Vietbf.com V́ sao người Việt lại gọi là Tết khi chào đón năm mới tiễn năm cũ. Tết là một thời điểm quan trọng đối với người Việt cũng như các dân tộc đồng văn, đây là thời điểm khởi đầu cho một năm mới với những ước vọng tốt đẹp nhất cho ḿnh và cho người, v́ vậy người ta thường chúc nhau những lời tốt đẹp nhất, bên cạnh đó họ cũng cầu nguyện cho trời đất có một năm mới mưa thuận gió ḥa, tuy nhiên nguồn gốc của Tết ở nước ta đến nay vẫn c̣n nhiều tranh cải, chủ yếu người ta cho rằng Tết là cách đọc trại của Tiết, một từ Hán Việt, quan niệm này đă trở thành phổ biến đến nỗi hầu như đă số người Việt chấp nhận nó như là chân lư, cho dù trong kho tàng văn học dân gian của người Việt, tiền nhân đă minh định cái thời điểm thiêng liêng và trọng đại đó bằng truyền thuyết Chưng Bính Truyện, nhưng người ta hầu như ít quan quan tâm đến điều đó, v́ truyện viết bằng chữ Nho, đă là chữ Nho tất là của phương Bắc rồi. Trong nghiên cứu này tôi cho rằng đây là một hệ quả của lịch sử, bởi v́ thực tế từ ngàn xưa, tất cả văn hóa, chữ viết đó thuộc về người Việt, có nhiều bằng chứng chắc thật để chứng minh cho điều đó, tuy nhiên ở đây ta chỉ xét việc đó thông qua truyện Chưng Bính hay bánh Chưng, bánh Giày và mặt trống đồng Ngọc Lũ mà thôi. Xin tŕnh bày như sau:
CHƯNG BÍNH TRUYỆN 蒸餅傳 (Theo “Lĩnh Nam Chích Quái”)
NGUYÊN VĂN:
雄王既破殷軍之後,國家無事,欲傳於子,乃 會官郎,公子二十二人,謂曰:「我欲傳位, 有能如我願,欲珍甘美味,歲終薦於先王,以 盡孝道,方可傳位。」
於是諸子各求水陸奇珍之物(一作異味),不 可勝數。惟十八子郎僚母氏單寒微,先已病故 ,左右寡少,難以應辦。晝夜思想,夢寐不安 。夜夢神人告曰:「天地之物所貴於人,無過 米。所以養人,人能壯也。食不能厭,他物莫 能先。當以糯米作餅,或方或圓,以象天地之 形,葉包其外,中藏美味,以寓父母生育之重 (一作狀)。」郎僚驚覺,喜曰:「神人助我 也。」遵而行之。乃以糯米擇其精白,選用圓 完無缺折者,淅之潔靜,以青色葉包裹為方形 ,置珍甘美味在其中,以象(天 ) [1] 地包藏萬物焉。煮而熟之,故曰蒸餅。又以糯 米炊熟,搗而爛之,捏作圓形以象天,故曰薄 持餅。
至期,王命諸子具陳所獻,歷而觀之,無物不 有。惟郎僚獨獻蒸餅、薄持餅。王驚異,問之 ,郎僚具以夢對。王親嘗之,適口不厭,勝於 諸子所陳之物,嘆美良久。乃以郎僚為第一, 歲時節候,常以是餅奉事父母,天下效之至今 。以名郎僚,故呼謂節料。
初,王傳位於郎僚,兄弟二十一人,分守藩籬 ,立為部黨,以為藩國。迨後眾將爭長,各立 木柵以遮護之,故曰柵、曰村、曰莊、曰坊, 自此始.
ÂM VIỆT CỔ:
Hùng Vương kí phá Ân quân chi hậu, quốc gia vô sự, dục truyền ư tử, năi hội quan lang, công tử nhị thập nhị nhân, vị viết: “Ngă dục truyền vị, hữu năng như ngă nguyện, dục trân cam mỹ vị, tuế chung tiến ư tiên vương, dĩ tận hiếu đạo, phương hà lập vị”.
Ư thị chư tử các cầu thủy lục kỳ trân chi vật (nhất tác dị vị), bất khả thắng số. Duy thập bát tử Lang Liêu, mẫu thị đơn hàn vi, tiên dĩ bịnh cố, tả hữu quả thiếu, nan dĩ ứng biện, trú dạ tư tưởng, mộng mị bất an. Dạ mộng thần nhân cáo viết: “Thiên địa chi vật sở quư ư nhân, vô quá mễ. Sở dĩ dưỡng nhân, nhân năng tráng dă. Thực bất năng yểm, tha vật mạc năng tiên. Đương dĩ nhu mễ tác bỉnh, hoặc phương hoặc viên, dĩ tượng thiên địa chi h́nh, diệp bao kỳ ngoại, trung tàng mỹ vị, dĩ ngụ phụ mẫu sanh dục chi trọng (nhất tác trạng)”
Lang Liêu kinh giác, hỷ viết: “Thần nhân trợ ngă giả”. Tuân nhi hành chi. Năi dĩ nhu mễ trạch kỳ tinh bạch, tuyển dụng viên hoàn vô khuyết chiết giả. Tích chi khiết tĩnh, dĩ thanh sắc diệp bao lư vi phương h́nh, trí trân cam mỹ vị tại kỳ trung, dĩ tượng (thiên) địa bao tàng vạn vật yên. Chữ nhi thục chi, cố viết chưng bính. Dĩ vi nhu mễ xuy thục, đảo nhi lạn chi, niết tác viên h́nh dĩ tượng thiên, cố viết bạc tŕ bỉnh.
Chí kỳ, vương mệnh chư tử cu trần sở hiến, lịch nhi quán chi, vô vật bất hữu. Duy lang Liêu độc hiến chưng bính, bạc tŕ bính. Vương kinh dị, Lang Liêu cụ dĩ mộng đối. Vương thân thưởng chi, thích khẩu bất yếm, thắng ư chư tử sở trần chi vật, thán mỹ lương cửu. Năi dĩ Lang Liêu vi đệ nhất, tuế thời tiết hầu, thường dĩ thị bỉnh phụng sự phụ mẫu, thiên hạ hiệu chi chí kim. Dĩ danh Lang Liêu, cố hô vị tiết liệu.
Sơ, Vương truyền vị ư Lang Liêu, huynh đệ nhị thập nhất nhơn, phân thủ phiên ly, lập vi bộ đảng, dĩ vi phiên quốc. Đăi hậu chúng tướng tranh trưởng, các vị lập mộc sách dĩ già hộ chi, cố viết sách, viết thôn, viết trang, viết phường, tự thử thủy.
TẠM DỊCH:
Vua Hùng sau khi phá xong giặc Ân rồi, trong nước thái b́nh, nên lo việc truyền ngôi cho con, mới hội họp hai mươi hai vị quan lang công tử lại mà bảo rằng: “Đứa nào làm vừa ḷng ta, cuối năm đem trân cam mỹ vị đến dâng cúng Tiên Vương cho tṛn đạo hiếu th́ ta sẽ truyền ngôi cho”.
