BẢN TUYÊN NGÔN CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG H̉A HỒ CHÍ MINH
Hoàn cảnh được công bố
Bản tuyên ngôn này đă được Hồ Chí Minh một ḿnh soạn thảo, một ḿnh đứng tên và đọc tại Quảng Trường Ba Đ́nh ở Hà Nội vào buổi chiều ngày 2 tháng Chín năm 1945, ngót năm tháng sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, hơn hai tuần lễ sau khi Nhật Bản đầu hàng, mười ba ngày sau khi Việt Minh cướp được chính quyền ở Hà Nội và hai ngày sau khi Bảo Đại chính thức thoái vị. V́ được công bố sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, sau khi người Nhật đă đầu hàng cũng như chế độ bảo hộ của người Pháp đă bị người Nhật lật đổ trước đó, bản tuyên ngôn này đă bị nhiều người cho là thừa, không cần thiết, chưa kể tới sự kiện là chính phủ mới do Hồ Chí Minh thành lập là kế vị chính phủ Nam Triều do Bảo Đại thoái vị nhường cho dựa theo chiếu thoái vị của Bảo Đại. Chiếu này đă được Hồ Chí Minh và chính phủ mới của ông chấp nhận.
Chính Phủ Lâm Thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa trong những điều kiện này đương nhiên kế tục những ǵ Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim đă làm trước đó, trong đó có Bản Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 11 tháng 3 năm 1945. Lập luận như vậy là hoàn toàn hợp lư đứng trên phương diện công pháp quốc tế. Một lập luận đơn giản và hoàn toàn dễ hiểu. Câu hỏi được đặt ra là Hồ Chí Minh, và những cộng sự viên của ông, khi đưa ra bản tuyên ngôn của ḿnh có biết là trước đó Bảo Đại đă làm công việc này rồi hay không? và biết như vậy tại sao ông lại c̣n làm lại việc đó một lần nữa? Cho câu hỏi thứ nhất, câu trả lời là chắc chắn có; Hồ Chí Minh chắn phải biết là Bảo Đại trước đó đă tuyên cáo hủy bỏ ḥa ước bảo hộ 1884 rồi. Nhưng ông vẫn làm lại công việc này v́ ông có nhu cầu phải làm. Những nhu cầu đó là những nhu cầu ǵ? Thứ nhất là v́ từ lâu toàn dân ai nấy đếu khao khát được thấy nước nhà độc lập, đúng như Bảo Đại đă viết trong hồi kư của ông, độc lập là ước mơ của mọi người dân Việt [9], cũng như nó được phản ảnh ở khắp nước ngay trước và sau ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Nói tới độc lập vào lúc đó là gơ đúng tần số của bất cứ một người dân Việt Nam nào từ đó đem lại công lao và thanh thế cho người chính thức công bố ra điều đó. Thứ hai là cho tới ngày 2 tháng 9 năm 1945, cái tên Hồ Chí Minh hoàn toàn xa lạ ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Vơ Nguyên Giáp, một trong những cộng sự viên thân cận nhất của Hồ Chí Minh trong thời gian này, đă viết trong hồi kư của ḿnh rằng:
“Ba tiếng HỒ CHÍ MINH không bao lâu đă vang đi khắp thế giới với những truyền thuyết mà người ta thường dành cho các bậc vĩ nhân. Nhưng vào ngày hôm ấy, cái tên mới của Bác vẫn c̣n mới lạ với nhiều đồng bào. Số người biết Bác chính là đồng chí Nguyễn Ái Quốc khi đó không nhiều.”[10]
