Thời gian qua, có nhiều giải thích khác nhau chung quanh Công hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa Phạm Văn Đồng gửi Quốc vụ viện Trung Quốc liên quan đến lănh hải Trung Quốc vào năm 1958, khiến nhiều người hiểu không đúng bản chất vấn đề. Qua nghiên cứu tài liệu, bước đầu chúng tôi xin có một số ư kiến giải thích sau đây:
1. Tuyên bố 1958 của Trung Quốc vi phạm Luật quốc tế:
Ngày 4 tháng 9 năm 1958, Ban thường trực quốc hội Trung Quốc thông qua tuyên bố về lănh hải Trung Quốc. Tuyên bố có 4 vấn đề nhưng có 1 vấn đề tối quan trọng là định nghĩa về “đường cơ sở” (c̣n gọi là đường căn bản) như sau:
“Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lănh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi”.
Từ định nghĩa về đường cơ sở này, phía nước bạn Trung Quốc đă xác định tiếp ranh giới nội thủy và lănh hải của họ một cách sai lầm trong bản tuyên bố như sau:
“Phần biển 12 hải lư tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Đại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.”.
Tuyên bố của nước bạn sai lầm và vi phạm Luật quốc tế ở chỗ nào?
Trước hết xin nói qua về đường cơ sở. Khi ta đọc định nghĩa trong văn bản, do văn bản pháp luật đ̣i hỏi sự diễn đạt súc tích cô đọng nên thành ra khó hiểu với một số người, nên xin “diễn nôm” ra cho dễ hiểu. Theo đó, th́ đường cơ sở chính là một cái “ranh đất liền”. Tương tự như khi làm nhà th́ ta xác định ranh đất của ta tới đâu để xây nhà khỏi phạm lộ giới vậy.
Lẽ ra “ranh đất liền” của một nước là phải lấy đường bờ biển của nước ấy. Nhưng đường này trên thực tế đôi lúc quá quanh co khúc khuỷu, dẫn tới việc xác định bề rộng lănh hải phức tạp, nên các nhà lập pháp quốc tế phải đưa ra một khái niệm gọn gàng, dễ xác định hơn, là đường cơ sở. Theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển, th́ đường cơ sở là một đường gần gũi với đường bờ biển. Người ta xác định đường này để từ đây đo ra ngoài khơi nhằm xác định lănh hải của nước ḿnh.
Nhưng với Trung Quốc, “ranh đất liền” mà họ xác định vào năm 1958 ấy hoàn toàn không gần gũi với đường bờ biển của họ chút nào, mà họ kéo tuốt nó ra ngoài khơi, quàng vào các đảo xa xôi, trong đó có những đảo họ mới “giành lấy” chủ quyền ngay trong bản tuyên bố này. Như vậy vấn đề căn bản đầu tiên là xác định “ranh đất liền”, họ đă quá sai. Xác định tiền đề sai, dẫn theo hàng loạt cái sai khác. Rơ ràng đường cơ sở của nước bạn Trung Quốc là một khái niệm không phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 mà chính họ đă phê chuẩn. Có thể nói đây là một đường cơ sở “không giống ai”. Lẽ ra sau khi tham gia Công ước 1982, họ phải điều chỉnh lại đường này mới đúng nhưng họ đă không làm thế.
2. Thủ tướng Phạm Văn Đồng kư công hàm 1958 là đúng vai tṛ:
Một số người thắc mắc v́ sao Thủ tướng Phạm Văn Đồng lại có thể tự ḿnh kư công hàm 1958 mà không được sự ủy nhiệm của chủ tịch nước đương nhiệm khi ấy là Chủ tịch Hồ Chí Minh hoặc được sự ủy nhiệm của Quốc hội. Từ đó họ cho rằng Thủ tướng Phạm Văn Đồng kư sai vai tṛ.
Chúng ta cần biết, thủ tướng, trong vai tṛ người đứng đầu chính phủ, hoàn toàn đủ tư cách kư công hàm nêu rơ quan điểm của chính phủ ḿnh đối với một vấn đề quốc tế mà không cần bất kỳ sự ủy nhiệm nào (một số chức danh có thể kư những điều ước quốc tế liên quan mà không cần ủy nhiệm thư như nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ, bộ trưởng ngoại giao, người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao, trưởng phái đoàn tại hội nghị quốc tế, tổ chức quốc tế … ).