Các công tử đua nhau đi t́m các vị trân kỳ trên đất dưới nước nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Duy có công tử thứ mười tám tên là Lang Liêu, mẹ hàn vi, bị bệnh qua đời đă lâu, trong nhà lại ít người nên khó bề toan tính, ngày đêm lo lắng, ăn ngủ không yên. Chợt nằm mơ thấy thần nhân bảo rằng: “Trong trời đất không có vật ǵ quư bằng gạo, lấy nó nuôi thân, thân thể khỏe mạnh, ăn măi không chán, không có vật ǵ hơn được. Nên giă gạo nếp làm bánh, hoặc h́nh vuông, hoặc h́nh tṛn, tượng trưng cho h́nh của trời đất, ngoài bao bằng lá, trong chôn nhân ngon, ngụ ư ơn nặng dưỡng dục của cha mẹ”. Lang Liêu giật ḿnh tỉnh dậy, vui mừng nghĩ rằng “Thần giúp ta vậy”, rồi theo đó mà làm. Lang Liêu bèn lựa nếp hạt trắng tinh, không sứt mẻ, đem vo cho sạch, rồi lấy lá xanh gói thành h́nh vuông, bỏ nhân ngon vào giữa, đem nấu chín tượng trưng cho Đất, gọi là bánh chưng. Lại lấy nếp nấu xôi đem quết cho nhuyễn, nhào thành h́nh tṛn để tượng trưng cho Trời, gọi là bánh Bạc Tŕ.
Đúng kỳ hẹn, Vua hội họp các con lại trưng bày phẩm vật xem qua không thiếu thứ ǵ, duy chỉ có Lang Liêu đem bánh h́nh tṛn, bánh h́nh vuông đến dâng. Hùng Vương lấy làm lạ, Lang Liêu tŕnh bày như lời thần nhân đă bảo. Vua nếm thấy ngon ăn không chán, phẩm vật của các công tử khác không làm sao hơn được. Vua khen ngợi hồi lâu, rồi cho Lang Liêu được giải nhất. Vua dùng thứ bánh ấy để cung phụng cha mẹ trong các dịp lễ tết cuối năm, tục này truyền cho đến ngày nay, lấy tên của Lang Liêu, gọi là Tiết Liệu.
Hùng Vương truyền ngôi cho Lang Liêu; hai mươi mốt anh em kia đều chia nhau giữ các vùng đất chung quanh, lập nên bộ đảng, làm thành nước nhỏ. Về sau, ai cũng muốn làm thủ lĩnh, mỗi người dựng rào cây để che kín, pḥng vệ. Từ đó mới có tên Sách, Trại, Trang, Phường.
GIẢI MĂ
I. PHÂN TÍCH TRUYỆN.
Tên truyện và nguyên liệu chế tác câu chuyện.
Ăn uống ngoài chức năng là cung cấp dinh dưỡng cho con người, theo năm tháng nó cũng thành nghệ thuật, ngày nay gọi là văn hóa ẩm thực, mỗi quốc gia có những món đặc trưng riêng để tượng trưng cho đất nước ḿnh, tất nhiên nó không phải là món ngon vật lạ để đáp ứng những ham muốn tầm thường, mà giá trị của nó chủ yếu là ở tinh thần mà thôi. Bánh chưng, bánh giày của nước Việt là một sản phẩm như thế, nguồn gốc của loại bánh này có từ xa xưa, theo truyền thuyết th́ từ thời vua Hùng, đây là một sản phẩm vừa có mặt trong truyền thuyết vừa có mặt trong đời sống của người dân Việt, điều này chứng minh rằng chính dân Việt là chủ thể của truyền thuyết này chứ chẳng vay mượn của ai cả. Tuy nhiên câu chuyện lại viết bằng chữ Nho, chữ vuông hay chữ Việt cổ nên nhiều người cất công sang nước Tàu xa xôi để t́m nguồn gốc của hai loại bánh này, nói như thế có nghĩa là phần đông người ta không tin truyền thuyết ấy là của người Việt, đây là ư nghĩ thầm kín nhưng hết sức phổ biến của nhiều người có chữ Hớn, bởi v́ người ta cho rằng khái niệm trời tṛn đất vuông là của Trung Hoa, cụ thể là kinh Dịch của họ, người Việt chỉ mới được họ khai hóa từ ngày Sĩ Nhiếp sang nước Nam mà thôi, cho nên làm ǵ biết đến các khái niệm ấy, v́ nghĩ như vậy nên chi khi t́m hiểu cái tên bánh cũng lúng túng. Trước giờ người ta chủ yếu bàn về cái tên “chưng” ít ai nói đến “giày” hay theo câu chuyện th́ có tên “bạc tŕ”, một truyền thuyết đă được cụ thể hóa vào đời sống, hay ta có thể nói ngược lại một loại h́nh văn hóa của người Việt đă được truyền thuyết hóa thế mà cho đến nay các nhà nghiên cứu văn hóa vẫn chưa cung cấp cho dân tộc một giải thích có tính thống nhất và chấp nhận được về nguồn gốc, tên gọi các loại bánh này. Tuy câu chuyện đề cập đến hai loại bánh “Chưng và Bạc tŕ”, dân gian cũng truyền khẩu thành hai “Chưng và Giày”, tuy nhiên tên truyện chỉ là “Chưng bính truyện” tức truyện bánh Chưng mà thôi. Sở dĩ người xưa lấy cái tên truyện như vậy là v́ bánh chưng vuông, thể Âm mà dụng Dương tức Thái cực thuộc Dương hay người nam tức Lạc Việt.
Theo tôi, truyền thuyết này cũng nằm trong ḍng chảy của các truyền thuyết khác, ngoài việc ghi lại nếp sống văn hóa của người Việt cổ, các câu chuyện chủ yếu nói về tác quyền đối với dịch học và chữ vuông, dĩ nhiên khi nội dung với thông điệp như vậy th́ nguyên liệu h́nh thành câu chuyện cũng lấy từ dịch học và chữ vuông. Các nguyên liệu ấy như sau:
Hà Đồ – Lạc Thư , 10 thiên can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quư. 12 địa chi: Tư, Sửu, Dần, Măo, Th́n, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, c̣n chữ vuông th́ có chữ Hiếu孝, Cô孤, trong chữ Hiếu孝, Cô孤 có chữ Tử 子là tên chi đầu tiên trong 12 Chi, chữ Giáp 甲, Can đầu tiên của 10 can.
Diễn tiến theo câu chuyện.
2.1. Hà Đồ.
Truyện viết rằng:
“Vua Hùng sau khi phá xong giặc Ân rồi, trong nước thái b́nh, nên lo việc truyền ngôi cho con”
Vua Hùng tượng trưng cho Hà Đồ, lo việc truyền ngôi cho con là Hà đồ biến thành Lạc thư.
2.2. Lạc Thư .
“Mới hội họp hai mươi hai vị quan lang công tử lại mà bảo rằng: “Đứa nào làm vừa ḷng ta, cuối năm đem trân cam mỹ vị đến dâng cúng Tiên Vương cho tṛn đạo hiếu th́ ta sẽ truyền ngôi cho”.
Lạc Thư được sinh ra từ Hà Đồ cũng như con cái được sinh ra từ cha mẹ. Việc truyền ngôi cho con có nghĩa là biến Hà Đồ thành Lạc Thư. Thời gian chỉ có trong thế giới hiện tượng hay lạc thư mà thôi, cụ thể ở đây là 22 vị quan lang, tức 10 thiên can và 12 địa chi. Cuối năm có nghĩa là vào ngày Tết. Với câu “cho tṛn đạo Hiếu-以盡孝道” đạo hiếu là đạo của người Việt, đă là người Việt không ai không biết và nằm ḷng bài ca dao chữ Hiếu, chữ Hiếu 孝là một con chữ thể hiện Lạc Thư, cụ thể là trên Thổ 土- Âm, giữa vạch ngăn cách âm dương, tức quẻ 32 – Lôi Phong Hằng, nói về chuyện vợ chồng, v́ có vợ chồng rồi mới có con, v́ vậy dưới Tử- Tư子là con trai – Dương; đồng thời chữ Thổ chỉ hướng nam, chữ Tư子 chỉ hướng bắc.
Các anh em của Lang Liêu.
Các công tử đua nhau đi t́m các vị trân kỳ trên đất dưới nước nhiều không biết bao nhiêu mà kể.
