Hăy cùng t́m hiểu về cách thức mà các hăng công nghệ lớn đang t́m cách "hất cẳng" nhau. 
 Thời gian gần đây cuộc chiến bằng sáng chế đang  diễn ra ngày một căng thẳng hơn. Những khoản tiền hàng chục tỷ USD được  chi ra để sở hữu "vũ khí" và dành được kết quả thuận lợi trong cuộc  chiến "trí tuệ" này. Apple và Microsoft hợp tác chi 4,5 tỷ USD mua lại  6000 bằng sáng chế của Nortel hay vụ Google bỏ 12,5 tỷ USD giành quyền  sở hữu Motorola với mục tiêu chính nhiều khả năng là kho bằng sáng chế  khổng lồ vô cùng quan trọng của hăng này.
  
 Ai cũng hiểu nếu thất bại th́ hậu quả sẽ là rất  lớn. Tạm thời bỏ qua những tranh luận về khía cạnh công nghệ, tầm quan  trọng của chúng về những phát minh trong tương lai. Hăy cùng một lần  nh́n qua cuộc chiến bản quyền này dưới góc nh́n luật pháp, những  hậu  quả có thể xảy ra với kẻ thất bại, nguyên nhân và cơ sở của những quyết  định này. Đương nhiên, luật pháp ở mỗi nơi là khác nhau, v́ vậy, trong  bài viết này chúng tôi sẽ tập trung vào thị trường Mỹ - thị trường lớn  nhất và quan trọng nhất hiện nay của các công ty công nghệ.
  
  
  
 Series bài viết này sẽ bắt đầu bằng việc phân biệt  các yếu tố mà các hăng nhắm vào khi khởi kiện đối thủ. Chúng ta sẽ cùng  nhau t́m hiểu sự khác nhau giữa các yếu tố kiện tụng cơ bản mà các bạn  nghe hàng ngày, nó là ǵ? Ai bảo vệ quyền sở hữu này?
  
 
Kiểu dáng công nghiệp, nhăn hiệu và bằng sáng chế
  
 Nói chung, hầu hết các vụ kiện mà chúng ta đang  được chứng kiến rơi vào một trong ba mục tiêu này. Thật ra, điều này  cũng không có ǵ khó hiểu lắm khi mà chúng đă bao quát hầu hết các yếu  tố của một sản phẩm công nghệ cao và được bảo hộ bằng một bộ luật bảo vệ  quyền sở hữu trí tuệ chi tiết, nghiêm ngặt và được đánh giá là tốt nhất  thế giới hiện nay: Luật sở hữu trí tuệ của Mỹ.
  
 Về cơ bản, nghe có vẻ có liên quan đến nhau nhưng 3  yếu tố kể trên được bảo hộ và chi phối bởi những đạo luật hoàn toàn  khác biệt và không liên quan đến nhau. Thực tế, dù hay bị nhầm lẫn và  đánh đồng với nhau nhưng đây là 3 thứ hoàn toàn khác biệt.
  
 
Trade Dress (kiểu dáng công nghiệp) 
  
 Thật ra, nếu dịch "Trade Dress" là kiểu dáng công  nghiệp cũng không hoàn toàn chính xác lắm. Nguyên nhân bởi cách nh́n  nhận trade dress và kiểu dáng công nghiệp của luật Việt Nam và luật Mỹ  có nhiều điểm không tương đồng.
  
 Trade dress theo quan điểm của những nhà lập pháp  Mỹ: "là các yếu tố không liên quan đến tính năng, là thông thông về chi  tiết, thiết kế sản phẩm hoặc bao b́ của nó - nó cho biết về nguồn gốc  của sản phẩm, để phân biệt các sản phẩm này với các sản phẩm khác". Tóm  lại, hiểu một cách đơn giản th́ đây là h́nh thức bên ngoài, cách đóng  gói và các yếu tố tương tự thế của sản phẩm.
  
  
  
 Ví dụ như trong vụ Apple kiện Samsung gần đây, các  yếu tố liên quan đến khía cạnh này là sự "trùng ư tưởng" trong h́nh dáng  của các sản phẩm giữa hai hăng, cách đóng gói...
  