Ngay vua Bảo Đại ngày 23 tháng 8 năm 1945, khi nhận được điện tín của của các ông Nguyễn Xiển, Nguyên Văn Huyên, Ngụy Như Kon-Tum và Hồ Hữu Tường nhân danh Ủy Ban Nhân Dân Cách mạng, yêu cầu nhà vua thoái vị nhường quyền lănh đạo quốc gia cho Chính Phủ Nhân Dân Cách mạng với chủ tịch là “Cụ Hồ Chí Minh” đă không biết Hồ Chí Minh là ai. C̣n Phạm Khắc Ḥe, người được Việt Minh gài vào cạnh nhà vua cũng không biết nốt, phải chạy đi hỏi Tôn Quang Phiệt, một đảng viên Cộng Sản, rồi Đào Duy Anh nhưng Tôn Quang Phiệt đi vắng và Đào Duy Anh lục lọi, truy t́m các tài liệu, sách vở ông có nhưng cũng không ra tên này. Cuối cùng Vũ Văn Hiền, ở Bắc về mới xác nhận Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc.[11]
Tuyên bố Việt Nam độc lập đối với Hồ Chi Minh vào thời điểm này do đó là cách tự giới thiệu ḿnh tốt nhất và hữu hiệu nhất vói toàn thể đồng bào và để được nh́n và được chấp nhận như là lănh tụ đầu tiên đă mang lại được độc lập cho tổ quốc và cho toàn dân Việt Nam, một nhu cầu tối cần thiết, dầu rằng nền độc lập này hoàn toàn không phải do ông hay do Mặt Trận Việt Minh tạo ra mà là do những biến cố khác của lịch sử, trong đó quan trọng nhất là Đảo Chính 9 tháng Ba năm 1945, trong đó người Nhật đă loại bỏ người Pháp, kèm theo là bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoàng Đế Bảo Đại nói trên, và cuối cùng là sự bại trận sau này của người Nhật. Chúng ta cũng cần để ư là đối với đa số người Việt Nam thời đó, ngày 2 tháng 9 là Ngày Độc Lập, đúng như Nguyễn Hữu Đang, người được Hồ Chí Minh chỉ định tổ chức ngày này, gọi qua các văn thư chính thức ông đă gửi cho các cơ quan liên hệ, trong đó có thư gửi cho Thị Trưởng Hà Nội [12] và theo b́a in bản tuyên ngôn của bản đầu tiên năm 1945, do Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Hồ Chí Minh đọc trong Ngày Độc Lập”[13].
Nhưng đối với Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 c̣n có một ư nghĩa quan trọng hơn nữa. Đó là “ngày khép lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng ḥa”, theo lời ông nói với Nguyễn Hữu Đang, “Chú phải nhớ…[14] Tại sao vậy? Tại v́ Hồ Chí Minh phải làm chuyện này trước khi quân Đồng Minh kéo vô Việt Nam, đặc biệt là thủ đô Hà Nội, nhằm đặt họ trước một sự đă rồi, không thể đảo ngược đươc.. Sự kiện vua Bảo Đại thoái vị được nhắc tới và câu “Toàn dân Việt Nam, trên dưới một ḷng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp” là nhằm vào mục tiêu này. Một lư do khác cũng được người ta nhắc tới là cho măi đến ngày 2 tháng 9 năm 1945 nên độc lập của nước Việt Nam mới thực sự là hoàn toàn. Lư do này tuy nhiên cũng c̣n cần phải được xét lại v́ nó không hoàn toàn đơn giản ở thời điểm này và các thời điểm sau đó. Những lư do lien hệ tới nhu cầu của cá nhân Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản đương thời vẫn là chính.
Nội dung bản Tuyên Ngôn
Bản Tuyên Ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, v́ được phổ biến rộng răi và hầu như được coi là duy nhất gắn liền với ngày 2 tháng 9, ngày Quốc Khánh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa rồi Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nên đă được nhiều người đọc, phân tích và t́m hiểu. Trong phần này người viết chỉ nêu lên những ǵ ít được mọi người nhắc hay để ư đến mà thôi.
