ, con cái có nhà nước lo, sáng kéo nhau ra quán cafe, chiều tập trung tại một nơi nào đó cùng với bạn bè, xem đánh cờ và ngồi tám chuyện ngày xưa.

Vừa nhàn, vừa có tiền tội gì phải vất vả mưu sinh. Đâu phải ai cũng có điều kiện để xin được trợ cấp như gia đình tôi đâu.

Nhưng đó không phải là con đường của tôi sẽ đi. Đứa con của một sĩ quan tù cải tạo chết ở biên giới Việt Hoa ngày nào sẽ không thể sống như thế.

Thế là, sau thời gian đầu chuẩn bị cho những việc cần thiết, lấy bằng lái xe, ở tạm nhà người em gái, chúng tôi bắt đầu cho một cuộc sống mới trên một miền đất xa lạ này.

Vợ tôi xin vào làm phụ bếp trong một nhà hàng Việt Nam. Tôi và đứa con đầu nhờ có bằng TOEFL nên đăng ký đi học đại học trở lại.

Ngoài giờ học, cháu đi làm thêm công việc phục vụ nhà hàng, tôi nhờ có chút tay nghề sửa máy tính và tivi, xin vào làm technician cho hãng bán máy móc điện tử COMPUSA. Hai con nhỏ đi học ở trường gần nhà.

Tiền lương không cao lắm, nhưng với vật giá không đắt đỏ và con người hiền hoà của một thành phố nơi nhà thờ nhiều hơn nhà dân này, chúng tôi đã có những bước khởi đầu hội nhập không quá đỗi khó khăn.

Và quan trọng là tôi được đoàn tụ với mẹ, các em, và cùng với gia đình riêng, chúng tôi đã sống không giàu có, nhưng lương thiện, đầy đủ và tự do.

Có quá nhiều điều để kể về những ngày tháng trên một miền đất không phải là nơi tôi sinh ra này, hy vọng sẽ có trong một bài viết khác, ở đây tôi chỉ muốn nói đến những mối nhân duyên mà ông trời đã sắp đặt liên quan đến câu chuyện của ba tôi, người sĩ quan tù cải tạo chết tại trại K2 Tân Lập Vĩnh Phú tháng Hai năm 1979.





Cuộc sống ở Tulsa phải nói là rất dể chịu và an bình. Với sự tằn tiện và chịu thương chịu khó, chúng tôi cũng mua trả góp được một căn nhà nhỏ, tạm đủ cho một gia đình 5 người, những ngày tháng an bình và hạnh phúc.


Nhưng rồi năm 2000, sau khi lấy lại bằng đại học, tôi xin được việc làm tại KLA-TENCOR ở San Jose, Ca. Nghe tôi định di chuyển về San Jose, bạn bè, người thân ai cũng bàn ra.

Thứ nhất tôi đang sống an nhàn, mọi việc ồn định, lên San Jose, tuy lương cao hơn, nhưng nhà cửa, cuộc sống đắt đỏ, lạ lẫm, chắc chắn sẽ khó khăn vất vả hơn nhiều. Làm lại từ đầu, có trụ nổi không hay lại khăn gói trở về như một số người ở bên này.

Nhưng, với tôi, quan trọng không phải là đồng lương cao thấp, đường đi dễ dàng hay vất vả, bằng phẳng hay gập ghềnh, mà là một công việc phù hợp với cái kiến thức và cái khả năng được đào tạo của mình, trong một ngành nghề mình yêu thích.

Thế là gia đình nhỏ, 5 người chúng tôi một lần nữa khăn gói đi về một thành phố xa lạ hơn, một nơi được xem như đắt đỏ vào bậc nhất nước Mỹ để kiếm sống.

Cho đến bây giờ trải qua gần 20 năm, với biết bao thăng trầm, thời gian, với tôi, thời gian ở San Jose vẫn là một quãng đời đáng sống.

Có nhiều điều để nhớ lại, nhưng trong phạm vi bài viết, tôi muốn nhắc đến, chính là cái duyên, cái tình cờ sắp đặt của thượng đế, của định mệnh khi chính tại miền đất này, tôi đã gặp lại hình bóng của người cha thương yêu.

Đầu năm 2001, khi tôi đang làm tại KLA-TENCOR, lúc đó nhà cửa rất là hot. Tôi tìm mãi mới thuê được căn nhà 4 phòng ngủ. Giá thuê không hề rẻ, 1800USD một tháng. Trả tiền nhà rất vất vả khó khan, mất toi ½ số tiền lương hàng tháng.

Chúng tôi quyết định tìm người cho share lại bớt một phòng. Đúng lúc có một technician mới vào làm trong dây chuyền của tôi mới được tuyển vào làm việc, cần nơi ở. Thế là thoả thuận về ở chung. Vừa tiện đi làm chung xe, vừa sẽ chia tổn phí, tiện lợi đôi bề.




Ở một thời gian, làm chung với nhau cả năm, trong một dịp tình cờ khi nhờ ông bạn share phòng cắt tóc giùm, qua cuộc nói chuyện, phát hiện ra ông bạn cùng nhà mấy lâu nay củng là một sĩ quan từng đi "học tập cải tạo".

- Anh đi tù ở đâu?

- Tân Lập, Vĩnh Phú

- K mấy?

- K2. Biết ông Điềm không?

- Biết quá đi chứ.

Thế đó. Quá bất ngờ hơn, khi người share phòng bấy lâu lại chính là người đã đưa cho tôi mảnh giấy báo tin ba tôi đau nặng tại phòng thăm nuôi K2 trại cải tạo Tân Lập ngày nào.

Không thể nói hết sự kỳ diệu của định mệnh, khi sau 22 năm ngày mất, một sĩ quan tù binh cải tạo gặp lại người con của một bạn tù trên một đất nước quá xa vùng đất biên giới xa xôi.

Không diệu kỳ sao được, khi trong hàng triệu người Việt lưu lạc, có mặt trên hàng chục quốc gia, sống trên hơn 50 tiểu bang của Hoa Kỳ, tôi gặp lại đúng một người duy nhất đã đút cho ba tôi những muỗng cháo trắng cuối cùng trước lúc lâm chung.

Người đã sống với ba trong những tháng ngày bi thảm đó. Một trong 4 người bạn tù khiêng cha tôi về miền đất lạnh

Từ xưng anh, từ đó tôi gọi là chú, chú L. Hai chú cháu có những đêm thức trắng để kể chuyện về ba tôi.

Chú là người báo cho ba tôi biết hai mẹ con chúng tôi đang đợi chờ mỏi mòn tại phòng thăm nuôi. Duy nhất, chú là người bên ba để chứng kiến những giọt nước mắt cuối cùng tức tưởi của một người đang hấp hối.

Chú là người duy nhất nhìn thấy cặp mắt mong đợi mỏi mòn của ba. Dù chỉ gần nhau trong gang tấc, trước khi ra đi vẫn không thể nhìn nhau một lời sau cuối.

Cám ơn chú L. Người bạn tù của ba tôi, ân nhân không bao giờ quên được của tôi. Sau khi nghỉ hưu, chú về ở với con gái nghe đâu ở tiểu bang Minnesota xa xôi. Chưa một lần chúng tôi gặp lại nhau. Nhưng dù ở bất cứ nơi đâu, cháu cũng cầu mong chú và những người thân yêu thật nhiều may mắn và bình an.

Và tôi tin rằng ở một nơi nào đó thật xa xôi, ba vẫn luôn dõi theo và che chở cho gia đình chú cũng như cho mẹ con chúng tôi. Nếu có một kiếp sau, con vẫn sẽ là con của ba, người tù cải tạo chết ở miền đất biên giới Việt Trung, ngày 10 tháng 2 năm 1979.


Lê Xuân Mỹ

Last edited by hoathienly19; 10-10-2020 at 08:22.
hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following 3 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (10-11-2020), huudangdo1 (10-11-2020), phokhuya (10-11-2020)
Old 10-11-2020   #296
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,409
Thanks: 21,697
Thanked 38,211 Times in 12,889 Posts
Mentioned: 636 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7249 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Hai lần vượt tù cải-tạo sau 30-04-1975

Đây là đoạn hồi ký của tôi trong những ngày Cộng Sản chiếm miền Nam, và 2 lần vượt ngục tù cải tạo trong 3 năm sống với chế độ Cộng Sản. Hồi ký nầy tôi viết tại trại tỵ nạn Mã Lai, Tiểu bang Kelantan, Tỉnh Kotabaru.



Dĩ vãng hiện lên đầu óc tôi như cơn ác mộng bi thương buồn thảm.!

…Ngày 21-4-75, tôi được báo cho biết có cuộc họp báo nơi phòng Khánh Tiết (trong Dinh Độc Lập). Nội dung cuộc họp báo tôi chưa được biết, đó cũng là việc làm bảo mật thường ngày của khối Cận Vệ chúng tôi…

Cuộc họp báo lúc 19 giờ đêm 21-4-75.

Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức, bàn giao chức vụ lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương làm Tổng Thống theo Hiến Pháp do Lưỡng Viện Quốc Hội chỉ định.

Trong lúc chiến sự gay go nguy hiểm, Cộng quân đã chiếm toàn miền Trung và đang bao vây Tỉnh Long Khánh. Tin Tổng Thống Thiệu từ chức đã làm cho toàn thể Quân Lực đang chiến đấu với Cộng quân trên khắp các mặt trận bị giao động hoang mang mất hẳn tinh thần …

Đến chiều ngày 28-4-75. Tổng Thống Trần Văn Hương họp báo giao quyền Tổng Thống lại cho Đại Tướng Dương Văn Minh theo yêu cầu của Lưỡng Viện Quốc Hội VNCH.

Ngày 29-4-75. Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh trục xuất người Mỹ phải rời khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ.

Cảnh tao loạn đã diễn ra khắp nơi trong đô thành, trong khi các phái bộ Hoa Kỳ cấp tốc rời khỏi VN do cuộc không vận khổng lồ từ các căn cứ ở Thái Lan, Phi Luật Tân và Hàng Không Mẫu Hạm Đệ Thất Hạm Đội chờ sẵn ngoài khơi. Trong lúc đó người dân VN cũng được không vận ra đi với các gia đình nhân viên làm việc cho Mỹ, cũng trong số đó có cả quân nhân, công chức cùng thoát đi.

Tình hình chiến sự càng lúc càng thêm nguy ngập, Cộng quân đã cắt hẳn các con đường vào thành phố và đang tập trung quân để bao vây đô thành….

Về phần tôi, sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, 2 ngày sau tôi được lệnh hộ tống đưa Tổng Thống phu nhân lên phi trường để đi Đài Loan. Anh em Cận Vệ chúng tôi vẫn túc trực ứng chiến 24/24 tại Dinh Độc Lập.

Tôi được biết Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sau khi từ chức vẫn còn ở lại trong Dinh Độc Lập cho đến đêm 25-4-75. Phái bộ Hoa kỳ vào Dinh “rước đi” cùng lúc với thành phần Nội Các chánh phủ của Ông.

Khối Cận Vệ lúc bấy giờ do Trung Tá Võ Trung Thứ điều hành, và tất cả cận vệ viên từ sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ vẫn còn túc trực., vì nhiệm vụ của khối Cận Vệ là bảo vệ vị nguyên thủ quốc gia . Khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra đi, chúng tôi lại có nhiệm vụ bảo vệ vị nguyên thủ đương nhiệm Tổng Thống Trần Văn Hương và rồi đến Tổng Thống Dương Văn Minh…



Đối với Ông Trần Văn Hương thì tôi là một trong số những Người Nhái có nhiệm vụ bảo vệ cho Ông từ khi đang giữ chức vụ Thủ Tướng, Đại Tướng Nguyễn Khánh giải nhiệm Ông Trần Văn Hương vào năm 1965. Cộng Sản đã lên 7 bản án tử hình, BTL/HQ chỉ thị cho toán Người Nhái bảo vệ an ninh cho Ông.

Ông cụ mỗi đêm thường gọi tôi đến bên Ông ngồi chung trên chiếc võng đong đưa trong tiền đình của ngôi nhà Santa Maria tại Vũng Tàu..

Ông kể cho tôi nghe những mẫu chuyện trong đời Ông từ thời kháng chiến chống Pháp trong bưng biền và cho đến lúc Ông ra làm Đô Trưởng đô thành Sài Gòn Chợ Lớn, rồi đến chức vụ Thủ Tướng cho đến lúc bị giải nhiệm…Ông thân thiết và thường khuyên bảo tôi như con cháu trong nhà.

Được vài tháng sau tôi và một số NN trở về BTL/HQ để nhận công tác đo nước lập thủy đạo, cập nhật hải đồ các bãi đổ bộ cho toàn miền Nam, từ Bến Hải đến Đảo Phú Quốc suốt mấy tháng trường..

Mải đến năm 1971, Ông Trần Văn Hương ứng cử Phó Tổng Thống chung liên danh với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống đề cử tôi làm Sĩ Quan trưởng toán Cận Vệ để bảo vệ cho Ông trong suốt thời gian Ông cụ đi vận động tranh cử cho đến khi đắc cử.

Sau lễ Đăng Quang nhậm chức Phó Tổng Thống, toán Cận Vệ chúng tôi trở về nhiệm sở khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống, Ông cụ gọi tôi vào và ngỏ ý muốn tôi ở lại làm việc cho Ông, tôi cám ơn Ông cụ và từ chối..Vì nhiệm vụ của toán Cận Vệ chúng tôi là bảo vệ cho Ông cụ và cùng lúc huấn luyện cho toán Vệ Sĩ của Phủ Phó Tổng Thống về các phương pháp bảo vệ an ninh cho yếu nhân do Đại Úy Cương (cháu ruột của Ông cụ) làm Trưởng Toán.

Vì có những liên hệ như trên nên khi Phó Tổng Thống Trần Văn Hương đảm nhiệm chức vụ Tổng Thống VNCH do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bàn giao, tôi lại nhận trách nhiệm Sĩ Quan Cận Vệ cho Ông cụ.

Đến ngày 28-4-75.Đại Tướng Dương Văn Minh nhận chức vụ Tổng Thống VNCH do Lưỡng Viện Quốc Hội yêu cầu Tổng Thống Trần Văn Hương bàn giao.. Đại Úy TBH (cháu ruột của Tổng Thống Dương Văn Minh) giữ chức vụ Trưởng Phòng Cận Vệ, lại giao cho tôi và Chuẩn Úy Trang Đức cận sát để bảo vệ cho TT Dương Văn Minh. Đại Úy H. biết rõ và tin tưởng khả năng võ thuật và tác xạ của tôi vì Đại Úy Huệ phục vụ bên Võ Phòng Phủ Tổng Thống lúc trước, nên Đại Úy H. thường thao dượt luyện võ với tôi. cũng vì vậy mà tôi phải túc trực 24/24 .

Tối đêm 29-4-75. Cộng quân pháo kích vào đô thành khắp nơi, tôi và Thiếu Tá Trần Chí Đức Trưởng Toán 4 Cận Vệ, đang phân phối điểm gác tại tư dinh số 3 đường Trần Qquý Cáp, Đại Úy H. giao cho tôi tấm vải trắng để xé ra đeo trên cánh tay trái để làm ám hiệu, tôi nghi ngờ hỏi Đại Úy H. : Tại sao lại dùng vải màu trắng làm ám hiệu ? Đại Úy H. không trả lời. Thiếu Tá Trần Chí Đức Trưởng Toán 4 liền lên xe Jeep bỏ đi mất.

Một lúc sau thấy không an toàn vì pháo kích nên Tổng Thống Minh và Nội Các chánh phủ cùng gia đình vào dinh Độc Lập nghỉ đêm..

Trung Tá Võ Trung Thứ họp Sĩ Quan chúng tôi lại và rưng rưng nước mắt : Có lệnh cấp trên, các Anh Em hãy nghe tôi..Hãy nghĩ đến gia đình các anh .. mà theo lệnh cấp trên. Buông súng xuống !.Tất cả nhục nhã nầy tôi xin gánh chịu..các anh đừng nên chống lại nữa vô ích…

Trung Tá Thứ còn nói nhiều nữa…Nhưng tôi không còn nghe gì được nữa cả..uất hận tuôn trào.. Tôi cảm thấy chơi vơi..nhục nhã ..đau đớn ê chề.. Tôi nghĩ nếu chúng tôi thật sự chống trả thì dầu cho Cộng quân có bao vây dinh Độc Lập bằng chiến xa, pháo binh hay tấn công bằng phi cơ, thì chúng tôi cũng có thể giữ được ít nhứt là nửa tháng…Chúng tôi căm tức nhưng biết mình cũng không xoay sở được gì..!

Sau khi suy tính cùng các anh em Cận Vệ, tôi và một số anh em cùng lên xe Jeep chạy đến Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ với hy vọng được rời khỏi Việt Nam trong những chuyến trực thăng di tản cuối cùng, chớ không thể bó tay đầu hàng Cộng Sản được..

Nhưng chúng tôi không thoát được định mạng đã an bài, vì khi đến Tòa Đại Sứ Mỹ nhìn thấy dân chúng đang chờ đợi ngoài vòng rào đông quá, không thể nào trực thăng chở đi hết được vì đúng 12 giờ đêm 29-4-75 là hết thời hạn di tản. Chúng tôi chờ mãi đến 5 giờ sáng ngày 30-4-75…

Thất vọng và chán nản quá.. chúng tôi đành quay trở về dinh Độc Lập ..Đầu óc tôi cứ quay cuồng câu Nước Mất, Nhà Tan .

6 giờ sáng ngày 30-4-75.Chúng tôi hộ tống Tổng Thống Dương Văn Minh qua dinh Thủ Tướng để họp Nội Các. Cộng quân bắt đầu pháo kích mạnh hơn vào thành phố, dân chúng chạy loạn khắp nơi… 9 giờ sáng, 2 chiếc trực thăng dành riêng cho Tổng Thống cất cánh rời khỏi dinh Độc Lập do các sĩ quan phi công bỏ đi đúng như dự tính, nhưng vì tôi không có mặt nên đành lỡ chuyến..Dự định của chúng tôi sẽ đi khuya đêm 29-4-75, nhưng sợ cất cánh ban đêm sẽ bị bắn vì có lịnh giới nghiêm, nên phải đợi đến sáng.

Trung Tá Lân- Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn An Ninh Danh Dự, Thiếu Tá Hậu- Trưởng Khối An Ninh Phủ Thủ Tướng và tôi cùng bàn thảo nên thoát đi bằng cách nào, nhưng vẫn vô kế, vì đường về miền Đông và miền Tây đều bị cô lập..Chúng tôi nhìn nhau mà lòng buồn man mác..

Tiếng súng vẫn nổ vang rền trên các đường phố, máy truyền tin bên cạnh chúng tôi vẫn vang lên lời báo cáo khắp nơi về..Cộng quân đang giao chiến tại Gò Vấp..Ngã Tư Bảy Hiền đã thấy bóng Việt Cộng…Cầu Nhị Thiên Đường đang đánh…Tiểu Đoàn Dù đang đụng độ dọc theo các chốt đóng trên xa lộ..v.v.

10 giờ 30, chúng tôi hộ tống TT Minh về dinh Độc Lập, trên tay chúng tôi khẩu súng đãtrở thành vô dụng, vì không được nổ súng trong mọi trường hợp…Anh em chúng tôi đưa mắt nhìn nhau mà không nói được lời nào…Rồi việc phải đến đã đến..Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, đúng như sự nghi ngờ về ám hiệu màu trắng tôi đã nêu trên..

Đầu hàng.. Đầu hàng à… Trời ơi !

Chúng tôi phải chịu nhục nhã như vầy sao ?

Tổ Quốc quấn khăn tang, mây che phủ đầu trên thành phố thân yêu…Hàng vạn nhà ra tro ra khói bốc cao trời..

Bài ca “Vuốt Mặt” như vang lên đâu đây…Làm cho tôi tê tái..giọng ca uất hờn..như tiếng nấc nghẹn ngào của Quê hương… VIỆT NAM ƠI .. VIỆT NAM ƠI !!

Thật không còn gì đau đớn cho bằng việc tôi nhìn thấy cảnh mất nước do một số người ham tranh giành ngôi vị..để rồi giờ đây đứng cúi đầu rước quân thù trên thềm dinh Độc Lập..nơi mà cả thế giới nhìn vào trên bốn ngàn năm lịch sử oai hùng của dân tộc.

***

Bắt đầu các tên Việt Cộng nằm vùng tiềm phục trong các cơ quan lộ mặt trong dinh Độc Lập thì do tên thợ điện đứng ra tiếp thu rồi giao lại cho đơn vị bộ đội Hương Giang chiếm giữ.

Sau 5 ngày bị quản thúc tại dinh Độc Lập, chúng tôi được thả về để chờ lịnh tập trung cải tạo…Lòng tôi tan nát không còn nghĩ suy gì được nữa cả..Tôi lang thang trên đường phố hết ngày nầy sang ngày khác. Từ thuở nhỏ cho đến bây giờ tôi chưa bao giờ rơi nước mắt vì bị thương tích của thể xác, nhưng sao bây giờ nước mắt tôi cứ tuôn ra không sao cầm lại được..

Đến ngày chúng gọi tất cả Sĩ Quan đi trình diện học tập cải tạo mà tôi vẫn chưa nghĩ ra được cách nào để hoạt động chống lại bọn Cộng Sản vì thời gian phải trình diện quá ngắn và còn quá rối loạn, nên đành phải đi trình diện học tập, mong nếu chúng giữ lời hứa là Sĩ Quan cấp Úy chỉ đi học tập cải tạo 10 ngày, sau đó mới có cơ hội hoạt động được.

Ngày 28-6-75 là thời hạn cuối cùng, tôi đến trình diện tại trường Sơn Hà (Dakao). Đến 2 giờ sáng ngày 29-6-75, chúng điểm danh và đưa chúng tôi lên xe Molotova bỏ mui bố phủ kín lại trong khi di chuyển. Khoảng 4 giờ sáng đến nơi, có người biết nơi đây là Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 5 Công Binh (Thành Ông Năm) căn cứ nầy còn nguyên vẹn. Khoảng 9 giờ sáng bọn chúng ra lịnh chúng tôi đi thâu dọn tất cả đạn dược rơi rải khắp nơi trong trại để giao lại cho chúng. Riêng tôi vẫn nghi ngờ bọn chúng không thật sự giữ lời hứa, nên tôi lén đem giấu 5 trái lựu đạn M 26 nơi đốóng cát trước dãy trại của tôi ở.

Bắt đầu bọn chúng tổ chức chia chúng tôi ra từng khu vực, mỗi khu khoảng 150 người, mỗi đội gồm 5 hoặc 6 tổ, mỗi tổ 12 người. Tổ chức nhà bếp, nhà cầu và đào giếng nước. Tôi càng nghi ngờ hơn về chánh sách của bọn chúng, vì nếu chỉ đi học tập trong vòng 10 ngày thì bọn chúng bắt chúng tôi phải làm tiện nghi có tánh cách dài hạn để làm chi ?.

Đến ngày thứ 3, chúng bắt đầu thâu tiền cơm 10 ngày, bọn chúng cho chúng tôi uống thuốc ngừa sốt rét ?, trong 5 ngày và phải uống trước mặt của chúng nó, tôi không tin vì nghi ngờ nên chỉ ngậm trong miệng đem ra ngoài bỏ đi.

Lần lựa ngày nầy sang ngày khác, đã đến 10 ngày rồi mà bọn chúng không nói năng chi cả, có người hỏi thì chúng trả lời các anh chưa học tập bài nào cả nên chưa về được. Rồi một tháng trôi qua chúng vẫn im lìm..

BẮT ĐẦU NGHIÊN CỨU VÀ TỔ CHỨC VƯỢT TRẠI TÙ



Lợi dụng ban ngày còn đi qua lại các trại khác được, tôi qua khu trại kế bên để tìm người đồng tâm ý để sắp đặt kế hoạch từ trong trại nầy thoát ra rồi phải làm thế nào v.v.. Khoảng 2 tuần sau, tôi đãtổ chức được 2 tổ, mỗi tổ là 2 người, tổ 1 tên Nam và Dũng, Nam là cháu của Giám Đốc Quan Thuế phi cảng Tân Sơn Nhứt, còn Dũng thì có nhà thuốc Tây ở đường Bùi Viện Quận Nhì Sài Gòn, gia đình của 2 anh có ghe tàu sẵn, đang chờ 2 anh ra để vượt biên.

Tổ 2 Hoàng Trinh, Sĩ Quan Đại Đội Biệt kích Dù đã từng nhảy xuống Hạ Lào, và Nguyễn Hoành, Đại Đội Trưởng Biệt Động Quân. Anh Hoành biết được 2 thứ tiếng Thượng phổ thông. Dự tính tổ 2 khi ra khỏi trại sẽ vượt biên giới qua Thái Lan để tìm đường giây kháng chiến trở về giải phóng đất nước…Trong 2 tổ, tôi thích tổ 2 hơn vì đồng quan điểm là chúng tôi phải làm gì cho quê hương đất nước chớ không thể khoanh tay.. Nhưng vẫn phải chờ cơ hội, vì các anh đều còn hy vọng là được bọn CS thả về rồi mới xoay xở về sau.

Tháng thứ 2 đã trôi qua, bọn chúng bắt đầu cho học tập 10 bài chánh trị trong tháng thứ 3. Nội dung các bài có tánh cách phỉ báng chế độ VNCH, và ngụ ý tất cả người dân miền Nam đều có tội với cách mạng của bọn chúng qua nhiều hình thức khác nhau… Tháng thứ 4, sau khi học xong 10 bài, bọn chúng bắt tất cả phải khai tội đối với cách mạng, và dụ dỗ phải khai cho thật, chúng sẽ khoan hồng. v.v.

Tôi rất nóng lòng vì biết bọn chúng chẳng bao giờ thả tôi ra. Tôi giấu nhẹm không khai thành tích diệt Cộng Sản khi còn ở đơn vị Người Nhái đã từng tiêu diệt VC trong những lần phục kích và đột kích vào mật khu của chúng trong vùng Rừng Sát Nhà Bè, trong suốt mấy tháng hành quân phối hợp cùng với Seal Team Hoa Kỳ .. Nhưng tôi vẫn lo không biết là hồ sơ trong đơn vị còn nguyên hay đã được tiêu hủy trước khi chúng vào..

Tôi tổ chức một người bạn ngày trước làm việc tại BTL/HQ/P4. ở gần phòng tắm của bọn cán bộ để lấy tin tức tình hình ở ngoài như thế nào, sau mấy tuần tôi được biết ở ngoài đã có biểu tình đòi chồng con đang đi học tập, và có đụng độ ở Đèo Cheo Reo và Đèo An Khê, Ban Mê Thuột có pháo kích do phần tử ly khai của Quân Đội VNCH thực hiện..

Những tin nầy càng làm cho tôi tin chắc các Sĩ Quan sẽ khó mà được chúng thả về. Tôi đem tin nầy bàn với tổ 1, Nam và Dũng đều không dám vượt rào, tôi đành phải nói xuôi theo là cùng chờ đợi..Tôi bàn với tổ 2 , Hoành và Trinh hơi ngần ngại, nhưng tôi khích động nên 2 anh đồng ý vượt rào, kế hoạch từ trong ra ngoài thì bên của ai nấy lo, và hẹn điểm gặp nhau ngoài vòng rào là bãi tha ma cách vòng rào phía Đông chừng 700 thước.

Tôi đem những điều đã nghiên cứu như sau cho Hoành và Trinh biết :

Hệ thống phòng thủ : Cô lập từng khu; an ninh mật báo từng tổ (vì thế mà tôi không tổ chức vượt rào trong đội của tôi); giới hạn đi lại qua con đường nhựa; ban đêm có lính gác đôi lưu động có đèn rọi sáng cả con đường nhựa; bờ đê cao 2 thước; 6 lớp Consertina;4 lớp rào kẽm gai, rào đứng, xiêng, ngang và hào chống chiến xa sâu 4 thước, rộng 5 thước; 2 giờ đổi gác 1 lần;ở ngoài vòng rào khoảng 2 giờ có toán tuần tiễu (đoán theo tiếng chó sủa).

Khi thoát ra đến điểm hẹn ngoài vòng rào nơi bãi tha ma, nếu quá 2 tiếng đồng hồ không gặp nhau thì tự tìm về Sài Gòn, qua ngày sau sẽ gặp nhau tại điểm hẹn ở xa lộ Biên Hòa, trễ nhứt là ngày thứ 3 sau khi ra được phải gặp nhau để bàn tính thêm kế hoạch vượt biên giới…Bây giờ chúng tôi chỉ còn chờ cơ hội và thời tiết thuận tiện.

***

Đời sống của các Sĩ Quan VNCH trong các trại giam cầm mà bọn CS gọi danh từ thật hoa mỹ là “Học tập cải tạo” thực ra chỉ để trả thù tập thể Quân Đội VNCH, giết lần mòn vì đói thiếu dinh dưỡng, bịnh tật vì không có thuốc men. Trong tổ của tôi có anh bạn Trần Văn Hồ bị bịnh tiêu chảy suốt 1 tuần lễ mà phòng Y Tế không cho một giọt thuốc nào cả, đến tuần lễ thứ 2 thì bịnh biến chuyển qua kiết lỵ, anh em cùng tổ lo cho nhau chớ phòng Y Tế không ngó ngàng gì đến.. Ăn uống quá thiếu dinh dưỡng, chỉ trong vòng 2 tháng mà trại đã có khoảng 40% bị liệt bại.

