R. S. Kalha
 Institute for Defense Studies & Analyses
 -
 
Đôi lời: Thêm một bài  phân nữa của giới chức và học giả Ấn Độ về hợp tác khai thác dầu khí  giữa nước này với Việt Nam. Mời bà con tham gia thảo luận, nếu chúng ta  là Ấn Độ, th́ chúng ta nên quyết định như thế nào? Nên nhớ, quyết định  của bất kỳ nước nào cũng đều đặt lợi ích của nước đó lên hàng đầu.  Trường hợp Ấn Độ không hợp tác khai thác với Việt Nam và giả sử không  nước nào dám hợp tác với Việt Nam v́ sợ Trung Quốc, th́ Việt Nam cần có  những bước đi như thế nào, để có thể khai thác tài nguyên hợp pháp trong  vùng biển thuộc chủ quyền nước ta?
 ———–
 Một bài báo gần đây trên báo Trung Quốc,  tờ “Hoàn Cầu Thời báo” của Liu Sheng, cảnh cáo Ấn Độ, chống lại việc  nước này tiến tới hợp tác khai thác dầu khí trên Biển Đông (nguyên văn:  biển Hoa Nam) với Việt Nam. Bài viết này là lời nhắc nhở đúng lúc về  những cạm bẫy nguy hiểm vẫn c̣n tồn tại trong quan hệ Trung-Ấn. Hoàn Cầu  trích lời bà Khương Du, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc, nói  rằng “
về vấn đề khai thác dầu khí, chúng tôi phản đối bất kỳ quốc  gia nào dính líu tới vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc.  Chúng tôi hy vọng nước ngoài không can dự vào tranh chấp biển Hoa Nam”.  Mặc dù Ấn Độ không được nêu tên trực tiếp nhưng rơ ràng họ đang nói tới  Ấn Độ. Bài báo c̣n viết rằng các mỏ dầu trên Biển Đông không chỉ có trữ  lượng 28 tỷ thùng. Dễ hiểu là bài răn dạy đạo đức này của Trung Quốc,  mặc dù chỉ ám chỉ mơ hồ, nhưng đă được nhắc tới rất nhiều trên báo chí  và các phương tiện báo in và báo h́nh ở Ấn Độ. ONGC hiện đầu tư khoảng  255 triệu USD vào Việt Nam.
 Câu hỏi đầu tiên trong tâm trí của hầu  hết người Ấn Độ là chúng ta nên phản ứng với bài viết hăm dọa này như  thế nào? Chúng ta có nên phớt lờ cái “lời khuyên” miễn phí này và tiếp  tục hợp tác với Việt Nam thăm ḍ khai thác dầu khí, hay là nên nghe theo  “lời khuyên” của Trung Quốc và tránh xa những tranh chấp hiện nay trên  Biển Đông? Báo chí Trung Quốc dẫn lời những nhân vật nổi tiếng tại các  “think tank” (viện chiến lược, viện nghiên cứu – ND) của các trường đại  học ở Trung Quốc, dường như họ có ư nói rằng với “sự giúp đỡ tích cực  của Mỹ”, chúng ta đang bị đẩy sâu vào một loạt hành động. Tác giả đă rất  cẩn thận tránh việc đổ hết mọi sự xấu xa lên các dự định, kế hoạch của  Việt Nam, nhưng bài báo lại đề cập thẳng thừng tới một hiệp định song  phương từ hồi tháng 6 năm nay giữa Trung Quốc và Việt Nam, theo đó hai  bên sẽ giải quyết tất cả tranh chấp “thông qua thương lượng và tham  vấn”. Một tín hiệu rơ ràng gửi đến Ấn Độ, rằng lập trườngcủa Trung Quốc  với Việt Nam vẫn là đường lối mở.
 Dĩ nhiên phản ứng phổ biến hơn cả vẫn là  phớt lờ Trung Quốc và tiếp tục hợp đồng đă kư với Việt Nam. Suy cho  cùng nếu Ấn Độ xem xét việc kư một thỏa thuận với Việt Nam th́ Ấn Độ đă  tự động phải tính đến việc vùng biển đó có thuộc quyền tài phán của Việt  Nam hay không rồi. Đây dường như là lập trường của chính phủ Ấn Độ khi  Ngoại trưởng Krishna nói với người đồng nhiệm Phạm B́nh Minh rằng, Ấn Độ  sẽ “tiếp tục” và quan điểm của Ấn Độ hoàn toàn căn cứ vào Công ước Liên  Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982. Tuy nhiên, thử thách thật sự sẽ nằm ở  việc, liệu các nước c̣n lại trong tranh chấp Biển Đông – gồm  Philippines, Malaysia, Brunei, hoặc thậm chí cả Đài Loan – cũng coi  những vùng biển đó là của Việt Nam hay không. Nếu không bên nào trong số  họ phản đối Ấn Độ hoặc Việt Nam về thỏa thuận đă đề xuất kia, th́ khi  đó Trung Quốc sẽ yếu thế hơn nhiều và quan điểm của họ sẽ chỉ c̣n là hăm  dọa thuần túy. C̣n lập trường về mặt pháp lư của Mỹ, Nhật Bản và có thể  cả Hàn Quốc nữa, là ǵ? Không có nhiều điều được công khai ở đây. Tuy  nhiên, chúng ta không thể chỉ coi những lời phản đối của Trung Quốc là  không đúng; bởi lẽ quan hệ Ấn Độ – Trung Quốc có những vấn đề khá phức  tạp, trong đó có vấn đề an ninh trên biên giới. Chúng ta cũng không nên  phản ứng theo chủ nghĩa sô vanh, hiếu chiến, mà nên tiến hành phân tích  một cách lạnh lùng, có tính toán, về t́nh h́nh hiện nay.