Truyện nói rằng 21 quan lang công tử ai cũng t́m mọi của ngon vật lạ, trên đất cũng như dưới nước, ta hay gọi là sơn hào hải vị. Đây là một cách mô tả sơ đồ vũ trụ, thông thường người xưa chia sơ đồ vũ trụ thành hai phần, trên là núi – dương, dưới là biển – âm. Như thế là câu chuyện lấy bối cảnh vũ trụ dịch lư để xây dựng câu chuyện, 21 anh em kia có gia đ́nh, gia nhân đầy đủ nên thi nhau muốn lập công với những món đặc sản, duy chỉ có Lang Liêu郎僚 là cô độc. Hai chữ 郎僚 nói cho ta biết rằng 21 người anh em kia là người phương nam cả, v́ chữ Lang 郎 có chữ Lương 良– Cấn艮, tức sinh thực nam, chỉ người Cạc hay Lạc Việt. Do đó Ất乙, Cấn艮, hay núi Trâu丑 cũng chỉ khái niệm này mà thôi, v́ cả ba đều ở một vị trí trên Lạc Thư, theo tứ tượng nó là Dương thịnh. Liêu 僚là bạn cùng làm việc, ở đây là cùng ḍng họ.
Chàng Lang Liêu cô thân, cô thế 孤.
Truyện viết:
“Duy có công tử thứ mười tám tên là Lang Liêu, mẹ hàn vi, bị bệnh qua đời đă lâu, trong nhà lại ít người nên khó bề toan tính, ngày đêm lo lắng, ăn ngủ không yên”.
Công tử thứ 18, 18 là bát quái hoạt động trong Lạc thư, thuộc Dương, Lạc thư – Hậu thiên bát quái gồm 9 cung. 9 Dương, 9 cung âm thành 18, v́ thế mới có trung cung, cung phi th́ nam khôn nữ cấn. Mẹ Lang Liêu qua đời đă lâu. Mẹ tức là quái Khôn (Khôn vi mẫu – Thuyết quái) theo Hà Đồ, giờ đây Hà Đồ đă sinh ra Lạc Thư th́ Khôn đă sang ở trục hữu -Âm, hướng tây nam nên nói đă chết, nhà của Khôn bây giờ là Khảm, tượng trưng cho trung nam, tức Lang Liêu. Khảm trung măn, chỉ một hào dương ở giữa hay nói khác hơn là một ḿnh đơn độc, ít người. Theo tôi có thể người sau viết lại không quan tâm lắm con chữ nên nghĩ viết đủ nội dung là được, chứ theo tôi, câu “Tả hữu quả thiểu -左右寡少” nên viết là “左右孤寡 – Tả hữu cô quả” th́ hay hơn, v́ Quả có nghĩa là Thiếu rồi. Thuyết văn giải tự: (寡)少也。單獨皆曰寡 – Quả . Thiếu giả. Đơn độc giai viết quả – Quả. Ít vậy, đơn độc đều gọi là quả. V́ vậy mà tôi cho rằng cách diễn tả trong truyện là diễn tả chữ cô 孤; đồng thời các khái niệm trong đoạn văn này cũng cho thấy điều đó, như tháng cuối năm – Tư子, chàng Lang Liêu (quái Khảm – Con trai giữa) cô đơn (Hào dương giữa quái Khảm) các khái niệm này được thể hiện trong chữ Cô孤 – đơn chiếc.
Chữ 孤 gồm Tử 子 và chữ Qua瓜, về dịch lư th́ Tử子- con trai – Lạc Thư – Dương, Qua瓜 trái dưa – Hà Đồ – Âm. Dương Âm tức Càn Khôn hay bản thể của vũ trụ. C̣n theo câu chuyện th́ chữ Tử子chính là chi Tư, Chữ Qua 瓜 – trái dưa – tṛn, tượng trưng cho bản thể hay Hà Đồ v́ nó tṛn, như h́nh minh họa ở trên. Chữ 子Tư, chi đầu tiên trong 12 chi, nằm ở cung Khảm. Nh́n vào h́nh minh họa ta thấy Tư – Khảm tượng trưng cho Lang Liêu, một hào dương cô độc. V́ giờ Tư nằm giữa âm dương hay AM và PM, tức 12 giờ khuya nên truyện viết “ngày đêm lo lắng”.
H́nh thức và ư nghĩa của bánh.
Chợt nằm mơ thấy thần nhân bảo rằng: “Trong trời đất không có vật ǵ quư bằng gạo, lấy nó nuôi thân, thân thể khỏe mạnh, ăn măi không chán, không có vật ǵ hơn được. Nên giă gạo nếp làm bánh, hoặc h́nh vuông, hoặc h́nh tṛn, tượng trưng cho trời đất, ngoài bao bằng lá, trong chôn nhân ngon, ngụ ư ơn nặng dưỡng dục của cha mẹ.
Nằm mơ thấy thần nhân là v́ Lang Liêu, tức là Tử 子 hay Tư 子, Tư nằm chung với Giáp 甲tại hướng bắc, Giáp 甲 tượng là đầu người – 甲象人頭 nên nói thần nhân. Gạo tức là Mễ 米hay Mẹ, tức là bản thể của vũ trụ, nơi sinh ra và nuôi nấng tất cả vạn hữu, v́ vậy mà chữ Mễ 米 chính là h́nh ảnh của bát quái như h́nh minh họa, chứ có đâu hạt gạo mà lại te tua như vậy.
Dân tộc ta suốt mấy chục ngàn năm đi t́m long mạch hay những con sông và băi bồi cốt để trồng lúa, lúa chính là sanh mạng của người Việt ngày ấy, công việc này quan trọng và lâu dài đến nỗi nó trở thành một nền văn hóa gọi là văn hóa lúa nước, con chữ cũng không ngoại lệ, các chữ Mộc木, Ḥa禾, Miêu苖, đều được h́nh thành từ sơ đồ dịch học, ngay cả hai cái tên Hà河và Lạc洛 đều viết với bộ thủy, người ta thường dựa vào truyền thuyết mà nói đó là sông, ḱ thật nó mang đậm h́nh ảnh của người trồng lúa nước, tức người Việt. Chữ Mễ 米 cũng không ngoại lệ. Hạt gạo ngày ấy là kết tinh cả một lịch sử lâu dài, cùng với bao hy sinh mất mát của nhiều thế hệ mới có được hết quả là một bát cơm, v́ vậy mới có câu ca dao:
Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẽo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Có thể nói trong hạt gạo có cả một ḍng chảy lịch sử của dân tộc; đồng thời nó là kết tinh của trời đất mà thành, cho nên dùng nó để mà làm bánh th́ quả đây là một chất liệu vô cùng ư nghĩa. Ư nghĩa không phải là v́ nó là gạo mà v́ Lang Liêu nhận thức được trong hạt gạo có tổ tiên, có trời, có đất. Nhờ thần nhân báo mộng, Lang Liêu mới làm ra hai loại bánh, một h́nh vuông, tượng trưng cho đất, có tên là “chưng”, hai là tṛn, tượng trưng cho trời, có tên là “bạc tŕ”. Sao không phải là thần tiên mà là thần nhân, rơ ràng bằng cách dùng từ nhân, người xưa đă cho biết rằng mọi việc từ con người, giấc mộng nhắc cho Lang Liêu biết rằng Tổ tiên cũng cao quư như trời đất, làm người mà không nhớ ơn tổ tiên th́ không phải đạo hiếu hay đạo làm người. Vuông tṛn là hai khái niệm phổ biến nói về âm dương, làm hai cái bánh với ư nghĩa như vậy, rơ ràng đây là cái bánh văn hóa cốt lơi chứ đâu phải bánh thường, ăn cái bánh này là ăn cái văn hóa của người Việt, cái văn hóa mà người Việt cổ đă mất hàng chục ngàn năm chiêm nghiệm con người và vũ trụ mà đúc kết thành.