Tôi nghi ngờ là bị chúng đầu độc bằng thuốc mà bọn chúng đã cho uống khi mới vào trại, từ khi uống thuốc vào, khoảng chừng 2 tháng rưởi sau, đang đứng mà té lúc nào chẳng hay.

Trong suốt gần 4 tháng mà chúng tôi chỉ ăn được mỗi tháng một lần thịt heo, mỗi người được khoảng 8 gram thịt, mỡ lẩn da . Tôi nghĩ may là trại nầy còn được mấy con heo do trại gia binh quân đội VNCH bỏ lại, nên bây giờ chúng tôi mới được ăn thừa của bọn chúng bỏ ra cho.. Thèm thịt, thiếu mỡ, không đường, nên chúng tôi bắt tất cả con gì ăn được mà ăn như chim chóc, rắn rết,chuột, ếch, cóc nhái, ảnh ương .v.v.

Còn về tinh thần anh em Sĩ Quan thì lụn bại thê thảm, tất cả đều bi quan về cuộc chiến thảm bại vừa qua, ý nghĩ của họ mong mỏi được CS khoan hồng mà thả họ về với gia và đình phục hồi đời sống cũ …Cũng trong trại tôi có gặp 2 người bạn ở trại kế bên , một anh lúc trước chỉ huy toán phòng không dinh Độc Lập, thuộc Toán 4, khi chiếc phản lực cơ do tên phản nghịch Nguyễn Thành Trung, mang bom dội vào dinh Độc Lập, anh đã kịp thời bắn chận nên lần thứ 2 bom thả đãlệch ra ngoài vì không còn chính xác , và anh Trưởng Toán gác dinh Độc Lập. Tôi đem ý định vượt rào thì anh nào cũng không dám thực hành mà cũng chỉ mong được thả về đoàn tụ với gia đình…

Thời cơ đã đến do việc chúng nó phát động phải tích cực lao động nặng. Tôi suy đoán là chúng nó sắp chuyển chúng tôi đến trại khác xa xôi và làm việc nặng nhọc hơn. Tôi bàn tính với Hoành và Trinh nếu để chúng đưa đi trại khác thì chúng ta không thể biết được tình hình nơi đó, nếu muốn vượt trại chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, tôi đề nghị vượt trại vào ngày 17-9 âm lịch là ngày 21-10-75. Hoành và Trinh hỏi tôi tại sao lại chọn ngày trăng tròn mà ra ? Tôi trả lời :

Mình chọn ngày đó là vì yếu tố bất ngờ, bọn chúng nghĩ chúng ta không dám ra trong những đêm có trăng sáng, chúng sẽ chểnh mảng hơn, và kế hoạch tôi là sẽ vượt ra lúc 8 giờ tối, sau 7.30 giờ điểm danh thì bọn chúng thay vọng gác mà đi tuần dưới đất, và trước 9 giờ giới nghiêm, và giờ đó trăng chưa mọc. Còn thoát ra thì 2 anh nghiên cứu như thế nào thì hãy cố gắng vượt ra, còn tôi thì đã có cách riêng. Chúng ta phải đi riêng rẽ, chúng nó khó phát giác hơn.

Tôi khích động tinh thần 2 anh :

“Chúng ta toàn là tay thiện chiến, Biệt Động Quân, Biệt Kích Dù và Người Nhái, chúng ta phải chứng tỏ cho chúng nó biết khả năng của chúng ta”.

Tôi tiếp: Tôi nói thật với các anh, nếu ngày mai nầy chúng nó thả tôi ra mà ngày hôm nay có cơ hội tôi cũng thoát ra trước khi chúng nó thả..

Tôi khích động tinh thần và danh dự Binh Chủng của các anh nên 2 anh đồng ý theo chương trình đã hoạch định cho ngày 21-10-75.

***

Vượt trại.! Vượt trại !!

Tiếp theo có tiếng súng nổ và tiếng kẻng đánh liên hồi…và lịnh tập họp điểm danh lúc 2 giờ khuya đêm 14-10-75. Tập họp điểm danh, báo cáo quân số xong, chúng tôi được biết có 2 Sĩ Quan cấp Đại Úy đã vượt rào bị phát giác và bị bắn chết 1 anh tại hàng rào và 1 anh bị thương nơi chân, chúng kéo lôi anh nầy vào để tại hội trường để cảnh cáo chúng tôi hãy xem đó làm gương…Sáng ngày các anh em bó chiếu xác anh đã chết và chôn tại chỗ, còn anh bị thương thì chúng mang đi đến các trại khác để cảnh cáo.

Sự việc xảy ra đã làm cho Hoành và Trinh mất tinh thần không ít. tôi cố gây niềm tin cho 2 anh, phân tách kỹ những lỗi lầm của nạn nhân cho Hoành và Trinh thấy : Các anh đó chọn thời điểm không đúng, 2 giờ khuya thanh vắng quá, nhằm ngày mồng 9 âm lịch, giờ đó có trăng non, và mặc đồ màu xanh lợt nên dễ bị phát giác, và còn nhiều chi tiết mà tôi không biết rõ..

Chúng tôi cùng kiểm soát lại kế hoạch xem coi có cần bổ khuyết hay không ?! Và chúng tôi cương quyết vượt trại giam, với tinh thần bất khuất, bất chấp mọi nguy hiểm sẽ xảy ra cho mình. Tôi rất tin tưởng mình sẽ vượt ra an toàn..Chúng tôi chờ đợi chỉ còn đúng 1 tuần là đến ngày quyết định với cảnh giác căng thẳng tột độ..

21-10-75. Ngày, giờ quyết định đã đến, lúc 7giờ tối tôi mang qua trại của 2 anh Hoành và Trinh 3 trái lựu đạn M 26 (tôi đã giấu trong đống cát như đã kể trên) còn tôi giữ lại 2 trái. 2 anh ngạc nhiên, tôi giải thích cho 2 anh biết và căn dặn, nếu lỡ bị phát giác khi trốn ra thì phải hy sinh chớ đừng để chúng nó bắt lại

.. Chúng tôi cùng kiểm điểm lại lần cuối cùng kế hoạch đào thoát. Hoành là người hoạt bát và nhờ thế nên Hoành đã nhờ cán bộ mua giùm 100 gr café và đường cách nay hơn một tháng, tôi đã dặn Hoành để dành lại cho ngày hôm nay 3 ly café đặc. Chúng tôi vừa uống vừa tính toán, khi xong hết, Hoành nói là cần mang theo mền và mùng vì đó là kỷ niệm đời binh nghiệp của anh. Tôi không đồng ý nên ngăn cản .

Trong lúc đó lại thấy gió thổi mạnh và mây đen kéo đến làm cho anh em chúng tôi lên tinh thần vô cùng, tôi thầm nhủ “Trời thương anh em chúng con rồi !”.

19giờ 30 là giờ tập họp điểm danh, tôi từ giã Hoành và Trinh hẹn đúng 20 giờ vượt trại và gặp nhau ngoài điểm hẹn tại bãi tha ma. Tôi lần ra hàng rào kẽm gai cô lập trở về trại mình. Tôi đã tạo thói quen là cứ đến khoảng 19 giờ là tôi giăng mùng sẵn để các người cùng tổ không để ý tới tôi, hôm nay cũng vậy. tôi từ bên trại của Hoành và Trinh về, tập họp điểm danh xong tôi liền vào mùng nằm, chừng 20 phút sau, tôi ra đi tiểu, lúc nầy gió thổi rất mạnh, mưa bắt đầu rơi, trại chúng tôi cũng như trại của vệ binh VC đều lo đóng cửa sổ, thừa lúc lộn xộn đó tôi vội bước qua hàng rào kẽm gai lọt qua khu vực của vệ binh VC, đi nhanh ra bờ đê và lăn nhanh qua bờ đê, tôi nằm im để nghe động tịnh và móc ra 2 miếng cao su, (Tôi lấy ruột xe mà bọn VC bỏ lại khi chúng cắt các vỏ xe máy ủi đất để làm dép, tôi đã cắt lỗ để xỏ mấy ngón tay và đem cất giấu) tôi mang 2 bao tay giã vào và bò đến hướng đã định, dùng bao tay giả đó để nâng đỡ kẽm gai, lách mình chui qua, tôi làm rất thận trọng, nhanh nhẹn và chính xác, vì tôi đã nghiên cứu thật kỹ từ loại kẽm gai và cách thức rào ra sao như rào đứng thì bợ lách như thế nào, rào xiên thì phải nâng đẩy và đưa chân nào ra trước, rào thấp ngang mặt đất thì phải nằm ngửa và đỡ từng sợi kẽm gai, rào consertina phải lách và chun qua làm sao…Vì thế nên vượt qua 10 lớp kẽm gai hàng rào và hào chống chiến xa, chỉ trong vòng 15 phút đến 20 phút thì tôi đã có mặt ngoài hàng rào rồi, tôi tiến nhanh vào lũy tre cách hàng rào khoảng 50 thước ẩn mình vào bóng tối của lũy tre để tránh đường chân trời..

Mưa bắt đầu nặng hột, tôi thu mình dưới lũy tre cố giương mắt nhìn về hướng điểm hẹn bãi tha ma cách đó khoảng 100 thước, vì đề phòng 2 anh bạn bị lộ có thể chỉ điểm cho cán bộ bao vây.

Cơn mưa kéo dài đến khoảng 11 giờ đêm, vẫn không thấy bóng dáng của Hoành và Trinh, còn ở trong khu trại giam cũng không nghe báo động. Mưa đã tạnh lần, tôi di chuyển ngược lên hướng đào thoát của Hoành và Trinh để đón cũng không thấy tăm hơi chi cả. Tôi nóng lòng, suy nghĩ không lẽ 2 anh bạn nầy không dám vượt ra ?. Càng về khuya càng cảm thấy nhiều nguy hiểm ! Nhưng tôi vẫn cố gắng đợi chờ, câu hỏi tại sao, tại sao cứ loanh quanh trong đầu óc của tôi. Cảnh đêm khuya hoang vắng cạnh bãi tha ma trong rừng chồi nó âm u làm sao !. Tôi cố chờ mãi đến khoảng 2 giờ khuya, bầu trời lại bắt đầu vần vũ, mây đen kéo đến mờ mịt. Biết sắp có trận mưa to, tôi lo ngại quá, vì điểm hẹn chỉ cách hàng rào trại giam có khoảng 700 thước..Trời mưa mà tôi đổ mồ hôi hột vì lo cho 2 bạn của mình, tôi không nở bỏ đi. . Nhưng ở lại thì thập phần nguy hiểm có thể bị chúng bao vây bắt lại..

Tôi đang suy tính bỗng nghe có tiếng nói và tiếng chân người đi tới, tôi cấp tốc nép mình vào bụi cây, lòng hoang mang hồi hộp chờ đợi.. Khi đoàn người đến gần, tôi lắng nghe tiếng nói chuyện … À ! thì ra là những người dân trong thôn xóm đang gánh rau cải ra chợ bán.! Ý nghĩ thoáng nhanh trong đầu tôi, mình phải rời khỏi nơi nguy hiểm nầy trước, về Sài Gòn rồi sẽ gặp nhau tại điểm thứ 2 an toàn hơn, vì địa thế nơi đây tôi không biết nên sẵn dịp nầy tôi nương theo những người gánh hàng để tránh các chốt chận khám xét của VC.

Và tôi đã ra đến chợ Hốc Môn, tôi đón chuyến xe đò sớm nhứt và về đến Sài Gòn lúc 7 giờ sáng. Tôi đến nhà người bà con bên vợ để hỏi thăm tin tức và liên lạc với vợ con , tôi và vợ con gặp lại nhau sau 6 tháng qua người bà con nầy, tôi ở tạm đây vài hôm để liên lạc với Hoành và Trinh, nhưng suốt mấy ngày liền tôi đến điểm hẹn đều không có tin tức của 2 anh. Vợ tôi cũng đã thay tôi liên lạc với gia đình của Hoành và được biết không có tin tức gì về Hoành cả. Thế là chương trình dự tính vượt biên giới qua Thái Lan không thành.!

***

Sau mấy ngày ở tạm nhà người bà con, tôi từ giã và di chuyển qua nhà anh Nguyễn Thành Nhơn ở tạm phía sau để liên lạc lại với các anh em đồng chí hướng.

Trước năm 1975. Anh Nguyễn Thành Nhơn, là Chủ Tịch Tổng Cuộc Phong Trào Thể Dục Thẩm Mỹ Việt Nam và cũng là Chủ Tịch Tổng Cuộc Thám Hiểm và Săn Bắn Cá Dưới Biển VN. Giám Đốc Chương Trình Sức Khỏe Giống Nòi , Chương Trình Con Kiến Càng trên Đài truyền hình VN.. Đối với tôi, anh Nguyễn Thành Nhơn là người Thầy và cũng là người Anh tinh thần của tôi, vì trước khi nhập ngủ vào Quân Đội tôi đã được anh huấn luyện trở thành Huấn Luyện Viên của phòng tập Trung Ương.

Tôi ở ẩn trong nhà anh và thường xuyên liên lạc với các anh em cùng đơn vị(Xin tạm dấu tên vì các anh em còn đang ở VN). đang chờ đợi những đường dây yểm trợ từ ngoài về để cùng nhau hoạt động lật đổ chế độ Cộng Sản bạo tàn nầy..

NGÀY ĐỊNH MẠNG ĐƯA TÔI VÀO TÙ LẦN THỨ NHÌ
(Ngày 9-4-76-Sau 6 tháng vượt trại tù Thành Ông Năm) .

Vào lúc 7 giờ tối, tôi đang đứng chờ vợ tôi làm việc ở tòa soạn báo Tin Sáng, mãn việc ra về, tôi đón nàng để đưa lại chiếc xe velo solex cũ (không có gắn máy) Vì thương con sợ con bị kẹt chân vào bánh xe làm con đau vì nó đã bị kẹt một lần rồi nên tôi vừa gắn chiếc yên nhỏ để cho vợ tôi chở con tôi..Vì thân phận vượt tù nên tôi phải trốn tránh không thể để cho bà con thân thuộc biết được. Tôi đang đứng chờ đợi ở trước trụ sở Khóm mà tôi không biết vì chúng không có treo bảng, khoảng chừng 15 phút, tôi thấy 2 tên Công An trong trụ sở đi đến hỏi giấy tờ của tôi, tôi lo sợ nhưng không còn tránh né được nữa đành phải đưa giấy tờ ra, chúng giữ giấy tờ của tôi và mời tôi vào trụ sở, tới lúc đó tôi mới biết là đang đứng trước hang cọp. Vừa lúc đó vợ tôi nghỉ việc ra về vừa đi tới, tôi vội trao chiếc xe cho vợ tôi và dặn “Anh đang bị theo dõi em hãy đi nhanh đi..hãy lo cho con..”

Rồi tôi theo Công An vào trụ sở. Sau khi xem giấy tờ tên Công An nghi ngờ giấy tờ của tôi là giả, nên giữ tôi lại để chờ điều tra lại địa chỉ. Lòng tôi lúc đó như lửa đốt vì tôi biết sẽ không thoát được, giấy tờ của tôi toàn là giả thì làm sao chứng minh được ?

Tôi nghĩ hậu quả sẽ vô cùng thảm khốc, nên có ý định hạ tên Công An đang canh gác. Tôi xin đi tiểu để xem địa thế. Xung quanh tòa trụ sở nầy tường cao khoảng 2 thước phía trên đầu tường có gắn miểng chai lại còn 1 vòng kẽm Consertina, phía sau có dãy nhà bếp, phòng chứa củi và nhà cầu, trên nóc nhà cũng có vòng kẽm gai Consertina. Tôi vào phòng tiểu, suy tính chỉ có phía sau là hy vọng nếu nhảy qua được phía bên nhà khác…Tôi nghĩỉ đã đến đường cùng rồi nên quyết định hy sinh nếu không thoát được thì thôi !. Tôi ra khỏi nhà cầu và bước theo tên Công An bất thần tung ra một quả đấm vào hàm hạ của tên nầy, nhưng rủi thay, tên nầy trước khi bị ngất xỉu đã la lên một tiếng, tôi chạy nhanh lấy đà đạp lên thành tường nhảy lên nóc nhà phía sau, chạy dọc theo đường kẽm gai, trong lúc đó bọn Công An túa ra và bắn theo tôi, tôi vẫn cố chạy trên nóc nhà,dự tính nhảy qua nóc nhà khác, bỗng tôi bị trượt chân vì miếng ngói tróc xi măng nên đành nhảy trở xuống đất.. Thôi rồi ! Mặc tình cho bọn Công An xúm lại còng tay tréo ra sau rồi chúng thi nhau đấm đá vào thân thể tôi, chúng treo tôi lên cửa sắt với chiếc còng sắt, sức nặng của thân hình trên 60 ký lô mà bị treo hỏng chân tréo tay như thế, nên tôi không còn sức chịu đựng với những trận đòn như mưa bấc..Thân mình tôi gục xuống như tàu lá rủ..

Sáng hôm sau chúng đưa tôi lên khẩu cung, Để tránh liên lụy cho anh Nguyễn Thành Nhơn, tôi khai theo lời sắp sẵn là “sĩ quan trốn trại học tập về thăm nhà, nhưng không dám về nhà vì biết Công An canh chừng nên phải lang thang ngoài chợ trời, đêm đến thì mướn chiếu ngủ ngoài nhà ga xe lửa. v.v”. Sau đó bọn chúng giải tôi qua phòng giam Quận Nhì, trên đường đi tôi có ý định nhảy xuống xe nhưng không có cơ hội vì chúng nó còng tay tôi chung với ông ký giả Trần Hồng Thu. Đến Quận Nhì, sau khi làm thủ tục, chúng đem tôi và ông Thu vào phòng giam.

Trại giam quận 2 Sài Gòn.

Nơi đây thật đúng là địa ngục ở trần gian! Chúng vừa mở 2 lớp cửa sắt ra, mùi hôi nồng nặc, chúng xô tôi vào trong rồi khóa cửa lại. Cảm tưởng cửa tôi nơi đây như là nhà thương điên…Trong ánh sáng âm u tôi thấy không biết là bao nhiêu người, thân hình gầy guộc trần truồng như nhộng. Lớp thì bất động miệng thều thào..Còn những người mạnh hơn thì bao quanh tôi, xô đẩy nhau dành được đến gần tôi, thật là một cảnh tượng kỳ lạ mà tôi chưa bao giờ thấy. Tên đại diện trại giam phải đánh đập la thét những người nầy mới chịu dang ra khỏi tôi, tên đại diện hỏi tôi có mang theo thuốc lá không ? Tôi trả lời không có vì tôi không biết hút thuốc. Tốp người vây quanh tôi mới thở dài chán nản. À ! thì ra các người tưởng tôi mới vào có đem theo thuốc lá nên mới tranh nhau để xin thuốc lá. Tên đại diện trại giam đưa tôi vào trong một phòng giam phía trong nữa rồi khóa lại. Các người vây quanh hỏi thăm tôi đủ chuyện , tôi chán nản ngồi bó gối không muốn trả lời, vì biết có trả lời cũng không xuể.

Đời sống trong trại giam nầy chắc không có ai tưởng tượng được, phòng còn để bảng phòng giam rộng 8 thước vuông , phạm nhân giam chứa tối đa là 40 người, nhưng bọn CS đang giam gần 300 người. Nơi đây nếu người nào đứng lên thì mất chỗ ngồi, và không đủ không khí để thở, vì vậy mà đêm ngày gì phạm nhân cũng mình mẩy ướt đẫm mồ hôi, ăn uống không có dinh dưỡng, một bữa ăn là 2 chén cơm lường bằng chén nhỏ cho mỗi người, đổ chung vào cái thau nhôm với 4 giá canh rau muống nấu với muối hột, 6 người ăn chung với 3 chiếc muỗng chia nhau múc ăn, vì tranh ăn nên bữa ăn nào cũng cãi vã, đánh đấm nhau , ồn ào suốt ngày đêm..Ban đêm thì nằm sắp chồng lên nhau, tới lỗ cầu tiêu cũng được nhét giẻ lại để nằm, các song sắt trong hai phòng giam riêng cũng được chia nhau đeo vào song bằng chiếc áo lót cột ngang lưng để ngủ.

Vì tình trạng nêu trên nên những người bị bắt vào đây chỉ trong vòng 2 tháng là bắt đầu bị ghẻ, loại ghẻ thiếu dinh dưỡng nầy nổi lên thành vành chính giữa thì lõm sâu và chảy nước vàng. Nước vàng nầy chảy đến đâu thì ghẻ lở chỗ đó, và sau đó bị liệt bại, ban đêm bị ghẻ lở hành hạ, bịnh nhân la khóc vang trời..Tôi có cảm tưởng như đang ở Địa ngục, thỉnh thoảng có người chết vì liệt bại, thân xác nạn nhân dược lôi ra khỏi phòng.

Tôi cố gắng giữ sức khỏe, hàng ngày đều tập thể dục, chạy bộ 400 bước, hít đất 100 cái, tập tay mỗi bên 60 cái. Chịu đựng được đến tháng thứ 5, tôi cảm thấy yếu lần.

Dự tính phá trại giam Quận Nhì.

Tôi đã có ý nghĩ phải phá trại giam nầy từ ngày đầu khi đặt chân vào đây nhưng chưa tìm được người thích hợp nên phải chờ đến bây giờ.

Trong thời gian ở đây tôi quen với một ông Trưởng Ty Xã Hội tại Tỉnh ở Cao Nguyên (Xin tạm dấu tên vì còn đang ở Việt Nam) Ông là đảng viên của Đại Việt. Ông thường kể cho nghe về quá trình hoạt động của Đảng và về cá nhân của Ông.

Vào khoảng một tháng nay, tôi để ý theo dõi một người bị bắt về tội tư sản mại bản, vì tồn trữ 60 tấn café sống mà không khai báo, tên là Hồ Ngọc Ẩn …Nhà ở đường Tự Do ..,Mỗi tuần đều phải lên phòng Điều Tra lấy khẩu cung , tôi làm quen và hỏi thăm ý định sau nầy của anh, anh cho biết là không thể chịu đựng nổi ở nơi đây, và anh có ý định trốn ..Tôi gợi ý hỏi Ẩn, nếu muốn thoát ra , anh phải làm sao?. Ẩn nói về cách trốn của Ẩn, tôi thỉnh thoảng bổ túc cho Ẩn, tôi thấy Ẩn có vẻ vui mừng..

Vì tôi nóng lòng tìm người để thực hiện kế hoạch của tôi nên tạm chọn Ẩn, nhưng tôi chưa cho Ẩn biết ý định của tôi. Ngày hôm sau Ẩn được gọi lên lấy khẩu cung lúc 8 giờ sáng thì khoảng 9 giờ có tiếng gọi tên tôi và Ông Trưởng Ty , khi tôi và Ông vừa ra khỏi phòng giam thì đã có tên Cán Bộ Trưởng trại và 2 tên Công An ôm súng AK, tên Cán Bộ ra lịnh còng tay tôi và ông Trưởng Ty rồi day qua chỉ mặt và nói với tôi : “Tao đã biết kế hoạch của chúng mày rồi, dự định chúa nhựt nầy sẽ giết Cán Bộ, cướp vũ khí, phá trại giam”, rồi quay lại bảo 2 tên Công An đem chúng tôi qua trại giam đặc biệt. Phòng giam đặc biệt bề dài 3 thước, bề ngang rộng 1. thước, nhốt 10 người, tiêu tiểu tại chỗ, lỗ thông hơi để thở thì vừa lọt bàn tay, và đến giờ cơm được bọn cán bộ đưa vào mỗi tù nhân là một chén cơm đút vào vừa lọt cái lỗ thông hơi..Sự việc xảy ra tôi nghĩ là do tên Hồ Ngọc Ẩn phản bội đã báo cáo với Công An để lập công .

Nhứt nhựt tại tù, thiên thu tại ngoại!

Ngày ở trong tù sao mà dài lê thê, ngột ngạt, nặng nề ghê gớm vô cùng.

Ngồi bó gối, tôi ôn lại những chuỗi ngày trong tù cải tạo lần trước..

-Thiếu Úy Trần tấn Mao, Sĩ Quan tiếp liệu Người Nhái đã buồn rầu, khóc thương cho gia đình 14 đứa con đói khổ của mình, tôi thường khuyên và gợi ý vượt trại với anh. Nhưng biết mình già yếu, không đủ can đảm vượt trại..Anh chỉ mong được Cộng Sản giữ lời khoan hồng thả anh về đoàn tụ với gia đình.. Anh khóc mãi.. Khóc đến mù đôi mắt..!

Tôi buồn ..Tôi suy tư, những hình ảnh sắt máu gớm ghê chẳng bao giờ tôi quên được.! Tôi căm thù, uất hận. Tôi nguyện sẽ đem hết sức mình để làm những gì mà tôi có thể làm được, để đóng góp cho ngày lật đổ Cộng Sản, giải phóng quê hương được trở lại ngày tự do tươi sáng..Nước mắt tôi rơi.. Đúng tôi khóc chứ ! tôi khóc vì căm thù, vì uất hận, hổ thẹn lớp người chúng tôi đã để mất nước…Việt Nam ơi.. Việt Nam ơi !.. Chúng con phải làm sao ? phải làm gì cho tổ quốc ?. Rồi bây giờ tôi lại đang sa vào lao lý, biết bao giờ tôi thoát được nơi đây?!

Sau 10 ngày giam tôi nơi biệt phòng để chúng điều tra lại, nhưng không ra manh mối, nhưng chúng không dám trả tôi về phòng giam cũ, chúng chuyển tôi qua phòng giam Quận Nhứt kiên cố hơn. Tôi vừa vào phòng giam thì đã thấy 2 người bị giam bên quận 2 là anh Tiến, Trung úy Cảnh Sát và Ông Trưởng Ty. Chúng tôi chào mừng nhau và với các bạn tù mới, trong phòng giam nầy có một băng đảng cướp có súng nổi tiếng trước năm 75, là băng đảng Đà Lạt. Trong khoảng thời gian trước năm 75, băng đảng nầy đã từng tranh giành ảnh hưởng khu vực làm ăn của nhau với băng đảng Đại Cathay ở vùng Sài Gòn ..Bằng đại diện cho 4 anh em trong băng đảng, đến gặp tôi chào hỏi và ngỏ lời nhờ tôi đứng ra sắp xếp kế hoạch phá trại giam nầy, Bằng nói : “Tụi em đã nghe tiếng anh đã từng vượt trại tù cải tạo, và vừa rồi lại bị bể kế hoạch phá trại giam ở Quận Nhì .v.v”. Tôi chỉ cười mà không trả lời.

Mỗi ngày Bằng và các anh em đều đến ngồi chung và tâm sự. Bằng kể lại chuyện xưa và nói : “Chúng em ngày trước chỉ biết ăn chơi du đãng du thực, phá phách .. trốn tránh không chịu đi lính để bây giờ chúng nó chiếm miền Nam tất cả đều đói khổ .Bây giờ tụi em hối hận quá! Mong nếu tụi em ra được lần nầy, tụi em nhứt định phải tìm cách phá tụi nó..”

Vì tôi vừa bị phản bởi tên Ẩn, nên thận trọng hơn, tôi đã nghĩ cách phá chỗ nầy rồi nhưng còn giữ kín. Tôi hỏi Bằng và anh em có được thăm nuôi không ? Bằng đáp hàng tuần đều được thăm nuôi, tôi nói với Bằng hãy bảo người thăm nuôi gởi vào một típ kem đánh răng chứa Acid nguyên chất, khi nào có rồi thì cho tôi hay và tôi dặn Bằng đừng hỏi tại sao, Bằng thấy tôi đã chịu giúp thì rất vui mừng, hứa sẽ làm theo lời dặn của tôi.

Sắp đặt kế hoạch phá trại giam Quận Nhứt.

Nhưng đêm 4-10-76, cán bộ vào thông báo ngày mai tôi và một số người sẽ chuyển trại trong đó có ông Trưởng Ty và Tiến. Tin nầy làm cho Bằng và các anh em trong băng đảng lo buồn, Bằng nói : “Anh rời khỏi nơi đây tụi em không biết làm sao!”. Tôi bèn họp các anh em Bằng lại và nói : “Trước khi tôi đi, tôi sẽ chỉ kế hoạch lại cho các anh, bây giờ các anh em cho tôi biết trong phòng giam nầy chỗ nào yếu nhứt ?”. Anh em Bằng nói : “Tụi em ở đây gần một năm rồi mà vẫn không nghĩ ra vì tường dầy 2 tấc, song sắt to bằng cườm tay, nóc và nền đúc xi măng, cửa sắt phải 2 người mở, đóng mới nổi..” Tôi nói : “Tất cả đều kiên cố, các anh thấy cánh cửa sắt dầy và nặng nhưng 2 cái bản lề là chỗ yếu nhứt, các anh em vẫn chưa hiểu?”.

Tôi bắt đầu chỉ kế hoạch dự tính phá trại giam nầy. Khi có típ acid nguyên chất rồi thì mới lo các phần khác như dưới đây :

· Chọn ngày giờ cho thích hợp

· Chuẩn bị một người giỏi võ .

