Hồi tưởng tai nạn ḷ phản ứng hạt nhân Chernobyl tại  Liên Xô (cũ). Xảy ra cách đây tṛn 25 năm, ngày 26-4-1986, PV Tiền Phong  có cuộc trao đổi với TS. Tô Lệ Hằng (ảnh), cựu chuyên viên Viện Bảo  vệ&An toàn Hạt nhân Pháp, về một khía cạnh rất mới – Văn hóa An toàn  Hạt nhân.   
                             |          
                      | Tượng đài những đụn nấm phóng xạ.  |          
      
  
Không nên hoảng hốt
 Thưa bà, đánh dấu 25 năm xảy ra thảm họa Chernobyl, điều khiến bà suy nghĩ nhất là ǵ?
 TS Tô Lệ Hằng: Mặc dù nhiều cải tiến  dựa trên các bài học từ Chernobyl đă được thực hiện trong thế giới hạt  nhân từ 25 năm nay, thảm hoạ này vẫn mang đến cho các quốc gia bắt đầu  xây dựng điện hạt nhân nhiều lư do và đề tài để nghiên cứu. Tôi nghĩ về  cái gọi là Văn hóa An toàn.
 Một lĩnh vực đầy yếu tố kỹ thuật cao, đề cập văn hóa liệu có khiên cưỡng?
 Kỹ thuật càng phát triển mà thiếu nền tảng văn hóa th́  kỹ thuật đó sẽ giáng trả lại con người. Không phải ngẫu nhiên, các cường  quốc công nghệ ngày càng chú trọng bồi đắp và củng cố văn hóa để họ có  thể đạt được các đỉnh cao khoa học mới. 
 Phải chăng, có điều ǵ cần khuyến nghị, thưa bà?
 “Văn Hóa An Toàn” không phải là cụm từ do tôi nghĩ ra  mà là một thuật ngữ quốc tế. Thuật ngữ ấy là đầu đề của một văn bản quốc  tế do Cơ quan Năng Lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) lập vào năm 1991,  đúng năm năm sau thảm họa Chernobyl. Điều đáng chú ư là văn bản ấy, cùng  hàng loạt văn bản khác, hoàn toàn không phải là lời kêu gọi e ngại điện  hạt nhân mà là các bài học để cải tổ. 
 Sao không nói một cách đơn giản là rút kinh nghiệm?
 Nếu chỉ đơn thuần rút kinh nghiệm, thường dễ đổ lỗi cho  công nghệ. Song bài học lớn nhất ở Chernobyl không phải ở chỗ nó giúp  chỉ ra các khiếm khuyết kỹ thuật mà là lỗ hổng về văn hóa hay, nói một  cách cụ thể là, Văn hóa An toàn. 
 Văn hóa An toàn phải được học ngay từ trước khi lên kế hoạch xây dựng, từ trước khi chọn công nghệ hay địa điểm. 
 Do tính chất nguy hiểm của tai nạn, nhà máy điện hạt  nhân Fukushima ngày 11-3 vừa qua được liệt vào nấc thang 7 cao nhất,  ngang với tai nạn Chernobyl. Song có lẽ nhờ có Văn hóa An toàn, về cơ  bản, Nhật Bản không bị thiệt hại nhân mạng thê thảm như Chernobyl. Cần  phải khẳng định: Đừng v́ tai nạn Fukushima mà hốt hoảng, mà vơ đũa cả  nắm, để rồi khăng khăng quay lưng với công nghệ điện hạt nhân.
 Đương nhiên, thành thật mà nói, phải chờ tai nạn  Fukushima kết thúc, mới có thể công bố chính xác diễn biến của tai nạn  cùng với lư do việc xử lư của Nhật Bản trong mỗi giai đoạn. 
 Lúc đó, các chuyên gia Nhật (và cộng đồng điện hạt  nhân) mới rút được bài học kinh nghiệm để nhận định những sơ suất (nếu  có) và cải tiến vấn đề an toàn của nhà máy điện hạt nhân, nhất là trên  phương diện chống cự với các thiên tai dồn dập và có cường độ lớn. Văn  hóa An toàn sau sự kiện Fukushima chắc sẽ được điều chỉnh và tiếp tục  hoàn thiện.
  