Lang Liêu giật ḿnh tỉnh dậy, vui mừng nghĩ rằng “Thần giúp ta vậy”, rồi theo đó mà làm. Lang Liêu bèn lựa nếp hạt trắng tinh, không sứt mẻ, đem vo cho sạch, rồi lấy lá xanh gói thành h́nh vuông, bỏ nhân ngon vào giữa, đem nấu chín tượng trưng cho Đất, gọi là bánh chưng. Lại lấy nếp nấu xôi đem quết cho nhuyễn, nhào thành h́nh tṛn để tượng trưng cho Trời, gọi là bánh Bạc Tŕ.
Theo lời thần nhân mách bảo, Lang Liêu làm hai loại bánh đều bằng gạo nếp trắng, một là bánh vuông, bên ngoài bao bằng lá xanh, hai là bánh tṛn trắng, trắng v́ bánh này không gói ǵ cả, chỉ nếp thôi. Xanh tượng trưng cho hướng đông, trắng tượng trưng cho hướng tây, cả hai thể hiện trục hoành, trong dịch học trục hoành thể hiện thế giới hiện tượng, nơi có sống chết. Xanh, hướng đông tượng trưng cho sự sống, trắng, hướng tây tượng trưng cho thế giới âm, hành Kim, cho nên ở nước ta khi một người chết, người ta để một cái dao trên bụng và để tang trắng. Như vậy cái bánh này chính là hai trục và bốn hướng của sơ đồ vũ trụ, cụ thể là tượng trưng cho Trời – Nam, tượng trưng cho đất – Bắc, Xanh – Đông, trắng – Tây, tức là hai trục tung hoành, đối với bánh th́ ở giữa là nhưn ngon ngụ cho ơn dưỡng dục của cha mẹ, c̣n đối với vũ trụ th́ giữa chính là chữ Hiếu, như vậy hiếu đây là hiếu với trời đất, cha mẹ.
Văn hóa cốt lơi.
Đến ngày quy định, các anh em khác đem nhiều sơn hào hải vị nhưng vua cha lại thích hai loại bánh của Lang Liêu hơn, cho giải nhất rồi từ đó dùng để cúng tổ tiên mỗi khi Tết đến, cũng từ đó trở thành một loại h́nh văn hóa ẩm thực mang tính cội nguồn dân tộc. Lang Liêu lên làm vua, các anh em khác chia nhau các phương mà trấn giữ. Về sau ai cũng muốn làm thủ lĩnh nên lập trang, trại, phường riêng của ḿnh. Vua Hùng truyền ngôi lại cho con là Lang Liêu có nghĩa là vũ trụ chuyển sang Lạc thư, theo quái là Khôn trên, Càn dưới. Ta biết Khôn xưa kia ở nơi cung Tư, cái chổ mà Lang Liêu đang ở, tức chi Tư và quái Khảm, v́ vậy mới nói truyền ngôi lại cho Lang Liêu.
Về tên bánh: Chưng, giày.
Theo câu chuyện th́ bánh có tên là “chưng” và “bạc tŕ”, tuy nhiên dân gian vẫn gọi là bánh chưng và bánh giày, tất nhiên điều này không phải là ngẫu nhiên mà nó có lư do của nó, cũng như truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương mà dân gọi là thánh Gióng vậy, v́ vậy ta xem cái tên “giày” này như là một cái tên chính thức khác bên cạnh tên “bạc tŕ”. Có một điều lạ là trước giờ người ta bàn nhiều về chuyện bánh chưng, bánh giày, nhưng chủ yếu tập trung vào cái tên “chưng” cụ thể là âm [chưng]. Như câu chuyện đă mô tả, hai loại bánh này là tượng trưng trời đất hay âm dương, đă là âm dương th́ không làm sao chia cắt ra được, có nghĩa là hai cái tên ấy nhất định phải có sự liên quan mật thiết, nếu ta chỉ tập trung giải thích một tên thôi, không khéo ta lại làm sai lệch ư nghĩa cái tên ấy khi so sánh với tên kia. Ví dụ nếu cho âm [chưng] trong bánh chưng có nghĩa là chưng cất như chữ 蒸 mà câu chuyện đă dùng, vậy đâu là sự tương hợp cái tên “bạc tŕ” hay “Giày – giầy”, nó có chỉ ra được tính đối lập như âm với dương không. Với quan niệm như vậy xin tŕnh bày cách hiểu khác của tôi
Chưng.
Chữ Chưng蒸.
Chữ Chưng 蒸 [2] này, theo tôi nguyên thủy như h́nh minh họa, rất có thể người ta đă sửa lại đôi chút cho nó không c̣n nguồn gốc xưa để người Lạc Việt không thể nhận diện được, hoặc có thể do thuận bút khi viết mà đă trở thành như thế, điều này rơ ràng người phương Bắc không có nhận thức về Dịch học trong con chữ này.
Dưới bộ HỎA灬 Lửa, Nhất一 Đáy nồi – KIM金, Thủy – THỦY水, Bộ Thảo艹hay chữ Nhất一 – Nắp đậy – MỘC木, Bánh chưng ở giữa nước -THỔ土. Tất cả nói lên khái niệm ngũ hành.
Về tên “Chưng”.
Đại Nam Quốc Âm Tự Vị (1895-96) tác giả Huỳnh Tịnh Của viết:
1- Bánh chưng: bánh gói bằng nếp h́nh vuông, c̣n có tên là địa bính tức bánh tượng trưng cho đất vuông. Bánh được chưng hấp nên gọi là bánh chưng.
2- Bánh chưn: bánh vuông dẹp giống cái bàn chưn, cũng gọi là địa bính.
– Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh là “đun, nấu cách thủy”.
– Vương Lực cổ Hán ngữ tự điển (Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh, 2002) đă ghi cho chữ chưng 烝 một trong các nghĩa là “dụng hoả hồng khảo” 用火烘烤, nghĩa là dùng lửa mà nung.
Như thế nghĩa chữ Chưng trong bánh chưng không thích hợp với các nghĩa như đă nêu, trừ nghĩa 2 của Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, nhưng không phải với giải thích ấy. Thông thường người ta hiểu chưng có nghĩa là làm chín bằng hơi nước, nhưng trong Lĩnh Nam Trích Quái viết “煮而熟之- Chử nhi thục chi” có nghĩa là nấu (Chử) chứ không phải chưng. Đồng thời trên thực tế ai cũng biết là luộc hay nấu bánh, chứ chưa hề có chuyện chưng bánh chưng, ngay cả người viết Lĩnh Nam Trích Quái cũng hiểu thế nên mới viết là nấu. Nếu không phải nghĩa là chưng cất, th́ từ chưng này có nghĩa là ǵ? Có liên quan ǵ đến đất – Âm?
Theo tôi từ Chưng này có nghĩa là cái Chưn, chữ ngày xưa có thể là 申(cái chân) ngày nay đọc là Thân, [th] và [ch] đôi khi dùng thay nhau, như trái Thanh – Chanh, Bát Thánh Đạo, Chù thiền – Chùa chiền. Ta thường nói “Đầu đội trời chân đạp đất” v́ cái bánh tên là chưng, h́nh vuông tượng trưng cho đất, th́ nhất định khi đặt tên cho cái bánh ấy cũng phải có nét nghĩa liên quan đến đất. Cần thấy là triết lư âm dương ban đầu con người nghiệm từ bản thân mà ra, sau đó mới t́m thấy tính phổ quát của nó trong vũ trụ, cho nên tín ngưỡng phồn thực là tôn giáo đầu tiên của con người. Chính v́ chưng có nghĩa là chưn – Vuông – Âm nên các từ theo nó như giày, tày, tét phải là biểu tượng cho dương; đồng thời phải tṛn.
Dây buộc bánh chưng.