· Một chiếc xe đậu sẵn vào giờ đó tại đường gần nghĩa địa Mạc Đỉnh Chi.

Bắt đầu vào kế hoạch :

– Chọn đêm Chúa nhựt, lúc 1 giờ khuya (chúng đổi gác lúc 12 giờ khuya , chọn 1 giờ khuya là lúc tên gác buồn ngủ.)

Đúng giờ đã định, đem típ acid nguyên chất đổ vào 2 bản lề cửa sắt, khoảng 15 phút sau, 2 người khiên cánh cửa sắt qua một bên, người giỏi võ chạy nhanh ra hạ tên lính gác cướp lấy súng, cách phòng giam 2 tấm vách tường, trong lúc đó tất cả các anh em đồng chạy lên phòng trực, hạ sát 3 tên đang ngủ và lấy súng đạn rồi chạy xuống đánh thức tất cả tù nhân cho họ hay là Phục Quốc Qquân đến giải vây và chỉ cho tất cả chạy ra cổng chánh, còn các anh em thì phải vượt tường rào phía nghĩa địa Mạc Đỉnh Chi để lên xe đậu sẵn nơi điểm hẹn .

Điểm quan trọng là phải nhanh lẹ chính xác và cố gắng làm thật im lặng và đừng nổ súng nếu thấy không cần thiết. Vì khi đó mà bị náo động thì rất nguy hiểm, các điểm gác khác sẽ báo động, các anh em sẽ khó thoát thân.. Các anh em phải xem lại thật kỹ để biết rõ nhiệm vụ của mỗi người mà làm cho thật gọn..Các anh em phải nghĩtrong đầu mình là chỉ được thành công chớ không được thất bại..

Sau khi nghe tôi trình bày sắp xếp kế hoạch, anh em của Bằng rất vui mừng, ôm vai tôi tỏ lòng biết ơn…

Sáng sớm hôm sau, chúng tôi những người có tên trong danh sách chuyển trại, chúng còng tay chúng tôi lại với nhau đưa lên xe Molotova phủ mui bố xuống, xe chạy đưa chúng tôi lên Gia Định (BCH/Tiểu khu VNCH cũ) để tập trung tù nhân trong 14 Quận của Thành Phố tại đây , sau đó đoàn xe trực chỉ ra ngoại ô, vì xe bỏ mui bố che lại hết nên chúng tôi không biết bọn chúng chở đi đâu, khoảng 4 giờ di chuyển xe ngừng lại, chúng tôi lần lượt xuống xe. Tôi vươn mình hít dài một hơi thở không khí trong lành của vùng rừng núi cho thoải mái, vì suốt 6 tháng bị giam, tôi chưa được thấy ánh sáng mặt trời và thở được không khí trong lành..

Chúng tôi đang ở trên một ngọn đồi, san sát các dãy nhà tole và có rất đông bọn Công An.. Các người bị nhốt ở đây cho chúng tôi biết nơi đây là đồi là Phượng Vĩ căn cứ của Trung Đoàn 52, thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh, tại Ngã 3 Ông Đồn, dưới chân núi Chứa Chan..



Trại Cải Tạo Phản Động K3
do Công An thành phố quản lý
Đồi Phượng Vĩ trước ngày 30-4-75 là Căn cứ Trung Đoàn 52 Sư Đoàn 18.

Tập họp điểm danh, 120 người chúng tôi được đưa vào 2 dãy nhà lợp tole vách ván , trong tổng số 20 dãy, xung quanh các dãy trại gồm có nhiều lớp kẽm gai bao bọc có gắn lon thiếc. Tất cả 120 người “tù phản động” nầy hầu hết đều liệt bại nên phải khiêng vào..Vừa yên chỗ, một tên cán bộ quản giáo vào “sinh hoạt” cho biết đây là Trường K3 . .Hôm nay các anh đến đây là ngày thứ nhứt của 3 năm học tập cải tạo..v.v. Nơi đây các anh được liên lạc về gia đình để thăm nuôi, mỗi lần thăm nuôi15 phút. Các anh hãy nhớ viết thơ thế nào mà có lợi cho cách mạng, cho gia đình và cho bản thân các anh thì các anh viết.. Tên cán bộ quản giáo tuyên truyền một lúc rồi kết thúc : Vì các anh mới nhập trại nên ban quản giáo cho các anh được nghỉ “Bồi Dưỡng” vài hôm. Chúng tôi đều hiểu, vì tất cả bị liệt bại nên chúng nó để cho chúng tôi hồi phục rồi mới bắt đầu mang cày vào cổ chớ có tốt lành gì đâu.

Nghiên cứu kế hoạch vượt trại tù lần thứ 2 tại đây trong vòng 20 ngày.

Một đêm ngủ thoải mái với không khí trong lành của miền rừng núi Chứa Chan, tỉnh Long Khánh.

Ngày hôm sau tôi đi vòng quanh các dãy trại, tôi gặp anh Dũng Mặt đỏ của phòng An Ninh Đặc Tra Phủ Tổng Thống. Tôi gặp Dũng sau giờ lao động, anh mừng rỡ chạy lại ôm tôi, tôi dặn nhỏ Dũng đừng nói với ai vì tôi không có khai thật là Sĩ Quan Cận Vệ. Tôi hỏi thăm Dũng tình hình nơi đây và tại sao Dũng không vượt trại ? Dũng cho biết hiện giờ đội công tác của anh đã được bọn chúng tin tưởng nên cho đi làm xa tận trong rừng để cưa cây gỗ. Còn trốn thì Dũng không dám vì sợ bị bắt lại và sợ về không có chỗ an thân.

Dũng cho tôi biết: Dũng bị đưa lên đây từ ngày đầu, chúng lấy trại nầy dự định chỉ giam thành phần trình diện học tập thuộc đơn vị tỉnh Biên Hòa. Sau một thời gian chúng bố phòng chắc chắn hơn, chúng đưa thêm về đây các tù “phản động” gồm nhiều thành phần từ cấp Tá đến binh sĩ và tù chính trị luôn cả phụ nữ phản động. Phụ nữ thì chúng ngăn riêng khu vực, và nguy hiểm nhứt là dọc theo triền đồi, trong các lớp kẽm gai có chôn mìn 3 râu (loại mìn chống cá nhân có 3 ngòi nổ) hiện giờ thỉnh thoảng gió thổi lay động cây dại mìn cũng nổ, vì vậy mà suốt 16 tháng rồi mà không có ai dám vượt trại trốn ra.!

Tôi gặp anh Thiếu Úy Hoa, Cảnh Sát Dã Chiến Biệt Đoàn 222, Võ sư Thái Cực Đạo, Huấn luyện viên của Đại Đội Đặc Nhiệm bảo vệ Phủ Tổng Thống. Hoa cho biết anh đã tổ chức trong đội anh được gần 20 người ở đội 16 của anh.
Anh Thượng Sĩ Truyền Tin Võ Phòng phủ Tổng Thống là anh Quốc, anh bị bắt vì hoạt động trong lực lượng Dân Quân Phục Quốc, anh cũng đã tổ chức ở đội 15 gần 20 người.
Anh Ba Hương, là vệ sĩ cho Ông Đại Sứ Nguyễn Văn Kiểu (Anh ruột của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu) anh Ba Hương thuộc toán Bảo Vệ yếu nhân của Cảnh Sát, anh cũng cho biết có tổ chức ở đội 17, gần 20 người.
Được biết Đại Tá Nguyễn văn .P… Tỉnh Trưởng Long Khánh, bị bắt ngoài mặt trận trước ngày 30-4-75 đang bị nhốt ở đây. Tôi nhờ anh Tiến, trước năm 75, Tiến là đệ tử của Đại Tá .P..liên lạc với ông để biết thêm tin tức, thì được Đ/T P.. cho biết, ông vẫn thường xuyên l/l với Lực lượng Phục Quốc ở bên ngoài. Tôi đề nghị với Đ/T qua anh Tiến . Nếu Đ/T thấy cần đánh phá trại giam nầy thì tôi xin trách nhiệm một lực lượng xung kích khoảng 50 người giỏi võ thuật. Anh Tiến chuyển lời tôi đến Đ/T, sau đó Tiến cho tôi biết Đ/T bảo đừng lo, vì ông đã được lực lượng bên ngoài cho biết sẽ giải thoát trại giam trong tuần nầy hoặc tuần tới ? Nhưng đã qua hơn tuần mà không thấy động tịnh gì cả , Tiến hỏi lại Đ/T thì tôi được biết là trong tuần nầy ?. Tôi cảm thấy bất ổn vì tôi đã nghe tin nầy đã xầm xì trong một vài trại, tôi nghi ngờ tin nầy đã bị lộ.! Vì tôi đã theo dõi trong mỗi đội tù đều có nhiều an ninh chìm của Công An. Tôi nghĩ hậu quả rất ghê gớm, nhưng tại sao chúng biết mà vẫn làm ngơ ? Có lẽ chúng đã có chuẩn bị rồi.Trong đêm thỉnh thoảng chúng thực tập báo động – Chúng thổi còi và đánh kẻng báo hiệu, trong vòng 10 phút tất cả 20 dãy trại đều bị phong tỏa-. Mỗi dãy trại đều có 1 tiểu đội cầm AK 47, trung liên Tiệp Khắc và B 40, chỉa thẳng vào trại…

***

Tôi lo chọn trong số những người trong trại để tính việc đào thoát, vì tôi không tin tưởng khả năng của LL phục Quốc do Đ/T P… cho biết.

Trong số các anh em quen thân đều ngại vượt tù, chỉ mong được CS tha tội trở về sống với gia đình, tôi chỉ chọn được một người là :

Trung Úy Kỹ sư Điện Tử Trần Quang, đặc trách Đài Radar Phú Lâm. Can đảm chịu đựng, bị bắt do tên Hạ Sĩ Quan dưới quyền điềm chỉ, Quang vẫn cương quyết không nhận làm lại cho CS để được tha tội. Quang cũng thường ngỏ ý với tôi nếu có tổ chức thì xin cho anh tham gia, và anh hứa sẽ làm bất cứ việc gì do tôi sắp đặt, vì đã nghe tôi đã có thành tích tổ chức vượt tù.

Tôi chọn anh Trần Quang là vì thích hợp cho kế hoạch của tôi và cùng ở chung dãy với tôi, khổ người của anh nhỏ nhắn, trầm tĩnh nhưng linh hoạt…

Tôi quyết định theo kế hoạch trù liệu để vượt trại. Tôi và Quang mỗi sáng thức dậy và đi “viếng lăng bác Hồ”, tiếng lóng để chỉ việc giải quyết vệ sinh. Vừa đi vừa bàn tính, tôi cho Quang biết ý định vượt rào và dặn Quang chỉ làm theo những gì tôi cần chớ đừng hỏi tại sao và phải ngăn cách đừng tỏ ra thân thiện để chúng không nghi ngờ, Quang đồng ý vì Quang tin tưởng nơi thành tích của tôi.

Sau 2 tuần lễ, tôi đã thâu thập hệ thống phòng thủ và nghiên cứu thận trọng như sau :

· 20 dãy tole, vách ván, mỗi miếng chiều dài 3 thước có đóng nẹp chận đầu.

· Sau khi điểm danh, 18.giờ 30, tất cả các cửa sổ, cửa chánh đều khóa lại.

. Bên ngoài phòng, Hàng rào 4 lớp kẽm gai cao 2 thước có treo lon, nhiều hàng rào kẽm gai dọc theo triền đồi, có khoảng 3 lớp consettina cuối cùng dưới chân đồi.

· Bãi Mìn do Trung Đoàn 52, Sư Đoàn 18 Bộ Binh VNCH thiếp lập lẩn trong các lớp hàng rào, Trung Tá Đức Chỉ Huy Trưởng Hậu cứ của Trung Đoàn 52 hiện đang bị giam tại đây, xác nhận là đúng.

. Quân số canh gác và phân công dẫn tù đi lao động là khoảng 200 tên công an.

. 4 vọng gác cao 5 thước, khoảng 2 giờ đổi phiên 24/24, ban đêm khoảng giữa phiên đổi gác, có toán tuần tra võ trang lẻn vào nghe lén từng dãy trại.

Hệ thống bố phòng xung quanh đồi

Trung Đoàn Bộ Đội đóng quân toàn diện từ hướng Đông qua Nam đến hướng Tây. Nằm sâu trong rừng và đặc trách núi Chứa Chan, ước tính chiều dầy khoảng chừng 3 cây số, bao trùm mặt tiền của trại giam. Mặt hậu từ hướng Tây Bắc đến Bắc qua Đông, do cán bộ, thanh niên xung phong và khu kinh tế mới, cán bộ nằm vùng lẫn lộn có thể Trung Đoàn Bộ Đội cũng đảm trách vùng nầy. Nhìn chung mặt nầy có vẽ lỏng lẻo nhưng là tử địa vì khi thoát ra mặt nầy thì chỉ có thể đi về phía rừng lá, không còn đường trốn.

. Hệ thống an ninh chìm là nguy hiểm nhứt, riêng đội 18 của tôi 60 người đã có 5 tên chìm đội lớp tù, (do sự điều tra của Quang), chúng kiểm soát từ lời nói và hành động của mỗi người, khi ăn,khi ngủ, khi đi lao động v.v.

Bây giờ tôi chỉ còn chờ chúng đưa đi lao động ở ngoài để quan sát và tìm hướng đi…

Sau hai tuần nghỉ dưỡng sức, các người bị liệt bại đã khá hơn. Tối Chúa Nhựt, trước giờ điểm danh, cán bộ đem xuống một danh sách biên chế chỉ định tôi làm đội trưởng 18 K, đúng như suy đoán của tôi, vì chúng muốn kiểm soát tôi chặt chẽ, sắp xếp đánh số chỗ ngủ, không được ngủ khác chỗ. Tôi phải chịu trách nhiệm mọi sự xảy ra trong đội, báo cáo quân số trước khi đi và khi về, lao động, nghỉ bịnh, công tác nhẹ, và trước khi đi ngủ, tối đến sau khi điểm danh tôi phải điều hành sinh hoạt, phê bình, sửa sai, đề nghị, đọc báo và văn nghệ.. Mục đích của chúng là làm cho tôi phải bận rộn trong công việc và an ninh chìm của chúng dễ theo dõi tôi.(Tôi đã đề phòng việc nầy nên đã chọn Quang giúp tôi trong việc đào thoát, vì chúng không để ý đến Quang).

Xung quanh các dãy trại đều đóng ván chiều dài 3 thước và đóng chận nẹp. Tôi giao cho Quang một miếng sắt mỏng nhỏ và dẫn Quang đi ngang qua chỗ miếng ván thiếu chiều dài, chúng thêm vào một miếng ngắn mà không có đóng chận nẹp, tôi chỉ cho Quang và dặn mỗi đêm đi tiểu, Quang bò xuống dưới sàn ngủ, đến chỗ đó long đinh, từ bây giờ cho đến thứ sáu phải xong nghĩa là mình có thể đẩy ra nhẹ nhàng không bị động, sau khi xong báo cho tôi hay. Quang nhận lời…

Ông Trưởng Ty T.. và tôi vẫn thường ngày lãnh cơm và ăn chung, tôi rất mến ông là người học thức qua tư cách, rất trầm tĩnh. trong tuần lễ vừa qua ông có thăm nuôi, ông được người cháu ruột đem đồ ăn, gồm muối sả, café, sữa đặc, đường và vài trăm gram thịt kho. Được gia đình báo cho biết, trước ngày đi thăm ông, có người anh bà con của ông tập kết về cấp Trung Tá VC . Người nầy coi đồ thăm nuôi đã rầy là gởi đồ thăm nuôi cho tù nhân ăn ngon sẽ bị đưa ra Bắc vì trại nầy là trại phản động ! Tôi nhìn thấy ông có vẻ lo buồn, nhưng tôi vẫn chưa cho ông biết tôi đã chuẩn bị vượt trại mà trong đó có ông..

Hôm nay là tuần lễ thứ ba, đội 18K của chúng tôi bắt đầu mang cày vào cổ, đội chúng tôi dẫy cỏ và nhổ cây bắp khô.. Đến chiều hết giờ lao động, chúng tôi đến ao tưới rau để tắm, nước ao tù nầy do nước mưa đọng lại gồm cả nước phân do ban trồng hoa màu phụ gánh từ trong trại tưới, nước phân chảy xuống ao. Vì thế đêm đó đội chúng tôi bị ngứa gãi muốn rách da..

Ngày thứ ba, vun vồng trồng khoai. Ngày thứ tư, khiêng đá đắp đập ngăn dòng suối. Ngày thứ năm , tiếp tục khiêng đá đắp đập..đến 11 giờ. Nghỉ việc, tất cả tập họp điểm danh về trại ăn trưa. Khi điểm danh thiếu mất người, tôi vội báo cáo cho tên cán bộ, tên nầy bình tĩnh đưa súng AK lên bắn chỉ thiên 3 phát một, và khoảng 1 phút sau có tiếng súng AK đáp lại khắp nơi.. (Cũng nhờ việc nầy xảy ra nên tôi biết được hướng các chốt bọn chúng đang đóng dọc theo bìa rừng từ hướng Tây qua đến hướng Bắc..) Tên cán bộ ra lịnh cho tôi dẫn tù nhân về trại, trên đường về chúng tôi đi ngang qua các chốt của bọn công an, chúng chĩa súng vào đội chúng tôi và chửi nhiều câu thô tục… Tôi căm hận dẫn đội mình về trại. Khoảng 1 tiếng đồng hồ sau, chúng bắt lại được tên trốn và đem về nhốt bên dãy trại của chúng. Tên phó thủ trưởng gọi tôi lên lấy khẩu cung cùng với vài người trong đội. Tôi được biết tên trốn là an ninh chìm, do Quang báo lại cho tôi, buổi chiều hôm trước tên Hậu nầy đã đứng nói chuyện với cán bộ ở gần hàng rào…, tôi nghỉ đây là màn dàn cảnh để cảnh cáo chúng tôi..

Sáng ngày thứ sáu, Chúng tập họp tất cả 20 dãy trại. Tên phó thủ trưởng đọc bản án và đem trình diện tên Hậu. Tiếp theo chúng cảnh cáo chúng tôi “hãy yên tâm học tập cải tạo. Ngày mà các anh đặt chân đến đây là ngày thứ nhứt của 3 năm. Các anh đừng mong trốn thoát nơi đây, dù một con kiến cũng thể rời khỏi nơi nầy ?..Bằng chứng là suốt 16 tháng qua chẳng ai có ý nghĩ đó. Anh Hậu vì mới đến nên chưa hiểu, nên anh sẽ lãnh phạt 15 ngày quản chế nơi hầm tối…”

Hôm nay đội tôi được lịnh tháo kẽm gai vòng rào tiền đồn hình tam giác án ngữ căn cứ của Trung Đoàn 52/18. Tôi mừng thầm vì hướng đào thoát của chúng tôi sẽ ở chỗ nầy.. Tôi đôn đốc anh em tháo gỡ cho nhanh kịp trong ngày thứ bảy., vì tối chúa nhựt là ngày, giờ quyết định.

Trong giờ cơm, bắt đầu tôi báo cho ông Trưởng Ty biết để chuẩn bị thoát khỏi chỗ nầy, ông ngạc nhiên hỏi lại, tôi nói :

“Bác hãy chuẩn bị sẵn bộ đồ đen để mặc khi rời khỏi nơi đây, và một bộ đồ khác bỏ vào túi nylon rồi bỏ vào bao cát để đem theo”.

Tôi nói tiếp:

“Bác phải rời khỏi nơi nầy nếu không Bác sẽ bị đưa ra Bắc”.

Tôi nói tránh vì ông thường ngày ngồi ăn cơm với tôi, nếu ông không đi ông sẽ bị liên lụy. Tôi nhìn thấy nét mặt đăm chiêu của ông, tôi hơi lo ngại, ông hỏi :

“An tính chừng nào ?”.

Tôi đáp :

“Có thể đêm mai, nếu thời tiết tốt”.

Ông hỏi tiếp :

“Làm sao ra từ đây?”.

Tôi đáp :

“Sẽ chun ra dưới gầm chỗ của bác nằm đó!”

Ông giựt mình :

“Sao ? ở dưới chỗ tôi nằm à ?”

Tôi đáp :

“Dạ phải, miếng ván dưới chỗ bác nằm tôi đã long đinh rồi ! Vì chỉ có chỗ nằm của Bác là có lối ra thôi”.

Tôi kể rõ kế hoạch cho ông nghe :

“Sau khi từ đây chun ra, tôi chạy nhanh ra hàng rào treo lon, tôi ngồi xuống, Quang sẽ chạy ra và leo lên vai tôi, tôi đứng lên, Quang bước qua phía bên kia hàng rào và đứng chờ, Bác chạy ra bước lên vai tôi, tôi đứng lên, bác bước qua vai của Quang ,Quang ngồi xuống để Bác xuống đất.. và tiếp tục đến hết các hàng rào treo lon, và sau đó Bác và Quang phải theo bên tôi, đừng bước sai nguy hiểm..vì Bãi Mìn dọc theo triền đồi.

Ông lo lắng hỏi :

” An có chắc mình sẽ thoát được Bãi Mìn hay không ?”

Tôi đáp :

“Bác đừng lo, tôi đã tìm ra điểm chuẩn của Bãi Mìn rồi!”

Tôi nói để cho ông an lòng, và kể rõ hướng đi của kế hoạch.

Nghiên cứu cách thức vượt Bãi Mìn



Về phần Bãi Mìn tôi đã suy nghĩ nhiều ngày đêm, tôi đem ra so sánh các cách gài mìn bẫy của Người Nhái chúng tôi và của Việt Cộng, mà vẫn chưa tìm ra manh mối.. (Vì lúc phối hợp công tác với Người Nhái Hoa Kỳ, tôi đã từng tháo gỡ mìn bẫy của VC).

Vì chuyên viên Mìn Bẫy khi gài Bãi Mìn thì chỉ có đơn vị trưởng và người gài biết sơ đồ mà thôi..

Sau cùng , tôi suy ra từ 2 chữ Phòng Thủ . Tôi lập sa bàn để định vị trí, các hàng rào cách khoảng với nhau đều đặn, và các trụ cột thì đều đặt so le hay nói cách khác là hình chữ Z. Vậy PhòngThủ thì khi chuyên viên đặt mìn bẫy phải đặt Mìn ở chỗ an toàn cho các trụ cột hàng rào, để khi mìn nổ không làm sụp đổ các hàng rào để còn giữ được phần nào các kẽm gai, vì hàng rào phòng thủ mục đích là chống xâm nhập chiến thuật biển người của VC..Theo sa bàn, tôi sẽ vượt ra theo hình chi (Z) theo hướng các trụ cột, tránh các khoảng trống mà tôi nghĩ là có đặt Mìn, và sẽ lần ra gần phòng trực cổng chánh của bọn công an, vì trụ cột chuẩn tôi chọn gần cổng chánh, chính xác hơn mấy trụ cột ở khoảng giữa… Tôi đã xem xét rất kỹ giữa khoảng cách 2 hàng rào, chỉ rào kẽm gai chạy dọc, song song với các hàng rào khác và từ hàng nầy qua hàng kia bằng các đường kẽm gai giăng ngang với 2 đường chéo góc, còn phía cuối chân đồi có 3 vòng rào loại Consertina, báo hiệu là đã hết bãi Mìn. (Vì rào loại Consertina cuốn vòng tròn, không thể rào trong vùng có mìn bẫy, vì có thể bị gió thổi rung động mà chạm ngòi nổ, vì loại mìn chống cá nhân có 3 ngòi nổ rất nhạy thường gọi là Mìn 3 râu.).

Tôi vui mừng lẫn lo âu mặc dầu không dám tin chính xác 100/100. Nhưngng tôi đã quyết lòng tìm cái Sống trong cái Chết , bất chấp mọi nguy hiểm..

Đêm thứ bảy 23-10-76 khoảng 8 giờ tối, trời mưa thật lớn, kéo dài đến 2 giờ khuya, tôi thầm cầu nguyện cho đêm mai cũng có mưa to thì sẽ là giờ quyết định đào thoát của chúng tôi, vì theo kinh nghiệm của tôi, nếu hôm nay có mưa thì ngày hôm sau cũng sẽ có mưa trễ hơn hôm nay, và sẽ mưa liên tiếp vài hôm, (Lần trước tôi đào thoát trại tù Thành Ông Năm, cũng có mưa giống như ngày hôm nay ở đây).

Ngày Chúa Nhựt, từ sáng đến 5 giờ chiều, vợ con tôi mới gặp được tôi sau 6 tháng tù, tôi hàn huyên với vợ con trong 15 phút. Vợ tôi đem đồ ăn thăm nuôi, tôi chỉ lấy café, đường, sữa đặc và mấy đòn bánh tét nhỏ,và túi trái cây, còn các thức ăn khác tôi đưa lại để vợ tôi đem về, vì tôi biết vợ con của tôi rất thiếu thốn, khi đi thăm nuôi chắc lại phải bán bớt vật dụng trong nhà.

Vì có tên công an dòm ngó, tôi chờ khi vợ tôi cúi xuống gần tôi khẽ nói : “Đêm nào trời mưa thì cầu nguyện cho anh”.

Vợ tôi nghe tôi nói giựt mình lo sợ, vì vợ tôi hiểu ý câu nói của tôi… Hết giờ thăm nuôi, vợ con tôi phải rời khỏi trại thăm nuôi để đến nhà ga Gia Rây, đón xe lửa về Sài Gòn. Còn tôi và đoàn tù được thăm nuôi trở lại trại giam..

Cũng như thường lệ, tên cán bộ điểm danh xong, chúng lo khóa lại các cửa cẩn thận. Khoảng 8 giờ tối, mây đen kéo đến và trận mưa bắt đầu đổ hột lúc 9 giờ, Tôi đã cho Quang biết chuẩn bị các chi tiết như ông Trưởng Ty, dặn Quang lược café lấy nước đậm pha với sữa, đường, rồi cất vào bình nylon nhựa, chung với các đòn bánh tét, còn café nước nhì thì đãi các anh em không có gia đình thăm nuôi, với chút ít bánh trái .. vì sợ các anh em uống café đậm sẽ khó ngủ, sẽ tạo khó khăn cho chúng tôi..

Tôi và Quang bình tĩnh chờ đợi, tôi chỉ lo cho ông Trưởng Ty, vì sau khi nghe tôi thông báo vượt trại, tôi thấy ông không ngủ mà ngồi hút thuốc suốt đêm qua. Tôi mến ông vì đã ở chung qua nhiều lần chuyển trại, và cùng ăn cơm chung..

Mưa càng lúc càng to, 9 giờ tắt đèn, tất cả đều về chỗ nằm, nhưng vì hôm nay có thăm nuôi, họ thức thì thầm kể chuyện gia đình cho nhau nghe trong bóng đêm.

11 giờ đêm, tôi cố giương mắt thật to nhìn qua kẻ vách theo dõi 4 chiếc bóng đen mặc áo mưa đi đổi vọng gác qua các lằn ánh sáng của sấm chớp.-Khoảng 1/2 giờ sau, 1 tiểu đội tuần tra mang vũ khí đi kiểm soát 20 dãy trại rồi chúng trở ra phòng trực ở cổng chánh. .

Giờ đào thoát đã đến..

Tôi nhẹ nhàng rời khỏi chỗ nằm đến chỗ Quang bấm nhẹ. Quang bước theo tôi trong bóng đêm dến chỗ ông Trưởng Ty nằm tôi kéo nhẹ ông xuống đất nhưng ông không chịu xuống, ông kéo tôi sát lại và khẽ nói:

“Xung quanh họ còn thức!”.

Tôi trả lời :

“Không sao đâu bác, bác cứ chun xuống gầm sàn là xong”

Ông không chịu, bảo tôi phải chờ cho ông 1 tiếng đồng hồ nữa.

Tôi sợ động mấy người nằm gần nên đành lui về với Quang trở lại đầu dãy trại để tiếp tục theo dõi các toán lính gác qua kẽ hở. Quang nóng lòng thì thầm qua tai tôi : “Ông làm như vậy là chết mình rồi anh.” Tôi cố trấn tĩnh Quang: “Không sao.” .Nhưng lòng tôi như lửa đốt. khoảng nửa giờ sau, bên ngoài bớt mưa.

