Những thách thức về an ninh mới, từ các cuộc tấn công mang đến những nhà nước yếu kém không thể bị ngăn chặn bởi mối đe dọa về sự trả đũa bằng quân sự, cũng như các hoạt động quân sự sẽ không phải là sự đáp trả thích hợp trong hầu hết các trường hợp. Thay vào đó, cần phải nhấn mạnh vào sự phòng ngừa tăng cường sức bền.

Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Nếu Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) muốn đóng một vai trò có ý nghĩa trong việc giải quyết những thách thức như vậy tổ chức này sẽ phải phát triển một sự hiểu biết rõ ràng hơn về bản chất của những thách thức này, xây dựng các mối quan hệ chặt chẽ hơn với các quốc gia và các thể chế khác, và tìm kiếm những sự cộng tác với khu vực tư nhân. Trên hết, các nước đồng minh sẽ phải sử dụng NATO như một diễn đàn để thảo luận về những thách thức về an ninh đang nổi lên và những ảnh hưởng của chúng.
Vào ngày 27/4/2007, Êxtônia đã trở thành nạn nhân của một cuộc tấn công mạng lớn. Trong vòng 3 tuần, các máy chủ của Quốc hội, các bộ, các ngân hàng và phương tiện truyền thông đại chúng của một nước thành viên nhỏ khu vực Bantích của Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) này đã bị phá vỡ hay bị làm tê liệt bởi một cuộc tấn công đã sử dụng các máy chủ ở hơn 100 quốc gia. 6 năm sau cuộc tấn công vào Niu Yoóc và Oasinhtơn, khi một nhóm những kẻ khủng bố được chỉ dẫn từ Ápganixtan đã tìm cách tiến hành một cuộc tấn công chiến lược nhằm vào cường quốc quân sự mạnh mẽ nhất của thế giới bằng việc sử dụng các biện pháp hoàn toàn phi quân sự, các chuyên gia mạng của NATO đã trải qua sự kiện “11/9” của chính họ.
Tuy nhiên, không giống như vào ngày 11/9/2001, các cuộc tấn công vào Êxtônia đã không dẫn đến sự viện dẫn điều khoản phòng thủ tập thể của Hiệp ước Oasinhtơn, cũng không có hoạt động quân sự nào chống lại những kẻ bị cho là thủ phạm. Mô hình Ápganixtan không phù hợp với một cuộc tấn công mạng nặc danh. Cả sự răn đe lẫn sự trả đũa không tỏ ra là những loại hình hữu ích. Chỉ còn lại một sự lựa chọn: trong tương lai, cơ sở hạ tầng điện tử của các nước đồng minh sẽ phải được củng cố tới mức những cuộc tấn công như vậy sẽ không gây ra quá nhiều thiệt hại.
Sự tăng lên đều đặn của những cuộc tấn công mạng trên khắp thế giới chứng tỏ rằng những gì đã xảy ra ở Êxtônia vào năm 2007 không phải là một sự kiện khác thường. Những cuộc tấn công mạng cũng không phải là thách thức an ninh duy nhất không thể được ngăn chặn bởi sự đe dọa trả đũa bằng quân sự. Chủ nghĩa khủng bố, các cuộc tấn công mạng, “những nhà nước thất bại”, Sự phổ biến các vũ khí hủy diệt hàng loạt, và sự dễ bị tổn hại ngày càng tăng của nguồn cung năng lượng và nguyên liệu thô, và các thảm họa nhân đạo là những diễn biến vượt ra bên ngoài mô hình răn đe. Các hoạt động quân sự cũng sẽ không được coi là sự đáp trả thích hợp trong hầu hết các hoàn cảnh. Câu trả lời thực sự đối với những thách thức phi truyền thống này vượt ra ngoài sự răn đe và trả đũa: chúng nằm ở sự phòng ngừa và tăng cường sức bền. Đối với NATO đang theo đuổi việc báo vệ an ninh của gần 900 triệu dân, điều này có nghĩa là một sự thay đổi đáng kể theo cách thức suy nghĩ và hành động của tổ chức này.

