Một loại kư sinh trùng có khả năng 'kiểm soát tâm trí'. Mới đây được phát hiện lan tới ḥn đảo Oahu ở Hawaii. Loài kư sinh trùng này có thể khiến chuột tự t́m đến mèo.

Toxoplasma gondii trước đây chưa từng xuất hiện trên quần đảo Hawaii, vậy bằng cách nào mà chúng đến được Oahu? Trưởng nhóm nghiên cứu Grant Sizemore, chuyên gia về động vật xâm lấn từ Tổ chức Bảo tồn Chim ở Mỹ, giải thích loài kư sinh trùng truyền nhiễm này có thể đă "quá giang" trên những con mèo nhà - vật chủ duy nhất mà chúng có thể sinh sản hữu tính bên trong.
Mặc dù vậy, mèo không thực sự đáng trách bởi con người mới chính là nguyên nhân sâu xa khiến T. gondii lây lan tới Oahu. Những cư dân tại đây đă mang mèo từ nơi khác tới ḥn đảo. Một số con trong đó có thể đă đi lạc hoặc bị bỏ rơi, và sinh sôi nảy nở tạo thành quần thể mèo hoang. Cộng đồng mèo này đang đe dọa các loài động vật hoang dă bản địa do là nguồn lây lan kư sinh trùng.
T. gondii có thể lây truyền từ mèo sang hầu hết động vật máu nóng, kể cả con người, thông qua đường phân. Khi các tế bào trứng xâm nhập vào vật chủ mới, chúng phát triển thành các bào tử nhanh (tachyzoite), với khả năng sao chép mạnh đến mức lấn át hệ miễn dịch của vật chủ và gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.
Ở chuột, T. gondii có thể kiểm soát hành vi của vật chủ, khiến loài gặm nhấm sợ mèo này tự t́m đến kẻ săn mồi. Đó chính xác là những ǵ T. gondii muốn, bởi khi mèo ăn chuột bị nhiễm bệnh, các bào tử có cơ hội sinh sản hữu tính để hoàn thành ṿng đời.
Nhóm nghiên cứu đă tiến hành khảo sát mèo hoang trên khắp Oahu và phát hiện tới 32 địa điểm công cộng có sự hiện diện của T. gondii. Số lượng mèo chính xác trên đảo không được ghi nhận nhưng theo Sizemore, trung b́nh có khoảng 23 con ở mỗi địa điểm.
"Tỷ lệ cao mẫu phân mèo chứa tế bào trứng của T. gondii cho thấy loài kư sinh trùng này đang lây lan mạnh tại các công viên và khu vực lân cận. Điều đáng lo ngại là chúng có thể truyền từ mèo sang hầu hết động vật máu nóng, trong cả hệ sinh thái trên cạn, nước ngọt hay nước biển", Sizemore cảnh báo.
Phát hiện của nhóm nghiên cứu được công bố hôm 9/4 trên tạp chí Conservation Science and Practice.