Khi gói, để bánh khỏi bị bể khi nấu, người ta có thể buộc nhiều dây, nhưng khi đem cúng, người xưa chỉ để có 4 dây mà thôi. Bốn dây này làm thành cửu cung như h́nh minh họa; đồng thời c̣n vẽ ra trên ấy một con chữ có từ ngàn xưa mà hầu như ít ai quan tâm, chỉ có những người làm ra nó mới biết sự liên quan giữa cái bánh và con chữ chỉ nguồn gốc dịch học, mà cũng là nguồn gốc chữ vuông của người Việt mà thôi, đó là chữ Tỉnh井, nghĩa là cái giếng. Chữ Tỉnh 井tượng trưng cho Lạc thư – Hậu thiên Bát quái, tức Thái cực, v́ người Việt là người Nam thuộc Thái cực – Dương. Chính v́ vậy mà tiền nhân nước Việt đă viết truyền thuyết Việt Tỉnh Cương, thường dịch là Giếng Việt. Lạc Thư được sinh ra từ Hà Đồ, v́ vậy ta thấy trong chữ Đồ圖 triện thể có chữ Tỉnh井.
Nghĩa từ GIÀY (Giầy – dày). Bạc tŕ bỉnh.
Như Lĩnh NamTrích Quái mô tả “Lại lấy nếp nấu xôi đem giă cho nhuyễn, nhào thành h́nh tṛn để tượng trưng cho trời, gọi là bánh bạc tŕ” [3]. Như vậy để làm được bánh giày phải qua công đoạn giă, mà giă th́ phải dùng chày – Dương, tất nhiên là phải để xôi trong cối – Âm. H́nh ảnh và khái niệm chày cối là tượng trưng cho âm dương được ghi lại trên trống đồng. Sau khi làm thành chiếc bánh rồi, người ta cầnmột cái tên cho nó, vậy phải đặt tên như thế nào. Tất nhiên cái tên ấy phải nói lên được việc làm của họ; đồng thời phải có tính Dương và dĩ nhiên không thoát khỏi khái niệm phồn thực trong h́nh thể, cụ thể là cái chày họ đang sử dụng. Từ suy nghĩ đó, họ cần có một cái tên mà nội hàm cái tên ấy phải liên quan đến khái niệm chày, không ǵ hơn là gộp cả hai việc Giă và Chày lại thành một âm để đặt tên cho cái bánh, chữ Giày ra đời theo cách đọc phản Giă – Chày thành Giày Chă (Có lẽ từ Chă cũng từ đây mà có). Đây là cách mà người xưa đă sử dụng để tạo ra từ mới, nhưng vẫn mang được nét nghĩa của thành phần mà nó tạo ra. Từ “nón” là một ví dụ khác, từ này chỉ vật đội trên đầu che mưa nắng, nhưng tại sao lại gọi là cái nón? Theo tôi, v́ h́nh dáng của cái nón giống như ngọn núi hay ta gọi là h́nh núi, ta thường nói “núi non”, đọc phản thành “nón nui”, từ đó ta có từ “nón”, với h́nh dáng là ngọn núi. Như vậy từ Giày có liên quan đến quá tŕnh chế biến cái bánh tượng trưng cho Trời, chính v́ vậy từ Giày cũng mang nét nghĩa của sự giày xéo, chà đạp, làm cho nát và có tính Dương, Giày – Chày [4]. Về sau khi người ta làm ra cái bọc lấy bàn chân (chưn) người ta cũng sử dụng từ Giày như là một danh từ để gọi, từ đó mới có từ giày, như trong “đôi giày”. Nguyên nhân theo tôi, v́ nó thể hiện tính khắng khít của âm dương, Giày th́ phải ôm lấy chân chứ, như âm ôm dương vậy; đồng thời nó là vật dùng để đạp lên hay giày xéo.
Trong quá tŕnh sinh hoạt, từ hai loại bánh với hai cái tên như ta đă biết, theo vùng miền, nó c̣n có các tên khác, mặc dù cũng chỉ để chỉ hai khái niệm âm dương mà thôi, như Chưng – Tày, Chưng – Tét, Tày – Ú.
7.3. Nghĩa từ TÀY.
Ngoài tên bánh Chưng – bánh Giày c̣n có bánh Chưng – bánh Tày. Vậy chữ Tày nghĩa là ǵ mà đi liền với từ Chưng? Ở vùng Phú Thọ và một vài vùng ven Hà Nội, hiện nay vẫn c̣n gói bánh này, gọi là bánh Chưng Tày hay bánh Tày, c̣n có tên khác là bánh đ̣n, giống với bánh tét miền trung và miền nam. Vậy Tày nghĩa là ǵ? Theo tôi từ Tày là một từ phái sinh từ Tay (cánh tay). V́ từ chưng trong bánh chưng có nghĩa là chưn, th́ việc nó đi liền với tay là chuyện b́nh thường, chỉ sự liên kết chặt chẽ, như “Anh em như thể tay chưn”, cũng như âm luôn luôn đi liền với dương vậy. Tuy nhiên, trong quá tŕnh sử dụng nó bị trầm hóa, từ tay thành tày, cũng có thể do ảnh hưởng bởi từ giày trước đó. Chuyện này rất phổ biến đối với người Việt khi đọc các âm cuối không dấu, như Uber = U bờ, Viber = Vai bờ, Toyota = Tô dô đà. Ngoài ra, sở dĩ tôi cho [tày] là [tay] v́ câu chuyện bánh chưng, bánh giày mang ư nghĩa âm dương, dịch lư. Như ta biết căn bản của dịch lư là Thái cực (lư số = 10) sinh nhị nghi – tứ tượng – Bát quái – 64 quẻ (6+4=10). Ta có thể liên tưởng 10 ngón chân và 10 ngón tay. Tay chân là một cặp đối đăi như trên dưới, trong ngoài, phải trái, âm dương.
7.4. Nghĩa từ TÉT.
Bên cạnh các cặp từ Chưng – Giày, Chưng – Tày ta c̣n có cặp từ khác đó là Chưng – Tét. Vậy từ Tét trong trường hợp này nghĩa là ǵ?
Đại Nam quấc âm tự vị của Húnh-Tịnh Paulus Của ghi:
“Tét: Tước ra, xé ra, tách ra”; rồi “Tét bánh: Dụng dây nhợ mà siết đ̣n bánh ra từ lát, từ khoanh”.
Bánh Tét là bánh có h́nh tṛn dài như bánh Tày và có vai tṛ như từ Giày – Tày, do đó nó cũng có nghĩa là dương – trời, đối lại với chưng, có h́nh vuông biểu tượng cho âm – đất. Ta có các từ liên quan như Tước – Tách – toát – toét đều chỉ việc dùng một cái ǵ đó làm cho một vật khác bể ra thành hai hay nhiều phần. Giải thích và ví dụ trên chỉ đúng một nữa, v́ nếu gọi là bánh Tét do bánh bị tét bởi sợi dây mà đặt tên th́ nó có liên quan ǵ đến từ chưng, mà như ta biết, chưng tượng cho đất -âm, giày, tày, tét tượng trưng cho trời – dương, có nghĩa là cặp từ này phải có mối liên quan chặt chẽ như âm với dương. Theo tôi nghĩa của từ này đơn giản đă nằm trong tên bánh – Bánh Tét, có nghĩa là cái bánh này dùng để tét, ở đây là tét cái bánh chưng, như vậy người ta đă căn cứ vào chức năng của cái bánh mà đặt tên. Điều này không phải cá biệt, như cây viết, sở dĩ nó được gọi với cái tên viết v́ nó dùng để viết, lí ra phải gọi là bút mới chính xác. Như đă nói trên, thuyết âm dương, phồn thực ban đầu xuất phát từ sự chiêm nghiệm bản thân, về sau mới thăng hoa thành triết thuyết, nhưng cho dù có phát triển như thế nào th́ khái niệm ban đầu vẫn là khái niệm căn bản.