                             |          
                      | Trạm kiểm soát cách ḷ số 4 30 km, người không phận sự miễn vào.  |          
      
  
Trước Chernobyl, chưa có Văn hóa an toàn hạt nhân
 Ư bà muốn nói sự cố Chernobyl là do Văn hóa An toàn chưa được coi trọng ?
 Tuyệt đối xin bỏ hai chữ “Sự cố” khi đề cập đến vụ  Chernobyl, kể cả khi đề cập đến các vụ Fukushima ở Nhật mới đây cũng như  vụ Three Mile Island ở Mỹ hơn 30 năm trước. 
 Trong Thang Sự kiện Hạt nhân Quốc tế (viết tắt tiếng  Anh là INES) dùng để chỉ mức độ nghiêm trọng của các sự việc bất ngờ xẩy  ra trong các cơ sở hạt nhân hiện nay, có tất cả bảy nấc. Từ nấc 1 (thấp  nhất) - sự việc bất thường “vượt ra khỏi điều kiện cho phép vận hành”,  cho đến nấc 7 - khi có “lan thải phóng xạ nguy hại đến sức khỏe và môi  trường”. 
 Trong khi chờ đợi một cơ quan chính thức của Việt Nam thống nhất danh từ điện hạt nhân, TS Vũ Hải Long và tôi (trong cuốn Thuật ngữ Công nghệ Điện Hạt nhân năm 2008) đă chọn lối gọi quốc tế sau đây để phân biệt các nấc đó. Nấc 1 là sự cố; các nấc 2 và 3 là trục trặc. Từ nấc thứ 4 trở lên phải gọi là tai nạn bởi đă gây thiệt hại lớn về người và vật chất rồi.
 Trở lại câu chuyện Văn hóa An toàn, bài học đau xót  nhất ở chỗ đó chứ không phải v́ công nghệ.  Công nghệ Chernobyl thiếu an  toàn là một chuyện. Nhưng v́ không có Văn hóa An toàn nên tất cả các cơ  hội để khắc phục sự thiếu an toàn của ḷ phản ứng trước khi xảy ra thảm  họa đều bị bỏ qua.
 Nhà nước Xô Viết năm năm sau thảm họa đă công nhận điều  này. Bằng chứng, đến năm 1991, Ủy ban Nhà nước về An toàn Hạt nhân của  Liên Xô tuyên bố về các lỗi trong thiết kế của Chernobyl 4 và của các ḷ  phản ứng RBMK (*) nói chung.
 Ủy ban nhận định mức độ nghiêm trọng của vụ tai nạn là  do sự “thiếu hiểu biết” của cấp lănh đạo khoa học về khiếm khuyết trong  công nghệ mà trước đó họ không thừa nhận, mà cụ thể là về hiệu ứng của  chuẩn độ hơi nước trên độ phản ứng trong tâm ḷ. Các nhà vận hành khai  thác ḷ phản ứng bị kết án tù trước đó, nhờ sự thừa nhận này của cấp  trên, đă được xóa án.
 Bà có thể nói cụ thể hơn về ví dụ này?
 Trước đó, khoảng tháng 8-1986, tại một cuộc họp đặc  biệt của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), đại diện Liên Xô  ông Legassov cung cấp thông tin đầu tiên về tai nạn. Chủ yếu ông đổ tội  cho các lỗi lầm về vận hành khai thác như không tuân thủ điều kiện hoạt  động dự kiến và vi phạm các quy tắc an toàn. Giám đốc Nhà máy và Kỹ sư  Trưởng Pḥng Điều khiển đă bị kết án và phạt tù.
  