 Rơ ràng là khi Trung Quốc phản đối,  chúng ta cần luôn luôn chú ư đến họ. Trong trường hợp này, chúng ta sẽ  phải nhớ trong đầu một loạt khả năng có thể xảy ra và điều mà Trung Quốc  có thể lựa chọn, đó là quyết định đẩy sự phản đối đến giai đoạn tiếp  theo; từ đó kích ng̣i nổ cho xung đột. Trong quá khứ, Trung Quốc đă từng  cho thấy rằng, hễ cứ động tới sân sau của họ, đặc biệt là Biển Đông, là  họ sẽ trở nên rất nhạy cảm và hung hăng một cách công khai. Thường  xuyên họ có các biện pháp để không chỉ quấy rối bên làm cho họ nổi giận,  mà họ c̣n cố ư cắt sạch những kênh liên lạc (cáp và không dây) mà qua  đó công việc đang tiến triển thuận lợi. Giả sử ONGC Videsh – đơn vị  trúng thầu trong trường hợp này – phải chịu số phận tương tự, th́ chính  quyền Ấn Độ nên phản ứng ra sao? Sẽ cực kỳ rắc rối khi phải xác định  liệu hải quân Ấn Độ có khả năng thể hiện sức mạnh trên Biển Đông để  chống lại Trung Quốc hay không. Mà Việt Nam cũng không có ư định đó. C̣n  nếu sau khi Trung Quốc đă ra tay hành động rồi mà ta nhổ trại rút quân  th́ sẽ là một đ̣n đánh nặng vào danh dự, uy tín của Ấn Độ.
 Chúng ta phải hết sức ghi nhớ rằng chúng  ta có một đường biên giới, đă từ lâu không ổn định với Trung Quốc.  Không thể nào kiểm soát từng mét trên đường biên giới này. Do đó, hiện  nay Trung Quốc vẫn đi theo cái cách xâm lấn vài kilômét qua “Đường Kiểm  soát Thực tế” (“Line of Actual Control” – LOAC), nếu họ muốn. Do LOAC  không được phân định trên bộ, nên cả Ấn Độ và Trung Quốc đều quan niệm  khác nhau về đường đi thực sự của nó. Từ đây nảy sinh cơ sở để đôi bên  bất ḥa.
 Cái nút của vấn đề sẽ là vai tṛ và thái  độ của Mỹ và lực lượng duy nhất có khả năng ngăn cản Trung Quốc trên  Biển Đông – Hạm đội 7 của Hoa Kỳ. Trong quá khứ gần đây, nói về vấn đề  quan hệ Trung – Ấn, thái độ của Hoa Kỳ khá nước đôi. Ngay cả sau cuộc  xung đột năm 1962, với những hậu quả của nó, Rober Komer – thành viên có  ảnh hưởng trong Hội đồng An ninh Quốc gia – vẫn viết một bức thư cho  Tổng thống Kennedy vào ngày 16-12-1962, trong đó ông ta nhấn mạnh những  điều sau: “
Sẽ là lợi ích chiến lược của chúng ta (Mỹ) nếu ta duy tŕ  mức độ mâu thuẫn cao giữa Trung Quốc và Ấn Độ, v́ điều này sẽ ngăn cản  một cuộc chiến tranh quy mô lớn” [FRUS 61-63 Vol. xix.]
 Hiện nước Mỹ đang ngổn ngang những vấn  đề kinh tế với món nợ công 6,4 ngh́n tỷ USD trong năm 2008, chiếm tới  60% GDP, giờ đă lên tới 14,2 ngh́n tỷ USD hay là 98% GDP. Trong các siêu  cường, chỉ có Ư và Nhật Bản ở t́nh trạng tồi tệ hơn Mỹ. Trung Quốc là  một trong những chủ nợ lớn nhất của Mỹ. Theo nhà kinh tế nổi tiếng của  Mỹ, ông Joseph Stiglitz, chỉ riêng cuộc chiến Iraq đă ngốn của Mỹ khoảng  3 ngh́n tỷ USD và trước mắt vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt sự can thiệp  của Mỹ vào cả Iraq lẫn Afghanistan. Lực lượng vũ trang của Mỹ vẫn dàn  trải quá mức. Chính là v́ lư do này mà Mỹ bác bỏ lời thỉnh cầu của hai  đồng minh thân cận trong NATO là Pháp và Anh, từ chối can thiệp quân sự  vào khủng hoảng gần đây ở Lybia.
 Trước những khó khăn hiện nay của Mỹ,  các nhà hoạch định chính sách Ấn Độ cần cố gắng lưu tâm đầy đủ khi xử lư  một t́nh huống tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ thành xung đột trên Biển Đông.  Làm ra vẻ hiên ngang chẳng có ích ǵ một khi chúng ta không có năng lực  quân sự cần thiết để đương đầu với Trung Quốc trên Biển Đông. Quả thật  sẽ là rất khôn ngoan nếu chúng ta nh́n lại sự tham gia của ḿnh vào vùng  tranh chấp trên Biển Đông.
 
Đại sứ R S Kalha là cựu Ngoại trưởng Ấn Độ và là cựu thành viên của Ủy ban Nhân quyền Quốc gia.
 Đỗ Quyên dịch từ 
IDSA
 Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011