7.5. Bánh Tày – Ú.
Từ Tét này chỉ có ở miền trung và miền nam, có thể sau khi sử dụng Tét thay Tày, người ta lại sáng tạo nên một cặp từ khác đó là bánh Tày – Ú. Bánh Tày miền trung nhỏ chỉ độ bằng gang tay, thường th́ hai cái úp vào nhau, có h́nh hơi tṛn, c̣n bánh Ú th́ giống h́nh cái vú, có lẽ ú là cách nói trại tù vú mà ra, tượng trưng cho âm. Tày – Dương, Ú – Âm. Tày ú là phái âm của Tay Vú, tức Dương Âm. Ta có thể h́nh dung ra đều đó trên cơ thể con người, tay th́ luôn chuyện động – Dương, Vú th́ không chuyển động, nhưng có thể nuôi con – Âm.
II. THÔNG ĐIỆP CỦA NGƯỜI XƯA.
Thời điểm tuế chung tức cuối năm và Tết vào lúc nào?
Đă từ lâu, thời điểm cuối năm âm lịch của nước ta là lúc giao thừa, tức là 12 giờ đêm hay giờ Tư ngày 30 tháng 12 âm theo lịch Kiến Dần; đồng thời ta gọi thời gian này là Tết. Tuy nhiên truyền thuyết “Chưng bính truyện” này cho ta biết tuế chung vào tháng 1 tức tháng Tư. Tại sao vậy? Xin giải thích như sau:
Quan điểm của người Việt, tức là dân tộc đă làm ra lịch Kiến Tư, mọi việc bắt đầu từ Tư hay chỗ phân chia Âm Dương, PM và AM, v́ vậy Can bắt đầu với Giáp, Chi bắt đầu với Tư, Số bắt đầu là 1, như vậy mới thống nhất hệ thống dịch học, cho nên lịch Kiến Dần không có số bắt đầu, tức số 1, là một khiếm khuyết của nhà Hán, v́ Chánh Nguyệt không thể là tháng 1 được. Dĩ nhiên Tết cũng theo nguyên tắt trên, có nghĩa là phải nó phải là Tết hay Tiết đầu tiên, tức là Tết Nguyên Đán, bắt đầu từ tháng Dần, quái Cấn. Có nghĩa là ngày xưa dân ta cũng ăn Tết như hiện nay. Nói như thế thấy khó hiểu quá, v́ cuối năm là tháng Tư, sao lại ăn Tết tháng Dần. Người đọc cần để ư, ngày xưa người ta tính một canh giờ bằng 2 giờ hiện nay, tức giờ Tư là từ 23 giờ tới 1 giờ sáng, có nghĩa là bắt đầu sau 1 giờ sáng mới tới giờ Sửu, lúc đó mới sang ngày mới, nhưng người ta chọn điểm giữa để định vị – Tư. Đó là giờ, ở đây là Tết, ta biết Tết (Tiết) cuối cùng bắt đầu từ Lập đông, đầu tháng 10 – Hợi, theo Ruộng lịch, cho đến Đại hàn cuối tháng Chạp hay 12 – Sửu, như vậy đầu tháng Giêng – Dần mới bắt đầu Tết mới. Đây là lư do v́ sao nói tuế chung là tháng Tư mà năm mới lại tháng Dần. Trong dịch học người ta chia vũ trụ thành hai, một là theo hai trục Tung Hoành, tức Tư Ngọ, đây là cách chia âm dương theo thời gian thuộc Can Chi, hai là chia theo trục Đông Bắc – Tây Nam, đây là cách chia âm dương theo tứ tượng – bát quái, cả hai đều chia vũ trụ làm hai hay Tét vũ trụ làm hai. Do đó từ TẾT mang đủ cả hai khái niệm này. (Xem h́nh minh họa).
Như đă đề nghị trên, từ Tét trong bánh tét là cái bánh dùng để tét, ở đây là nó tét cái bánh chưng. Bánh chưng h́nh vuông, bánh tét tṛn dài, đây chính là h́nh ảnh của chữ Giáp 甲. Chữ Giáp 甲 gồm Điền 田 – Vuông – Bánh chưng – Đất – Âm, Cổn – 丨(nghĩa là trên dưới thông nhau) – Bánh tét – Dương. Tét là làm cho một vật bể hai, ở đây Tư, Giáp, 1 chính là điểm chia vũ trụ làm hai, hay ta có thể nói đó là điểm Tét, v́ vậy mà ta gọi cái bánh tṛn dài là bánh tét, v́ nó là trục Tung của vũ trụ hay chữ Cổn丨với nghĩa cho trên. Ta có thể minh họa như sau.
Với những ǵ phân tích trên ta có thể khẳng định Tết là một cách gọi khác của Tét, chính v́ vậy ngày nay ta vẫn c̣n tồn lưu những cách nói về tết như sau: Cười tư toét, toét là cách gọi khác của tét, Tết mà không cười sao được, Giáp tết. Tết th́ ở cung Giáp, v́ Giáp và Tư là điểm khởi đầu th́ cũng là điểm tuế chung. Tết nhất, nhất là một, tết th́ ở tháng 1. Tết Cả, người ta cho rằng Cả là âm xưa của Giáp. Thuyết văn giải tự cho Cổ hạp thiết古狎切= Cạp.
Về ngữ âm Tết và Tiết.
Như đă nói trên, Tiết chỉ là phái âm của Tết chứ không phải Tết là đọc trại từ Tiết như ta vẫn thường nghe, cụ thể thuyết văn giải tự cho âm chữ節 như sau:
節. 竹約也。从竹即聲。子結切.
Tết. Trúc ước dă, Tùng trúc tức thanh. Tử kết thiết.
Trúc ước vậy. Bộ trúc âm tức. Đọc là. Tử kết – Tết.
Rơ ràng Thuyết văn giải tự cho âm Tết chứ không phải tiết.
竹約也。約、纏束也。竹節如纏束之狀。吳都 賦曰。苞筍抽節。引伸爲節省、節制、節義字 。又假借爲符卪字。从竹。卽聲。子結切。十 二部。
Trúc ước dă. Ước, phược thúc dă. Trúc tiết như phược thúc chi trạng Ngô Đô phú viết. Bao duẩn trừu tiết. Dẫn thân vi tiết tỉnh, tiết chế, tiết nghĩa tự. Hựu giả tá vi phù tiết tự. Tùng trúc, tức thanh. Tử kết thiết.
Trúc ước vậy. Ước là trói buộc vậy. Trúc tiết giống như bị trói buộc. Ngô Đô phú viết. Mụt măng mới nhú. Từ đó có các từ tiết tỉnh, tiết chế, tiết nghĩa. Lại dùng thay chữ phù tiết. Bộ trúc, âm tức, đọc là TẾT.
Như vậy rơ ràng chữ 節âm hiện nay là Tiết, nhưng âm cổ là TẾT.
Một lần nữa tôi đặt ra câu hỏi ở đây là ai viết cuốn Thuyết văn giải tự này, người Việt hay Hán? Với những ǵ trích dẫn trên ta có thể nói tiền nhân nước Việt đă viết cuốn tự điển này, nếu không cái âm Tết của người Việt ở đâu mà được ghi lại trong tự điển này chính xác đến vậy, thế mà người ta cứ giải thích măi Tết là đọc trại của Tiết, một từ Hán Việt, mà lại là người có tiếng nói trọng lượng trong vấn đề văn hóa nước nhà nữa mới đáng buồn. Không những thế phương bắc đă bịa đặt ra cái đốt tre, xin giải thích như sau.
Phương Bắc học lại, hiểu sai.