Trong khi Tuyên Cáo của Bảo Đại đơn giản chỉ là một bản văn thuần túy pháp lư nhằm hủy bỏ ḥa ước bảo hộ mà triều đ́nh Huế đă kư trước đó căn cứ vào sự bất lực của người Pháp, v́ người Pháp đă không giữ được cam kết ghi trong điều khoản thứ nhất và điều khoản thứ mười lăm của ḥa ước này, mà ít nhằm tới một quần chúng hay quốc tế, th́ bản Tuyên Ngôn của Hồ Chí Minh nhằm vào toàn thể người Việt qua lời mở đầu “Hỡi đồng bào cả nước…”. Tuy nhiên ở những đoạn cuối tác giả lại nhắm vào các nước Đồng Minh. Điều này phải tinh ư người ta mới nhận ra được. Về tư cách, Bảo Đại nhân danh Hoàng Đế Việt Nam, người đứng đầu của một quốc gia độc lập đă tồn tại từ trước khi người Pháp xâm lăng và là người kế thừa chính thống của các vua Nhà Nguyễn, th́ Hồ Chí Minh đă nhân danh “Lâm Thời Chính Phủ của nước Việt Nam mới.””Mới là v́ đến ngày đó chính phủ này mới chính thức được ra mắt trước quốc dân. Lời văn do đó phản ảnh hai tư cách của hai bản chất con người khác nhau. Một người là hoàng đế kế thừa chính thống của một triều đại đă trị v́ một quốc gia từ hơn một trăm năm trước dù cho là chỉ c̣n hư vị; người kia là lănh tụ của một phong trào cách mạng vừa chủ trương chống Pháp, vừa chủ trương chống Nhật và lật đổ chế độ quân chủ để giành chính quyền. Văn phong trong bản tuyên ngôn của Bảo Đại là văn phong b́nh thường của người cầm quyền cao nhất nước; c̣n văn phong của Hồ Chí Minh mang tính cách kêu gọi và ở một mức độ nào đó có tính cách b́nh dân, kể lể dài ḍng và nhất là xách động.
Mở đầu cho bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đă trích dẫn một số câu trong phần đầu của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của người Mỹ và một câu trong Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp. Sự trích dẫn này, vào lúc mà sự hiểu biết của quần chúng Việt Nam c̣n thấp kém, đặc biệt là về lịch sử Hoa Kỳ và thế giới, chắc chắn không nhằm vào quần chúng người Việt mà nhằm vào người Mỹ và người Pháp.
Lư do là Hồ Chí Minh như là một đảng viên Cộng Sản Quốc Tế chắc chắn đă hiểu hơn ai hết là người Mỹ vào thời điểm này đă đóng một vai tṛ vô cùng quan trọng trong chính t́nh ở Á Châu, trong đó có Việt Nam. Được nguời Mỹ công nhận là coi như làm chủ được chính quyền. Hiểu được như vậy, ngay từ khi c̣n ở chiến khu Hồ Chí Minh khi tiếp xúc với người Mỹ đă yêu cầu họ cung cấp cho ông một bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Mỹ, đồng thời nói về lịch sử nước Mỹ như là một cách để chinh phục cảm t́nh của họ. Đó chính là lư do tại sao ngày 29 tháng 8 năm 1945, hai ngày trước khi Hồ Chí Minh tuyên đọc Bản Tuyên Ngôn Dộc Lập của ông, lúc 10 giờ 30 sáng, ông đă cho xe tới chở Đại Úy Archemedes L. A. Patti, trưởng nhóm t́nh báo OSS mới tới Hà Nội không lâu, đến gặp ông. Mục đích của cuộc gặp mặt theo Hồ Chí Minh không phải là để bàn về chuyện người Tàu mà là để nói về những ǵ ông đă làm vài ngày trước đó (buổi họp ngày 27 về Chính Phủ Lâm Thời) và ít ngày sau đó (ngày 2 tháng 9 đă được chọn là Ngày Độc Lập, Hồ Chí Minh sẽ tuyên bố Việt Nam độc lập và giới thiệu thành phần chính phủ lâm thời) với Patti như là người đầu tiên được biết.
Quan trọng hơn hết Hồ Chí Minh đă cho Patti coi bản nháp của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của ông bằng tiếng Việt với những sửc chữa chằng chịt mà Pattti không đọc được và chỉ hiểu sơ sơ qua lời một thông ngôn.[15]V́ chỉ nhằm mục tiêu lôi cuốn sự chú ư và cảm t́nh của người Mỹ, Hồ Chí Minh đă không đi xa hơn nữa và rất có thể ông cũng không hiểu rơ hơn hay cố t́nh không hiểu sự khác biệt trong quá tŕnh giành độc lập của mười ba thuộc địa của người Mỹ vào cuối thế kỷ XVIII và của nước Việt Nam thời năm 1945. V́ vậy ông đă áp dụng quan điểm của người Mỹ về quyền b́nh đẳng, quyền được sống tự do và mưu cầu hạnh phúc của mọi-người-như-là-những-cá-nhân-riêng-lẻ vào trường hợp chung của cả nước Việt Nam như một-quốc-gia-đ̣i-quyền-độc-lập, một cách gượng ép hay ít ra là suy luận theo quan điểm chủ quan của ḿnh bằng lối loại suy với dụng ư riêng. Cũng vậy với những ǵ ông trích dẫn từ bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp.
