R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 108
|
TRUNG QUỐC ĐĂ XUẤT HIỆN DẤU HIỆU MANH NHA CỦA CÁCH MẠNG
THÔNG TẤN XĂ VIỆT NAM TRUNG QUỐC ĐĂ XUẤT HIỆN DẤU HIỆU MANH NHA CỦA CÁCH MẠNG
Trang web của tờ Liên hợp Buổi sáng (Xinhgapo) ngày 28/6 đăng bài của Giáo sư Trịnh Vĩnh Niên, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Á, Đại học Quốc gia Xinhgapo bàn về khả năng Trung Quốc đang bắt đầu có dấu hiệu tiến dần từ cải cách đến cách mạng. Dưới đây là nội dung bài viết:
Hiện trạng cải cách của Trung Quốc đă bộc lộ một số đặc điểm rơ ràng. Thứ nhất, cải cách trên các phương diện thiếu động lực. Cải cách kinh tế vào những năm 1990 đă t́m được bước đột phá, xác lập được chế độ thị trường cơ bản, nhưng vấn đề làm thế nào có thể tiếp tục đi sâu? Trong 10 năm qua, cải cách xă hội đă đạt được một số tiến triển, nhưng c̣n rất xa mới có thể thoả măn nhu cầu thay đổi của xă hội, vậy làm thế nào để t́m ra bước đột phá? Cải cách chính trị từ Đại hội 17 đă xác lập được phương hướng “dân chủ trong đảng dẫn dắt dân chủ trong nhân dân”, việc thí nghiệm dân chủ trong đảng và dân chủ trong nhân dân cũng đă được tiến hành, nhưng vẫn chưa trở thành nỗ lực của hệ thống, vậy làm thế nào để thúc đẩy? Thứ hai, cải cách không có trọng điểm. Nhu cầu cải cách trên các phương diện đang tăng rất nhanh, nhưng không biết cái ǵ làm trước, cái ǵ làm sau, đứng trước áp lực trên các phương diện cũng không biết bắt tay từ đâu. Thứ ba, cho dù là đảng cầm quyền hay xă hội đều thiếu nhận thức chung cơ bản nhất và ở mức độ thấp nhất về cải cách.
Tại sao lại xuất hiện cục diện này? Mọi người đều đổ cho cốt lơi của vấn đề, tức là trở lực đến từ các tập đoàn đă đạt được lợi ích. Tương lai cải cách bắt đầu từ đâu? Cải cách của Trung Quốc đang nằm ở bước ngoặt. Trong thời khắc then chốt này, cần phải tiến hành tổng kết về quy luật thông thường của cải cách ở Trung Quốc. Nói một cách đơn giản, khi tiến tŕnh cải cách ngừng lại, tiến tŕnh cách mạng sẽ bắt đầu. Nếu xem xét ở góc độ tiến tŕnh phát triển của các tập đoàn lợi ích, một khi các tập đoàn lợi ích chủ đạo tiến tŕnh chính trị hoặc chính quyền hiện nay không thể khắc phục được trở lực đến từ các tập đoàn lợi ích để tiếp tục thúc đẩy cải cách, nhân tố cách mạng bắt đầu được tích luỹ.