 
Trade Mark (nhăn hiệu)
  
 Cũng giống như Trade Dress, Trade Mark không hoàn  toàn chỉ có nhăn hiệu. Theo luật Mỹ, Trade Mark là: "một từ, tên, kư,  thiết bị hoặc sự kết hợp giữa chúng để cho biết về nguồn gốc của hàng  hóa hoặc dịnh vụ. Chúng có tác dụng phân biệt các sản phẩm và dịch vụ  khác nhau trong cùng ngành kinh doanh của các công ty khác nhau trong  một địa điểm".
  
 Tóm lại, hiểu ngắn gọn Trademark là các yếu tố liên  quan đến thương hiệu, các yếu tố làm nên đặc điểm của thương hiệu đó.  Ngoài các hiểu thông thường, nó c̣n có thể là cách thiết kế các icon,  màn h́nh...
  
  
  
 Nếu để ư, các bạn thấy Apple thỉnh thoảng lại đi  kiện một số công ty (gần đây là công ty kinh doanh thực phẩm) v́ đă vi  phạm, bắt chước logo của hăng. Việc Facebook yêu cầu đăng kư bảo hộ từ  "Face" cũng là dựa vào những điều luật bảo vệ Trade Mark. Hay như trong  vụ Apple - Samsung, việc Apple kiện các yếu tố liên quan đến sự giống  nhau trong thiết kế của các icon cũng dựa vào điều này.
  
 
Patent (sáng chế)
 
Khác với 2 yếu tố trên, patent hoàn toàn dễ  hiểu. Bằng sáng chế (patent): "là các văn bản pháp luật chính thức được  công bố bởi Mỹ dành cho các nhà phát minh. Nó bao gồm các thông tin miêu  tả chi tiết về phát minh". Nó cũng có thông tin về việc làm ǵ và làm  thế nào để chống xâm phạm. Nói tóm lại, bằng sáng chế cho phép bạn được  sử dụng những phát minh này, cho bạn quyền cung cấp sáng chế cho bên  khác sử dụng. Nếu so sánh một cách trực quan và đơn giản hơn, bằng sáng  chế cũng giống như "sổ đỏ", cho bạn toàn quyền sở hữu ngôi nhà (với bằng  sáng chế là phát minh).
  
 Định nghĩa về bằng sáng chế khá đơn giản nhưng cách  thức hoạt động của hệ thống bảo vệ nó lại tương đối phức tạp. Các bằng  sáng chế thường chỉ có hiệu lực trong một thời gian nhất định. Sau thời  gian này, người khác có thể sử dụng phát minh của bạn mà không phải lo  lắng ǵ cả. Có nhiều yếu tố để quyết định thời gian này nhưng nó thường  là 20 năm (đối với Mỹ).
  
  
  
 Một điều quan trọng khi đăng kư hay sử dụng bằng  xác chế là bằng sáng chế của bạn không phải là một "phát minh" tất yếu  và cơ bản. Nói một cách dễ hiểu, nếu như thiết kế hay sáng chế đó là  cách duy nhất, không thể thay thế nếu muốn đạt được những mục đích cơ  bản và tối thiểu cho sản phẩm, bạn không được đăng kư nó. Ví dụ kể cả  bạn là người nghĩ ra bánh xe phải là h́nh tṛn, bạn không thể đăng kư  được nó bởi đây là h́nh dáng duy nhất một bánh xe thông thường có thể  hoạt động hiệu quả. Hay bạn không thể sở hữu kiểu thiết kế nhọn đầu của  một chiếc đinh bởi đây là cách duy nhất để nó đảm nhiệm chức năng của  ḿnh.
 
Luật và ṭa án nào bảo vệ?
  
 Hệ thống luật và ṭa án của Mỹ khá phức tạp. Về cơ  bản, Patent được bảo vệ bởi luật Copyright, Trade Mark và Trade Dress  liên quan nhiều đến luật bảo vệ nhăn hiệu hàng hóa. Tất cả đều nằm trong  bộ luật về quyền sở hữu trí tuệ của Hoa Kỳ.
Các vụ kiện về quyền  sở hữu trí tuệ được các ṭa án liên bang ở Mỹ xử (ở Mỹ có hai hệ thống  ṭa án riêng biệt là bang và liên bang). Ví dụ như vụ Apple kiện Samsung  được ṭa án liên bang California thụ lư.
  
 Trong kỳ sau, chúng ta sẽ cùng t́m hiểu về các nguy cơ của các hăng nếu như thất bại trong cuộc chiến bản quyền này.
genk