Vàng và USD - những tài sản  tích lũy quen thuộc của người dân Việt Nam - mà họ đă phải sống với  chung qua một năm nhiều biến động và chưa có nhiều hứa hẹn về tương lai  b́nh yên.                     	
                    	                                                                                                                 	                         	
                          B́nh ổn vàng: Đường c̣n xa
Ngày  áp chót của năm 2011, thị trường vàng lại biến động. Mức giá chiều ngày  30/12 đă về gần 41 triệu đồng/lượng, so với đỉnh điểm 49 triệu của cơn  sốt hồi tháng 8, vàng đă có một quăng biến động lớn.
Từ  đây, nh́n lại có thể thấy vàng đă có một năm quá nhiều biến động, vượt  qua kiểm soát. Sự bất lực đă quá quen trên thị trường vàng khi cơ quan  quản lư không có cách ǵ ngoài việc tuyên bố trấn an và cuối cùng cho  nhập khẩu vàng. Dường như, người ta chưa muốn t́m để trị tận căn nguyên  của sốt và làm giá của vàng. Mặc cho sự biến động đó đang tác động tới  kinh tế vĩ mô.
Ghi dấu sự biến động của vàng  chính là cơn sốt hồi tháng 8/2011. Giá vàng đă đă đạt đỉnh cao hơn 49  triệu đồng/lượng. Cao hơn giá thế giới 4 -5 triệu đồng. Thậm chí, vàng  bất ngờ trở nên khan hiếm và không có để bán. Và từ đó, giới kinh doanh  có lư do để làm giá và kiếm lăi.
Tại thời điểm  đó, Thống đốc Nguyễn Văn Giàu đứng đầu đă phải chấp nhận cho nhập khẩu  để hạ giá vàng. Tuy nhiên, bài thuốc cũ đó chỉ có tác dụng "cắt sốt" rất  ngắn v́ chỉ sau một thời gian vàng lại sốt, lại bị cho là làm giá diễn  ra ngang nhiên.
Một nhân tố mới đă xuất hiện,  Tân Thống đốc Nguyễn Văn B́nh đă có hàng loạt biện pháp để b́nh ổn giá  vàng với phương châm lấy nguồn vàng trong nước để b́nh ổn vàng. Một nhóm  gồm SJC và 5 ngân hàng đă được chọn để thực thi b́nh ổn giá vàng. Các  ngân hàng và SJC được ưu đăi sử dụng vàng huy động tiết kiệm của dân để  bán ra, các đơn vị này được cấp phép để kinh doanh vàng trên tài khoản  nhằm cần bằng nguồn vàng.
Ngân hàng Nhà nước đề  ra, các DN này sẽ bán hàng với giá b́nh ổn sát với giá thế giới để ổn  định thị trường. Và lần đầu tiên, một khái niệm vàng bị làm giá đă được  đưa ra là khi giá vàng trong nước cao hơn thế giới 400.000 đồng.
Trong  suốt 5 tháng qua, dù lượng vàng bán ra rất nhiều, nhưng các DN b́nh ổn  vàng chưa bao giờ đưa giá vàng về được khoảng cách trên. Thông thường,  khoảng cách vẫn được duy tŕ ở mức 2 triệu, thời điểm thấp nhất là hơn 1  triệu đồng... những ngày giữa tháng 12, vàng lại lên cơn sốt và khoảng  các giá lại được đẩy lên một mức cao hơn khoảng 3 - 4 triệu đồng.
Chính  v́ thế, nhiều chuyên gia đă cho rằng trong khi mục tiêu giá vàng chưa  được b́nh ổn th́ các đơn vị b́nh ổn vàng đă kiếm lăi lớn từ việc thực  hiện b́nh ổn giá. Từ đó, những nghi vấn về về đầu cơ kiếm lăi từ chính  sách, nhóm lợi ích đă được đặt ra với nhóm b́nh ổn vàng thường được gọi  là G1+ 5.
Trong khi đó, chính sách về quản lư vàng miếng đă chính thức công bố lấy ư kiến để tŕnh lên Chính phủ vào đầu tháng 11.
Theo  đó, chỉ những doanh nghiệp có vốn điều lệ từ 500 tỷ đồng trở lên, chiếm  25% thị phần trong 3 năm gần nhất mới được xem xét cho sản xuất, gia  công vàng miếng. 7 đơn vị có tên tuổi như Công ty Vàng bạc Phú Nhuận  (PNJ), Công ty Vàng Bảo Tín Minh Châu, Ngân hàng Á Châu (ACB),  Sacombank, Ngân hàng Phương Nam và hai doanh nghiệp trực thuộc Ngân hàng  Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn sẽ bị ra ŕa.
Thống  đốc Nguyễn Văn B́nh tuyên bố trước Quốc hội, vàng SJC trở thành thương  hiệu vàng miếng quốc gia của Nhà nước. Hệ quả là ngay sau đó, vàng nhăn  hiệu khác như Bảo Tín Minh Châu bị giảm giá mạnh, người dân lo lắng khi  không đang nắm giữ vàng nhăn hiệu khác. Các doanh nghiệp c̣n lại lo ngại  về việc sẽ phải ngừng kinh doanh vàng và thị trường.