Phần kế tiếp, Hồ Chí Minh lên án người Pháp và người Nhật, đồng thời ông kể công cho Việt Minh: “Trước ngày mồng 9 tháng 3, đă bao lần Việt minh đă kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật…”, sau đó “đă giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ” và kết luận rằng “Sự thật là dân ta đă lấy lại nước Việt-nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”. Điều như người viết đă nói ở trên là không đúng sự thật. Sự thật là Chính Phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim đă lấy lại được toàn thể nước Việt Nam từ Bắc chí Nam, bao gồm luôn cả xứ Nam Kư từ trong tay người Nhật, trước khi người Nhật đầu hàng và Việt Minh đă cướp chính quyền từ trong tay của chính phủ Bảo Đại -Trần Trọng Kim trong những ngày 17 và 19 tháng 8 năm 1945 sau đó, sau khi Nhật đă đầu hàng, nói cách khác sau ngày 15 tháng 8 năm 1945. Lư do là v́ Việt Minh “Việt Minh chủ trương khác”, nói theo Phan Anh, Bộ Trưởng Thanh Niên trong Chính Phủ Trần Trọng Kim và sau này là Bộ Trưởng Bộ Quốc Pḥng trong Chính Phủ Liên Hiệp của Hồ Chí Minh[16].Trong những đoạn này Hồ Chí Minh đă dùng các từ ngữ ta hay “dân ta” hay “đất nước ta”, nhưng mục đích không nhằm vào người Việt Nam mà vào người Pháp. Ông đă kể công vói người Pháp dự trù cho việc họ trở lại sau này.
Phần cuối cùng của bản văn, từ “Bởi thế cho nên…” cho đến hết, lời văn cho người ta thấy Hồ Chí Minh không hướng về người Việt mà về cả thế giới. Trong phần này ông xưng là “chúng tôi, Lâm thời Chính phủ, đại biểu cho toàn dân Việt -nam “ để tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, kêu gọi các nước Đồng Minh công nhận quyền độc lập của dân Việt-nam…Phần này Hồ Chí Minh thay v́ nói về quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi – người – như – những – cá – nhân do Tạo Hóa ban cho, những quyền phải hiểu là tự nhiên ai cũng có, đă nói về quyền hưởng tự do và độc lập của cả nước. Đây là một lập luận có tính cách cưỡng ép, hoàn toàn không đúng với tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Người Mỹ và nhất là của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp mà danh xưng của nó đă nói lên một cách rơ ràng: Nhân Quyền và Dân Quyền, không thể hiểu sai được. Độc lập của một dân tộc không phải luôn luôn đồng nghĩa với tự do, dân quyền và nhân quyền của mỗi một cá nhân người dân như những thành phần của dân tộc ấy.
Không những thế, thay v́ coi những quyền này là do Tạo Hóa ban cho, Hồ Chí Minh lại lư luận là v́ dân tộc Việt Nam là “Một dân tộc đă gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đă gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc ấy phải được độc lập!”. Lư luận như vậy người ta phải hiểu, theo Hồ Chí Minh, rằng những dân tộc không gan góc chống lại những thế lực đè nén, áp bức ḿnh và không gan góc đứng về phe Đồng Minh, chống phát-xít là không đáng được tự do, độc lập. Cũng vậy, với các quyền độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người do Thượng Đết ban cho như là những cá nhân trong xă hội. Chính v́ vậy Luật SưTrần thanh Hiệp,khi được Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn ngày 2 tháng 9 năm 2007, đă có lư khi ông gọi bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh này là “một bản tuyên ngôn phi nhân quyền”[17] dù cho là nó đă được chính tác giả của nó trích và soạn thảo theo tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của người Mỹ và bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của người Pháp. Nhưng dù nói thế này hay thế khác sự kiện này đă phản ảnh chủ trương giai đoạn, khôn phải là mục tiêu cuối cùng của những người Cộng Sản Việt Nam mà Hồ Chí Minh ở đây là một trường hợp điển h́nh.