Tôi quyết định kéo nhẹ Quang đến chỗ ông. Tôi kéo hẳn ông xuống đất và đẩy ông chun xuống gầm sàn dưới chỗ ông nằm ông ta cứ dùng dằng không chịu chun, Quang chun vào trước đẩy nhẹ miếng ván đã long đinh và chun ra ngoài, tôi liền đẩy ông chun ra tiếp, ông không chịu lại đẩy tôi ra, trong lúc dằn co đó làm cho người nằm kế bên ông lên tiếng : “Không biết cái gì kêu lụp cụp vậy ?”. Liền lúc đó nghe có tiếng diêm quẹt, tôi cấp tốc chun ra ngoài, nhìn lại không thấy ông chun theo, Quang kéo tôi thúc giục :” Đi anh để chết đó!”. Tôi cố rướn mình lên nhìn vào trong không thấy được vì tối. Tôi chạy nhanh theo Quang và ngồi xuống cho Quang leo lên vai, tôi đứng lên Quang bước qua bên kia rào tuột xuống đất chờ .Tôi dặn Quang chờ tôi một chút, vì lúc đó tôi vẫn còn nghĩ đến ông. Tôi nhanh nhẹn chạy trở lại lỗ trống hy vọng ông đã chun ra, nhưng tôi không thấy, tôi dán mắt vào kẽ hở, qua diêm quẹt mồi đèn, bóng ông ta đang ngồi bó gối hút thuốc lá trên sàn nơi chỗ ông nằm. Thôi rồi !!…Tôi không còn hy vọng gì để cứu ông được nữa..!! Tôi chạy thật nhanh trở ra hàng rào kẽm gai, không thấy bóng của Quang, tôi vội trèo qua 4 lớp hàng rào kẽm gai mà vẫn không thấy bóng của Quang đâu cả , tôi cúi rạp người xuống nhìn theo đường chân trời , bổng thấy bụi cây bên phải của tôi lay động, tôi vội bò ngay lại đó gặp Quang, thì ra Quang không dám chờ tôi tại chỗ vì là đường đi tuần của bọn lính gác. Tôi nắm tay Quang : “Đi theo tôi..”

Tôi dẫn Quang bò đến trụ hàng rào điểm chuẩn, gần trạm canh cổng chánh. tôi nhắm theo các trụ cột hàng rào và bò lách kẽm gai, thận trọng theo hình chữ Z Quang bò theo sát tôi, độ chừng 15 phút, tôi và Quang đã xuống tới dưới triền đồi thoát khỏi Bãi Mìn, chúng tôi khom người chạy nhanh qua khoảng đất trống, băng qua tiền đồn hình tam giác, nơi đó là chỗ đội của tôi vừa tháo hết kẽm gai hôm thứ bảy, nên tôi và Quang đã vượt qua chỗ nầy dễ dàng, chạy thêm một đoạn thẳng vào bìa rừng , chúng tôi lọt vào vùng gai mắc cỡ tây cao phủ đầu, chúng tôi bị gai đâm vào mình không biết bao nhiêu mà kể, chúng tôi đang vạch gai để tìm đường đi, bỗng chúng tôi bị lọt xuống dòng suối, tôi rất mừng vì trong dự tính kế hoạch của tôi không biết có dòng suối nầy, tôi biết chắc chắn theo con suối nầy sẽ xuống được nhà ga Gia Rây,(vì tôi đã nhìn thấy từ trên trại giam chiếc cầu xe lửa gần chợ Gia Rây). Tôi bảo Quang tắm cho sạch và đồng thời di chuyển theo dòng suối, khi đến gần nhà ga Gia Rây, tôi kéo Quang bò lên cầu để vào hướng núi Chứa Chan, nhưng khi qua ngang đường rầy xe lửa, bổng tôi nghĩ ra một phương pháp vội kéo Quang đứng lên đường rầy, mỗi người một bên, tôi quàng tay qua vai Quang và Quang làm ngược lại, bây giờ tôi và Quang đã vững trên đường rầy, chúng tôi bắt đầu chạy trên đường rầy dễ dàng không sợ vấp ngã, chúng tôi tiếp tục chạy khoảng 2 giờ đồng hồ nữa rồi ngồi trên đường rầy mà nghỉ mệt, vì chúng tôi biết là đã thoát vòng kiểm soát của khu vực trại giam khá xa…

Tôi đang nghỉ đến Ông Trưởng Ty, có lẻ ông biết mình già yếu không còn đủ sức chạy bộ, ông lo sẽ làm vướng bận chúng tôi nên đành ở lại?. Khi còn ở quận 2, ông có tặng một bài thơ cho tôi và bảo tôi học thuộc lòng bài thơ như sau :

Tự Thán

Đời là chi ?
Ta là gì ?
Dòng đời vẫn chảy,
Ta cứ mải đi !
Ta là một cội thông hiu quạnh
Đứng chọc trời xanh dưới nắng tà
Sớm chiều vi vút tiếng thông reo
Ẻo lã cành theo ngọn gió vèo
Giông tố bao lần lay lá cội
Sớm chiều vẫn vút tiếng thông reo
Tiếng thông reo, tiếng thông reo
Trải bao giông tố vẫn reo gió chiều.

Nguyễn văn T …

Vừa ngồi nghỉ mệt trên đường rầy xe lửa vừa ăn bánh tét và thưởng thức café sữa ngon lành…Quang quàng tay qua vai tôi giọng cảm động :

“Anh An, anh là người cứu mạng của tôi, nên tôi xin nói thật cho anh biết, – giọng Quang trầm lại – Tôi là đảng viên của Trung Hoa Quốc Dân Đảng, tôi tên thật là Lai Minh Quang, cháu ruột của Trung Tướng Lai Minh Kiên, hiện bác tôi đang ở Đài Loan, tôi có nhiệm vụ nằm trong Quân Đội VNCH, và tên Trần Quang là tên giả, tôi học và tốt nghiệp Kỹ sư Điện Tử tại Okinawa Nhật Bản. Khi về Việt Nam, tôi phụ trách Trưởng Đài Radar Phú Lâm, mục đích là để theo dõi bên Trung Cộng, các máy bay bên Trung Cộng cất cánh thì ở Đài Radar Phú Lâm đều nhận biết… .Khi miền Nam sụp đổ , tôi đã được báo trước nên đã cho vợ con rời khỏi Việt Nam hiện đang ở Tân Gia Ba, vì tôi còn công tác nên phải ở lại Việt Nam .. Bây giờ việc trước mắt là về Sài gòn, tôi bắt liên lạc với các điểm rồi chúng mình cùng tìm đường qua Đài Loan, khi ra được ngoại quốc rồi sẽ tính sau..”

Chúng tôi tiếp tục chạy , khi đến nhà ga Bảo Chánh thì trời gần sáng. Chúng tôi vào rừng chồi thay bộ đồ khô mang theo trong bao nylon bỏ trong bao cát, nhờ lọt xuống suối nên chúng tôi đã tắm sạch đất đỏ, bây giờ thay bộ đồ khô vào trông cũng sạch sẽ. Chúng tôi vẫn tiếp tục chạy trên đường sắt hướng về Long Khánh cho kịp chuyến xe lửa từ Nha Trang vào. Khi tới những nơi có người ở thì chúng tôi đi bộ, còn những chỗ không người thì chạy tiếp. Những dân cư ở dọc theo con đường xe lửa từ nhà ga Bảo Chánh vào đến Long Khánh chúng tôi thấy phần nhiều là người Thượng. Khi đến nhà ga Long khánh khoảng 8 giờ sáng, con đường dài 35 cây số. Tôi lấy trong lai quần ra 5 đồng tiền VC (Vì đã có kinh nghiệm vượt tù lần trước.) tôi đã dấu từ lúc mới bị bắt, tôi đưa tiền cho Quang vào mua vé, được trạm bán vé cho biết 9 giờ xe lửa tới, tôi và Quang vào quán café gần đó ngồi uống café và bàn chuyện về Sài Gòn mua hột giống để đem về vùng kinh tế mới trồng trọt .v.v . Trong quán cũng có vài tên cán bộ công an VC đang ngồi uống Café.

Tiếng còi hú từ xa của chuyến xe lửa từ Nha Trang vào Sài Gòn đã gần đến , tôi và Quang đều cảnh giác. Chúng tôi chia nhau mỗi người một đầu toa để tránh sự theo dõi của bọn công an. Và chúng tôi đã về đến Sài Gòn lúc 12 giờ trưa, nhưng Quang lại bị sưng vù cả 2 chân không đi được nữa,(vì Quang chưa bao giờ chạy xa như vậy, còn đối với tôi đã được huấn luyện qua khóa Người Nhái thì chạy bộ 35 cây số không có gì trở ngại.), tôi gọi xe xích lô đạp chở chúng tôi về Chợ Lớn, nhưng khi đi ngang qua quán phở 79, đường võ Tánh, chúng tôi cảm thấy thèm quá nên xuống xe vào tiệm gọi phở ăn một bữa thật ngon. Vì thấy chúng tôi nước da sạm đen ông chủ tiệm phở hỏi : “Các anh ở đâu về mà đen quá vậy.?”. Tôi trả lời là chúng tôi từ vùng Kinh Tế mới về Sài Gòn để mua hột giống trồng trọt … Sau đó chúng tôi gọi xe xích lô chở Quang đến một địa điểm riêng của Quang. Chúng tôi từ giã và hẹn gặp lại tại một quán café ở ngả 7 Chợ lớn, nhưng tôi đã đến điểm hẹn liên tiếp mấy ngày mà không gặp Quang. Tôi nghỉ có thể điểm liên lạc của Quang không muốn tiếp xúc với tôi vì sợ bị lộ, và tôi mất liên lạc với Quang từ đó..!

Tôi đến thăm anh Nguyễn Thành Nhơn trong đêm mới trở về Sài Gòn, tôi nhảy rào vào nhà gặp anh chị. Anh chị rất vui mừng. Tôi kể chuyện lại cho anh chị nghe . Anh Nhơn cho tôi hay là phòng tập Thể Dục của anh đã bị bọn công an phường tịch thâu rồi, anh bảo tôi ở lại ngủ một đêm rồi sáng mai sẽ đi, tôi cám ơn anh chị và từ giã trước vì sáng sớm tôi đã rời khỏi nhà của anh chị..

Tôi cố liên lạc lại với các bạn thân ngày trước, nhưng có người thấy tôi từ xa thì đã vội vào nhà khóa cửa lánh mặt..Cũng may được một người bạn cho mượn chiếc xe đạp, và nhờ đó tôi di chuyển khắp nơi trong thành phố, dự định tìm vào các lực lượng kháng chiến trong rừng. Tôi gặp một đại diện của một giáo phái (xin tạm giấu tên) sau một tháng, ông gặp lại cho và cho hay :

“Chắc em không có phần vào trong với anh em, là vì tôi đã liên lạc và ở trong đã gởi 3 lần liên lạc viên ra để đưa em vào nhưng đều đổ bể cả.. Và ở trong đã quyết định hủy bỏ công tác đón em rồi!..”

Thêm một lần thoát nạn..

Người bạn thân Mai Văn Lương (hiện đang sống tại Cali) cùng đơn vị phủ Tổng Thống, đã giúp tôi thật nhiều trong lúc cùng cực. Anh đãgiúp tôi liên lạc với một lực lượng vùng Hậu giang, có cơ sở mua bán phân bón, văn phòng tại đường Trần Hưng Đạo, đối diện với Tổng Nha Công An thành phố. Đêm đó tôi ở lại ngủ tại cơ sở suốt đêm trò chuyện cùng anh Hoàng (Hoàng cấp bậc Đại Úy Sĩ Quan Đà Lạt trốn trình diện đi tù cải tạo.) cho biết cơ sở nầy được quyền giữ 20 nhân viên ngủ lại đêm, anh khuyên tôi yên tâm ở lại đây để chờ liên lạc viên từ Hậu Giang lên đón tôi… Sáng sớm hôm sau tôi và anh Hoàng ra ăn sáng ở tại quán café vỉa hè gần đó, Lương cũng vừa tới. Ttrong quán có rất đông bọn Công An đang uống café. Tôi có linh cảm như có việc gì sắp xảy ra nên sau khi ăn sáng xong tôi nói với Lương đưa tôi về chỗ ẩn trú của tôi và khi nào có liên lạc viên ở Hậu Giang lên thì đến đón tôi, vì ở đây tôi cảm thấy có nhiều nguy hiểm. Lương đồng ý và đưa tôi về chỗ ẩn rồi ra đi.. Nhưng khoảng 12 giờ trưa, Lương trở lại kiếm tôi và cho hay tất cả cơ sở đó đã bị Công An thành phố hốt hết rồi..! Thật may cho tôi, tôi chỉ thoát trong đường tơ kẽ tóc.

Có nhiều ngày tôi lang thang đạp xe từ 6 giờ sáng khắp nơi trong thành phố cho tới 9 giờ tối mà tôi chưa biết đêm nay phải ngủ ở đâu ?.. Có hôm tôi chỉ ăn vài trái chuối qua ngày vì không tiền. Có nhiều hôm được tin bọn công an bố ráp ở các bến xe đò Xa Cảng Miền Tây, nhà ga xe lửa là những nơi tôi thường mướn chiếu để ngủ nên phải tìm vào nhà các bạn để trốn..

Tôi bị bắt hụt lần thứ 2..

Có lần tôi đang ẩn trong nhà một người bạn ở quận 11, Sài Gòn, khoảng 1 giờ khuya, bọn Công An Phường tông cửa ập vào nhà, tên Công An trưởng ra lệnh tất cả phải đứng yên tại chỗ và cho biết là chúng được tin trong nhà bạn tôi có làm lò nướng bánh mì lậu . Chúng bắt đầu lục soát..T rong lúc đó tôi đang ở trong phòng ngủ của bà mẹ anh bạn vì bà về thăm quê ở Thốt Nốt, nên anh bạn cho tôi ngủ tạm, vì tôi cũng đề phòng trường hợp nầy có thể xảy ra nên tôi không nằm ngủ trên giường mà chỉ trải tấm mền lót để nằm dưới đất, còn trên giường thì mùng,mền, nệm gối đều xếp ngay ngắn, cửa phòng khi vào tôi đã khóa lại phía trong, khi nghe tiếng bọn Công An vào tôi liền kéo tấm mền đẩy vào gầm giường rồi chung vào trốn trong tủ áo vì quá cấp tốc nên tôi không còn đường nào để thoát.. Tiếng tên Công An trưởng hỏi bạn tôi :

“Ai ở trong phòng nầy?”

Bạn tôi trả lời :

“Đây là phòng ngủ của má tôi hôm nay bà đã về quê ở Thốt Nốt thăm bà con, không có ai ở trong đó hết”

Tên Công An ra lệnh bạn tôi lấy chìa khóa mở cửa phòng để chúng khám xét. Tôi lo sợ nghĩ rằng lần nầy hết phương thoát khỏi. Sau khi cửa phòng đã mở tôi nghe tiếng chân của tên Công An bước vào phòng, tôi hé nhìn kẹt cửa tủ áo thấy tên nầy ngó dáo dác trên giường rồi bước đến bàn đèn chộp lấy chiếc đồng hồ đeo tay của tôi đang để trên bàn rồi vội bước ra và ra lệnh cho mấy tên khác lên gác lục soát để tìm tang vật về việc làm bánh mì lậu như bột mì, bàn cân bột .v.v. Khi bọn Công An lên gác anh bạn vội mở cửa sau cho tôi tẩu thoát. Tôi thoát nạn lần nầy là nhờ vào chiếc đồng hồ “Hai cửa sổ, ba người lái” (Tiếng của bộ đội CS khi mới vào Nam) của tôi, vì tên Công An lấy được nên vội bỏ đi ra ngay…

Lần thứ 3 bị bắt hụt.

Trong gần dịp lễ Giáng Sinh năm 1977, được tin bọn Công An sẽ bố ráp ở các nơi công cộng, bến xe đò, nhà ga xe lửa, nên tôi đến xin bạn tôi cho ngủ nhờ.. Khoảng 12 giờ khuya có tiếng đập cửa và tiếng bọn Công An kêu gọi mở cửa phía trước lẫn phía sau.. Trong lúc bạn tôi đi mở cửa, tôi chạy lên gác lầu và mở cửa sổ leo lên nóc nhà và bò rạp mình theo bóng tối qua 2-3 nóc nhà và nằm nép mình xuống máng xối giữa 2 mái nhà của phòng bán thực phẩm do cán bộ VC quản lý. Chúng lục xét khắp nơi rồi lên gác mở cửa sổ nơi tôi vừa thoát ra.. Chúng nhìn qua mấy nóc nhà nhưng vì tối quá nên chúng nó không thấy tôi nên chúng xuống lầu rồi bỏ đi… Kể từ đó anh bạn tôi không còn muốn thấy mặt tôi nữa vì anh đã quá sợ. Còn về phần tôi thì cũng ngại ngùng không muốn liên lụy đến anh bạn nữa nên tôi tránh xa khu nhà của anh..!

Tôi được một anh bạn khác giới thiệu cho tôi gặp một người đại diện cho một tổ chức kháng chiến chống Cộng ở miền Tây,(xin được giữ kín) lúc đó tôi cũng có trách nhiệm cố vấn tham mưu, đại diện cho một lực lượng tại đô thành Sài Gòn gồm nhiều thành phần hỗn hợp, tôn giáo, quân nhân, công chức của Việt Nam Cộng Hoà . Vì lúc nầy tất cả Sĩ Quan đều bị đi tù cải tạo. .còn lại thành phần quân nhân từ Hạ Sĩ Quan trở xuống . Anh bạn Người Nhái của chúng tôi cấp bậc là Thượng Sĩ đã họp cùng một số anh em quân nhân và vài đoàn thể Tôn Giáo khác tổ chức ra một lực lượng trong đô thành. Khi anh gặp được tôi trốn trại lần thứ 2 , anh ngỏ ý nhờ tôi giúp trong phần điều hành nhân sự vì trong tổ chức nhân sự đã vượt quá khả năng Hạ Sĩ Quan của anh .Tôi cũng cho anh biết là khả năng của tôi cũng hạn hẹp. Không thể lộ mặt được vì đang lẩn trốn, tạm thời tôi xin nhận phần Chìm đại diện cho tổ chức để tìm các tổ chức khác để kết hợp.v.v. Trong phần vụ đó tôi đã dấn thân cùng với một tổ chức khác đi về miền Tây để liên lạc với các cánh quân ly khai vùng Sóc Trăng và Cờ Đỏ.., và sau buổi họp tại khách sạn ở Cần Thơ, tôi đã bí mật mang về Sài Gòn những số nhà của các địa điểm cần được phối kiểm để tiếp tế khi cần. Nhưng chỉ vài tuần sau thì tổ chức tôi đang hơp tác bị bể.. Chúng tôi đành phải nằm yên..

Nhờ người bạn thân giới thiệu tôi với một đại diện một cánh quân ở Miền Tây, tổ chức của anh đang bị động ở miền Tây nên anh lánh về Sài Gòn..Tôi và anh bàn thảo trong tinh thần cởi mở thân mật vì chúng tôi đều đang đi tìm những đường dây tiếp tế thật sự từ ngoại quốc về và hứa sẽ giúp đỡ cho nhau khi cần với khả năng mà mình có..

Sắp đến Tết Nguyên Đán ở đô thành lại bị bố ráp, tôi đến gặp anh Trần (xin tạm gọi là anh Trần…) nhờ anh giúp đưa tôi tạm lánh nạn về miền Tây ở vùng Cái Răng..Anh giới thiệu tôi là người Tàu lai ở Chợ Lớn đi tìm việc làm với ông chủ vườn cây ăn trái và nhờ ông giúp đỡ.. Ông chủ vườn đưa tôi vào vườn cây của ông cách mặt lộ khoảng 3 cây số.. Vì là vùng đất Bưng (đất sét đen) nên chỉ đi bằng chân không, vì bùn sình lún sâu không thể mang giày dép được .Tôi ở chung với vợ chồng người cháu. Tôi tạm gọi là anh Ba, anh là HSQ Truyền Tin, anh tự làm cho mù mắt để được miễn dịch, sau khi VC chiếm miền Nam, vợ chồng anh bần khổ nên về đây ở tạm. Anh cũng thường tự trách mình mỗi khi tâm sự với tôi là ngày trước anh đã hèn nhát, đã tự hủy hoại thân thể để cầu an..bây giờ VC vào rồi anh mới thấy hối hận.. Anh cũng hỏi thăm dò tôi thuộc thành phần nào nhưng tôi giấu nhẹm chỉ cho anh biết tôi là người Tàu lai tên là Hứa Gia Ân..

Vườn cây ăn trái có khoảng 300 gốc, ban ngày tôi tưới nước và lặn xuống dòng rạch để móc sình non lên vun gốc. Ban đêm khi chiều xuống , tôi và anh Ba chèo xuồng đi giăng câu ở những nơi hoang vắng để tránh tai mắt bọn Công An vùng.. Có nhiều đêm mưa tầm tã chúng tôi quần áo ướt sũng co ro trên xuồng, hoặc tìm vào các ngôi miễu hoang mà trú ẩn cho qua cơn mưa, gần sáng chúng tôi mới chèo xuồng về. Vợ anh Ba, chị đem cá câu được đem ra chợ Cái Răng bán và mua lại gạo muối về dùng..Thỉnh thoảng một vài tuần anh Trần vào thăm tôi và tiếp tế chút ít tiền đưa cho anh chị Ba lo giúp phần ăn uống cho tôi vì ông chủ vườn cũng không có dư dả nên vợ chồng anh Ba và tôi điều phải tự túc..

Thoát nạn lần thứ 4.

Tôi ở đây gần 3 tuần, tôi đã gặp NN Nguyễn Văn Cao chung khóa 2 NN với tôi,trong lúc tôi ra mặt lộ để hớt tóc. Cao gặp tôi vui mừng, tôi vội kéo Cao ra ngoài để tránh mọi người để ý và cho anh Cao biết là tôi đang lẩn trốn vì đã vượt tù cải tạo hiện giờ thân phận tôi là người Tàu lai ở Chợ Lớn thất nghiệp nên xuống đây làm vườn để sống….Cao khẽ nói với tôi :

“Chú Ba T..(Ông chủ vườn) ngày xưa đã tiếp tế VC. Nếu anh ở nhà ông thì tạm là an toàn vì Công An phường khóm đều quen biết ông.”

.Nhưng vài hôm sau ông chủ vườn cho tôi hay là Công An nói giấy tờ của tôi đã gần hết hạn và muốn gặp mặt tôi vào ngày mai. Tôi cảm thấy nguy hiểm nên khoảng 3 giờ sáng sớm hôm sau tôi lén rời khỏi Cái Răng đi xe đò trở về Sài Gòn…

Sau đó có lúc tôi ở Cai Lậy, Cần Thơ, Cái Răng, Bò Ót, Ô Môn, Thất Sơn, Châu Đốc. ..Tôi cố tìm vào các nơi bưng biền, nhưng khi biết ra thì các anh em chỉ có “ngọn mà không có gốc”.

Tôi đành phải vượt biên, sau khi đã bị VC bắt hụt mấy lần. Cuối cùng tôi được một người bạn thân giúp cho tôi đem vợ và đứa con trai vừa hơn 3 tuổi.

NGÀY VƯỢT BIÊN

Ngày lễ Thanh Minh là ngày vượt biên! Chúng tôi xuống ghe tại bến Ninh Kiều Cần Thơ rồi chạy ra cửa biển Tranh Đề, được chiếc ghe đánh cá Kiên Giang mang số KG- 0660 đón lên ghe và khởi hành ra cửa biển, nhưng khi vừa ra tới cửa biển chiếc ghe lại leo lên cồn cát, tất cả trên ghe là 59 người kể cả lớn nhỏ, đều nhốn nháo lên, vì trên ghe có người đã vượt biên 5 lần 7 lượt mà vẫn không thoát, lần nầy ghe lại mắc cạn, nên mọi người đều lo sợ.

Tôi đứng ra kêu gọi tất cả hãy bình tĩnh, và tổ chức lại, chia ra nhiều tổ, mỗi tổ 2 người, bắt đầu xuống nước tính từ ghe chia ra tổ nào đi theo hướng nấy và khi nào tìm được chỗ nước sâu tới ngực thì kêu lên. Tất cả đều làm theo lời của tôi, một lúc sau ở hướng bên trái kêu lên có chỗ sâu, tất cả đều cùng xúm lại đẩy ghe về hướng đó, ghe lại khởi hành, nhưng ghe chạy chỉ được chừng vài trăm thước thì máy bơm nước từ trong ra ngoài bị bể. Tôi liền tổ chức chia thành 3 toán thay phiên nhau tát nước trong ghe ra ngoài. Tôi chọn 3 người lớn tuổi làm trưởng toán có trách nhiệm sắp đặt thay phiên nhau.

Tôi nghi ngờ anh tài công nầy, tôi lên phòng lái hỏi anh tài công : “Anh chở theo bao nhiêu lít dầu ?”

Tài công trả lời : “400 lít”.

Tôi hỏi :” Ghe nầy chạy bao nhiêu cây số giờ ?”

Tài công : “không biết!”

Tôi hỏi: “Bây giờ anh đang chạy đi đâu ?”

Tài công : “Cứ chạy rồi sáng vô Hòn Khoai tính lại”

Tôi biết tên tài công nầy có mưu đồ, tôi tức giận thét lớn lên :

“Anh rời khỏi phòng lái ngay, kể từ bây giờ tôi lái chiếc ghe nầy!”

Tôi kéo cổ tên tài công ra khỏi phòng lái và dặn các anh trưởng toán coi chừng tên tài công, còn tôi vào phòng lái, lấy hướng 180 độ trên la bàn là hướng giữa Côn Sơn và Hòn Khoai mà lái đi suốt đêm cho đến 7 giờ sáng. Tôi nhìn về hướng bên trái ghe thấy dạng núi Côn Sơn, biết là đúng hướng rồi, tôi lái thêm ba giờ nữa để ghe ra tới hải phận quốc tế.

Tôi được các người trên ghe cho biết tên tài công không có ý định vượt biên, nên vợ con anh ta để lại Việt Nam. Còn ghe thì không có tu bổ hay sửa chữa chi hết, nên nước đã vào theo kẽ hở tróc chai rồi lại hư luôn máy bơm nước, còn máy cũng hư, chỉ còn máy tiến mà không có máy lùi. Trên ghe đi biển vượt biên mà không có hải đồ, chỉ vỏn vẹn một la bàn trong phòng lái mà thôi. Tôi đem tấm bản đồ giới thiệu đường hàng không của Mả Lai, tỷ lệ 1/40.triệu, nhìn vào bản đồ thấy nước Việt Nam bằng đầu ngón tay út, dùng bản đồ đó và địa bàn Bộ Binh,(Tôi đem theo tấm bản đồ và địa bàn nầy trong mình là dự tính vượt biên bằng đường bộ.) tôi đo và xoay theo hướng độ, tôi kẻ đường thẳng đến thị trấn Kotabaru,của Mã Lai, giáp biên giới của Thái Lan, là hướng 240 độ.



Tôi lái ghe đổi hướng trực chỉ.. chúng tôi đã đi 2 đêm 2 ngày, mỗi ngày tôi đều thay dầu vào lúc 4 giờ chiều, rồi lại đi tiếp. Bỗg thấy có chiếc tàu từ xa chạy cùng chiều , chiếc tàu chạy tốc độ rất nhanh khi đến gần chúng tôi mới biết là tàu đánh cá Thái Lan. Chiếc tàu vượt qua ghe rồi ngừng lại, ra dấu cho chúng tôi cập vào, vì ghe không có máy lùi nên kêu tất cả thanh niên khoảng gần 30 người đứng dàn hàng trên ghe để khi cập vào thì đỡ lại, và tôi lái góc 90 độ mũi ghe chỉa thẳng vào hông tàu của Thái Lan dự tính khi đến gần sẽ lấy mũi lại song song với tàu, nhưng tàu Thái Lan hoảng sợ vội vọt mạnh về phía trước, làm cho một tên Thái rớt xuống biển. Tôi vòng ghe lại vớt tên nầy lên, tên thủy thủ lên ghe chúng tôi mà có vẻ sợ sệt, chiếc tàu Thái Lan vòng lại và ra dấu thả tên Thái đó và ra dấu sẽ tiếp tế thực phẩm cho chúng tôi. Tôi ra dấu cho tên Thái Lan nhảy xuống lội về tàu, chúng tôi được tàu Thái câu bỏ xuống 2 bao gạo và 2 thùng bằng nylon chứa nước ngọt, (vì khi ghe bị mắc cạn chúng tôi đã đổ bớt nước ngọt đem theo để cho ghe được nhẹ bớt nên thiếu nước ngọt.) Sau đó tàu Thái Lan trở hướng chạy ngược lại, còn chúng tôi tiếp tục đi. Bà con trên ghe bàn tán, có lẻ tàu Thái Lan đó là hải tặc, nhưng khi thấy trên ghe đông thanh niên đứng dàn hàng nên chúng nó sợ chúng tôi cướp lại tàu của chúng nó nên chúng đành bỏ đi..?!

Đến chiều ngày hôm đó tôi họp với 3 anh trưởng toán lại và cho các anh biết là tình trạng chiếc ghe không còn an toàn nữa, vì chất chai trét đã bị tróc nước vô nhiều, hy vọng có tàu lớn đi ngang cứu giúp. Tất cả đều lo lắng.. Khoảng 6 giờ chiều, bổng thấy ánh sáng chớp lên thật xa, tôi xem kỷ biết là Hải Tiêu, tôi báo cho tất cả trên ghe hay tin đều vui mừng, tôi lái theo hướng Hải Tiêu cho tới 12 giờ đêm mới vào được tới cửa sông, khi tôi ủi ghe lên bờ vừa chạm cồn cát, chiếc ghe rã ra và chìm xuống nước, 59 người lớn và trẻ em trên ghe đều bồng bế nhau nhảy xuống biển, nước sâu tới cổ, và tất cả mọi người đều an toàn đến bến bờ đất nước Mã Lai..