                             |          
                      TS Tô Lệ Hằng, cựu chuyên viên Viện Bảo vệ & An toàn 
            Hạt nhân Pháp  |          
      
  
Thiếu Văn hóa an toàn điện hạt nhân, phân tích điển h́nh 
 T́nh h́nh hồi đó thế nào, thưa bà?
 Thiếu Văn hóa An toàn hạt nhân đă xảy ra ở cả cấp quốc gia lẫn địa phương. Ở cấp độ địa phương,  có thể kể đến ba nguyên nhân chính như các liên quan của thử nghiệm với  vấn đề an toàn không được khảo sát trước bởi nhóm an toàn tại nhà máy;  cơ quan quyết định ít có hiệu lực và không đủ khả năng để chống lại các  áp lực chỉ có lợi cho sản xuất điện năng; và sự thiếu hiểu biết của nhân  viên khai thác về các vấn đề an toàn của nhà máy.
 Ở cấp độ quốc gia, có thể chỉ ra năm nguyên nhân chính. Thứ nhất,  đă xảy ra t́nh trạng nghiên cứu nghèo nàn về an toàn, rất ít khảo sát  vật lư ḷ phản ứng liên quan đến cách hoạt động của ḷ phản ứng. Thứ hai, chất lượng thấp của các phương thức và chỉ thị đă đặt nhóm khai thác trước các suy diễn khó khăn.
  Thứ ba, trong nhiều năm, Bộ Năng lượng của  Liên Xô đă để cho khai thác các ḷ phản ứng RBMK với các bất ổn định vật  lư neutron, không để ư đến các tín hiệu bất thường và để lặp đi lặp lại  các bất thường đó từ các hệ an toàn trở đi. Họ cũng không đ̣i hỏi mở  rộng điều tra ở các t́nh trạng khẩn cấp.
 Thứ tư, trao đổi thông tin quan trọng về an  toàn không thích đáng và vô hiệu quả giữa các nhà khai thác với nhau,  cũng như giữa các nhà khai thác với nhà thiết kế. Chẳng hạn, hiệu ứng dương đă được quan sát vào năm 1983 ở một nhà máy điện hạt nhân khác tên là Ignalina của Liên Xô hồi đó. 
 Hiệu ứng dương là hiện tượng các thanh điều khiển khi  rơi xuống đáng lẽ để dập tắt ḷ th́, do có than graphite ở ngay phía  đầu, lại làm chậm neutron và làm tăng phản ứng dây chuyền hạt nhân, dẫn  đến làm nổ ḷ.
 Văn pḥng khảo cứu của các ḷ phản ứng RBMK từng truyền  tin cho các nhà máy khác và chỉ ra rằng thiết kế này sẽ được sửa đổi để  giải quyết vấn đề. Tuy vậy, văn pḥng này không thay đổi thiết kế như  đă hứa. Các đề nghị sửa đổi phương thức khai thác nhà máy không được  thông qua. Họ không tin vào hậu quả nghiêm trọng do tăng độ phản ứng khi  thanh điều khiển rơi vào tâm ḷ. Cuối cùng, điều này đă xảy ra, dẫn đến  tai nạn ở Chernobyl 4.
 Thứ năm, người ta đă bỏ qua các phản hồi kinh  nghiệm. Một tai nạn vào năm 1975 tại Leningrad 1 (được coi như là tiền  thân của Chernobyl 4) và một trục trặc nứt vỏ thanh nhiên liệu ở  Chernobyl 1 vào năm 1982 cho thấy nhiều điểm yếu nghiêm trọng trong các  đặc trưng và vận hành của các ḷ RBMK. Nhưng các bài học này đă được giữ  kín.
 
(C̣n nữa)
 Quốc Dũng (thực hiện)
 ______
  (*) Chữ viết tắt tên kiểu ḷ phản ứng của Nga.  Loại ḷ RBMK có đặc điểm Uranium được làm giàu ít, làm giàu chậm neutron  bằng than graphite, tải nhiệt bởi nước sôi trong ống nhiên liệu.