| R8 Vơ Lâm Chí Tôn 
				 
				Join Date: Jun 2009 Location: US 
					Posts: 17,796
				 Thanks: 0 
		
			
				Thanked 0 Times in 0 Posts
			
		
	 Mentioned: 0 Post(s) Tagged: 0 Thread(s) Quoted: 0 Post(s) 
				
				
  
    Rep Power: 34      | 
			
			Nhu cầu lớn trong nước cùng với những bất ổn tại  các vựa dầu lớn thế giới đang làm gia tăng áp lực với Trung Quốc, khiến  đất nước tỷ dân này sốt sắng tăng cường đẩy nhanh các chiến lược phát  triển dầu mỏ của ḿnh.
 Dự báo, trong năm 2011, tiêu thụ dầu của Trung Quốc sẽ chiếm một phần ba tăng trưởng nhu cầu nhiên liệu thế giới.
 
 Năm 2010 lượng dầu thô sử dụng thực tế của Trung Quốc là 439 triệu tấn,  tăng 13,1% và đây là lần đầu tiên lượng dầu thô sử dụng thực tế vượt qua  mốc 400 triệu tấn, tốc độ tăng cũng lập kỷ lục mới kể từ năm 2005 đến  nay. 55% trong số đó, tương đương 260 triệu tấn, Trung Quốc phải nhập  khẩu nhập khẩu.
 
 Hồi tháng 3, cựu Chủ tịch Tập đoàn Dầu mỏ quốc gia Trung Quốc Trần Canh -  hiện là đại biểu Quốc hội - đă lên tiếng cảnh báo rằng dự trữ xăng dầu  chiến lược của quốc gia này đang ở mức rất thấp. “Nguồn dự trữ chỉ đủ  dùng trong mươi mười lăm ngày một khi có cuộc khủng hoảng về nguồn cung  xảy ra”.
 
 Trong bối cảnh khu vực Bắc Phi và Trung Đông có nhiều bất ổn th́ nguồn  cung dầu mỏ cho Trung Quốc đang bị đe dọa. “Tôi lo ngại rằng những bất  ổn ở Bắc Phi và Trung Đông sẽ ảnh hưởng tới nhập khẩu dầu mỏ của Trung  Quốc. Nếu bất ổn kéo dài hơn nửa năm th́ Trung Quốc sẽ hứng chịu nhiều  tổn thất”, ông Canh nói.
 
 Năm 2009, Trung Quốc c̣n vượt qua Mỹ trở thành nước nhập khẩu dầu mỏ  Ảrập lớn nhất, khiến dầu thô Ảrập trở thành nhân tố ngày càng quan trọng  thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Trung Quốc.
 
 Theo Cục t́nh báo năng lượng Mỹ (EIA), bất chấp Trung Quốc đă nỗ lực hết  sức để đa dạng hóa nguồn dầu thô, nhưng phần lớn số dầu thô nhập khẩu  cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đều xuất phát  từ Ảrập. Trung Đông cung ứng khoảng 2,9 triệu thùng mỗi ngày cho Trung  Quốc, chiếm hơn một nửa tổng số lượng nhập khẩu dầu của Trung Quốc,  trong đó lượng cung ứng của Ảrập đạt xấp xỉ 1,1 triệu thùng mỗi ngày.
 
 Nếu xung đột xảy ra giữa Mỹ, phương Tây và Iran, Trung Quốc sẽ phải đối  mặt với một thách thức lớn v́ các nguồn cung cấp dầu lửa từ vùng Vịnh  qua eo biển Hormuz - tuyến đường biển độc nhất ra vào vùng Vịnh - có thể  bị đe dọa. Bộ Quốc pḥng Mỹ dự đoán lượng dầu Trung Quốc phải nhập khẩu  sẽ tiếp tục tăng cao, đến 2015 có thể chiếm hai phần ba nhu cầu và con  số của năm 2030 là bốn phần năm nhu cầu. Từ năm 2007, Trung Quốc cũng  bắt đầu nhập khí đốt sau gần hai thập kỷ tự túc.
 