Chiếc ghe đánh cá Kiên Giang mang số KG – 0660 đã làm tròn trách nhiệm của mình đưa người tới bến bờ TỰ DO và đãtrở về với lòng Đại Dương ngàn đời.!.Còn Chúng ta ….những đứa con vì 2 chữ TỰ DO đã bỏ nước ra đi đang lang thang nơi đất lạ khắp năm châu.. Biết đến bao giờ những đứa con nầy mang 2 chữ TỰ DO về cho đất mẹ ?..!!

NN Lê Đình An

Mã Lai, Mùa thu 1978.

Ghi chú : Vào năm 1984, gia đinh tôi còn ở Thành phố Houston, tôi có gặp lại một anh sĩ quan bị tù chung ở Thành Ông Năm quận Hốc Môn (Nơi tôi vượt tù lần thứ nhứt). Anh nầy được thả ra sau 3 năm tù, và anh đã vượt biên bằng ghe đánh cá. Sau khi tay bắt mặt mừng, anh cho tôi biết tin tức về các anh em tù cải tạo, tôi hỏi về 2 anh Nguyễn Hoành và Hoàng Trinh. Anh thở dài và cho biết : …Sau khi ở Trại Thành Ông Năm, bọn chúng đã chuyển tù nhân tất cả ra vùng U Minh rồi sau đó chuyển ra An Thới Phú Quốc, rồi chuyển về núi Thị Vải, 2 anh Nguyễn Hoành và Hoàng Trinh đã vượt trại tù ở chân núi Thị Vải Vũng Tàu và đã bị bắn chết cả 2 ở giữa vòng rào kẽm gai…!!

* * *

Vào tháng 5 – 2003 . Tôi được NN Nguyễn Đức Nguyên báo tin cho tôi biết có gặp anh Đặng Văn Sáu, sĩ quan bị tù cải tạo qua Mỹ trong diện HO hiện anh đang làm an ninh khu vực (Security) của Ngân Hàng nơi NN Nguyên đang gởi tiền. Anh nầy biết Nguyên là NN nên hỏi Nguyên có biết anh Lê Đình An làm việc ở Phủ Tống Thống hay không ?.Nguyên trả lời Anh An là bạn cùng chung đơn vị Phủ Tổng Thống với tôi. Anh Sáu kể lại câu chuyện :

“Anh Lê Đình An và tôi ở tù chung trại Phản động K3. ở Gia Rây. Ngày anh An vượt trại với một người tên là Trần Quang, tất cả Trại tù anh em đều bàng hoàng kinh sợ vì xung quanh trại đều có mìn.. Anh Sáu kể tiếp : “Sau khi anh An vượt trại, bọn cán bộ cho tất cả tù ngưng lao động để chờ bắt các anh trở lại, nhưng bọn cán bộ rất tức giận vì chúng không bắt lại được ..Sau đó khoảng chừng 4 tháng, chúng nó chuyển tất cả trại K.3 ra miền Bắc.Trên chuyến Tàu đang chờ đợi chở ra Bắc, anh em lại thấy cán bộ giải đến một người bị còng tréo tay sau lưng, thân hình gầy gò ốm yếu, khi giải đến gần anh em mới biết là anh Trần Quang . Sau nầy anh Quang vì ở chung trại với tôi nên kể cho tôi nghe cuộc vượt tù với anh Lê Đình An, thời gian đó anh Quang vì bị bịnh sốt xuất huyết cho nên người quen của anh Quang phải đưa vào nhà thương điều trị ..vì vậy nên Quang bị lộ và bị bắt lại, rồi chúng nó giải giao lại cùng trại Nam Hà chung với toán chúng tôi…

Được vài tháng sau Quang tâm sự với tôi là sẽ tìm cách trốn nữa…Quả thật Quang đã tìm cách trốn bằng cách uống nhiều thuốc trị sốt rét nên bị vật vã , khi bọn cán bộ chở vào nhà thương thì Quang đã chết vì bị uống quá liều. Có lẽ Quang dự tính dùng phương pháp nầy để khi vào nhà thương, anh sẽ tìm cách thoát thân… Nhưng anh vĩnh viễn không còn cơ hội nữa…!

Vào ngày 03-01-2004. Tôi nhận được diện thoại của anh Đặng Văn Sáu, tôi rất vui mừng. Sau khi hàn huyên thăm hỏi … Anh Sáu cũng kể lại diễn tiến từ khi tôi và Trần Quang vượt trại cải tạo K.3 như kể ở phần trên…

Anh Đặng Văn Sáu được thả ra vào năm 1982. Anh lập gia đình vào năm 1983, khi có được một cháu, gia đình anh được qua Mỹ trong diện HO đợt 10, hiện đang sống tại California.


NN Lê Đình An
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	1535215129-2.jpg
Views:	0
Size:	73.9 KB
ID:	1668801   Click image for larger version

Name:	1535215152-4.jpg
Views:	0
Size:	92.4 KB
ID:	1668802   Click image for larger version

Name:	1535215183-6.jpg
Views:	0
Size:	55.9 KB
ID:	1668803  

Click image for larger version

Name:	1535215193-7.jpg
Views:	0
Size:	38.5 KB
ID:	1668804   Click image for larger version

Name:	1535215205-8.jpg
Views:	0
Size:	25.0 KB
ID:	1668805   Click image for larger version

Name:	1535215218-9.jpg
Views:	0
Size:	98.6 KB
ID:	1668806  

Click image for larger version

Name:	1535215230-10.jpg
Views:	0
Size:	21.6 KB
ID:	1668807  
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (10-12-2020), huudangdo1 (10-11-2020), phokhuya (10-11-2020), trungthu (10-12-2020)
Old 10-12-2020   #297
hoathienly19
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 1,482
Thanks: 2,322
Thanked 1,734 Times in 804 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 24 Post(s)
Rep Power: 8
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default TRẠI GIAM CỔNG TRỜI

TRẠI GIAM CỔNG TRỜI





TRẠI GIAM CỔNG TRỜI PHẦN 1 & 2






TRẠI GIAM CỔNG TRỜI PHẦN 3






TRẠI GIAM CỔNG TRỜI PHẦN 4&5





Còn tiếp

Last edited by hoathienly19; 10-12-2020 at 05:51.
hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following 2 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (10-19-2020), phokhuya (10-17-2020)
Old 10-12-2020   #298
hoathienly19
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 1,482
Thanks: 2,322
Thanked 1,734 Times in 804 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 24 Post(s)
Rep Power: 8
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default TRẠI GIAM CỔNG TRỜI PHẦN 6 -7 -8-9 -10

TRẠI GIAM CỔNG TRỜI PHẦN 6





TRẠI GIAM CỔNG TRỜI PHẦN 7&8





TRẠI GIAM CỔNG TRỜI PHẦN 9 & 10





hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
The Following 2 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (10-19-2020), phokhuya (10-17-2020)
Old 10-13-2020   #299
hoanglan22
R8 Võ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,409
Thanks: 21,697
Thanked 38,211 Times in 12,889 Posts
Mentioned: 636 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7249 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Trung Tá Võ Vàng - Xin Một lần Được Nhắc Tên



Thời gian vẫn vô tình trôi qua, như nước chảy dưới cầu, như vó câu qua cửa sổ.... Và lòng người thì bị cuốn hút vào trong cơn lốc xoáy nghiệt ngã của thời cuộc. Tháng Tư uất hận một lần nữa lại về .... Đã bao lần tôi muốn viết vài dòng trân trọng, để tưởng nhớ anh, nhưng tiếc thay tôi biết quá ít về đời tư của anh, dù đã có thời gian anh đối xử và thương mến tôi như thằng em nhỏ dại. Sau khi cải tạo về, tôi đã cố tìm gặp những người có mặt bên anh trong những giây phút cuối, để lấy thêm dữ kiện sống, nhưng cũng không thỏa mãn được những điều tôi muốn biết. Ngay khi mới đinh cư tại Hoa kỳ, tôi đã tìm tòi qua báo chí, nhất là những thiên hồi ký trong tù của nhiều người, nhưng cũng chỉ thoáng qua tên anh. Tháng Tư năm 1975, tháng Tư 2004: 29 năm, một phần ba đời người sống thọ. Thời gian thật dài. Sợ chờ đợi mãi, có khi trí óc bị bào mòn và thời gian sẽ đưa tất cả vào quên lãng. Thà thắp lên tia lửa nhỏ, còn hơn ngồi nguyền rủa bóng đêm. Tôi quyết định, mạo muội viết những kỷ niệm về anh, gọi là thắp nén hương tưởng niệm người anh hùng, tôi hằng kính yêu nhân ngày giỗ thứ 27 sắp tới của anh. Tháng 7 năm 1977.... Tháng 7 năm 2004.

QUEN ANH NHƯ LÀ MỘT ĐỊNH MỆNH - Người ta ở đời có hai trường hợp:

Thứ nhất: Mới thoáng gặp nhau là đã có cảm tình, muốn trò chuyện, muốn kết thân, hay trai gái mới gặp nhau đầu mày, cuối mắt đã phải lòng nhau, muốn trao nhau trái tim yêu nóng hổi, sách tướng số, bói toán gọi là hạp căn, hạp tuổi, hạp mạng, v.v.. Thứ hai: Mới gặp nhau dù chưa từng quen biết, mới thoáng qua là đã muốn dọa, muốn đục, muốn đuổi đi cho khuất mắt, sách tướng số gọi là xung khắc, không hạp căn, không hạp mạng, gần nhau là như chó với mèo.... Tôi hân hạnh quen anh nằm trong hai trường hợp trên. Sau chuyến công tác, trở về Đà Nẵng, buổi chiều hôm đó tôi dẫn cô bé Lệ H... đi ăn ở nhà hàng nổi, trước khách sạn Bạch Đằng, đây là lần đầu tiên tôi đưa cô bé đi ăn ở nhà hàng. Thường thường chúng tôi đi ăn kem Diệp Hải Dung, cơm gà Hải Nam, hay bánh hỏi thịt nướng, chè Ngã Năm... đi vào chỗ nào, cô bé cũng rụt rè, e lệ, tôi muốn đưa vào nhà hàng để cô bé làm quen với không khí mới lạ. Bước chân vào trong, cô bé đã tỏ ra mất bình tĩnh trước không khí nhiễm đầy khói thuốc và sắc áo rằn ri. Tôi trấn tĩnh em và đưa vào một góc cuối, hai đứa đang cúi xuống trên tấm thực đơn, chọn thức ăn, thì có một bóng người đến đứng trước bàn tôi, tôi ngẩng đầu lên, bắt gặp khuôn mặt đỏ ké, trong bộ quân phục rằn ri Biệt động, trên cổ áo một bông mai đen, tôi tưởng bạn nhìn lầm người, nên định đứng lên chào, nhưng không, anh chàng đưa mắt nhìn Lệ H. và gằn giọng nói với tôi: Ai cho phép mày nghinh bọn tao? Tôi biết mình đang bị kiếm cớ gây sự. Tôi thầm kêu khổ trong bụng, không phải tôi sợ, tôi là thằng lì có tiếng, ngàn lần tôi không sợ, nhưng làm sao tránh cho cô bé khỏi bị tổn thương. Tôi xin vắn tắt vài dòng, xem tôi đã làm gì mà các bạn Biệt Động ngứa mắt. Tôi vừa ra trường trên một năm, xông pha trận mạc vài lần, nhưng nhỏ con, chưa qua khỏi tuổi 21, nên còn rất thư sinh, nếu cởi bỏ binh phục thay vào áo trắng quần xanh, tôi cũng chỉ là cậu hoc trò trung học. Thế mà dám dẫn đào vào đây rước đèn, áo quần cũng rằn ri nhưng khác màu của Biệt động, binh chủng chúng tôi có cái thói quen lập dị là không bao giờ mang cấp bậc, nếu có mang cũng rất kín đáo, như muốn không cho ai thấy, gắn ở chuôi dao găm, sau nắp túi áo.... Rừng nào thì cọp nấy, thành phố Đà Nẵng là rừng của anh em Liên đoàn I BĐQ. Tôi biết tôi đã làm cho các anh gai con mắt, và muốn đục tôi, dằn mặt.

Anh Thiếu úy chưa thấy tôi trả lời, đã cao giọng ra lệnh: mày hãy đến bàn kia xin lỗi mấy anh đi, thì tau tha cho! Tôi biết tình hình quả gay go. Thực khách lần lượt ra khỏi nhà hàng. Xin lỗi ư? Không bao giờ, vì tôi có lỗi gì đâu. Vì tự ái, vì màu áo tôi đang mặc, tôi biết chắc là có đổ máu, đổ máu một cách vô ích, vì trong túi quần trận tôi luôn luôn có khẩu Breta nhỏ, Lệ H. tái mét mặt mày. Tôi bảo nhỏ: Em qua ghế đá ngồi đợi anh. Tôi bỏ tay vào túi quần, chạm cục thép lạnh, tôi nghĩ nếu anh bạn xáng tôi bạt tai, thì máu sẽ đổ. Trong giây phút quả bong bóng căng sắp nổ, thì có tiếng tằng hắng nghe rõ mồn một ở gần quầy, anh chàng Thiếu úy nhìn lên, lẳng lặng về bàn và cả bộ ba kéo nhau rời nhà hàng. Lệ H. như chết khiếp, tôi phải trấn an nàng, nên chưa để ý xem ai vừa tằng hắng, mà mấy ông thần gây sự bỏ đi, thì một người cao to, bước đến trước mặt, tôi nhìn thấy cặp galong Thiếu Tá trên cổ áo rằn ri, bảng tên trên túi: VANG. Tôi đứng thẳng người chào, nhưng Thiếu Tá vỗ vỗ vào vai tôi và nói: Em hãy ngồi xuống và tự nhiên cùng bạn gái em ăn uống, xem như không có gì xảy ra. Ông hỏi tôi về đơn vị, tôi trình bày đơn vị, cấp bậc, và nói: Em vừa về sau chuyến nhảy dài nên chưa cắt tóc, các anh kia thấy gai mắt mà sinh chuyện, xin Thiếu Tá tha lỗi. Ông dịu dàng: Em không có lỗi gì cả, thôi quên đi mà vui vẻ với bạn gái. Chúng tôi chưa ăn gì cả, và thức ăn cũng chưa mang ra. Lệ H. một mực đòi về, tôi đành chiều nàng. Tôi đứng lên: Thưa Thiếu Tá, cho em đưa bạn gái về, không ngờ ông sốt sắng lấy xe Jeep đưa chúng tôi về, dù tôi quyết liệt từ chối, sợ làm phiền ông. Sau khi trả Lệ H. về nhà nàng, tôi lại đi chơi và tâm sự với ông gần sáng đêm. Đó là Thiếu tá VÕ VÀNG, Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 21 BĐQ, lừng vang trên chiến trường Miền Trung.

Từ lúc còn mài đũng quần trên ghế Trường TH/PCT/ĐN, tôi đã nghe danh và ngưỡng mộ người anh hùng này, không ngờ tình cờ như một định mênh xui khiến, tôi được quen Ổng và được ổng thương mến như em út. Ông bắt tôi gọi bằng anh và gọi tôi bằng mày (tiếng mày từ miệng ông sao mà thân mật quá, không như tiếng mày của anh bạn Thiếu úy BĐQ gọi tôi trong nhà hàng, nghe qua đã lộn máu nóng lên đầu....) Tôi thưa: Trước mặt lính tráng của Thiếu Tá, mà em gọi như vậy e bất tiện quá! Ổng nghiêm giọng: Có sao đâu, mày là em tau, là em tau thì phải gọi tau bằng Anh.

NHỮNG NĂM THÁNG CÓ ANH TRONG ĐỜI

Từ đó sau những lần về ĐN tôi thường ra căn cứ Liên đoàn 1/BĐQ ở Phú lộc (trên đường ra Hòa Khánh, quẹo tay mặt) để thăm anh, nhờ đó mà tôi quen gần hết các bạn trong Tiểu đoàn 21/BĐQ, kể cả anh Thiếu úy T. người đòi đục tôi trong nhà hàng. Thời gian những năm 66, 67, chiến trường miền Trung vô cùng sôi động. Đồng minh ào ạt đổ quân vào. Tiểu đoàn 21 BĐQ của Thiếu Tá Võ Vàng đã tạo những chiến công vang dội, báo chí trong và ngoài nước nức lòng ngợi khen, các cấp chỉ huy Quân Đồng minh nể mặt. Những lần gặp lại anh, tôi được anh thương mến đặc biệt, thường dặn dò và bày vẽ những kinh nghiệm chiến trường, vì duới mắt anh, tôi chỉ là con dê non ưa húc càn. Anh luôn nói về đời lính và yêu đời quân ngũ trên hết mọi chuyện, ở anh chỉ có chiến công và mong sớm có thanh bình cho quê hương. Tết Mậu Thân, hai anh em cùng hành quân trên một địa bàn, Nam sông Hương. Khi tạm yên tiếng súng, anh gọi tôi sớm mai đến Bộ chỉ huy (BCH) của anh để uống bia, nhưng đêm đó, tôi nhận lệnh bàn giao khu vực trách nhiệm cho đơn vị bạn, để đến vùng hành quân khác,thất hẹn với anh. Sau Mậu Thân, anh được vinh thăng Trung tá và giữ chức vụ Liên đoàn phó LĐ1/BĐQ. Sau đó anh được thuyên chuyển về Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, giữ nhiệm vụ Trưởng ban Quân vụ; đây là thời gian dài, chúng tôi không gặp nhau, Trường Võ Bị Đà Lạt là chỗ dung thân tốt nhất cho những ai muốn tìm chữ THỌ, nhưng trong những bức thư anh gởi cho tôi, anh luôn luôn than buồn chán và nhớ chiến trường. Hơn ai hết, tôi biết con hổ bất đắc dĩ phải xa núi rừng thì rất nhớ rừng xanh núi thẳm. Anh mong được trở lại thời ngang dọc cũ. Và anh được toại nguyện, anh trở ra cầm quân trong chức vụ Trung đoàn trưởng trung đòan 5/SĐ2 Bộ Binh, tôi cứ đinh ninh với tài thao lược và kinh nghiệm của anh, đường tiến thân của anh sẽ thênh thang, rộng mở. Những ngày trước khi Hiệp định Paris được bốn bên ký kết, VC cố đánh chiếm Sa Huỳnh để làm cửa khẩu và cắt đứt con đường huyết mạch Nam Bắc của VNCH; đây là đất anh dụng võ, anh muốn đánh trận đánh để đời, nhưng đột nhiên tôi nghe anh bị cách chức Trung Đoàn trưởng. Nguời cách chức anh là Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư lệnh SĐ2 BB. Tôi xin dành ít dòng để điểm qua báo chí về vị tướng này:

Trong suốt cuộc đời binh nghiệp của Chuẩn tướng Nhựt thì canh bạc xì phé ông ăn đậm nhất là khi mặt trận Bình Long nổ ra. Ông đã về nhiệm sở kịp thời để xí phần vì trên cương vị Tỉnh trưởng và Tiểu khu trưởng Bình Long, ông không góp tí công lao nào cả, mà mọi chuyện đã có Chuẩn tướng LÊ VĂN HƯNG Tư lệnh SĐ5/BB, Đại tá Lê Quang Lưỡng, Lữ Đoàn Dù, Đại tá HUẤN, Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù lo trọn gói. Khi An lộc được quân dân anh hùng tái chiếm, Bà vợ Chuẩn tướng Nhựt đã chạy cửa hậu với chị Sáu Thẹo, kiếm cho cái chức Tư lệnh SĐ2BB và một ông sao (ông này có số núp bóng quần hồng). Trong trận tái chiếm Sa Huỳnh, SĐ2BB dưới tài cầm quân của Chuẩn tướng Nhựt thì ra sao (?) xin mời quý vị hãy nghe nhân chứng sống, Trung úy Trần Thy VÂN, người trực tiếp dự trận đánh với chức vụ Đai đội trưởng ĐĐ1/Tiểu Đoàn 21 BĐQ, kể sau đây trong tập bút ký chiến trường ANH HÙNG BẠT MẠNG của Ông: (Theo lời Thiếu tá Quách Thưởng kể, trước khi TT Nguyễn Văn Thiệu đến BCH Trung đoàn 6 xem thành quả tái chiếm Sa Huỳnh, các khối vũ khí được trình bày riêng rẽ, với tấm bảng đề tên đơn vị tịch thu. Dĩ nhiên chiến lợi phẩm của LĐ1/BĐQ cũng được ghi rõ. Đặc biệt thêm một tấm tương tự treo trên nòng súng phòng không 12ly8. Nhưng khi phái đoàn Tổng Thống đáp trực thăng xuống và các Sĩ quan Mũ nâu ra sân đón rước, thì Chuản Tướng TRẦN VĂN NHỰT LIỀN CHO BỘ HẠ NƠI PHÒNG TRIỂN LÃM ĐÁNH THÁO HẾT CÁC TẤM BẢNG GHI CHIẾN LỢI PHẨM, NGHĨA LÀ MỘT DÃY 300 CÂY SÚNG ĐỦ LOẠI DO BĐQ TỊCH THU, BỖNG TRỞ THÀNH CHIẾN LỢI PHẨM CỦA SĐ2BB. Ông còn trắng trợn, bỉ ổi không thể tả được là độc nhất có cây phòng không 12ly8 của ĐĐ tôi cũng bị đánh tráo luôn, không chút ngượng tay. Rõ ràng hành động của Chuẩn tướng NHỰT như anh hàng thịt, treo đầu heo bán thịt chó. Tội nghiệp đám tướng sĩ tượng, cả xe pháo mã đứng xem chỉ biết tấm tắc khen tài, chứ đâu có ngờ ông bình vôi, nửa người nửa ngợm, vừa làm trò ảo thuật cướp công xương máu BĐQ....) (Xin ngưng trích).

Tháng Tư năm 1975, Chuẩn Tướng NHỰT (hay là GIỰT chạy) kéo được ít quân tháo chạy về Tuy Hòa, được Trung Tướng Vĩnh Nghi, Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 3, giao cho làm Phụ tá Hành Quân tái phối trí lực lượng. Giữa lúc dầu sôi lửa đỏ, Chuẩn tướng NHỰT lên trực thăng xin đi thị sát mặt trận, nhưng vù thẳng ra Hạm đội 7, đào ngũ. Theo kỷ luật Quân đội: khi đối diện với địch mà đào ngũ thì ra toà án binh, bị tước đoạt binh quyền và có thể bị Tử hình. Nhưng khi qua đến Mỹ, Chuẩn tướng NHỰT đã không bị lột lon, mà còn tự phong là Thiếu tướng, ba hoa chích choè. Khi bị báo chí vạch lưng, thì đánh lận con đen, xưng là Tướng (General) để người ta có thể tưởng là Major General, hay Lieutenant General, hay hơn nữa... mà thực chất là phường biển lận, tên hèn nhát, kẻ vô liêm sỉ, bất tài. Đất nước chúng ta để cho những tên như vậy, giữ trọng trách trấn nhậm những vùng hiểm yếu, mà mãi đến 1975 mới rơi vào tay VC, âu cũng là một phép lạ, hy vọng sử sách sẽ dành cho những tên tướng Quảng-lạc này vài chương, để hậu thế tránh vết xe cũ. Hiệp định Paris được ký kết, trong đó có kèm theo 2 Nghị định Thư, tổ chức hai cơ quan thi hành, đó là ICCS (International Commission Control, Surpervision) gọi là Uỷ ban kiểm soát và giám sát quốc tế gồm hai nước CS là Ba Lan và Hungary, hai nước tự do là Indonesia và Canada. Nhưng sau Canada thấy không đi đến đâu nên rút lui và Iran vào thay thế (thời gian này Iran còn có Vua Palavi, thân Mỹ) và cơ quan kia là Ban liên hợp quân sự bốn bên và sau còn lại hai bên (VNCH và Thằng Giải Phóng đội lốt). Trung tá VÕ VÀNG bị đưa về Phú Bài, Huế giữ chức vụ trưởng toán BLH/Quân Sự VNCH Phú Bài, một chức vụ ngồi chơi xơi nước vối. Anh như con cọp bị chặt hết nanh vuốt, buồn rầu, chán nản. Tôi đến thăm anh, tìm cách an ủi anh, cũng như tìm hiểu nguyên nhân tại sao cờ đến tay anh đang phất mà bị người ta giựt mất. Anh chỉ buồn rầu nói: Chỉ vì anh biết quá nhiều, người ta sợ anh nổi lên thì người ta sẽ mờ đi. Nó nhiều tham vọng nhưng tài hèn và nhiều thủ đoạn....

Tôi sợ anh buồn chán, nên đem đến cho anh đủ dụng cụ thể dục và khuyên anh tập đều đặn, để giữ sức khoẻ, người ta sẽ cần đến anh. Trong thời gian ở Phú Bài, công việc của anh có phần nghi lễ, nghĩa là đón tiếp các phái đoàn từ Sài Gòn ra tại sân bay Phú Bài. Một hôm anh ra đón một Đại tá người Hungary, Trung tá Võ Vàng trong cái bắt tay xã giao, đã bóp nát tay tên Đại tá CS, tên Đại tá này sau đó làm lớn chuyện, gởi văn thư phản kháng đến Trung ương. Anh rất căm thù CS dù dưới màu da nào. Hiệp định Paris chưa ráo mực, CSVN đã vi phạm khắp nơi, Tướng Ngô Quang Trưởng sáng suốt, thấy được viên dõng sĩ đang ngồi chơi xơi nước vối, nên vội gọi vào trình diện và giao cho Liên đội ĐPQ Quảng Nam, hình thức tổ chức của Liên đội ĐPQ, cấp số cũng tương đương với Lữ đoàn hay Trung đoàn. Khi đi nhận nhiệm vụ, anh có hỏi tôi: Muốn làm việc cạnh anh không? Tôi biết anh thương tôi, muốn nâng đỡ tôi. Tôi quá quyến luyến màu áo đang mặc, nên xin cho thời gian nữa. Nhưng không có thời gian nào cho chúng tôi nữa cả. Tháng 3/75, Đà Nẵng tan tác, ĐN uất nghẹn đau thương, tan đàn rẽ nghé.... Ngày 5 tháng Tư năm 1975, một buổi sáng tôi ra giếng nước trong Quận Điện Bàn, Quảng Nam (nơi đám tù tàn binh tập trung) để lấy nước, bất ngờ gặp anh, tôi như chết lặng. Tay trái anh được treo lên: Anh cho biết ngày 29/3 mới về đến Đà Nẵng, đang đi trên đường Thống Nhất gần Cầu Vòng, thì bị một chiếc xe dân sự tông anh, may mà anh văng lên lề, chỉ bị thương. Tôi thật sự lo lắng cho anh, vì anh nổi tiếng quá. Ngay đây, nơi tập trung tù binh, cũng không có ai dám gần anh để giúp anh trong khi anh đang bị thương. Tôi chỉ nói với anh, ngay bây giờ anh phải tìm cách thoát, lợi dụng lúc này để thoát, nguy hiểm quá. Tuần lễ sau, tôi bị đưa đi chỗ khác với thầy Hoàng Thế Diệm, không còn qua lại thăm anh.

NGƯỜI ANH HÙNG BỊ THỦ TIÊU

Sau thời gian tập trung tại Quận đường Điện Bàn, QN, tất cả tù tàn binh trình diện hay bị bắt tại Đà Nẵng, được đưa lên Trại Kỳ Sơn. Trại Cải tạo Kỳ Sơn gồm 1 tổng trại và 4 phân trại. Sĩ quan cấp tá ở trại I gần mỏ vàng Bồng Miêu. Trại 2 nằm sâu về hướng Tây, dành cho Sĩ quan cấp Đại úy. Trại 3 và 4 dành cho cấp Trung úy trở xuống, gần trại 1 và Tổng trại. Anh Võ Vàng nằm trong trại 1. Sau thời gian đầu lo xây dựng doanh trại, phát rẫy canh tác, ổn định nơi ăn chốn ở. Tháng 5 năm 1977, đợt học tập chính trị được mở ra trên quy mô rộng lớn. Tất cả đều nghỉ lao động và tham dự 100%. Những buổi học, tất cả tập trung tại hội trường để nghe cán bộ chinh trị lên lớp và sau đó về tổ thảo luận những bài: Đế quốc Mỹ, tên sen đầm quốc tế, kẻ thù số 1 của nhân dân ta và loài người tiến bộ trên trái đất. Hệ thống Xã hội chũ nghĩa.... Nhưng hóc búa và điên đầu nhất là bài Ngụy quân và Ngụy quyền, tập đoàn tay sai bán nước. Sau khi ngồi nghe chưởi rủa trên hội trường, trở về tổ phải liên hệ bản thân, tự giác khai ra những việc đã làm trong thời gian phục vụ trong quân đội VNCH. Đây là bản án, tự mình viết cho mình, ai cũng phải tìm cho mình một cái tội. Sau đợt học tập chính trị, có người như bị kiệt sức vì bị những đòn tra tấn cân não. Nhiều lúc giữa đêm khuya bị gọi lên khung (bộ chỉ huy) làm việc, cứ tra đi hỏi lại những hoạt động đã qua. Trung tá Võ Vàng là mục tiêu chính, bọn cai tù nhắm đến, luôn luôn chúng đặt câu hỏi: Trong quá trình chỉ huy BĐQ, Trung đoàn Trưởng, Liên đội Trưởng, anh đã giết bao nhiêu cán bộ CS và dân lành? Mấy ngày đầu anh trả lời: Trên cương vị chỉ huy, tôi chưa bao giờ trực tiếp bắn, còn lính dưới quyền, lúc xung trận, ai bắn chậm thì chết, tôi không biết. Bọn chúng đâu có chịu... bọn chúng quay anh từ sáng tới tối, ngày nọ sang ngày kia, nhưng anh vẫn kiên gan giữ vững lời khai... đến lúc đó, bọn chúng mới đem những tờ báo cũ có ghi kết quả các trận đánh ra và tổng kết tổn thất địch (VC) trong khoảng thời gian anh Vàng chỉ huy, không dưới 20 ngàn VC phơi thây. Bản án Tử hình cho anh đã manh nha thành hình.