Ở đây xin bàn về nghĩa của chữ節, trong các tự điển phổ thông đều cho một trong nét nghĩa của chữ 節 là đốt hay đoạn, tuy nhiên với những giải thích của Thuyết văn giải tự, ta thấy chẳng có chổ nào nói 節là đốt hay đoạn cả, chỉ nói trúc tiết t́nh trạng như bị trói buộc vậy -竹節如纏束之狀, nhưng trước đó lại giải thích 節 là Trúc ước. Ước, phược thúc dă -竹約也。約、纏束也. Theo tôi Trúc ước 竹約 có nghĩa là một cuộn gồm nhiều thanh tre bó lại, đây chính là cuốn sách bằng tre ngày xưa, ngày nay ta vẫn thường thấy trên phim Tàu đấy thôi, từ đó mới có nghĩa là Phược thúc 纏束Trói buộc. Như vậy 竹約 có nghĩa là cuốn sách bằng các thẻ tre ghi lại sự đổi thay của trời đất trong mỗi tiết người ta cuộn lại thành một bó, cái mà về sau thành Nông lịch, ở đây là sự thay đổi của thời tiết theo từng chu ḱ, cụ thể là tám tiết. Như vậy chữ Trúc 竹 ở đây không phải là cây tre mà là loại văn bản xuất phát từ thời nhà Chu. Ước約 là những giới hạn hay những điều khoảng đă giới hạn trong văn bản đó, như ngày nay ta có hiệp ước, minh ước. Như vậy Trúc ước là một văn bản bằng thẻ tre ghi lại những mốc thay đổi của thời tiết trong một giai đoạn cụ thể chứ chẳng có đốt tre nào ở đây cả, người phương bắc sau khi tiếp nhận lịch của phương nam rồi không biết nên tưởng tượng ra cái đốt tre, từ đó các sách vở mới có nghĩa và các chữ mang nét nghĩa đó. V́節 có âm là Tết, có nghĩa là bó lại cho nên ngoài cái nghĩa ngày Tết, người Việt c̣n dùng với nghĩa bó lại như trong “tết tóc”.
Tại sao gọi là Tết Nguyên đán?
Ngoài các nghĩa đă nêu trên, tết trong âm lịch c̣n gọi là Tết Nguyên đán 節元旦. Nguyên” 元 có nghĩa là bắt đầu hay thứ nhất, đán 旦 – Sớm, lúc trời mới sáng gọi là Đán. Với hai từ Nguyên đán 元旦 theo tôi có nghĩa là cái dương khí đầu tiên của một ngày, một tháng, một năm. Căn cứ vào sơ đồ vũ trụ, nó chính là thời điểm cuối cùng của tháng Chạp, theo tiến tŕnh của tứ tượng, đây là thời điểm dương thịnh, âm suy, tất nhiên âm mới suy thôi và dương cũng mới bắt đầu thịnh, v́ vậy nó được thể hiện bằng quái Cấn 艮 , một hào dương xuất hiện trên đầu, hai hào âm bên dưới, đây mới là nghĩa biểu ư của chữ Đán 旦. Điều này đă được người Tổ tiên nước Việt nhắc nhở rồi, cụ thể là cái tên Lang Liêu 郎僚 và Tết 節. Cả hai chữ Lang 郎 và chữ Tết 節đều có chữ Cấn艮, thuộc tháng Chạp. Như vậy Tết Nguyên Đán chính là Tết của người Việt theo lịch Kiến Tư mà tôi đă phân tích ở trên.
Trả lời được câu hỏi này có nghĩa là ta phủ nhận tất cả những ǵ gọi là chữ Hán, văn hóa Hán trong đó có lịch Kiến Dần mà hầu hết người có học ở nước ta khẳng định chắc nịch rằng nó là văn hóa người Hán đem đến dạy cho ta. Có một điều mà tôi cứ băn khoăn măi không biết trả lời sao, đó là từ lâu ở nước ta có câu thành ngữ “Một, chạp, giêng, hai” hay “1,chạp, giêng, 2” ngày nay có thể một số người không biết nhưng vài mươi năm trước hầu như những người có chữ, nhất là liên quan đến văn chương, lịch sử nhất định biết câu này, thậm chí ngày nay ta vẫn t́m thấy trên liên lưới rằng đó là câu nói tóm tắt lịch Kiến Tư, thế mà chưa một tài liệu nào nghiên cứu tại sao tiền nhân nước Việt lại nói như vậy. Có thể có ai đó cũng đă nỗ lực nhưng đành bỏ cuộc v́ không có ǵ để nối kết với câu thành ngữ nói trên, mà cũng có thể là sau nhiều năm bị tuyên truyền của phương bắc, sức đề kháng của dân ta bị tê liệt, cho dù có nói ra th́ bị ngay chính lực lượng có học trong nước cho là điên, làm ǵ có Lịch Việt, chữ Việt, Tết hả, là từ phái âm của Tiết 節, một từ Hán Việt, điều này hết sức phố biến, ai quan tâm th́ lên liên lưới thấy liền, cho nên đành buông xuôi thôi.
May sao, ngoài câu thành ngữ “1, Chạp, Giêng, 2” tiền nhân c̣n viết thêm câu chuyện này, Chưng bính truyện là một bằng chứng cho thấy câu thành ngữ “1, Chạp, Giêng, 2” có cơ sở, điều này tôi đă chứng minh ở trên. Khi đă khẳng định rằng trước khi sử dụng lịch Kiến Dần, dân tộc ta đă dùng lịch Kiến Tư th́ tiếp theo sẽ có những vấn đề cần được giải quyết như đă nêu trên.
Dân tộc ta dùng lịch Kiến Tư khi nào?
Ta biết rằng nhà Chu cũng dùng Lịch Kiến Tư, vậy có lẽ lịch Kiến Tư của ta cũng không khác ǵ lịch Kiến Tư nhà Chu, hay nói khác hơn có thể dân tộc ta đă dùng lịch Kiến Tư song hành với nhà Chu, điều ấy có nghĩa là dân tộc ta đă dùng lịch Kiến Tư trước khi nhà Hán được Lưu Bang lập nên và đổi lịch thành Kiến Dần mấy trăm năm. Điều này cho thấy chuyện Sĩ Nhiếp mở nền Hán học ở nước ta là một ngụy sử.
Lịch Kiến Tư dựa trên cơ sở nào?
Với những ǵ phân tích câu chuyện trên ta có thể khẳng định lịch Kiến Tư căn cứ vào hệ thống dịch học. Như vậy trước khi nhà Hán xâm lăng nước ta, người Việt đă nằm ḷng hệ thống dịch học rồi. Vậy ai dạy người Việt Dịch học, người Hán chăng!? Thật là chuyện đổi trắng thay đen.
Lịch Kiến Tư viết bằng chữ ǵ?
Tất nhiên lịch Kiến Tư được viết bằng chữ Khoa đẩu hay chữ Vuông, loại chữ mà ngày nay gọi là chữ Hán. V́ lịch Kiến Tư có trước lịch Kiến Dần rất lâu nên làm ǵ có cái gọi là từ Hán Việt, phải gọi là từ Việt Hán mới phải, từ Tết là một ví dụ.
IV. KẾT LUẬN.
Bánh chưng, bánh giầy là hai sản phẩm mang tính quốc hồn, quốc túy, ngày nay tuy ta có nhiều sản phẩm ngon hơn nhưng mỗi khi tết đến xuân về, đă là người Việt th́ không thể quên hai loại bánh này được, người ta không quên là v́ nó đă trở thành một sản phẩm văn hóa, chủ yếu là để thể hiện tính dân tộc, c̣n chuyện ăn chỉ là phần phụ mà thôi. Sở dĩ có được tinh thần đó là nhờ vào sự quyền biến của người xưa biến hai sản phẩm tầm thường đó thành hai sản phẩm mang tính tinh thần, tuy nhiên, theo năm tháng, bên cạnh việc tuyên truyền chống phá của ngoại bang, một số người Việt lại đặt vấn đề, rồi t́m ṭi nghiên cứu nhưng với khuynh hướng càng ngày càng Bắc hóa nguồn gốc bánh chưng. Sở dĩ tôi chỉ đề cập tới bánh chưng v́ hầu hết các bài nghiên cứu chỉ tập trung vào từ “chưng”, bàn riết rồi quên mất “chưng phải đi với giày” hay “âm phải đi với dương” kết quả là người ta đi quá xa so với truyền thuyết.