An ninh từ địa lý đến chức năng
Sự không thỏa đáng của một đường hướng bị động và dựa trên sự tra đũa đã được nhận ra kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh. Những đặc trưng của giai đoạn đó – một kẻ thù hữu hình đơn lẻ, các khả năng quân sự cân xứng thời gian cảnh báo dài và, trên hết, giả định rằng các đối thủ sẽ được dẫn dắt bởi một tính toán quan hệ lỗ-lãi hợp lý – đã khiến sự răn đe hạt nhân trở thành phương tiện thích hợp (và khả thi) để ngăn chặn chiến tranh. Những đặc điểm này từ lâu đã không còn nữa. Những nỗ lực ban đầu không thành công của NATO sử dụng ảnh hưởng tiết chế đối với các cuộc xung đột do sự tan rã của Nam Tư vào đầu những năm 1990 là một sự nhắc nhở mạnh mẽ về việc cần thiết phải có một đường hướng khác. Một chính sách mà trong 40 năm đã xoay quanh sự phô trương sức mạnh đã không mang lại bất cứ lựa chọn hữu ích nào trong một cuộc xung đột giữa các bên thứ ba. Các cuộc xung đột ở các nước Tây Bancăng có thể chỉ được ngăn chặn bằng sự can thiệp quân sự.
Sự can dự quân sự của NATO ở Tây Bancăng, mà đã giúp chấm dứt các cuộc xung đột ở khu vực này và đã mang lại một môi trường an toàn cho sự khởi đầu mới, là dấu hiệu đầu tiên cho thấy sự thay đổi hướng tới một đường hướng tích cực hơn. Do đặc trưng mới của nhiệm vụ dành cho NATO này và những ảnh hưởng tiềm tàng của nó đối với châu Âu nói chung và vai trò trong tương lai của Liên minh này nói riêng, quyết định trở nên can dự đã chỉ đến sau các cuộc tranh luận kéo đài và đau đớn giữa các nước đồng minh. Tuy nhiên, quyết định can thiệp vào Ápganixtan sau các cuộc tấn công khủng bố “11/9” được thực hiện gần như ngay lập tức, mà không có các cuộc tranh luận kéo dài. “Hội chứng ngoài khu vực” đã ngăn cản NATO dự tính hành động quân sự bên ngoài khu vực Hiệp ước NATO cuối cùng đã mất đi.
Tuy nhiên, ngay cả sự thay đổi hậu “11/9” từ sự lý giải về an ninh mang tính địa lý sang mang tính chức năng sẽ không đủ để NATO đương đầu với các thách thức của đầu thế kỷ 21. Một mặt, nhiều vấn đề của sứ mệnh Apganixtan để lộ rằng cái giá cao của những sự can dự lớn về mặt quân sự sẽ phải trả chỉ trong những hoàn cảnh nghiêm trọng nhất. Mặt khác, mối quan hệ giữa một hành động khủng bố cụ thể và một “nhà nước thất bại” hơn bao giờ hết khó có thể rõ ràng như so với trong trường hợp mối quan hệ giữa sự kiện “11/9” và Apganixtan. Do đó, trong khi sự sẵn sàng can thiệp về mặt quân sự mà không có những giới hạn về mặt địa lý là không thể thiếu được đối với bất cứ chính sách an ninh có ý nghĩa nào trong thời đại toàn cầu hóa, nó không đủ để giải quyết một loạt các nguy cơ và các mối đe dọa.
Môi trường an ninh đang, nổi lên
Nhìn vào môi trường an ninh đang nổi lên chứng minh sự khẳng định này. Theo một phân tích chủ đạo, những thập kỷ sắp tới sẽ chứng kiến sự suy giảm về chủ quyền nhà nước, sự chuyển giao quyền lực từ các nhà nước sang các mạng lưới quốc tế hay phi nhà nước, và sự tăng sức mạnh tàn phá của các bên tham gia phi nhà nước này. Một tiến triển quan trọng khác là việc tiếp tục dựa vào việc tạo ra năng lượng hạt nhân dân sự. Ngoài những thách thức về vấn đề an toàn về mặt kỹ thuật, việc sử dụng năng lượng hạt nhân có thể gây ra những nguy cơ đáng kể về phổ biến hạt nhân quân sự. Tối thiểu là nó sẽ dẫn đến việc tăng số nhà nước “thực sự” có vũ khí hạt nhân, khả năng chuyển hóa các chương trình hạt nhân dân sự của họ thành các chương trình hạt nhân quân sự trong một thời gian ngắn. Như Khái niệm chiến lược 2010 của NATO lưu ý, “trong thập kỷ tới, sự phổ biến vũ khí hạt nhân sẽ nghiêm trọng nhất ở một số khu vực bất ổn nhất của thế giới.