Trong số các vệ binh coi tù, có nhiều tên mới theo VC sau 30 tháng 3/75, gồm nhiều thành phần, có tên rất khát máu, thù hận vì có thân nhân bà con chết trong cuộc chiến, nhưng cũng có tên nguyên trước 30 tháng 3 là học trò của vợ tù, nên cũng dễ dãi và dễ bị mua chuộc để lấy tin tức. Sau đợt học tập chính trị quy mô kéo dài trên một tháng, tất cả tù được lệnh đi lao động trở lại. Một đêm đầu tháng 7 năm 1977, bộ chi huy trại 1 có cuộc họp chi bộ đảng, bản án tử hình dành cho Trung tá VÕ VÀNG đã được tổng trại Kỳ Sơn ký từ trước. Buổi họp này có mục đích tìm người tình nguyện thi hành bản án. Tên Nguyễn Bốn, tên vệ binh loắt choắt, nhỏ con nhưng khét tiếng ác độc và khát máu đối vời tù, đứng lên tình nguyện thi hành. (tên Bốn này có cha hoạt động nằm vùng cho VC bị nghĩa quân giết). Buổi trưa hè tháng 7 năm 1977, tổ của Trung tá Võ VÀNG có nhiệm vụ tỉa bắp trong rẫy, cạnh sông Vàng (nói là sông, nhưng thật sự là dòng suối nhỏ chảy qua các ghềnh đá bị xoi mòn rất đẹp) trong khu vực Mỏ Vàng Bồng Miêu. Trời đứng bóng, nắng chang chang, tất cả tổ nghỉ lao động kéo nhau vào bóng mát, lấy vắt cơm sắn và chút nước mắm cái ra ăn, thì tên Nguyễn Bốn xuất hiện với AK trên tay, ra lệnh: Anh Vàng theo tôi lên đồi nhổ sắn (củ mì) về bồi dưỡng cho cả tổ. Linh tính báo cho biết việc chẳng lành, anh em trong tổ nhao nhao lên: Xin anh cho tôi đi nhổ sắn thay, vì anh Vàng mấy hôm nay bị kiết lỵ, yếu lắm. Nhưng tên Bốn vẫn khăng khăng bắt anh Vàng đứng lên đi lên đồi. Khoảng từ 7 đến 10 phút sau, thì một loạt AK nổ. Lát sau, tên Bốn trở xuống nói: Các anh lên đem xác tên Vàng xuống chôn cất, nó giựt súng tôi, nên tôi đã xử lý. Bọn khốn nạn, lũ hèn nhát đã giết anh một cách hèn hạ. Tại sao chúng lại dựng nên tấn tuồng giết người tay không một cách hèn hạ như vậy? Vì bản chất chúng là bọn người hèn hạ, đê tiện, làm việc gì cũng không quang minh, chính đại, hành động của lũ đầu trộm, đuôi cướp.... Anh đã tức tưởi nằm xuống bên dòng sông Vàng, trong khu Mỏ Vàng Bồng Miêu, như là một định mệnh....

Anh VÕ VÀNG kính yêu, đã 29 năm, ngày Tổ quốc bị bức tử, 27 năm ngày anh bị chúng hành hình một cách hèn nhát. Thời gian đủ để mọi người mở mắt nhìn thấy rõ Thiên đường Cộng sản, thời gian đủ dài để xác thân anh trở về với cát bụi, và em tin tưởng linh hồn anh đang oai nghi, thanh thản ở cõi vĩnh hằng. Xin hãy cho em một lần được nhắc đến tên Anh, Anh VÕ VÀNG, với lòng kính phục và thương tiếc sâu xa, một người anh, một chiến sĩ QLVNCH kiệt xuất, hy sinh hết tuổi thanh xuân và cống hiến thân xác cho đại cuộc: Bảo vệ Tự Do cho Tổ Quốc. Xin anh cho em được đốt nén hương tưởng niệm anh nhân ngày giỗ thứ 27 của anh. Xin anh cho em một lần nữa nhỏ nước mắt nhớ thương Anh.

Trương Đức Thủy

Về Một Lời Hứa Từ 39 Năm Qua

Kính gửi chị Đường - Phu nhân cố Trung Tá Võ Vàng,

Tôi không còn nhớ mình đã từng kéo bàn phím chiếc computer ra bao nhiêu lần nữa, không phải để ‘check’ những ‘mail’ của bạn bè xa gần gửi đến hay tìm kiếm vài thông tin cần thiết hầu bổ sung cho cái ‘nghề tay trái’ đã nuôi sống bản thân và gia đình trong mấy chục năm qua, mà như muốn viết lên một điều gì đó, một sự kiện gì đó đã xảy ra trong những đoạn đường đời mình đã đi qua. Nhưng rồi, cứ mỗi lần nhìn đăm đăm vào chiếc màn hình trắng xóa thì đầu óc lại không nhớ ra được mình phải gõ lên đó những gì dù vẫn có cảm giác như có ai đó đã và đang hối thúc tôi ghi lại những gì đã chìm sâu dần trong ký ức qua bao năm tháng dài tôi vừa phải vật lộn với cuộc sống hằng ngày, vừa phải lạng lách tránh những rình rập vô hình mãi đeo đẳng tôi cho đến bây giờ…

Rồi bỗng dưng, như một cơn mưa bất chợt giữa ngày Hè nóng bức, trong cuộc gọi chuyện trò bình thường gần đây nhất với một người vừa là bạn, vừa là đàn anh trong quân ngũ, ở xa, không biết có phải từ những ký ức anh ấy đang cùng với một người bạn gợi lại về quãng đời lao tù trong những nơi Cộng Sản gọi là Trại Tù “Cải Tạo” mà thực chất là Trại Tù Khổ Sai dành cho những Sĩ Quan của chế độ cũ, anh đột nhiên nhắc đến tên của ‘một người’. Lời nhắc này giống như tiếng gõ rất mạnh khiến ký ức tôi mở toang cánh cửa đã vô tình đóng kín một lời hứa sau lời xin lỗi với ‘người ấy’ từ hơn 38 năm qua. Và tôi chợt liên tưởng đến những lần muốn kể lại điều gì đó từ lâu đang cứ lảng vảng trong tiềm thức khiến tôi mãi ray rức, canh cánh trong lòng….

Lời xin lỗi kèm theo lời hứa với ‘người ấy’ đã chỉ được nói lên trong thầm lặng trong khi tôi và anh Chí (Nhà trưởng thuộc Khối 1 của Trại Tù Kỳ Sơn vào khoảng giữa năm 1977) được lệnh trực tiếp từ tên “Quản giáo” Nhà phải tường trình vụ ‘người ấy’ bị bắn chết, hoàn toàn trái ngược với sự thật, ngược lại với những gì chúng tôi đã nghe bằng chính tai và chứng kiến bằng chính đôi mắt của mình.

Từ trại tạm giam tại Điện Bàn, Quảng Nam vào thượng tuần tháng 4/1975, sau khoảng gần 2 tháng và cũng sau khi Sài Gòn thất thủ, chúng tôi bị chuyển lên Trại Kỳ Sơn, Bồng Miêu (Tam Kỳ, Quảng Tín). Từ lúc xe lăn bánh, chúng tôi (số Sĩ quan cấp Tá) đinh ninh sẽ bị đưa ra các trại giam ngoài Bắc (theo tin đồn). Nhưng khi ra đến Quốc Lộ 1 thì đoàn xe quẹo trái hướng về nam khiến chúng tôi không thể nào đoán được mình sẽ bị đưa đến đâu. Dọc đường, tôi chỉ biết theo dõi những điểm đoàn xe đã đi ngang qua và nhớ lại rất rõ từng địa danh, vì là vùng trước kia đơn vị tôi đã từng vượt qua trong những lần hành quân (từ cuối 1969 đến giữa 1971).

Đoàn xe đến Tam Kỳ thì quẹo phải về hướng núi và tiếp tục trên con đường đất rộng khoảng 6-7 mét, lạ hoắc với tôi. Lúc này tôi chỉ còn theo dõi cảnh vật gần xa dọc 2 bên đường mà thôi.

Khoảng hơn 50 phút sau, (hồi đó, hầu hết tù binh chúng tôi đều còn mang đồng hồ, vì tại trại Điện Bàn hằng ngày chỉ nghe giảng thuyết về tư tưởng Cộng Sản chứ không bị buộc lao động) đoàn xe chở chúng tôi dừng lại trước một khu trại đã có sẵn mấy chục căn nhà lợp tranh và chúng tôi được lệnh xuống xe vào trại.

Chúng tôi bị chia thành từng toán, mỗi toán gốm 25 người, không phải theo danh sách đã có sẵn mà do ngẫu nhiên, tức là tự động sắp thành từng hàng dọc và ai muốn bước vào hàng nào thì cứ việc, miễn sao đủ 25 người là được. Sau đó, một người trong mỗi toán mới ghi tên họ những người trong toán, làm thành từng danh sách. Và mỗi toán sẽ ở trong cùng một căn nhà; mỗi 4 Nhà (ngoài Bắc gọi là Buồng) thì thành một Khôi. Và Trại chúng tôi có tên là Trại 1. Sau đó mới biết Tổng Trại Tù Kỳ Sơn gồm cả Trại 2,3 và 4 nằm quanh quẩn cách Trại 1 chừng 3 hay 4 km do Bộ đội quản lý. Ngoài ra còn có một Trạm xá nằm đối diện hơi chênh về phía phải với Trại 3 nhưng ở phía bên kia con lộ chính, sâu vào khoảng 30 mét.

Nhà chúng tôi thuộc Khối 1 gồm hầu hết là Trung Tá và Thiếu Tá, chỉ có 4 hay 5 Đại úy. Tôi chỉ còn nhớ một số tôi còn ấn tượng do thường chuyện trò, cùng toán đi lao động hay ngủ cạnh nhau trên một dãy sạp bằng tre:

- Cấp Trung Tá có Ngô-Hoàng (SĐ2BB, người Huế), Ng-văn-Tố (từng là Tỉnh Trưởng Phú Yên, người Huế), Ng-văn-Thành (Liên đoàn Trưởng Địa Phương Quân, người Huế), Võ-Vàng (gốc Biệt Động Quân, người Quảng - gọi chung cho Quảng Nam và Quảng Ngãi), Thuật-Xáng (CTCT/QĐ 1, người Huế ), Cẩn (Pháo.Binh, người Quảng-Trị), Liên (Không.Quân, người Nam), Chí (Truyền Tin, người Bắc), v.v…

- Cấp Thiếu Tá có Khoa ( Pháo.Binh, người Huế), Bảo (Pháo.Binh, người Bắc), Cảnh (Bộ Binh SĐ 2, người Huế), Cúc (Ban 2 Tiểu Khu Quảng.Nam, người Quảng ), Hiển (Cảnh Sát, người Huế), tôi (Kỵ Binh, người Huế),v.v…

- Và cấp Đại úy có Chí, Hóa (Công Binh, người Huế), Ninh (Ban 2 Chi.Khu Q.Tín, người Quảng ), v.v…

Mỗi Nhà bầu một Nhà trưởng, và chúng tôi đã bầu anh Chí (để phân biệt với anh Chí cấp Trung Tá, chúng tôi thường gọi anh là Chí ‘nhỏ’). Mỗi Nhà do 1 Quản giáo trách nhiệm. (theo như tôi để ý, hầu hết Quản giáo đều là người Quảng). Riêng về Khối thì anh Ngô-Hoàng (do Cán bộ chỉ định) làm Khối trưởng Khối 1. Từ đó chúng tôi dần dần làm quen với nhau và cũng từ nơi này chúng tôi bắt đầu nếm mùi vị của tù lao động khổ sai.

Hàng tháng, chúng tôi phải “học tập Chính trị”, thường thì theo từng toán gồm ½ Nhà (khoảng 12 hay 13 người), do” Quản giáo” hướng dẫn. Có lúc ½ nhà học chính trị và ½ Nhà còn lại đi lao động. Và mỗi 2 hay 3 tháng thì toàn Trại học tại Hội trường do 1 tên chính trị viên từ cấp cao hơn đến phụ trách.

Khoảng hơn 3 tháng sau, gia đình, thân nhân được phép đến thăm tù nhân theo định kỳ mỗi tháng 1 lần tại một căn nhà tranh lớn và tương đối rộng, dựng trên một ngọn đồi thấp, chung quanh là những bụi cây nhỏ cao khoảng hơn 1 mét, ngay ngả ba của đường vào trại 1,2 và 3 (Trại 3 nằm trên cùng một con lộ với Trại 1), cách Trại 1 chúng tôi khoảng 3 km, gọi là Trại Tiếp tân.

Cũng nhờ vào những lần thăm viếng này mà chúng tôi được cung cấp thông tin về tình hình bên ngoài của một số địa phương kèm theo một ít thức ăn, nhất là đường (loại bánh đường đen hay những miếng đường màu vàng, thứ mà chúng tôi thèm, nhất là trong thời gian lao động nặng).

Khoảng hơn 1 năm sau, sự kiện đầu tiên đã xảy ra, không phải tại các Trại tù mà ngay tại Trạm xá của Tổng trại :

Bác-sĩ Phạm-văn-Lương (nghe nói trước năm 1975 đã từng cầm lựu đạn đến tại cửa tòa nhà Quốc Hội để chống đối Chính Phủ) đã tự vẫn bằng thuốc chống sốt rét ‘Chloroquine’.

Sau này một vài người trong nhà chúng tôi được vài tù nhân phục vụ tại Trạm xá kể lại về cái chết vật vã bằng loại thuốc này thật khủng khiếp: trước khi chết, anh đã điên cuồng búng người từ sạp này đến sạp khác, quằn quại rồi co quắp một hồi mới tắt thở. Họ cho biết thêm là khoảng 1 tháng trườc đó, sau lần gần nhất được vợ con đến thăm, anh Lương đã tỏ vẻ buồn bực, ít nói hơn. Điều suy đoán tương đối hợp lý cho lý do này là từ những thông tin do gia đình những tù nhân quen biết và sống gần gia đình anh Lương đã cho biết sự thật rất phũ phàng : vợ anh phải đi bán dạo quanh chợ Cồn (Đà Nẳng) để nuôi con. Rồi những lời bàn tán của tù nhân đã đến tai anh. Và thế là ‘Xã hội lý tưởng’ trong anh rách nát, ‘Thiên đường Cộng Sản’ trong anh vỡ vụn. Vì không chịu được cú sốc này, anh đã tự kết liểu đời mình.

Sự kiện thứ 2 đến từ những buổi “học Chính trị”, nói đúng hơn là những lần phải kể lại lý lịch và cái được mô tả là ‘tội ác’ của tù nhân đối với ‘Nhân dân’ và “Cách mạng”. Mỗi lần học, chúng tôi phải khai lại lý lịch, không phải viết trên giấy mà phải tự phát biểu. (nhờ vậy mà về sau, chúng tôi biết anh Ngô-Hoàng có thân nhân tập kết đã vào Nam với chức vụ cao; anh Võ-Vàng có người anh là “Trung tá Bộ đội” và anh Cúc có cha là “Đại tá Bộ đội”. Tất cả những thông tin bổ sung này có lẽ là do gia đình họ đã cung cấp trong những lần ‘thăm nuôi’).

Riêng về mục kể ‘tội ác’ thì chúng tôi, nhất là những người đã ở trong đơn vị tác chiến, phải nhớ thêm và nói cụ thể hơn số lượng Việt cộng (du kích, đơn vị địa phương hay bộ đội chính quy) đã bị chúng tôi giết trong những lần hành quân nào, tại những nơi nào, vào những thời điểm nào. Dĩ nhiên, chúng tôi vẫn nhớ chính xác một số yếu tố, còn về số lượng thì phải khôn ngoan nói càng ít càng tốt để tội được nhẹ hơn. Riêng về anh Vàng, khi anh phát biểu, ngoài tên “Quản giáo” của Nhà chúng tôi còn có tên “Quản giáo” của Nhà bên cạnh (cũng là người Quảng) cũng bước qua tham gia. Giọng điệu tên này thì ghê gớm và chứa nhiều hận thù hơn.

Qua những lần đó, tôi mới biết thêm thông tin cá nhân của anh Vàng (khóa 17 VBQGĐL), trong đó những chiến công của anh hồi còn làm Tiểu đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 21 thuộc Liên đoàn 1 Biệt Động Quân và sau đó là Trung đoàn Trưởng Trung Đoàn 4 hay 5 gì đó thuộc Sư Đoàn 2 BB đã rất vang lừng. (Tôi thì nhập ngũ sau anh mấy năm và chỉ hành quân ở vùng Bắc đèo Hải Vân đến Bến Hải. Và thời gian đơn vị tôi nằm ở Đà Nẵng đã hành quân chung với Liên đoàn 1 BĐQ tại vùng Thăng Bình, Quế Sơn và Bình Giang, Bình Dương năm 1970 thì tôi không gặp được anh mà chỉ gặp anh Khang – Tiểu Đoàn 39, anh Thiết và anh Thưởng – Tiểu Đoàn 21 và 37 và Trung tá Hiệp là Liên Đoàn Trưởng). Do đó, mũi dùi của đám “Quản giáo” này nhắm vào anh nhiều nhất (có lẽ do vùng hành quân của đơn vị anh thuộc Quảng Nam và Quảng Ngãi).

Vào khoảng gần giữa năm 1977, trong buổi học chính trị cho toàn trại tại Hội trường, tên Chính trị viên (người Quảng), không biết từ cấp cao nào đến phụ trách, bô lô ba la gần cả giờ về đường lối chính sách của Đảng, tương lai đất nước, v.v… Rồi đến mục khuyên tù nhân thành thật khai báo về ‘nợ máu’ chúng tôi đã gây ra. Nó đã chuyển cụm từ ‘tội ác’ thành ‘nợ máu’, nghe càng rùng rợn hơn. Tôi tự hỏi: ‘Như vậy, nợ máu thì phải trả bằng máu sao ?’

Sự kiện thứ 3 đã xảy sau buổi học chính trị toàn trại chỉ khoảng 2 tuần.

Hôm đó là ngày Chúa Nhật và cũng là ngày gia đình tù lên thăm nuôi. Khoảng 8 giờ sáng, Nhà chúng tôi có anh Vàng được tên vệ binh Bốn đến gọi ra sắp hàng tại cổng trại cùng với số anh em tù từ các Nhà và Khối khác để nó dẫn ra Trại tiếp tân. Toán thăm nuôi đầu tiên thường được gọi là Toán 1. Khoảng 30 phút sau, tôi cũng được gọi tên ra sắp vào một toán khác gọi là Toán 2 và được một tên vệ binh người Bắc dẫn đi. Khi toán chúng tôi ra đến Trại Tiếp tân thì mạnh ai nấy kiếm chỗ riêng để cùng gia đình trò chuyện, một số ngồi trong trại, một số chọn những bụi cây quanh đó ngay phía bên ngoài trại cách khoảng 10 mét. Thời gian thăm nuôi chỉ được kéo dài 1 giờ theo qui định. Và hôm nay thì tên Quản giáo phụ trách Trại Tiếp tân là người Bắc, không biết thuộc Khối nào.

Chỉ khoảng gần 15 phút sau, tôi nghe tiếng tên Bốn gọi tập họp Toán 1 để nó dẫn về. Và khoảng 3 phút sau, tôi lại nghe tiếng quát tháo khiến anh em đang ngồi quanh đó đều đứng lên, còn tôi thì bước nhanh đến đó, thấy khoảng 8 người đang đứng sắp hàng chờ điểm danh và kiểm tra những thứ gia đình họ mang lên thăm nuôi, riêng anh Vàng thì đang đứng đối mặt với tên Bốn, nói :
- “Tôi đã xin phép anh Quản giáo được thăm nuôi thêm một xuất nữa.”

Tên Bốn quát :
- “Anh không chịu vào sắp hàng thì tôi bắn đấy!”

Nói xong nó cầm súng, lên đạn rắc rắc và chỉ thẳng vào anh Vàng. Anh em quanh đó, ngay cả tôi, đều nghĩ rằng anh Vàng sẽ phải nhịn nhực và đứng vào hàng. Không ngờ anh dùng 2 tay banh ngực áo và nói lớn :
- “Muốn bắn thì bắn đi!”

Cũng may tên “quản giáo” người Bắc đến vừa kịp, nói ngay:
- “Anh Vàng đã xin phép tôi thăm nuôi thêm một xuất. Và anh ấy sẽ về theo Toán 2”.

Tên Bốn hạ súng xuống một cách miễn cưỡng, đôi mắt nó vẫn đỏ ngầu trên nét mặt đầy hậm hực, khoát tay ra lệnh cho Toán 1 bắt đầu đi về, không nhớ đến việc điểm danh và kiểm tra mấy chiếc bị của tù. (Thật ra thì chỉ là toán ít người, còn việc kiểm tra thì có thể thực hiện sau khi toán vào cổng trại.)

Cũng chính từ sự kiện này, tôi để ý đến tên Bốn nhiều hơn, vì chưa từng nghĩ rằng một tên Việt Cộng (không biết là du kích hay bộ đội chính quy vì màu sắc áo quần của nó là màu xám mà áo quần bộ đội là màu olive) mặt mày còn non choẹt, tuổi đời tối đa khoảng 22-23, nhỏ con, mà lại ‘khát máu’ như vậy. Và cũng chính từ đây, tôi thán phục anh Vàng nhiều hơn. Thán phục vì anh đã làm được điều mà tôi, hay đúng hơn là chúng tôi, không thể làm được, dù cho hành động của anh có xuất phát từ lòng tự ái hay sự bộc phát nào đó thì cũng vẫn thể hiện sự bất khuất của một Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trước kẻ thù trong hoàn cảnh cá chậu chim lồng này.

Thú thật thì trước đó tôi đã có phần ngưỡng mộ anh về những chiến công anh đã kể lại trong những buổi học chính trị nên tìm cách trò chuyện với anh nhiều hơn, dù biết anh rất ít nói. (người tôi thân nhất trong Nhà là anh Tố và vì anh lớn tuổi hơn nhiều nên tôi thường gọi anh là ‘Bố’). Có lẽ anh cũng hơi thích tôi do tôi là người hay kể chuyện vui, bông đùa và cười lớn tiếng thoải mái nhất trong Nhà. Nhờ vậy mà tôi biết được vợ anh tên Đường, là Giáo viên trước 1975.

Thế rồi, sau khoảng hơn 1 tháng, lúc này trong năm, thời tiết vào khoảng cuối mùa Hè nên không quá nóng như tại những vùng Huế, Quảng Trị và Đông Hà, một phần là do các trại tù đều nằm trong vùng núi, vào một buổi sáng, sau khi anh Chí ‘nhỏ’ (Nhà trưởng) đi họp nhận công tác cho Nhà về, vác theo một bao bố chứa những con ‘dao tông’ và ‘rựa’ và cho biết hôm nay cả Nhà sẽ lao động tập thể. phát quang tại vùng Cò Bay (đường lên Mỏ vàng Bồng Miêu). Chúng tôi ăn sáng với chế độ ít hơn 1/3 với bữa ăn trưa, rồi lần lượt bới theo cơm trưa chứa trong ‘lon Gô’ (loại bằng nhôm đựng sữa bột Guigoz của Hà Lan dành cho trẻ sơ sinh đến 2 tuổi, khuấy tan với nước nóng để bú bằng bình hay bằng ly, tách), một số thì dùng ‘gà men’ của Quân đội được thân nhân mang lên trong những lần thăm viếng tại ‘Trại Tiếp tân’. Rồi lần lượt xuống ‘Nhà bếp’ lấy nước sôi đổ vào bidon’(bình nhựa chứa nước của Quân đội). Những người trẻ như tôi, anh Vàng, anh Thành, Chi, Hóa, Ninh, Cảnh thì nhận ‘dao tông’(loại dao dài gần 5 tấc với cán dính liền bằng sắt dùng để chặt những cây nhỏ bằng bắp tay), người lớn tuổi thì nhận ‘rựa’ (loại dao dài chừng 7 tấc gồm luôn cán bằng gỗ dài khoảng 3 tấc, đầu rựa có mấu cong xuống, dùng để chặt tre, phát quang lau sậy, vót lạc, chẻ mây, và nhiều công dụng khác nữa); rồi lần lượt mài dụng cụ trên 2 tảng đá nhỏ đặt sau Nhà (chúng tôi vác chúng lên từ suối để tiết kiệm thời gian phải xuống suối mài trước khi đi lao động). Tiếp đến, chúng tôi được chia thành 2 toán, mỗi toán có 12 người. (riêng anh Cúc thì thuộc thành phần không lao động ngoài trại được do gót chân đã bi thương trước khi vào Trại nên thường ở nhà trực phòng, – một vài người trong Nhà của chúng tôi nghi ngờ anh làm ‘antenne’ vì chính bản thân tôi đã bị 2 lần viết ‘Kiểm điểm’ do có người báo cáo tôi phát ngôn bừa bãi trong những lúc chuyện trò với anh em ngay tại Nhà. Ví dụ như tôi đã đổi câu châm ngôn của họ : ‘Cho không lấy, thấy không xin’ thành ‘Không cho cũng lấy, không thấy cũng xin !!’…).

Đa số người trong Toán 1 chúng tôi có cấp bậc Thiếu Tá và Trung Tá trong đó có anh Võ Vàng, cấp Đại úy chỉ có anh Chí và Hóa. Hành trang lao động là chiếc bị vải tự tạo có quai mang vai (có người được thân nhân gửi lên bao đeo mặt nạ ngừa hơi độc của Quân đội), chứa bình nước, bữa ăn trưa, võng nylon hay vải và tấm nylon dùng làm áo mưa.

Đúng 07:30, Nhà chúng tôi bắt đầu di chuyển theo hàng dọc ra cổng trước của Trại, ngay con lộ lên Bồng Miêu, (cổng sau dẩn thẳng ra con suối cạn, rộng khoảng 40 mét, chảy ngoằn ngoèo theo dảy núi phía đối diện, chỉ dùng cho những lúc đi lao động nặng, riêng lẻ hoặc toán ít người và là nơi tắm rửa, giặt giũ), quẹo phải lên hướng vùng Cò Bay theo con lộ đất rộng khoảng 4-5 mét. Dẩn đầu là tên vệ binh Bốn (người Quảng) và sau cùng là một vệ binh (người Bắc, tôi không nhớ tên). Cả hai đều mang AK-47. (Thường thì khi tù binh đi lao động ngoài trại với những toán trên 5 người đều có vệ binh đi theo, khi thì 1 người, khi thì 2 người).

Thời tiết hôm đó vào buổi sáng vẫn còn mát mẻ dù mặt trời đã lên khá cao nhưng bị dãy đồi cao phía đông che khuất. Trong khoảng hơn 2 năm, chúng tôi đã từng đi trên con lộ này không dưới 20 lần nên cảnh vật chung quanh chẳng còn gì xa lạ nữa, ngoại trừ đám lau sậy và cây nhỏ dọc mé trái lộ đã được phát quang ngày càng xa dần lên hướng Cò Bay.

Chúng tôi đi khoảng hơn 3 km, đến hết ranh đám lau sậy đã được phát quang, thì tên vệ binh Bốn hô lớn bảo dừng lại và kêu anh Chí lên ra lệnh gì đó. Mấy phút sau thì nghe Chí bào toán 2 tạt về mé trái con lộ và chỉ định anh Ninh làm trưởng toán với nhiệm vụ phải phát quang dọc bên trái lộ lên hướng Cò Bay. Từ điểm này lên hướng Tây nam thì vẫn còn đầy lau sậy cao hơn đầu người hơn 1 mét.

Toán 1 của chúng tôi cứ tiếp tục đi xa hơn khoảng hơn 300 mét thì được lệnh dừng lại và nhận nhiệm vụ phát quang phía bên trái con lộ, sâu vào khoảng 40 mét rồi chuyển hướng dọc theo con lộ lên hướng núi có Mỏ Vàng. Ra lệnh xong, tên vệ binh Bốn và tên vệ binh người Bắc tiếp tục đi thẳng về phía trước. Theo kinh nghiệm từ những lần đi lao động và những khi được giao nhiệm vụ đi theo phát quang cho toán địa chất lên các lò của Mỏ Vàng Bồng Miêu, (thường thì 2 tù binh đi theo để phát cây dọn đường cho toán địa chất gồm 3 hay 4 Kỹ sư có mang súng ngắn ) tôi đoán khoảng 80 mét nữa là đến chiếc cầu xi măng nhỏ, rộng khoảng 2 mét, dài khoảng 8 mét bắc qua con suối thường hầu như cạn nước vào mùa hè, vì phía trước khoảng 30 mét đã hiện ra khúc quanh quẹo chênh về trái. Phía bên bờ Nam của suối cũng đầy lau sậy dày đặc chạy dài khoảng 300 mét thì đến vùng trống trải có những căn nhà gạch đã rêu phong, tốc mái, đổ nát trên 60%, cạnh một nhánh suối nhỏ vẫn còn những bụi trúc vàng rất đẹp hai bên bờ. Đặc biệt nơi này còn sót lại vài đoạn đường ray rộng khoảng 8 tấc và dài khoảng 20-30 mét. Nghe đám địa chất nói thì đây là những di tích hồi Pháp khai thác mỏ vàng.