Về thời gian soạn thảo, nhiều người cho rằng Hồ Chí Minh chỉ có ít ngày sau khi ông từ chiến khu của Việt Minh về Hà Nội, trong khi ông c̣n phải bận rộn với nhiều vấn đề cấp bách khác. Điều này không đúng v́ trước đó từ lâu, như đă nói ở trên, khi tiếp xúc với một sĩ quan người Mỹ, ông nhờ người này kiếm cho ông một bản Tuyên Ngôn Độc Lập của người Mỹ rồi.[18] Nói cách khác, Hồ Chí Minh đă nghĩ tới và đă thai nghén bản tuyên ngôn của ông từ lâu chứ không phải chỉ ít ngày trước ngày 2 tháng 9 năm 1945. Do đó những ǵ ông nói tới, những từ ngữ ông dùng đều được cân nhắc kỹ càng và đều có dụng ư riêng với những mục tiêu riêng mà chỉ sau này phải phân tích kỹ, đối chiếu kỹ và có thể sau này khi mọi việc liên hệ đă xảy ra rồi, người ta mới có thể hiểu được.
Điều đáng tiếc là khi thực thi những ǵ ông đă trích dẫn và đề cao trong bản tuyên ngôn của ông, Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông và sau này những người nối nghiệp ông trong Đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ thực thi những ǵ ông đă suy rộng ra theo lối suy luận loại suy (độc lập của dân tộc) mà làm ngược lại những ǵ đích thực về nhân quyền và quyền tự do mưu cầu hạnh phúc của từng cá nhân con người, theo đúng nguyên bản của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của người Mỹ và bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của ngựi Pháp. Nói cách khác, Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông trong đó có Trường Chinh, Vơ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, cũng như hậu duệ của các ông, thay v́ đi theo con đường tự do, dân chủ của các nhà lănh đạo của cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ, trong đó có Washington, Jefferson, dựa theo đúng tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của họ mà các ông đă trích dẫn phần mở đầu, đă theo con đường của Lê Nin, Xít Ta Lin và Mao Trạch Đông.
Hậu quả là 67 năm sau, Bà Hillary Clinton, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, khi đế thăm Việt Nam đă phải công khai nhắc người đồng nhiệm của Bà ở Việt Nam và luôn cả các ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng Chính Phủ và Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Người ta không hiểu là khi làm công việc nhắc nhở này, Bà Clinton có biết rằng 67 năm trước Hồ Chí Minh đă đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập của ông với phần trích dẫn về nhân quyền từ bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Mỹ hay không? Người viết tin là có.
Cũng vậy với Đại Sứ David Shear khi ông này tới thăm Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế và Đại Lăo Ḥa Thượng Thích Quảng Độ ở Saigon. Nhưng dù có hay không, khi trích dẫn những tài liệu này, Hồ Chí Minh và từ đó Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đă mắc một món nợ tinh thần với cả hai dân tộc Mỹ và Pháp và nhân ngày 2 tháng 9 năm 2012 này, những ai quan tâm đến vấn đề nhân quyền và dân quyền ở Việt Nam hiện tại, nhất là người Mỹ và người Pháp, nên nhắc nhở những người đang nắm vai tṛ lănh đạo ở quốc gia này phải tôn trọng và thực thi những ǵ Hồ Chí Minh, người đă khai sáng nên chế độ của họ đă long trọng trích dẫn và tuyên đọc 67 năm trước, cần phải “thật thà”[19] coi trọng những lư tưởng mà chính vị “Cha Già” của họ đă viện dẫn từ hai bàn Tuyên Ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và Tuyên Nhân Quyền và Dân Quyền của Pháp, coi như một h́nh thức trả nợ mà b́nh thường mọi người đều phải làm nếu không muốn mang tiếng là lừa đảo.
Nguồn: TS Phạm Cao Dương/ vietthuc