 Sốt sắng t́m nguồn dầu mỏ mới
 
 Nhu cầu trong nước ngày càng gia tăng cùng với những bất ổn tại các nước  xuất khẩu dầu lớn khiến Trung Quốc sốt sắng t́m kiếm các nguồn cung ứng  dầu mỏ khác. Cơn khát dầu khí để phục vụ phát triển nền kinh tế đang  nóng này là một trong những nguyên nhân khiến nước này ngày càng t́m  cách gây ảnh hưởng ra bên ngoài, nhắm đến những nơi có nguồn tài nguyên  này.
 
 Thời gian gần đây, Trung Quốc tiếp tục tăng cường các hoạt động thăm ḍ  dầu mỏ ở biển Đông. Các hoạt động này nằm trong chiến lược lâu dài của  chính quyền Bắc Kinh là thâu tóm gần như toàn bộ vùng biển này, nhằm  kiểm soát một trong những tuyến hàng hải nhộn nhịp nhất thế giới cũng  như độc chiếm nguồn lợi về hải sản và dầu mỏ, đồng thời gia tăng ảnh  hưởng xuống khu vực Đông Nam Á và Thái B́nh Dương.
 
 Theo ước tính, biển Đông được xác định có trữ lượng dầu mỏ khoảng 7,7 tỷ  thùng dầu, trữ lượng khí đốt khoảng 266 ngh́n tỷ feet khối. Thời báo  Hoàn cầu của Trung Quốc mới đây khẳng định Biển Đông có trữ lượng 50 tỷ  tấn dầu thô, hơn 20.000 tỷ mét khối khí đốt, gấp 25 lần trữ lượng dầu và  8 lần trữ lượng khí đốt hiện có của nước này.
 
 Mặt khác, Trung Quốc tích cực triển khai các dự án năng lượng ở Biển  Đông. Mạng Jamestown Foundation (Mỹ) cho biết để giảm bớt sự phụ thuộc  vào nguồn dầu lửa nhập khẩu từ các khu vực bất ổn ở Trung Đông và châu  Phi, giới hoạch định chính sách Trung Quốc đă đề nghị chính phủ từ nay  đến năm 2020 triển khai các dự án thăm ḍ và khai thác năng lượng trị  giá 30 tỷ USD ở Biển Đông.
 
 Cuối năm 2010, Công ty Dầu lửa Ngoài khơi Quốc gia Trung Quốc (CNOOC)  trực thuộc nhà nước và đối tác nước ngoài của công ty này là BG Group  PLC (trước kia là công ty Khí đốt của Anh) thông báo liên doanh này đă  t́m thấy cát chứa khí đốt trong lúc khoan thăm ḍ lần đầu tiên ở vịnh  Qiongdongnan, sâu gần 1.400 m, ở phía nam đảo Hải Nam. Zhu Weilin, Phó  Chủ tịch Điều hành CNOOC, cho biết công ty này “rất lạc quan trước những  kết quả ban đầu. Kết quả đó sẽ củng cố hơn nữa niềm tin của công ty  trong việc thăm ḍ các khu vực nước sâu.”
 
 Ở phía đông bắc, CNOOC và đối tác Husky Energy Inc (Canada) sẽ bắt đầu  triển khai dự án khai thác vào năm 2013 sau khi phát hiện lượng khí đốt  lớn ở độ sâu 3.000m so với mặt biển ở ngoài khơi Trung Quốc. Khu vực khí  đốt lớn nhất của Trung Quốc trên Biển Đông là nguồn năng lượng chủ yếu  phục vụ các trạm phát điện của Hong Kong và mỗi năm sản xuất khoảng 124  tỷ feet khối khí đốt. Đây là dự án đầu tư chung giữa tập đoàn BP, CNOOC  và công ty Thăm ḍ khai thác Dầu lửa Nước ngoài của Kuwait.
 
 Sau khi sản xuất nhiều thiết bị thăm ḍ, khai thác và có kinh nghiệm  trong việc khoan dầu dưới biển, Trung Quốc dự định sẽ thúc đẩy các dự án  t́m kiếm, thăm ḍ, khai thác dầu lửa và khí đốt trên Biển Đông, nơi  Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei đều tuyên bố chủ quyền và kiểm  soát các nguồn dự trữ khí đốt và dầu lửa.
 