Chúng tôi kiếm những cây nhỏ sát con lộ, chặt nhánh nhỏ, chừa một đoạn ngắn chỉa ra để treo những chiếc bị và bắt đầu dàn hàng ngang phát trống lau sây sâu vào chân dảy đồi khoảng 40 mét rồì đổi hướng phát dọc theo con lộ.

Dù có được khoảng 10 để uống nước và giải lao sau khoảng 1 giờ lao động (nhờ anh Chí ‘lớn’ và anh Tố vẫn luôn mang theo đồng hồ đeo tay trong túi quần. Còn phần lớn thì đã gửi về cho vợ bán lấy tiền nuôi con), chúng tôi cũng cố làm sao để phát quang một diện tích đáng kể trong ngày, nếu không thì mấy tên vệ binh sẽ báo báo là lao động không tích cực và bị làm kiểm điểm. Mặt trời lên cao dần, giáng xuống đầu và lưng chúng tôi những luồng nóng rát hừng hực khiến mồ hôi liên tục búng ra đẫm ướt cả áo và mặt như đang đi trong mưa. Cho đến khi mặt trời gần đứng bóng, chúng tôi nghỉ khoảng 1 giờ để ăn bữa trưa chứa trong bị mang theo. Mỗi tụm 2 hoặc 3 người cố tìm một bóng cây nào quanh đó để tránh nắng nhưng quả thật rất khó. Chỉ còn cách chui đại vào những lùm sậy rồi dùng rựa phạt đứt sậy cao ngang đầu người và dùng chiếc võng mang theo căng phủ lên phía trên tạo bóng dim bên dưới và mở lon cơm chừng 1 chén với ‘mắm cái’ và ngấu nghiến, mơ màng tưởng tượng một bữa ăn thịnh soạn để đánh lừa bao tử. Ăn xong thì xé giấy báo vấn một điều thuốc ‘rê’, dựa lưng vào bụi sậy, vừa phì phà vừa trao đổi vài nhận xét bâng quơ cho có chuyện mà thôi.

Khoảng 1 giờ chiều, chúng tôi tiếp tục gò mình vào công việc còn dang dở. Đến khoảng 2 giờ, chúng tôi mới nghỉ giải lao được khoảng 5 phút thì tên vệ binh Bốn và tên vệ binh người Bắc từ hướng Bồng Miêu đi về. Tên Bốn bèn nói lớn :
- “Anh Chí cho tôi 1 người lên phía trước để chặt những cây lau về bó làm chổi quét”.

Nghe tiếng nói, chúng tôi ngừng tay và nhìn Chí. Dĩ nhiên, nếu chặt lau sậy thì phải dùng rựa, vì khi chặt được một số lau thì dùng mấu rựa kéo về đằng sau. Tôi thấy Chí chỉ vào anh Xáng đang cầm cây rựa cạnh anh và nói :
- “Anh Xáng theo mấy anh vệ binh lên phía trước chặt lau đi !”.

Anh Xáng bèn bước đến một cây nhỏ gần đó lấy chiếc bị hành trang có mang nước theo để uống. Bỗng nhiên tên vệ binh Bốn cản lại và nói :
- “Anh lớn tuổi rồi nên chặt không nhanh. Anh đổi cây rựa cho anh này nè – vừa nói nó vừa chỉ tay vào anh Vàng đang cầm dao tông”.

Thế là anh Xáng và anh Vàng đổi dụng cụ cho nhau và anh Vàng đến lấy hành trang rồi đi theo 2 tên vệ binh. Chúng tôi đều nghĩ rằng đây chỉ là chuyện bình thường… rất bình thường. Hợp lý nữa là khác. Và chúng tôi lại tiếp tục công việc, cố làm sao để khi tối đến, sau khi cơm nước, họp bình bầu cá nhân xuất sắc tại Nhà mà khỏi bị làm kiểm điểm. Thật ra thì những hình thức lao động toàn Nhà như thế này, việc nhận xét ‘tích cực’ hay ‘tiêu cực’ đều do sự cao hứng của vệ binh đi theo mà thôi.

Khoảng hơn 10 phút sau, chúng tôi bỗng nghe 3 tiếng nổ đoàng đoàng đoàng liên tiếp, nhưng từng phát một, ở phía trước, chắc chắn là từ súng AK của 2 tên vệ binh. Tôi buột miệng cười nói: – “Chắc là con nai nào xui xẻo đã bị hạ rồi. Tối nay thế nào mỗi người cũng đều có 1 miếng thịt bồi dưỡng”.

Nghe thế, tôi thấy mấy anh còn lại cũng mỉm cười tỏ vẻ đồng tình. (Vì thỉnh thoảng chúng tôi cũng đã từng được bồi dưởng bằng thịt heo rừng hay nai).

Đúng là đã hơn 2 năm rối mới nghe lại tiếng súng nên lúc đầu ai cũng hơi hốt hoảng, ngay cả bản thân tôi đã từng là dân tác chiến cũng có chút bàng hoàng, nhưng chỉ trong vài giây thoáng qua. Chúng tôi lại tiếp tục công việc.

Khoảng 5 phút sau, tên vệ binh Bốn, từ phía trước trở về, cách chúng tôi chừng 10 mét, đã kêu lớn :
- “Anh Chí ! Kêu thêm một anh nữa lên phía trên này ngay, không cần mang theo dụng cụ”.

Mọi người lại dừng tay. Riêng tôi thì thầm nghĩ : ‘Không lẽ mình đã đoán đúng ?’ Chí liếc nhìn quanh và đột nhiên gọi tôi (đang đứng trong hàng ngang cách xa anh 2 người về phía bên phải, gần con lộ):
- “Anh X… bỏ dao xuống và theo tôi”.

Vẫn là điều bình thường… rất bình thường !! Tôi và Chí bước nhanh để theo kịp tên vệ binh Bốn. Đúng là chỉ khoảng 70 mét, chúng tôi đã thấy chiếc cầu xi măng bắc qua con suối và tên vệ binh người Bắc đang đứng trên cầu. Chúng tôi đến cách cầu chừng 6-7 mét (tại điểm này thì mé trái con lộ đã vừa mới được phát quang sâu khoảng hơn 1 mét, còn sót lại một cây cao, nhỏ và thẳng, trên cành thấp nhất còn lủng lẳng chiếc bị của anh Vàng) thì tên Bốn chỉ tay xuống suối, phía bên trái cầu và nói :
- “Hai anh xuống dưới đó đi !”.

Chúng tôi cũng vẩn đinh ninh một con nai đã bị bắn hạ ngay dưới suối nên vội tạt trái, vừa bước vừa nhìn xuống chân, thận trọng để khỏi dẩm phải những gốc sậy bén. Đến được bờ suối thì cảnh tượng trước mắt hiện ra giống như một chiếc búa tạ, đập tan vụn những ý nghĩ lạc quan đang nhảy múa trong đầu óc chúng tôi rồi nhét thay thế vào đó sự sợ hãi, thảng thốt : cách chúng tôi khoảng 3 mét, không phải là xác con nai mà là anh Vàng đang nằm sấp, mặt úp xuống bờ cát của lòng suối còn ẩm nước, tay phải hơi giang ra và bàn tay còn nắm lơi một phần cán rựa, chân hướng về phía chúng tôi. Tôi cảm thấy như có một luồng khí lạnh từ nổi sợ len lỏi vào dọc xương sống, còn Chí thì mặt mày tái nhợt hẳn ra, cùng ngước nhìn lên tên Bốn đang đứng trên cầu, cách chúng tôi khoảng hơn 4 mét theo đường huyền hình tam giác. Có lẽ thấy chúng tôi ngập ngừng không dám bước tiếp, nó dùng súng quơ quơ ra dấu bảo chúng tôi đi tiếp đến chỗ anh Vàng. Tôi, dù muốn dù không, là dân tác chiến nên tốc độ lấy lại bình tĩnh chỉ trong mấy giây, bèn đi trước đến sát chân anh Vàng và thấy ngay trên lưng áo của anh đã bị 3 lổ thủng nằm dọc từ hơi dưới vai trái xuống gần thắt lưng bên phải, giống như 3 trái bi trên bàn bi-da Pháp nằm theo thế ‘giò gà’ vậy. Tôi bảo Chí đang đứng phía sau :
- “Chí hãy lên phía đầu của anh Vàng rồi cùng nhau lật ngửa anh ra mới khiêng lên trên con lộ được.”

Chí và tôi vừa lật ngửa anh Vàng ra thì đột nhiên anh mở đôi mắt, thấy anh Chí và thểu thào kêu lên :
- “Chí ơi !…”

Có lẽ trước khi chết, anh đã cố gom hết sức lực để nói lên điều gì đó nhưng chỉ được hai từ ngắn ngủi này, cho nên, dù là thều thào nhưng có lẽ cũng đủ cho 2 tên vệ binh trên cầu nghe, hay có lẽ chúng đã thấy đôi môi anh mấp máy và ngỡ anh vẫn còn sống, muốn nói gì đó, nên tên Bốn hét lớn :
- “Hai anh tránh xa ra !”

Tôi giật mình phóng người ngược ra phía sau và té ngửa, còn Chí thì chạy lui rất nhanh. Tôi vừa ngồi dậy và liếc nhìn lên cầu thì một loạt đạn tóe lửa từ súng AK của tên Bốn nhắm vào đầu anh Vàng. Tôi thấy đầu của anh giật giật mấy cái rồi im luôn. Tôi lại đảo mắt nhìn lên cầu lần nữa và thấy tên Bốn, sau khi bắn xong, thản nhiên mang quai súng lên vai cùng tên vệ binh người Bắc song song bước nhanh về hướng cũ. Tôi vẫn ngồi như thế, ngoái nhìn theo cho đến lúc chúng đi khuất sau đám lau sậy mới đứng lên và bước đến gần anh Vàng. Trong loạt súng vừa rồi, có lẽ khoảng 2 hay 3 viên đã trúng làm nát luôn má và miệng của anh, máu chảy lênh láng. Chí thì hình như vẩn chưa hoàn hồn. Tôi bèn bảo Chí :
- “Chí ở lại đây trông chừng để tôi chạy về báo cho anh em trong toán mình biết.”

Chí bỗng nói ngay :
- “Anh ở lại đây để tôi chạy về báo tin cho.” Tôi thấy anh còn sợ nên đành gật đầu.

Chờ cho Chí đi rồi, tôi cẩn thận nhìn quanh khoảng một phút, có lẽ vì sợ tên Bốn bất ngờ quày lại tặng luôn mình một loạt đạn để bịt miệng, rồi nhìn lại anh Vàng thì thấy hai mắt anh vẫn còn mở, bèn đưa tay vuốt mắt anh mà lòng dậy lên nỗi đau buồn đã mất đi một người bạn tù, một người anh trong Quân ngũ.

Chưa đến 10 phút sau, tôi thấy mấy anh xuất hiện từ sau đám lau sậy rồi nhận ra anh Tố, anh Hoàng và anh Hóa cùng Chí đến gần chỗ tôi. Có lẽ dọc đường đến đây, Chí đã có kể lại một phần nào đó cho họ nghe nên khi đến nơi, chúng tôi chỉ cùng nhau nghĩ cách khiêng anh Vàng về. Liên tưởng đến lúc Trại có người bị bệnh không đi được thì đã được khiêng bằng võng đến trạm xá, tôi bèn đề nghị như thế và cùng Hóa chạy đến cây có treo chiếc bị của anh Vàng để lấy chiếc bị có chứa chiếc võng của anh, đồng thời chặt luôn cây này, tỉa nhánh cho trơn tru dùng làm đòn cáng. Tiếp đến, anh Tố và anh Hoàng khiêng xác anh Vàng bỏ lên võng và chúng tôi cột dây của 2 đầu võng thật chặt vào đòn cáng. Anh Hoàng và anh Tố tình nguyện khiêng anh Vàng trước sau khi giao rựa của họ cho Chi, và tôi cùng Chí sẽ thay phiên khi 2 anh đó đã thấm mệt. Chí bèn giao 2 cây rựa của anh Hoàng và anh Tố giao luôn cho anh Hóa vác. Riêng tôi và Chí thì trên đường về sẽ tạt lại điểm chúng tôi phát quang để lấy bị của mọi người và dao tông của mình.

Anh Hoàng đứng phía đầu đòn cáng, hướng chân của anh Vàng và anh Tố ở cuối cáng, hướng đầu của anh Vàng, tôi và Chí cùng tiếp tay nhấc đòn cáng lên vai họ. Thế là 5 người chúng tôi bắt đầu lên đường. Hình như mỗi người đều đang nặng trĩu nhưng suy nghĩ có lẽ cũng hao hao giống nhau: ‘khi về đến trại thì sẽ phải làm gì đây, nói năng như thế nào đây?’ Riêng tôi, và chắc chắn là Chí nữa, thì còn thêm những lo nghĩ khác vì là những nhân chứng sống cho cái chết của anh Vàng.

Chỉ khoảng mấy phút sau, chúng tôi đã đến điểm chúng tôi đã phát quang, nhưng chẳng còn thấy bóng dáng ai cả. Tôi lên tiếng :
- “Họ đâu cả rồi ?”.
Anh Tố buột miệng trả lời :
- “Chắc họ sợ quá sau khi nghe thằng Bốn tuyên bố nên đã chạy về trước rồi.”.

Tôi hỏi tiếp :
- “Nó nói sao, Bố ?”

- “Tên Võ-Vàng đánh vệ binh để cướp súng trốn trại. Ta đã diệt nó rồi.”
Tôi và Chí loanh quanh khoảng 1 phút tìm dao tông và bị nhưng không thấy. Chí nói :
- “Có lẽ anh em đã mang về giùm rồi.”

Cũng chỉ đoán như vậy thôi, chứ ở vùng không có bóng người dân nào thì ai mà lấy mấy thứ đó chứ. Tôi và Chí bước nhanh để theo kịp chiếc võng cáng. Vừa đến ngang anh Tố thì thấy đầu của anh Vàng lắc lư theo bước chân người khiêng lệch ra khỏi vỏng, bèn vừa đi vừa banh rộng đầu võng để đầu anh lọt vào. Máu trên vùng ngực của anh hầu như đã khô, còn ở má và miệng vẫn còn rỉ, tóc và trán vẫn còn bám cát từ lòng suối khô.

Chúng tôi cứ thế lẳng lặng bước… và bước, mong sao cho nhanh về đến trại. Ngang qua điểm phát quang của Toán 2, chúng tôi cũng chẳng thấy ai nữa. Chắc họ cũng đã nghe tên Bốn nói gì và đã nhanh chân rời khỏi đó, giống như số anh em còn lại của Toán 1.

Tôi ngước nhìn lên bầu trời, lúc này có lẽ đã hơn 3 giờ chiều, nhưng nắng đã có phần dịu bớt nhờ những đám mây trắng nhỏ từ phía Tây bắc lãng đãng trôi qua, che khuất mặt trời như cố ý ngăn bớt luồng nóng hừng hực đâm thẳng vào thân xác một người đã từng vang bóng một thời, đã tung hoành trên khắp chiến trường phía Nam của Quân Đoàn 1 (vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi), nhưng lại phải lìa đời trong tức tưởi. Tôi lại tưởng tượng những đám mây kia là những thân nhân, vợ con và bạn bè, những người đã ngưỡng mộ và thương mến anh, trong những chiếc áo tang, những chiếc khăn sô, đưa tiễn anh lần cuối.

Rồi đầu anh Vàng lại lệch ra khỏi đầu võng, và với những động tác cũ, tôi lại banh đầu võng, nâng đầu anh lọt vào như cũ. Nhớ lại thì tôi đã dùng động tác này không dưới 3 lần trên đường về đến trại, vì 2 đầu võng thường bị kéo túm lại do sức nặng nhún nhẩy từ phần giữa võng. Trước đó, chúng tôi đã cẩn thận dùng phần dây võng còn thừa để buộc 2 chân anh vào một đầu võng, riêng võng ở phần đầu của anh thì không được.

Chúng tôi cứ tiếp tục bước…, bước nhanh, hình như không quan tâm gì đến thời gian và đoạn đường mình đã đi qua. Cho đến khi tôi định lên tiếng đòi thay phiên khiên cáng thì trước mắt, dảy hàng rào bằng ‘róng’ (cở cây nhỏ hơn hoặc bằng cổ tay cao khoảng 3 mét, gài chéo nhau theo hình tổ ong rào quanh trại) sát con lộ đã hiện ra phía bên trái, cách chúng tôi khoảng 60 mét, nên không lên tiếng nữa.

Chỉ khoảng hơn 5 phút, chúng tôi đã đến cách cổng trại chừng 15 mét thì tên Quản giáo Nhà chúng tôi đã đứng đó từ trước chận chúng tôi lại và bảo :
- “Các anh bỏ anh Vàng tại đây rồi vào trại đi !.”
Nhìn chênh về phía phải, chúng tôi thấy một toán tù binh, không biết thuộc Khối nào, đang đào cái huyệt cách con lộ khoảng 2 mét. Chúng tôi đoán là huyệt dành cho anh Vàng.

Anh Hoàng và anh Tố nhẹ nhàng đặt xác anh Vàng xuống sát mé phải con lộ và chúng tôi lẳng lặng tiến về cổng trại. Qua cổng trại rồi đi xuyên qua trước mặt Khối 2, tôi thấy nhiều anh em tù, một số đứng trước sân, một số trong Nhà lặng lẽ nhìn chúng tôi, trong ánh mắt họ dường như đang ẩn chứa rất nhiều câu hỏi. Về đến Nhà, tôi thấy đống dao rựa đã nằm giữa nhà, cạnh cái lỗ hình chữ nhật bề 5 bề 8 tấc, sâu 2 tấc dùng để đốt lá tươi hun khói đuổi muỗi khi đêm đến hoặc đốt củi sưởi ấm vào mùa Đông, và những chiếc bị của chúng tôi đã nằm sẵn trên phần sạp ngủ của mỗi người. Cởi bỏ áo quần lao động (quần áo của lính Bộ binh chế độ cũ được cấp phát cho tù mặc khi lao động), chúng tôi ngả người trên phần sạp của mình nằm nghỉ ngơi cho khô mồ hôi trước khi xuống suối để tắm và giặt. Riêng anh Chí thì vừa đếm vừa đun hết số dao rựa vào trong bao bố và vác lên trả lại cho nhà kho chứa dụng cụ lao động.

Bầu không khí trong Nhà của cuối ngày lao động hôm đó bao trùm một sự tĩnh lặng hầu như tuyệt đối, giống như đang mặc niệm cho người bạn tù đã vĩnh viễn ra đi, cho một sự mất mát, thiếu vắng từ đây… chỉ còn những ánh mắt thỉnh thoảng nhìn nhau… Và thời gian cứ nặng nề trôi qua…

Bỗng nhiên, tôi nghe nhiều tiếng nói lao xao gần phía trước cửa nhà, liền nhỏm dậy xem thì thấy 3 người, hình như thuộc Khối 2, đang vừa đi ngang qua cửa Nhà chúng tôi vừa nói chuyện.

Tôi vội chạy ra hỏi với theo :
- “Mấy anh có biết họ đã chôn anh Vàng chưa không ?”

Một anh trả lời :
- “Vẫn chưa, vì phải đào một cái huyệt khác cách xa con lộ hơn 10 mét. Mấy thằng cán bộ nói cái huyệt đầu tiên nằm sát đường quá.”

Anh Tố đang nằm nghỉ, nghe thế bèn nhỏm dậy nói :
- “Như thế thì xui lắm. Ông bà mình tin rằng nếu đào huyệt thứ 2 thì thân nhân của người chết sẽ bị chết thêm một người nữa đó !”

Tôi thì chẳng biết gì về chuyện này. Anh em còn lại trong nhà cũng chỉ đưa mắt nhìn nhau, nửa tin nửa ngờ… nhưng phần nào cũng có chút lo lắng cho những người trong gia đình anh Vàng.

Rồi, như cái máy chạy theo thời khóa biểu, chúng tôi xuống suối, tắm, giặt. Sau đó, người trực cơm xuống bếp nhận cơm lên chia đều cho anh em trong Nhà. Cũng chỉ là 1 chén cơm và ‘mắm cái’ hầu như thường lệ, nhưng hôm nay dường như có thêm những giọt nước mắt nhỏ xuống từ bên trong, thẳng vào cuống họng mỗi lần nuốt 1 ngụm cơm…

Lúc này, màn đêm đang dần phủ trên Trại Tù. chúng tôi chuẩn bị họp Nhà để bình bầu cá nhân xuất sắc cho ngày lao động dở dang hôm nay. Một người mang củi vào nhóm lửa và 1 người nữa mang mấy nhành cây nhỏ có nhiều lá còn xanh để hun khói đuổi muổi. Trong ánh lửa lập lòe kèm theo khói, chúng tôi vừa bắt đầu họp thì thấy tên Quản giáo (người Quảng - tôi không nhớ tên) bước vào. Nó không ngồi lên sạp như thường lệ mà chỉ nói lớn :
- “Các anh hãy coi chừng! Cái chết của anh Vàng là sự trừng phạt cho những muốn trốn trại đó !”

Rồi bỏ đi, một chốc sau, chúng tôi lại thấy tên Bốn đi ngang và nhìn vào Nhà chúng tôi liếc ngang liếc dọc, vai vẫn mang khẩu AK-47, nét mặt có vẻ vênh váo như vừa mới lập được một ‘chiến công’ hèn hạ chưa chừng thấy. Thật ra thì tất cả anh em cùng Nhà đều mang tâm trạng phập phồng lo sợ… sau sự kiện của anh Vàng. Riêng tôi, và chắc là với Chí ‘nhỏ’, lại càng cảm thấy thấp thỏm hơn, vì là những nhân chứng sau cùng.

Họp xong, tôi đến bên Chí ‘nhỏ’, nói :
- “Ngày mai Chí cắt tôi đi công tác theo nhóm cho bảo đảm đó !” Chí gật đầu, phần nào hiểu được ý của tôi.

Đặc biệt tối nay, sau khi họp xong, chúng tôi không ra phía trước sân, tụm 2, tụm 3, trao đổi năm điều ba chuyện bâng quơ trước khi vào ngủ, mà một số thì vẫn ngồi trên sạp, một số nằm dài, theo đuổi những suy nghĩ riêng tư của mình.

Rồi một đêm không bình thường nặng nề trôi qua. Sáng hôm sau, Chí lên nhận công tác và vác theo về một bao bố chứa toàn dao tông, và công tác hôm nay là chặt những khúc cây dài từ 4 – 4,5 mét, thật thẳng, có ngọn tối thiểu là 1 tấc 3. Thường thì đây là công tác riêng lẻ, tức là mạnh ai nấy lên rừng và lục tìm và chặt rồi vác về, nhưng Chí cũng cẩn thận dặn anh em nên đi theo từng toán 4 hay 5 người để khỏi bị vệ binh len lén đi theo và ‘diệt’ từng người trong chúng tôi như trường hợp của anh Vàng.

Cũng may đến gần trưa thì anh Tố, tôi, Ninh và Cảnh đã chặt xong cây và vác xuống sườn núi, nơi có khoảng trống khá lớn nằm trên con đường nhỏ dẫn về trại và cách trại khoảng hơn 2 km. Chúng tôi kiếm bóng mát để nghỉ ngơi và ăn trưa. Nhân lúc này anh Tố mới bảo tôi kể lại phần cuối của vụ anh Vàng bị bắn. Và tôi đã nói cho họ nghe.

Đến chiều, khoảng 4 giờ, khi vác cây về đến Nhà, chúng tôi lại thoáng thấy tên Bốn đi từ hướng Khối 2 về Khối 1 và, khi đi ngang Nhà chúng tôi, nó bước chậm lại và liếc nhìn vào. Tôi nghĩ rằng đây là điều không bình thường, dù thỉnh thoảng vẫn có vệ binh đi lòng vòng trước sân các Khối vào gần cuối ngày lao động. Nhà chúng tôi đã cố làm cho bầu không khí trở nên bình thường, nhưng thật ra vẫn không bình thường như cũ được. Mọi người có vẻ thận trọng, dè dặt, ít nói chuyện với nhau hơn. Chỉ mong thời gian sẽ xóa dần nỗi lo sợ cho những gì sẽ xảy ra kế tiếp.

Và điều không bình thường này đã đến ngay vào buổi sáng hôm sau. Khi Chí đi nhận công tác về với chiếc bao bố chứa dao, rựa trên vai. Khuôn mặt anh hơi lộ vẻ lo âu. Anh nói đại khái chỉ tiêu lao động trong ngày, rồi tiếp :
- “Hôm nay tôi và anh X… ở nhà làm công tác khác.”

Mọi người bắt đầu hoang mang, thắc mắc nhìn nhau nhưng chẳng ai buồn lên tiếng, ngay cả tôi, mà chỉ lẳng lặng ăn hết miếng bánh xốp làm bằng bột mì Liên Xô thay cho điểm tâm rồi mài dụng cụ lao động và rời khỏi Nhà.

Chờ cho anh em đi hết, tôi kéo Chí ra khỏi nhà để đề phòng anh Cúc nghe được, và chưa kịp hỏi thì Chí đã nói:
- “Một chốc nữa thì tên Quản giáo sẽ đến hướng dẫn chúng ta viết bản tường trình về cái chết của anh Vàng. Hình như người anh của anh Vàng là Trung tá Bộ đội đã đến Tổng trại và yêu cầu điều tra rõ chuyện này. Anh tính thế nào?”

Tôi suy nghĩ một chốc, rồi nói :
- “Viết tường trình vụ này mà do Quản giáo hướng dẫn thì chắc 2 anh em mình sẽ không nói lên được sự thật mình đã chứng kiến đâu. Bây giờ tụi mình đều như cá nằm trên thớt. Nó bảo sao thì phải viết vậy thôi.” Như một sự đồng cảm đã có sẵn, Chí gật đầu.

Chúng tôi vào nhà, nằm dài trên sạp của mình, vừa chờ tên “Quản giáo” đến, vừa suy nghĩ xem còn có cách ứng phó nào khác nữa không.

Hơn nửa giờ sau, tên “quản giáo” bước vào, tay cầm cuộn giấy tập vở và 2 cây bút bi, bảo chúng tôi đến Hội trường và nói:
- “Hai anh hãy tường trình lại đúng y như lời vệ binh đã nói, tức là anh Vàng đã đánh vệ binh, cướp súng để trốn trại nên đã bị vệ binh bắn chết. Viết ngắn gọn thôi rồi ghi tên mình, Khối và Trại và ký tên là xong. Càng nhanh càng tốt”.

Tôi không biết Chí có ý nghĩ gì không. Riêng tôi thì thầm nói: “Anh Vàng, xin anh thứ lỗi và thông cảm cho hoàn cảnh chúng tôi hiện giờ. Nhưng tôi xin hứa với anh là sẽ kể lại toàn bộ chuyện này cho chị Đường nghe sau khi tôi được tha về!”

Chưa tới 10 phút, chúng tôi đã viết xong. Tên “Quản giáo” cầm từng tờ giấy lên đọc rồi gật đầu, nói :
- “Hai anh về làm vệ sinh quanh Nhà rồi nghỉ ngơi đi!”, rồi bước nhanh về phía cổng trại.

Khoảng 1 giờ sau, chúng tôi đã làm xong công việc được giao phó, rồi Chí thì soạn kim chỉ vá chiếc bị của anh, còn tôi thì nằm ngả người trên sạp, mắt nhìn lên trần nhà, nhưng lại không thấy trần nhà mà lại thấy hiện ra 2 hình ảnh của anh Vàng:

- Một anh Vàng với thân thể cường tráng, nở nang, tiềm ẩn một sức lực dồi dào (anh đã từng được bình bầu xuất sắc trong lao động rất nhiều lần và là người khỏe nhất Nhà), dáng người tầm thước (khoảng 1,68 mét), nước da hơi đen sạm. Điểm đặc biệt là anh có đôi mắt to, màu đen pha một chút màu nâu, đầy vẻ bướng bỉnh. Anh thường ít nói và cũng ít cười nhưng dễ tiếp cận. (Tôi chỉ thấy anh cười nhiều nhất, bằng mắt nhiều hơn bằng miệng, khi tôi kể mấy chuyện phiếm tôi còn nhớ từ cuốn ‘Truyện cười của Đặng-trần-Huân’). Còn nghe nói anh cũng có ‘nghề’ (biết võ thuật) nữa. Hình như anh không hút thuốc, nhưng vì có một vài người trong Nhà tập hút thuốc lào nên anh đã thử. Và trong những lần đầu, khi anh rít xong một hơi thì mặt anh trở nên đờ đẫn, mắt mơ màng khiến anh em không nhịn được cười…

- Và Một anh Vàng trong tư thế nằm sấp nơi lòng suối khô của vùng Cò Bay, Bồng Miêu với 3 lỗ đạn ở lưng, rồi trong tư thế nằm ngửa với má và miệng banh nát sau loạt đạn thứ hai, với cái đầu lắc lư trên đầu võng… : kết quả từ thủ đoạn đê hèn của một chế độ đầy âm mưu thâm độc…

Hai hình ảnh này cứ luân phiên chợt ẩn chợt hiện không ngừng trước mắt tôi như chồng chất thêm trong lòng tôi nổi xót xa, mất mát một người bạn tù đáng kính.