Một đặc trưng khác của môi trường an ninh đang nổi lên là hiện tượng các “nhà nước đang thất bại” đang tiếp diễn. Khi nhiều trong số những không gian không được cai trị này có thể trở thành nơi luyện tập cho các nhóm khủng bố hay nơi trú ẩn an toàn cho những kẻ cướp biển, những kẻ buôn ma túy và buôn người, những ảnh hưởng an ninh của “sự thất bại” của các nhà nước này sẽ vượt ra ngoài nơi xuất phát của chúng. Những cuộc tấn công mạng, mà đã trở thành một hình thái mới của cuộc chiến tranh cấp thấp diễn ra thường xuyên, sẽ tăng hơn nữa về tần suất và độ tinh vi, chuyên từ việc làm gián đoạn các dịch vụ đến việc phá hủy hoàn toàn phần cứng. An ninh năng lượng cũng sẽ trở thành một mối lo ngại ngày càng tăng. Như Khái niệm an ninh đề cập đến vấn đề này, “một số nước thuộc NATO sẽ trở nên phụ thuộc hơn vào các nguồn cung năng lượng từ nước ngoài và trong một số trường hợp, vào các mạng lưới cung cấp và phân phối năng lượng từ nước ngoài phục vụ cho các nhu cầu năng lượng của họ. Khi một phần tiêu thụ lớn hơn của thế giới được vận chuyển trên khắp toàn cầu, các nguồn cung năng lượng đang ngày càng dễ bị phá vỡ”.
Những tiến triển này có thể bị trầm trọng thêm bởi những sự thay đổi về chính trị và môi trường khác. Một sự thay đổi như vậy là sự nổi lên của các bên tham gia toàn cầu mới, thường không muốn tham gia theo các quy tắc mà họ xem là phần lớn được phát triển bởi – và phục vụ các lợi ích của – phương Tây. Một sự thay đổi khác có thể là sự thay đổi khí hậu, không chỉ dẫn đến việc tăng các thảm họa thiên nhiên mà còn làm nảy sinh các thách thức khác từ an toàn lương thực đến các đại dịch.
Hướng tới sự phòng ngừa và sức bền
Trong khi bức tranh này còn lâu mới được hoàn thành, nó chứng tỏ tại sao đường hướng dựa trên sự răn đe sẽ là không đủ nếu NATO muốn đóng một vai trò đầy ý nghĩa trong môi trường an ninh mới này. Chẳng hạn, các cuộc tấn công khủng bố ở đường xe điện ngầm hay trên máy bay không thể được ngăn chặn bằng sự đe dọa trả đũa về mặt quân sự mà chỉ bằng sự hợp tác của cảnh sát và cơ quan tình báo. Vì thế kịch bản được thảo luận thường xuyên về “bom bẩn” của bọn khủng bố gây ra sự hoảng sợ bằng việc phát tán vật liệu kích hoạt phóng xạ cũng vượt ra ngoài lôgích cổ điển về sự răn đe. Ngược lại, thực tế là kể từ sự kiện “11/9” nhiều vụ tấn công khủng bố đã bị dẹp tan bởi sự hợp tác của cảnh sát và cơ quan tình báo nhấn mạnh khía cạnh ngăn ngừa của chính sách an ninh hiện nay. Các công nghệ mới sẽ giúp phát hiện các thiết bị phát nổ hay lần ra nguồn gốc của chúng do đó sẽ co ý nghĩa quan trọng. Điều tương tự cũng áp dụng cho các biện pháp hạn chế thiệt hại sau một cuộc tấn công khủng bố thành công. Một lần nữa, mô hình răn đe và trả đũa cổ điển không áp dụng được, cũng như các hoạt động quân sự sẽ không tạo thành sự đáp trả thích hợp.