Đây  là chính sách mạnh mẽ nhất đối với và và nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới  hoạt động của hơn 10.000 cửa hàng vàng trên toàn quốc, quyền tích trữ  vàng của dân. Và câu hỏi được đặt ra là độc quyền Nhà nước ở thị trường  vàng liệu có bị biến thành lợi ích nhóm?.
T́nh  h́nh này vẫn tiếp tục diện ra cho đến ngày tận cùng của năm 2011. Và khi  ngân hàng Nhà nước cho rằng giá vàng trong nước bám sát với giá vàng  thế giới; giới đầu cơ đă không c̣n khả năng thao túng thị trường th́  thực tế là một câu trả lời khác.
V́ thế, đối với nhiều người, b́nh ổn giá vàng vẫn c̣n là một chặng đường rất xa.
USD - chưa thể hết lo
Ngày  gần cuối năm, Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh lần cuối đưa tỷ giá cơ bản  lên mức 20.828 đồng/USD. Như thế, cơ quan điều hành đă thực hiện đúng  lời hứa tỷ giá tăng không quá 1% trong những tháng cuối năm.
Chính  v́ thế, trong một lần trao đổi, Thống đốc Nguyễn Văn B́nh tâm sự, ông  đă thực hết được các lời hứa khi lên nhậm chức. Đó thực sự là một nỗ lực  lớn thể hiện "nói là làm" mà vị thống đốc này từng thể hiện.
Sự  ổn định của thị trường USD trong cả năm qua phải kể đến cú sốc tăng tỷ  giá hồi đầu năm lên 9,3%. Đó là mức tăng lớn nhất trong một lần điều  chỉnh từ trước đến nay. Nhưng song hành cùng với những phản ứng và lo  ngại của khối DN th́ các chuyên gia lại tỏ ra có nhiều đồng t́nh.
Sự  đồng t́nh đó bắt nguồn từ đề xuất từ lâu chưa thực hiện là việc đưa tỷ  giá chính thức theo sát tỷ giá thực tế. Điều này sẽ giúp giải quyết  những hệ lụy từ trước đến nay vẫn phải đối mặt là khan hiếm USD, mua bán  USD sai tỷ giá và thị trường chợ đen phát triển, thói quen vay tín dụng  USD...
Và lần này, cơ quan điều hành đă vượt  qua lo ngại phải mang tiếng phá giá VND, gia tăng trách nhiệm nợ vay  nước ngoài, sức ép tăng chi phí nhập khẩu và nhập siêu... để tạo ra một  mặt bằng mới và ổn định mới cho USD.
Đi cùng  đó, hàng loạt biện pháp khác để kiểm tra quản lư thị trường tự do, chấn  chỉnh trong hệ thống ngân hàng, bắt buộc DNNN bán USD cho ngân hàng,  liên tiếp hạ lăi suất huy động USD để chuyển quan hệ tín dụng ngoại hối  sang hướng mua bán nhằm triệt tiêu những thiệt hại do biến động tỷ giá  trong tương lai... Theo đó, nguồn cung USD tăng lên đáng kể, là thị  trường chợ đen USD đă bị khắc chế và lụi dần.
Sự  b́nh ổn trong cả năm qua có thể nói là thành công lớn nhất của quản lư  tiền tệ trong năm qua. Điều đó càng được tô điểm khi con số nhập siêu  trong năm nay giảm mạnh. Tuy nhiên, đó mới chỉ là một phần nổi. Để có sự  ổn định dài hạn th́ c̣n rất nhiều yếu tố cơ bản phải được thiết lập  trong thời gian tới.
Dù có giảm nhưng nhập siêu  vẫn ở mức cao, những kết quả đó dựa nhiều vào các quyết định hạn chế  nhập khẩu mang tính hành chính, c̣n sự gia tăng xuất khẩu và nhất là sự  tăng trưởng để thay thế các hàng nhập khẩu của khối công nghiệp vẫn chưa  thể hiện rơ. Tất nhiên, khi nhập siêu cao th́ cân đối cán cân ngoại hối  luôn bấp cập. Thiếu hụt USD có nghĩa sẽ kéo theo những sự thiếu hụt,  tăng giá... trong khi những trông mong từ FDO và FII không c̣n như xưa.
Nguồn  cung của USD trong hệ thống ngân hàng thời gian qua tăng lên nhưng  không bền vững v́ chủ yếu là do các DNNN buộc phải bán vào. C̣n thực  chất, các ngân hàng vẫn căng thẳng về USD, các ngân hàng Việt Nam đang  phải vay nước ngoài khoảng 5 tỷ USD để bù đắp cho những khoản thiếu hụt.  Trong khi đó, những nguồn bổ sung khác như: FDI, FII trong năm ua và dự  báo năm tới c̣n khó khăn.
Trong khi đó, tín dụng USD tăng cao liên tục và đến nay vẫn c̣n là một khối nguy cơ chưa được giải hết.
V́  thế, không có ǵ lạ khi thi trường đạt sự b́nh ổn vào cuối năm nhưng lo  ngại về một lần tăng giá nữa sẽ đến vào đầu 2012 vẫn hiển hiện.
Về  dài hạn, khi chưa có được sự cân đối về cán cân ngoại hối và sự quản lư  đồng bộ th́ cách được nhiều người đề cập là thêm một lần điều chỉnh tỷ  giá. Và như thế, liệu có xảy ra những biến động và 2012 có thể hy vọng  vào sự b́nh ổn của USD?.
Theo VEF