.
Như đă nói trên, hầu như đa số người nghiên cứu câu chuyện này có ư nghĩ rằng “chưng’” là chữ Hán cho nên đi với “giày” là khiên cưỡng nên chi họ không để tâm để nghiên cứu, chỉ tập trung vào từ “chưng” mà thôi, mà “chưng” là chữ Hán th́ chắc câu chuyện này người Việt xưa cũng học đâu đó của Tàu rồi viết lại với cái tên vua Hùng cho ra Việt mà thôi. Thực ra đâu phải “chưng – giày” là trường hợp duy nhất đâu, ta c̣n có “quê hương” cũng như vậy, trong từ ghép này Hương là từ gốc Hán c̣n Quê là thuần Việt chăng, không đâu, cả hai từ Quê và Hương đều là thuần Việt cả đấy thôi. Do quan niệm như vậy mà cho đến nay tên hai cái bánh quốc hồn quốc túy này vẫn chưa giải quyết xong, nếu không nói là trong thầm lặng, phần đa xem đó chỉ là văn hóa của Tàu, điều này có ảnh hưởng nhất định đối với đời sống văn hóa của dân tộc, nhất là đối với thế hệ trẻ ngày nay, giữa khi những tâm hồn non trẻ bị ồ ạt tấn công bởi các giá trị bên ngoài thông qua nhiều kênh thông tin, trong khi các bài nghiên cứu xem ra làm cho tinh thần của truyền thuyết càng ngày xa lạ. Mà cũng có thể người ta t́m thấy từ “chưng” trong truyện, c̣n “giày” chỉ là tên gọi trong dân gian mà thôi chứ trong truyện gọi là “bạc tŕ bỉnh”, chắc v́ chẳng hiểu v́ sao gọi cái bánh ấy là “bạc tŕ” nên cứ quên quách đi cho khỏe, c̣n “giày” chắc là do giới b́nh dân nước Việt, ít chữ nói thêm vào nên cũng chẳng quan tâm làm ǵ. Theo tôi, từ “giày” mới là cái tên chính của cái bánh h́nh tṛn trắng, v́ trước khi ghi thành truyền thuyết th́ câu chuyện ấy đă truyền nhiều đời trong dân gian rồi, nó cũng như “Thánh Gióng” vậy, v́ vậy bỏ “giày” đi “chưng” th́ thế nào cũng khập khiểng. Ngày nay người ta thường cho là bánh trái th́ phải có tên thanh tao, chứ cái bánh mà lấy cái “chưn” rồi đôi “giày” mà đặt tên e là vô lễ khi đem dâng cúng cho tổ tiên, nghĩ như vậy cũng không phải là không có lư, tuy nhiên từ “giày” trước đây có phải là đôi giày đâu, nhưng về sau người ta lại lấy cái tên ấy đặt cho cái ôm lấy cái “chưn” cho nên kể ra cái bánh với tên ấy mà đem cúng tổ tiên th́ cũng ngại thực, v́ vậy mà về sau người ta mới sáng tác ra từ “Tày – Tay”, rồi lại tiếp tục sáng tạo ra cái mới khác nữa như Chưng – Tày, Chưng – Tét, rồi Ú – Tày, nhưng cho dù gọi ǵ chăng nữa th́ cặp từ này phải phản ảnh hai khái niệm âm dương. Tóm lại dù tên gọi và h́nh dáng khác nhau nhưng rơ ràng ư nghĩa của nó thống nhất, đó là nói lên triết lư âm dương, nó không chỉ được biểu thị qua việc làm bánh để tưởng nhớ tổ tiên, mà qua đó khẳng định rằng triết lư Dịch học là sản phẩm của người Việt. Ngay cả các tên bánh Chưng – Giày – Tày – Tét đều là Nôm cả, đồng thời đều liên quan chặt chẽ đến tính phồn thực. Do tính tàn khốc của lịch sử, người Việt không thể nói ra điều đó trực tiếp được, nên họ t́m mọi cách để ghi lại nguồn gốc của triết thuyết đó thông qua các h́nh thức văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc ḿnh, như trống đồng, ông Táo, Cóc kiện Trời, Sơn Tinh – Thủy Tinh v.v.. Truyện bánh Chưng và bánh Giày không ngoài mục đích ấy..
Đây là thời khắc cuối năm hay tuế chung của năm Mậu Tuất, xin đưa bài này lên liên lưới, kính mong các quư vị quan tâm hăy phản biện, nếu cho rằng những ǵ tôi viết là bịa đặt, nhận vơ th́ xin cứ tiếp tục dạy con trẻ rằng xưa kia dân ta chẳng biết ǵ, tất cả văn hóa của ta có được là nhờ phương bắc, cụ thể là nhà Hán sang dạy ta cả, c̣n nếu thấy những ǵ tôi viết là có cơ sở th́ vui ḷng thôi đừng gián tiếp tuyên truyền măi cho Tàu rằng trước đây người Hán sang nước ta, dạy cho ta chữ viết, biết lễ nghĩa kể cả làm ruộng, nói như vậy chỉ làm phiền ḷng tổ tiên nước Việt mà thôi./.
Chú thích:
[1] H́nh thức hai loại bánh này bắt nguồn từ giấc mộng của Lang Liêu “或方或圓,以象天地之形” những câu tiếp theo chỉ mở rộng hai khái niệm Thiên Địa mà thôi, do đó trong câu以青色葉包裹為方形, 以象(天) 地包藏萬物焉-“- Lấy lá xanh gói thành h́nh vuông” . Đă là “方形phương h́nh tất là Địa chứ sao bao gồm cả Thiên, chữ Thiên天 trong câu này, theo tôi nhầm lẫn do trong quá tŕnh nhập liệu của người đời sau chứ nguyên văn trước chắc không có, ta có thể so sánh với câu sau đă nói về cái bánh h́nh tṛn “圓形viên h́nh” tượng trưng cho Thiên “捏作圓形以象天- Niết tác viên h́nh dĩ tượng thiên – Nhào thành h́nh tṛn để tượng trưng cho Trời”. Việc nhầm lẫn như vậy là chuyện b́nh thường, v́ vậy trong bản dịch này tôi bỏ chữ Thiên này, cụ thể là以象 天 地包藏萬物焉thành以象地 包藏萬物焉.
[2] Chữ chưng này蒸,烝 dưới bộ hỏa, trên chữ chưng. Theo tôi có thể ban đầu có thể là như thế này: Dưới bộ hỏa – chữ nhất – chữ thủy – chữ nhất (Lẽ nào nấu mà không có nước).Tuy nhiên có thể trong quá tŕnh viết nó đă biến thành chữ như trên. Lư do là viết như thế có thể là cho thuận bút.
[3] Theo tôi, có thể hai âm “bạc tŕ” này vốn là “bạch trĩ” tên gọi một loài chim h́nh dáng như gà, chỉ vô cực hay trời tức Hà đồ, v́ vậy mà có chuyện người Việt dùng truyền thuyết để nhờ Tàu giữ giùm, đó là Bạch Trĩ truyện, tương kế tựu kế mà.
[4] Về ngữ âm C thành G ta thấy trong Can – Gan, Cóc – Góc, Thuyết văn giải tự cho Giác – đọc là Cạc. Cổ nhạc thiết古岳切.
Viên Như