3. Công hàm 1958 không có giá trị “thỏa thuận lănh thổ biên giới”.
Quan điểm cho rằng công hàm 1958 mặc nhiên thỏa thuận về một số vùng đảo và biển thuộc Trung Quốc như tuyên bố 1958 của nước bạn Trung Quốc là sai lầm. Theo Luật quốc tế, giá trị của công hàm chỉ là nêu quan điểm của chính phủ một nước về một vấn đề quốc tế, nói nôm na giống như là một tiếng vỗ tay đồng thuần hay một lời la ó phản đối. Chỉ khi nào Việt Nam kư hiệp định với Trung Quốc trong đó nêu rơ những vùng biển và đảo nào đó thuộc Trung Quốc th́ khi đó mới có giá trị thực thi.
Chúng tôi lấy ví dụ, với Tuyên bố 1958 của Trung Quốc, Thủ tướng Canada hoặc Thủ tướng Ư chẳng hạn, nếu muốn th́ họ cũng có thể ra công hàm ủng hộ Trung Quốc như công hàm 1958 của chúng ta, mặc đầu họ không có chung biên giới với Trung Quốc. Có nghĩa là, công hàm không có giá trị thỏa thuận.
4. Sự khéo léo của Công hàm 1958:
Vào thời kỳ 1958, bề rộng lănh hải của các nước tiếp giáp biển chưa thống nhất. Trước đó đa phần đều lấy bề rộng 3 hải lư tính từ đất liền. Cho đến năm 1958, một số nước đă tăng bề rộng lănh hải lên 12 hải lư. Và Trung Quốc cũng tăng lên như thế trong Tuyên bố 1958. Điều này chẳng có ǵ đáng nói nếu như họ xác định đường cơ sở đúng như thông lệ quốc tế khi đó.
Vào năm 1958, trong bối cảnh Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa đang quan hệ với Trung Quốc, việc ra công hàm ủng hộ Tuyên bố 1958 của nước bạn Trung Quốc là không thể không làm. Khổ nỗi tuyên bố của nước bạn quá ngạo ngược về cái “ranh đất không giống ai” đó. Như vậy th́ công hàm phải viết thế nào đây?
Nghiên cứu Tuyên bố 1958 của Trung Quốc chúng tôi thấy, tuyên bố đề cập đến 4 vấn đề như sau:
1. Bề rộng lănh hải là 12 hải lư tính từ đường cơ sở (đường căn bản).
2. Kéo đường căn bản quàng lên các đảo thuộc và chưa thuộc chủ quyền của Trung Quốc tít ngoài khơi.
3. Xác lập chủ quyền lănh hải và không phận của Trung Quốc nêu trong Tuyên bố 1958.
4. Nêu vấn đề Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác.
Tuy nhiên, Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đă khéo léo công nhận chỉ 1 vấn đề là bề rộng lănh hải 12 hải lư mà thôi. Công hàm viết: “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lư của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trên mặt biển”.
Công nhận hải phận 12 hải lư là phù hợp thông lệ quốc tế khi đó và phù hợp Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 về sau. Nhưng cũng chỉ là vấn đề hải phận 12 hải lư. Công hàm không hề nhắc đến 3 vấn đề c̣n lại. Chúng ta lưu ư, vấn đề thuộc luật pháp cần được hiểu, cái ǵ được nói ra th́ chỉ là cái đó. Nếu như công hàm 1958 viết rơ: “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa ủng hộ toàn bộ nội dung của Tuyên bố…” th́ mới bao hàm cả 4 vấn đề.
Từ đó chúng tôi kết luận: Công hàm 1958 không thể là nguyên nhân dẫn đến các rắc rối về sau liên quan đến chủ quyền biển đảo giữa Việt Nam và nước bạn Trung Quốc. Việc nước bạn Trung Quốc có những tuyên bố thiếu phù hợp gần đây là do sự chủ động của họ.
TP.HCM ngày 11/12/2011
Luật gia Trần Đ́nh Thu
Theo: Blog ABS