Lôgích tương tự áp dụng cho các cuộc tấn công nhằm vào cơ sở hạ tầng năng lượng trọng yếu. Dù đó là các cuộc tấn công khủng bố nhằm vào các đường ống dẫn dầu hay các cuộc tấn công mạng nhằm vào các mạng lưới của các cường quốc: sự răn đe bằng đe dọa trả đũa quân sự cũng không thích hợp như hoạt động quân sự chống lại những kẻ thủ phạm (phần lớn là nặc danh). Như với phòng thủ mạng, chìa khóa đối với an ninh nằm ở sức bền của bản thân cơ sở hạ tầng: những dư thừa khiến cho có thể đảm bảo lưu lượng dầu khí không bị gián đoạn, sự sửa chữa nhanh chóng những đường ống dẫn bị hư hại có thể duy trì thiệt hại trong những giới hạn có thể chấp nhận được, và các hệ thống điện tử ở các trung tâm kiểm soát phải được thiết kế theo một cách như vậy để “vượt qua” ngay cả một đòn tấn công mạng phức tạp.
Nguyên tắc hạn chế thiệt hại cũng đang có ý nghĩa quan trọng đối với vấn đề phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt. Khi sự toàn cầu hóa mở ra các khả năng mới cho sự chuyển giao tri thức và công nghệ, số nhà nước có các vũ khí hạt nhân, sinh học và hóa học có thể tăng lên. Việc này có thể dẫn đến một nhóm các mối quan hệ răn đe, mà hầu như không có điểm tương đồng với tình thế đối đầu hạt nhân lưỡng cực của Chiến tranh Lạnh. Lôgích răn đe bằng sự đe dọa trừng phạt sẽ vẫn là không thể thiếu được đối với kể cả sự kiềm chế về quân sự trong các nước, là lí do tại sao NATO tuyên bố rằng tổ chức này sẽ vẫn là một liên minh hạt nhân chừng nào các vũ khí hạt nhân vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên, một hệ thống răn đe có đặc trưng là nhiều cổ đông sẽ yếu hơn, do việc thiếu tính minh bạch và tính có thể dự đoán được sẽ khiến một hệ thống như vậy có xu hướng thất bại về mặt kỹ thuật và tính toán sai lầm về mặt chính trị hơn. Một lần nữa cần phải tăng cường tập trung vào phòng ngừa và sức bền: phòng ngừa thông qua một chính sách không phổ biến hạt nhân tích cực, những sự kiểm soát và những sự trừng phạt xuất khẩu; sức bền thông qua các biện pháp phòng thủ mới chẳng hạn như việc thiết lập một hệ thống phòng thủ tên lửa rộng khắp NATO.
Ví dụ mới nhất về sự chuyển đổi mô hình là các hoạt động cứu trợ nhân đạo. Cho đến nay điều đã trở thành một sự nhất trí chung là sự thay đổi khí hậu là một thực trạng, rằng nó là không thể thay đổi được, và rằng nó sẽ có những ảnh hưởng nghiêm trọng về an ninh. Trong khi sự thay đổi khí hậu là một hiện tượng toàn cầu, thì những hậu quả khốc liệt nhất của nó sẽ đặc biệt được nhận thấy ở các khu vực đang ở thế bất lợi và do đó không có các biện pháp để tự bảo vệ mình. Kết quả có thể dự đoán được về những sự tiến triển này sẽ là một sự gia tăng các thảm họa tự nhiên, những tình trạng khẩn cấp dân sự, và do đó tăng các hoạt động cứu trợ nhân đạo. Do quân đội được trang bị tốt nhất cho những nhiệm vụ này, nó sẽ thường được sử dụng như “sự đáp trả đầu tiên” trong những trường hợp khẩn cấp như vậy. Tuy nhiên, việc sử dụng quân đội trong các hoạt động như vậy không có điểm tương đồng nào với chiến tranh truyền thống, khi mục đích không phải là nhằm buộc đối thủ phải nghe theo ý muốn chính trị của mình mà nhằm đảm bảo rằng sự cứu trợ đến được với các nạn nhân. Nói một cách khác, vấn đề khẩn cấp hiện nay không phải là làm thế nào để ngăn chặn một mối đe dọa mà là làm thế nào để giảm thiểu những hậu quả tiêu cực của các sự kiện nằm ngoài sự kiểm soát của con người.