Anh đã nằm xuống nhưng tên Võ Vàng của anh sẽ không bao giờ chết trong lòng chúng tôi. Anh vẫn là Người Hùng, một ngôi sao sáng chói trong binh chủng Biệt Động Quân, trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Vì hoàn cảnh không cho phép gặp trực tiếp để kể lại cho chị Đường và các cháu nghe, tôi xin ghi lại những dòng này thực hiện lời thầm hứa với anh Vàng sau 39 năm.
Tôi cũng thành thật xin lỗi đã gợi lại những buồn đau của gia đình chị mà có lẽ phần nào đã phôi pha theo thời gian, nhưng đồng thời cũng giúp chị và các cháu luôn giữ vững niềm tự hào đã có một người chồng, người cha kiêu hùng, bất khuất…

Tôi cũng cảm ơn anh Tấn đã nhắc tôi ghi lại sự kiện này, và nhờ anh (cựu Trung Tá, Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 2/SĐ 3 BB) tìm cách liên lạc và chuyển giùm, không chỉ cho chị Đường mà còn cho những người có tên đã được đề cập trong bài viết để nhận những phản hồi thông qua anh.

Xtanker20
Cựu Tù Nhân Chính Trị Quảng Nam - Đà Nẵng
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
The Following 5 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
hoathienly19 (10-13-2020), huudangdo1 (10-13-2020), Lien53 (10-13-2020), phokhuya (10-17-2020), trungthu (10-14-2020)
Old 10-17-2020   #300
hoathienly19
R5 Cao Thủ Thượng Thừa
 
Join Date: Sep 2020
Posts: 1,482
Thanks: 2,322
Thanked 1,734 Times in 804 Posts
Mentioned: 4 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 24 Post(s)
Rep Power: 8
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7hoathienly19 Reputation Uy Tín Level 7
Default NGƯỜI NGHĨA QUÂN THỜ HÌNH CỦA CHÍNH MÌNH


NGƯỜI NGHĨA QUÂN THỜ HÌNH CỦA CHÍNH MÌNH


Rừng thiêng sơn trại không hò trận

Chỉ thấy tiêu điều những bóng ma

Viên Linh






Tết năm đó tôi về Việt Nam ghé thăm bạn bè. Đến miền Trung, tôi được một người bạn rủ thăm mộ một người bạn khác.

Từ một thị trấn miền biển, chúng tôi ra quốc lộ Một, theo hướng bắc, lên một đèo nhỏ, đến đỉnh đèo, thay vì xuống dốc, bạn tôi cho xe chạy vào một đường mòn dọc theo chân núi.

Đây là một vùng hoang vắng, cằn cỗi, toàn đá, cây lưa thưa, cao không quá đầu người. Chiếc xe gắn máy cứ nhảy chồm chồm, như con ngựa trở chứng, mấy lần suýt ngã xuống vực.

Cuối cùng, chúng tôi cũng đến được một nơi, hơi bằng phẳng, có mười mấy ngôi mộ đất, nằm rải rác trên một diện tích khoảng một cái sân lớn. Bạn tôi chỉ một mô đất có miếng gỗ nhỏ ghi chữ Tư bằng hắc ín bạc màu.

- Nó nằm đây !

Chúng tôi lấy nhang, đốt lên, đứng trước mồ bạn, khấn vái mấy câu. Trong giây phút tưởng niệm, tôi như hình dung rõ bạn tôi trong những ngày cùng ngồi chung lớp, chung trường.

Bạn tôi vui tươi, khỏe mạnh, yêu đời, lúc nào cũng nói chuyện tếu được, khiến cho dù ai có chuyện buồn cũng phải bật cười…

Rồi cảm tưởng như tất cả những người nằm trong các ngôi mộ rải rác chung quanh đều là bạn thân thiết, vong linh họ đang đứng bên cạnh, tò mò nhìn xem chúng tôi làm gì ?

Ý nghĩ đó khiến tôi thêm ngậm ngùi, thương cảm. Tôi khấn lầm thầm :

- “ Chúng tôi rất hãnh diện có được những người bạn đã chọn một cái chết hào hùng để bảo vệ tự do, bảo vệ đồng bào . Sự hy sinh của các bạn càng thêm ý nghĩa sau khi cộng sản Bắc Việt chiếm đóng Miền Nam. Dân chủ, tự do không còn nữa !”

Tôi cũng trấn an người bạn học quá cố của chúng tôi khi nói về cuộc sống ổn định của vợ và các con của bạn :

- “ Anh em đồng môn luôn tìm cách an ủi, giúp đỡ chị và các cháu”.

Khấn xong, chúng tôi đem nhang cắm lên tất cả các ngôi mộ.

- Chỉ thằng nầy là dân hành chánh, còn mấy cậu nằm chung quanh toàn quân nhân. Nhảy dù với nghĩa quân.

- Có lẽ phải xây một cái khung cho tất cả các ngôi mộ nầy, rồi đổ đất lên mới không bị mồ xiêu mả lạc.

- Lần trước, lên đây, tôi có gặp anh chàng sống một mình trong mái tranh đằng kia, mình có thể nhờ anh ta lo vụ nầy…Chắc không tốn bao nhiêu.




Mới buổi sáng mà nắng đã gay gắt. Tôi đứng nhìn quanh. Một bên là núi cao, một bên là sườn núi thoai thoải, chạy đến một rừng cây xanh có lẽ là điểm nước, thấp thoáng sau hàng cây là quốc lộ Một, mấy chiếc xe đang chạy trên một cây cầu nhỏ, bắc qua một con suối, về mùa hè nên nước cạn, chỉ thấy lấp loáng ánh nắng qua những gộp đá nhỏ. Bạn tôi chỉ tay về hướng bên kia đồi.

- Nhà anh ta dưới tàng cây lớn kia kìa, nếu để ý, quá khỏi tàng cây, có cái gò cao, giống hình người đang ngồi.

Bạn thấy chưa ? Đó là cái gò mối, nhưng người ta đồn đãi là mộ của một cô gái rất linh thiêng. Bây giờ mình thử đến đó xem sao.

Chúng tôi đi băng qua đồi. Đường rất khó đi nên phải đẩy bộ chiếc xe gắn máy, có khi phải khiêng qua những những tảng đá lớn chắn lối hay những rãnh sâu.

Cuối cùng thì chúng tôi cũng đến nơi. Đó là một căn nhà tranh vách ván, nằm dưới một cây mít có tàng lớn che gần hết mái nhà. Sau nhà là một khu vườn vuông vức mỗi cạnh độ vài trăm thước, trồng cây lưu niên làm hàng rào, trong vườn là những luống khoai lang, khoai mì và bắp, góc vườn có một giàn bầu hay bí gì đấy. Nhà vắng tanh. Chúng tôi lên tiếng.

- Có ai trong nhà không ?

Một người đàn ông từ sau bếp bước ra.

- Có tôi !

Anh ta khoảng trên bốn mươi, người hơi ốm nhưng rắn rỏi, da sạm nắng, tóc cắt ngắn, đôi mắt chơn chất sáng lên niềm vui của kẻ sống cô độc được có người đến thăm.

- Chào quí anh. Quí anh có chuyện gì mà lên chỗ hẻo lánh nầy ?

- Chúng tôi đi thăm mấy cái mộ đằng kia, nhân tiện ghé thăm anh, định nhờ anh chút chuyện.

Anh ta cười, đưa hàm răng vàng khè vì khói thuốc.

- Lúc mấy anh đi lên, tôi đã thấy rồi. Vậy chứ mấy anh có thân nhân, bạn bè gì nằm ở đó ?

- Có ông bạn học…Lên thăm, và định xây cho nó cái mộ cho tươm tất, để mộ đất, lâu ngày, gió mưa trôi hết, sau nầy tìm không ra.

- Mời hai anh vô nhà ngồi uống nước.

Chúng tôi bước vào. Đó là một ngôi nhà tranh nhỏ tầm thường. Nhà ba gian, giữa là bàn thờ, có tấm màn che. Bên trái là chiếc giường nhỏ, có lẽ là chỗ ngủ của chủ nhà, bên gối tôi thấy có mấy quyển sách, vì phép lịch sự tôi không nhìn kỹ sách gì nhưng như thế chứng tỏ chủ nhà là người có học và có thú vui đọc sách.

Bên phải là một căn buồng đóng cửa. Trước bàn thờ là bàn nước bằng gỗ mộc, cũ kỹ, để một bình tích trong trái dừa khô, giúp cho nước giữ nóng được lâu, mấy cái ly thủy tinh trên một dĩa lớn. Có bốn cái ghế dựa để tiếp khách. Anh kéo ghế mời chúng tôi rồi xuống bếp thổi lửa nấu nước, pha trà.





Chúng tôi ngồi nhìn quanh, hỏi vọng xuống bếp.

- Anh sống một mình sao ?

Anh ta đi lên nhà trên.

- Tôi sống một mình. Cũng hơn mười năm.

- Không buồn à ? Kiếm một bà về ở chung để có người chuyện trò, ốm đau còn nương tựa nhau.

- Tôi có vợ rồi, nhưng vợ mất, tôi ở vậy…thờ vợ.

Tôi pha trò.

- Anh có hiếu với vợ dữ ! Cô vợ anh chắc sẽ mỉm cười nơi chín suối khi có được người chồng chung tình như anh.

Anh ta chỉ cười, xuống bếp lấy ấm nước lên, mở nắp bình tích, bỏ trà, chế nước sôi vào.

- Sống một mình cũng quen. Xuống phố thấy xe cộ, người nói, ồn ào, chỉ muốn về nhà cho yên tĩnh.

- Đất vùng nầy cằn cỗi, sao vườn anh tươi tốt vậy?

- Phải xuống suối móc sình lên đắp, mấy đời như thế nên mới trồng trọt được. Mấy anh đi thăm mộ ai ở đằng đó ?

- Thăm người bạn, tử trận hồi bảy lăm. Bởi vậy mới định nhờ anh…

Anh ta ngồi lên giường, gác tréo chân, thong thả vấn điếu thuốc lá.

- Thỉnh thoảng tôi có ghé thăm chừng, thắp nhang, dọn cỏ mấy ngôi mộ đó. Mấy anh định xây cho mộ nào ?

- Có ông bạn học nằm đó. Cũng định xây luôn cái khung chung quanh tất cả các ngôi mộ rồi đắp thêm đất lên cho mưa lũ khỏi trôi mất. Anh có thể giúp được không ?

- Có phải mấy anh định xây mộ cho ông phó hành chánh nằm đó không ?

- Sao anh biết ?

- Tôi là lính phòng thủ quận hành chánh. Nghĩa quân tụi tôi với ông phó thân lắm. Đúng ra thì ông phó không có nhiệm vụ tác chiến, thiếu tá quận trưởng bảo ông đưa gia đình về Sài gòn, mục đích để khỏi phải đánh nhau, nhưng ông phó chỉ gửi vợ con đi còn ông ta thì ở lại. Ông phó bảo đã tốt nghiệp sĩ quan Thủ Đức mà lại trốn chui trốn nhủi thì nhục lắm. Mời mấy anh dùng trà.




Vẻ dè dặt không còn trong cách đối xử của anh ta.

- Các anh yên tâm. Nếu các anh muốn xây thêm cái “khuỷnh” cho tất cả các ngôi mộ thì tôi cũng xin góp chút công. Tôi chỉ tính vật liệu thôi, không tính tiền công. Bây giờ tôi đề nghị thế nầy.

Các anh ở lại đây nghỉ trưa, chúng ta sẽ có thì giờ bàn lại kỷ hơn chuyện mồ mả. Tôi xin mời các anh một bữa trưa. Chỉ kẹt là không có rựợu, chớ còn mồi thì lúc nào cũng sẵn sàng. Bắt con gà rồi quơ bậy mớ rau thơm là có ngay một nồi cháo. Hai anh cứ ngồi chơi, đợi tôi. Hay là ra sau hè, có gió, mát hơn ở trong nhà.

- Tụi tôi đâu biết nhậu, có cháo gà mà húp cũng đủ khoái rồi.

Hai đứa tôi ra sau hè, tôi nằm đong đưa trên võng, người bạn ngồi trên cái ghế dài, tựa vào vách nhà. Gió biển thổi lên mát rượi, mấy con chim sâu hót trong bụi rậm, tiếng gió rì rào trong cảnh vắng vẻ, tĩnh mịch… Đúng là cõi thần tiên nơi góc núi.

Hai đứa tôi chuyện trò linh tinh một lúc, độ hơn nửa giờ thì anh ta bưng nồi cháo ra, đặt trên một cái bàn nhỏ, thêm mớ chén, đũa, vậy là chúng tôi vừa sì sụp vừa chuyện trò.

- Bây giờ anh kể vụ bảy lăm, ở đây, xảy ra những chuyện gì ? Tụi tôi chỉ nghe mang máng có đánh nhau dưới cầu kia, anh có tham dự không ?

- Có chứ ! Khi có vụ di tản từ Cao Nguyên xuống thì ở quận, tụi tôi được lịnh ứng chiến. Ông phó hành chánh, tức bạn của hai anh, dẫn trung đội nghĩa quân tụi tôi lên chốt trên kia. Tụi tôi đóng ở đó được mấy ngày thì có một đại đội dù đến tăng cường.

Ông phó phối hợp với bên dù cho gài mìn dưới cầu đằng kia, chờ tụi hắn đến thì giật sập cầu và chận đánh. Một toán nằm dọc bờ suối, phục ở đó, chờ địch. Tôi và một anh nhảy dù lo việc giật mìn. Nhiệm vụ tôi hễ bấm xong mìn thì lên chỗ gò kia nằm, theo dõi và gọi máy báo cáo khi thấy địch xung phong lên núi.




Thế rồi, địch xuất hiện, chạy một dọc cả chục chiếc xe lớn chở đầy bộ đội. Tôi bấm mìn giật sập cầu, mấy anh nhảy dù thụt M72, cháy mấy chiếc xe đi đầu, rồi xả súng như mưa.

Từ ngày tôi đi Nghĩa Quân, thỉnh thoảng có hành quân lùng sục du kích, nhưng bọn việt cộng chỉ bắn mấy phát rồi bỏ chạy, chứ chưa thực sự đụng độ bao giờ. Đến lúc đó tôi mới biết thế nào là đánh nhau.

Ôi thôi ! Súng nổ khắp nơi, rầm trời, rầm đất. Tôi bò lên chỗ gò mối nằm dòm chừng để báo cáo tình hình. Đến chiều thì xe tăng tụi nó đến. Đại bác của xe tăng thụt phe ta chạy tứ tán, phải núp sau mấy tảng đá, hi vọng tụi nó xung phong theo bờ suối thì nhào ra.

Vậy mà chúng chỉ bắn cầm chừng, đến tối, chúng vào giở nhà dân bắt cầu, suốt đêm, sáng hôm sau chúng đi mất tiêu. Coi bộ chúng không thiết đánh nhau, chỉ lo chạy vô phía Nam mà thôi.

Sáng đó tụi tôi cũng thu dọn chiến trường, chôn mấy người chết, băng bó người bị thương rồi cũng di chuyển theo đường núi về hướng Nam. Đến tháng Năm thì tan hàng, ai về nhà nấy.

Tôi về trình diện bọn cộng sản, đi học tập, nghĩa là đi nghe chửi, lao động sản xuất rồi được về nhà. Tôi về đây phụng dưỡng ông bà già. Được năm năm hai ông bà qua đời, tôi vẫn ở đây lo hương khói, chăm nom mồ mả cha mẹ, vợ con cho đến bây giờ.




Ăn xong chúng tôi phụ nhau dọn dẹp chén đũa. Anh đem bình trà và ly ra.

- Trưa nào tôi cũng ra đây làm một giấc. Gió mát lắm !

Tôi nhìn lên đồi, thấy cái gò mối giống hình người ngồi xây lưng về phía chúng tôi.

- Tôi có nghe kể về chuyện cô gái chết nhưng linh thiêng lắm. Anh biết chuyện đó không ?

- Chuyện linh thiêng thì tôi không tin, vì đôi khi chỉ là sự trùng hợp tình cờ. Nhưng chuyện về cô gái đó thì tôi biết rõ. Vì nó xảy ra cùng lúc với vụ đụng độ mà tôi vừa kể cho mấy anh nghe đó.

- Anh có thể kể vắn tắt cho tụi nầy nghe được không ?

- Chuyện chẳng có gì lạ lùng cả. Lúc đụng độ thì cái gò mối chưa cao và to như vậy…

Tôi đoán chừng.

- Sau đó cái gò mới nổi lên giống hình cô gái ngồi nên người ta thêu dệt nên một chuyện linh thiêng, phải không ?

- Cũng gần như thế. Trong toán Nghĩa Quân, có một anh chàng là chồng của cô gái ở nhà nầy, nên ông phó giao cho hai vợ chồng cái chốt đằng kia, canh chừng địch. Coi như vừa làm việc nhà vừa làm việc nước. Hai người mới cưới nhau được có nửa năm.

Anh ta trầm ngâm.

- Cô ta có bầu được ba bốn tháng. Lúc đụng độ, cô ta không ở trên chốt mà ở nhà, ở đây. Cô với cha mẹ nấp dưới hầm nên vẫn bình yên. Sáng hôm sau, sau vụ đụng độ, cả đơn vị, dù và nghĩa quân theo đường núi vào Nam. Anh chàng Nghĩa Quân có hẹn với vợ là sẽ quay lại. Nếu tình hình khó khăn, nguy hiểm thì anh ta sẽ về ban đêm, điểm hẹn là cái gò đó.

Thế nên, khi thành phố bị địch chiếm, làng xã bị kiểm soát, cô ta không hi vọng gặp chồng ban ngày nên buổi tối cô ta thường mang chiếc võng, mùng mền ra ngoài chốt kia ngủ để chờ chồng. Thường thì cô ngủ lại ở đó đến gần trưa mới vô. Cha mẹ thấy cô mang bầu, thương con, cứ để cho cô ngủ, khi nào thức dậy thì vô nhà.

Bữa đó đến chiều, không thấy cô vào, bà mẹ mới ra đánh thức con. Không ngờ ra đến nơi thì chỗ con gái nằm, mối đã đùn lên ngập xác cô, như một nấm mộ. Hai ông bà chưa biết tính sao thì hôm sau, mối phủ cao lên nữa, đành để vậy.

Hôm trước đó, cô gái đã than là trong người khó ở, bị sốt, không chịu ăn uống. Cha mẹ cản ngăn nhưng cô vẫn lên chốt ngủ chờ chồng. Có lẽ cô bị trúng gió hay trở bịnh bất ngờ, không ai cứu giúp nên phải chết, vừa lúc mối đùn gò ngập luôn xác của cô.




- Nhưng nghe nói cô linh thiêng lắm, anh có biết tại sao không?

- Số là một năm sau đó, có chuyện xảy ra dưới quốc lộ, chỗ đường mòn mà mấy anh dẫn xe vô lúc nãy. Chuyện như thế nầy. Một buổi tối, trời mưa to, có chiếc xe khách chạy lên đèo. Vì mưa quá lớn không thấy đường sá gì cả, anh tài xế phải lái rất cẩn thận.

Lúc xe vừa định quẹo cua, đổ đèo thì thấy một chị đàn bà, bụng mang bầu, đi băng qua đường. Anh tài xế hoảng kinh, vội thắng gấp rồi thò đầu ra cửa xe chửi thề chị đàn bà là đui, là ngu. Chị ta không nói năng gì cả, cứ lẳng lặng đi qua rồi khuất trong mưa.

Chửi xong, anh ta cho xe chạy. Nhưnh chưa kịp sang số thì thấy một chiếc xe tải chết máy, nằm lù lù một đống, không đèn đóm, không dấu hiệu gì cả. Nếu không vì chị đàn bà băng qua đường mà phải thắng gấp, anh ta đã cho xe húc vào đít chiếc xe tải chết máy nằm đó rồi, chắc chắn là xe phải rớt xuống đèo.

Thật hú vía! Anh tài xế xuống xe, cứ hướng chị đàn bà đã đi khuất mà vái lạy rối rít. Không hiểu nghe ai kể mà anh tài xế, ít lâu sau, ra kêu người nhờ xây cái miếu chỗ khúc quanh suýt xảy ra tai nạn.

Không may cho anh ta, mới đổ gạch xuống đó thì gặp mấy tên công an xã đi ngang. Họ dừng lại hỏi lý do xây miếu, hỏi giấy phép. Anh tài xế kể lại chuyện xảy ra hôm trước, nhưng chẳng ai tin. Vụ xây miếu bị ngưng. Mấy tên công an kéo nhau lên chỗ gò mối, tên trưởng công an xã láo xược rút súng bắn vào cái mộ để thị uy :

- “ Chết là hết. Không có ma quỉ, thần thánh gì cả. Cái mộ nầy sẽ bị san bằng nay mai” Vì mấy tên đó đi nhậu về, say quá nên khi xuống đồi, xe bị lọt hố, tên trưởng công an xã bị gãy tay. Thế là người ta đồn rầm lên là hắn ta bị “Cô” vật.

- Tôi có đọc một truyện ngắn tương tự. Có lẽ người ta dựa theo đó, cùng với lòng thương cảm cô ta mà thần thánh hóa câu chuyện để người đời truyền tụng.




Anh ta như không để ý lời tôi, kể tiếp.

- Ít lâu sau, anh tài xế được nhắn ra, cho phép tiếp tục xây cái miếu, nhưng không ai dám giúp vì sợ bị bắt. Vừa may gặp tôi, tôi thầu luôn. Xây xong miếu, tôi vào chùa, xin thầy trụ trì viết cho một bài vị bằng chữ nho. Phần trên để mấy chữ thật lớn Anh Hùng, Liệt Nữ. Dưới đó là tên cô gái và tên mấy anh lính chết trận.

Tôi đem đến thợ đá nhờ chạm cho một bia nhỏ để thờ trong miếu. Thành ra, ngày rằm, mồng một, xe cộ ngang qua đấy thường dâng lễ vật, khấn vái, xin “Cô” phù hộ đi đường bình an.

- Bộ anh nhớ hết tên mọi người chết trên đó sao ?

- Nghĩa Quân là đồng đội, cùng đơn vị bao nhiêu năm. Với các anh bên Nhảy Dù, sống với nhau hàng tuần lễ, chỉ cần nghe tiếng nói tôi cũng biết là ai, tên gì. Vả lại phải nhớ tên mấy người đã chết, để sau nầy thân nhân đi tìm mà chỉ cho họ.

Thấy trời đã về chiều, tôi bàn đến chuyện xây mả, anh ta đề nghị.

- Nên xây từ từ, không cho chính quyền biết, hết tiền tôi sẽ ghé nhà quí anh lấy thêm.

- Anh đừng lo, anh cứ tính công vào cho sòng phẳng. Chẳng bao nhiêu mà ngại. Tôi để tiền lại, anh cứ ghé bạn tôi mà lấy.

Tôi nhờ anh ta đưa chúng tôi ra thăm gò mối là mộ của cô gái. Trông không khác bất cứ gò mối nào ở trong rừng, nhưng rất to, kích thước cũng cỡ một ngôi nhà nhỏ. Đứng gần thì không hình dung được, nhưng nếu lùi ra xa, đi vòng phía bên kia, sẽ thấy giống hình một người đàn bà với mái tóc dài, ngực lớn, ngồi xây mặt vô núi. Có một cái nấm nhỏ hơn, giống đứa bé ngồi tựa vào lòng mẹ. Tôi hỏi.

- Trông giống Hòn Vọng Phu, nhưng sao Hòn Vọng Phu nầy lại xây mặt vô núi ?

Anh ta có vẻ đăm chiêu.

- Hai mẹ con chờ người trong núi ra.

Buổi chiều âm u, cảnh vật im lìm, tôi cảm thấy rờn rợn, tưởng chừng cái nấm mộ vĩ đại giống hình người kia cũng có linh hồn, có cảm giác và đang lắng nghe chúng tôi chuyện trò. Tôi nói.

- Đáng lẽ phải đem nhang ra đây…

- Vô nhà cúng cũng được. Trong đó có thờ cô ta.

Khi vào nhà, chúng tôi xin được thắp nén nhang, lễ trước bàn thờ tổ tiên, thân nhân của chủ nhà. Anh ta vén tấm màn che bàn thờ lên và lấy nhang, quẹt diêm đốt, trao cho chúng tôi.




Tôi thấy trên bàn thờ có để hình hai người lớn tuổi, có lẽ là cha mẹ anh ta. Phía trước là hình một cô gái, diện mạo bình thường, hơi mập, mặt tròn, nụ cười hiền lành, chất phác. Cạnh hình cô ta là hình một người thanh niên.

- Có phải hình thờ bên cạnh là chồng cô ta không ?

- Đúng rồi! Vợ chồng phải thờ bên nhau cho có đôi.

Tôi nhìn hình người đàn ông, thấy ngờ ngợ như gặp ở đâu ? Nghĩ mãi một lúc, quay nhìn anh ta… hóa ra là hình của chính anh.

- Ủa, anh chưa chết mà sao lại thờ, hay là hình người khác ?

- Hình của tôi đó ! Cô ta là vợ tôi. Khi cô ấy mất, tôi về đây phụng dưỡng cha mẹ vợ.

- Nhưng sao anh lại thờ chính mình ?

Anh cười buồn, đôi mắt xa xăm.

- Khi trong trại tù khổ sai của bọn cộng sản, tên cán bộ nói rằng nước Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa. Tối đó, tôi nằm khóc suốt một đêm. Tôi biết, thế là hết. Đất nước tôi, quê hương, bản quán của tôi đã bị bọn chúng chiếm mất rồi. Chúng tôi sẽ bị kiểm soát, theo dõi như những người tù.

Bạn bè, đồng đội, đứa nào cũng buồn, không muốn gặp mặt nhau ! Tôi như người lính duy nhất còn sống sót, lang thang giữa một vùng quen thuộc nhưng không còn nơi để trở về.

Cảm tưởng rõ rệt nhất là khi tôi đứng trước quận hành chánh nhìn vào. Quận đường vẫn nguyên vẹn, vọng gác trước cổng, nơi tôi thường ngồi gác vẫn còn đó, nhưng tôi không còn quyền yêu thương nơi đó nữa. Tôi đã bị xua đuổi khỏi quê hương tôi.

Tôi sống một mình ở đây nhưng lại cảm thấy được gần gũi với bao người thân yêu chung quanh. Thỉnh thoảng tôi ra ngồi tâm sự với vợ con tôi ở gò mả ngoài kia. Khi thì tôi qua bên kia đồi, cạnh các ngôi mộ, chuyện trò với đồng đội nằm dưới đó.





Tôi nghe được, hiểu được những gì các bạn nói với tôi. Tôi nghe cả tiếng cười đùa của họ, nghe cả tiếng lách cách của súng đạn va chạm nhau, ngửi được cái mùi lính, mùi quen thuộc của mồ hôi thấm vào áo trận. Tôi ngồi đó để cảm thấy được an toàn đồng đội như những lúc hành quân, những ngày đóng chốt cũng như khi đụng độ với giặc.

Tôi ngồi đó để tưởng nhớ nước Việt Nam Cộng Hòa thân yêu của tôi.
Tôi để hình tôi trên bàn thờ là coi như mình đã chết theo với nước Việt Nam Cộng Hòa của tôi.

Tôi chỉ sống lây lất, lo nhang khói cho đồng đội, cho cha mẹï, vợ con. Khi nào thực sự nhắm mắt thì tôi đã có sẵn cái huyệt mộ, gần vợ con tôi, ngoài kia.

(Sài Gòn trong tôi/ PTC-NET)


hoathienly19_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	VNCH.jpg
Views:	0
Size:	220.0 KB
ID:	1672012  
The Following 3 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
hoanglan22 (10-19-2020), huudangdo1 (10-17-2020), phokhuya (10-17-2020)
Reply

User Tag List



 
Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px

VietBF Homepage Autoscroll

VietBF Video Autoscroll Portal

USA News Autoscroll Portall

VietBF WORLD Autoscroll Portal

Home Classic

Super Widescreen

Tin nóng nhất 24h qua

Tin nóng nhất 3 ngày qua

Tin nóng nhất 7 ngày qua

Tin nóng nhất 30 ngày qua

Albums

Total Videos Online
Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px

Tranh luận sôi nổi nhất 7 ngày qua

Tranh luận sôi nổi nhất 14 ngày qua

Tranh luận sôi nổi nhất 30 ngày qua

10.000 Tin mới nhất

Tin tức Hoa Kỳ

Tin tức Công nghệ
Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px

Super News

School Cooking Traveling Portal

Enter Portal

Series Shows and Movies Online

SERIES ONLINE 1

Donation Ủng hộ $3 cho VietBF
Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.

Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px

All times are GMT. The time now is 08:51.
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.
Log Out Unregistered

Page generated in 0.24998 seconds with 13 queries