 Zhou Dadi, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu năng lượng thuộc Ủy ban  Cải cách và phát triển quốc gia Trung Quốc, cho biết biển Hoa Đông và  Biển Đông là hai khu vực có tiềm năng về khai thác dầu khí biển sâu và  sẽ đóng vai tṛ rất lớn trong việc cung cấp và đảm bảo an ninh năng  lượng cho đất nước.
 
 Tăng cường năng lực khai thác
 
 
  
 Giàn khoan 981 được Trung Quốc kỳ vọng giúp tăng năng lực khai thác ở biển Đông.
Từ kế hoạch năm năm lần thứ 11 (năm 2005-2010), Trung Quốc đă thúc đẩy  phát triển chiến lược khai thác dầu mỏ ở khu vực biển sâu. Sau 6 năm sản  xuất, Vào ngày 23/5, Trung Quốc đă cho hạ thủy giàn khoan dầu lớn và  hiện đại nhất của ḿnh tại Thượng Hải.
 
 Trong hai ngày 23 và 24/5, CNOOC đă công bố và đặt tên cho giàn khoan  này là Dầu khí Hải Dương 981 và con tàu rải đường ống là Dầu khí Hải  Dương 201 với tổng chi phí chế tạo 6 tỷ nhân dân tệ, tương đương hơn  19.000 tỷ đồng.
 
 Ngày 26/5, tám tàu lai dắt và bốn tàu tuần tra biển đă hộ tống giàn  khoan Dầu mỏ Hải Dương 981 ra đảo Châu Sơn để hiệu chỉnh. Tháng 8 năm  nay, dự kiến giàn khoan 981 sẽ chính thức được bàn giao.
 
 Đây là giàn khoan kiểu nửa ch́m hoạt động ở độ sâu tối đa 3.000 mét, độ  sâu giếng khoan tối đa 12.000 mét, thuộc thế hệ thứ sáu trên thế giới và  là giàn khoan cấp siêu sâu đầu tiên do Trung Quốc sản xuất. Trên thế  giới chỉ có khoảng 20 giàn khoan hoạt động ở độ sâu 3.000 m. Trung Quốc  lâu nay chỉ có giàn khoan hoạt động được ở các vùng biển sâu 500 mét.
 
 Giàn khoan dài hơn 650 mét, gồm năm tầng cao 136 mét (tương đương ṭa  nhà 45 tầng), được thiết kế chống băo cấp 10. Diện tích boong tương  đương sân vận động đúng tiêu chuẩn. Giàn khoan có đầy đủ hệ thống phục  vụ cho 160 công nhân làm việc và nghỉ ngơi.
 
 Trong ngày hạ thủy giàn khoan 981, Tổng công ty Dầu mỏ Hải Dương Trung  Quốc đă công bố 19 khu vực trên biển Đông sẽ hợp tác với nước ngoài thăm  ḍ và khai thác, trong đó có sáu khu vực ở biển sâu, ba khu vực ở phía  tây và ba khu vực ở phía đông biển Đông.
 
 Giàn khoan nước sâu được giới truyền thông Trung Quốc ví von "tàu sân  bay" này sẽ được kéo ra biển Hoa Đông thử nghiệm trước, sau đó mới kéo  ra vùng biển Đông để khai thác dầu khí. Châu Thủ Vi, Phó giám đốc tập  đoàn dầu khí Hải Dương Trung Quốc cho biết tham vọng của Bắc Kinh trong  chiến lược năng lượng, dầu mỏ: "Không chỉ tại biển Đông, mà ở tất cả các  vùng biển nước sâu trên thế giới Trung Quốc cũng cần có phần.”
 
 Con "tàu sân bay" dầu khí này của Trung Quốc ước tính cho thuê theo giá  hiện hành cũng được 1-1,5 triệu USD một ngày ngày bởi cả thế giới hiện  nay mới chỉ có 20 dàn khoan có thể tác nghiệp ở độ sâu 3.000 mét.
 
 
 Tuyến Nguyễn tổng hợpVNE
 
 |