Cho dù là lịch sử hay hiện thực, chúng đều mách bảo con người chân lư rằng chính trị phải tiến cùng thời đại, cải cách không phải là cái ǵ đó có cũng được, không có cũng chẳng sao, mà là việc làm thường xuyên của chính trị. Chính trị là một hoạt động không ngừng nghỉ, phải đi từ cải cách này đến cải cách khác, không ngừng đổi mới bản thân, như vậy mới có thể phát triển bền vững. Điều này đúng với tất cả mọi chính thể. Trong xă hội dân chủ phương Tây, các động thái chính trị được thực hiện dựa trên sự thay đổi luân phiên mang tính chu kỳ của các chính đảng. Nhưng cho dù là trong chính thể dân chủ th́ cải cách cũng thường xuyên không hiệu quả v́ gặp phải trở lực đến từ các tập đoàn đă đạt đựơc lợi ích và chính quyền cũng sẽ rơi vào khó khăn. Nhà kinh tế học Mỹ Mancur Olson từng có cái nh́n hết sức bi quan về sự phát triển của nền kinh tế bị khống chế bởi các tập đoàn lợi ích. Olson cho rằng cùng với sự h́nh thành của các tập đoàn đă đạt được lợi ích, cạnh trạnh sẽ bị hạn chế, sự phát triển của kinh tế sẽ thiếu động lực, t́nh trạng lạm phát do đ́nh đốn xuất hiện. Olson không cho rằng chính trị dân chủ có thể khắc phục được trở lực đến từ các tập đoàn lợi ích đă đạt được này mà chỉ có chiến trinh, xung đột xă hội lớn mới có thể thay đổi được cục diện về lợi ích. Quả thực, ở một mức độ rất lớn, chính trị dân chủ là vũ khí hữu hiệu nhất được các tập đoàn đă đạt được lợi ích thiết kế ra nhằm bảo vệ lợi ích của ḿnh. Dù Olson chủ yếu đề cập tới phương diện kinh tế, nhưng kỳ thực, chính trị cũng giống như vậy.
“Cởi mở” để ứng phó với các tập đoàn lợi ích
Trung Quốc không có chính trị đa đảng, nên sẽ phải đối mặt với những khó khắn lớn hơn trên phương diện khắc phục trở lực đến từ các tập đoàn lợi ích. Bản thân việc một đảng nắm quyền trong thời kỳ dài sẽ rất dễ h́nh thành các tập đoàn lợi ích. Muốn ngăn không cho các tập đoàn lợi ích lớn mạnh, pḥng chống chúng tác động đến nghị tŕnh chính sách của nhà nước, phương thức hữu hiệu nhất là duy tŕ sự cởi mở của chính đảng. Chính đảng càng cởi mở, khả năng tập đoàn lợi ích lớn mạnh càng thấp. Tại Trung Quốc , việc sử dụng “cởi mở” để ứng phó với các tập đoàn lợi ích, trên thực tế, đă được bắt đầu thực hiện từ trước cải cách mở cửa. Ở thời Mao Trạch Đông, đảng cầm quyền chủ yếu dựa vào phong trào quần chúng xă hội để ngăn chặn và làm tan ră các tập đoàn lợi ích. Mao Trạch Đông tiến hành đấu tranh giai cấp, thực hiện “đại dân chủ”, dùng giai cấp này để đối phó với giai cấp khác, chủ thể của chính quyền không ngừng thay đổi. Có thể nói, ở thời kỳ đó, ngoài bản thân Mao Trạch Đông, không có một giai cấp hoặc một tầng lớp nào có thể chủ đạo chính trị Trung Quốc. Cách làm như vậy đă gây ra kết quả hết sức tiêu cực, chủ yếu là gây cản trở ngại cho việc xây dựng chế độ. Luôn ở trong các phong trào trong thời gian dài, nên Trung Quốc đă coi nhẹ việc xây dựng các chế độ nhà nước cơ bản, trong đó có pháp chế. Đương nhiên, các tập đoàn lợi ích thời đó rất đơn giản, chính trị và h́nh thái ư thức vẫn là chủ thể của xă hội, kinh tế xă hội th́ ở trong t́nh trạng phát triển thấp thời gian dài.
Các tập đoàn lợi ích của Trung Quốc hiện nay là sản phẩm của cải cách mở cửa. Nếu thời đại Mao Trạch Đông là xă hội mà trong đó h́nh thái ư thức đóng vai tṛ chủ đạo th́ thời đại phát triển sau cải cách mở cửa lại là xă hội mà trong đó lợi ích đóng vai tṛ chủ đạo. Sự chuyển đổi từ h́nh thái ư thức sang lợi ích là một quá tŕnh không dễ dàng, nhưng cũng là một quá tŕnh rất thành công. Nếu không có một xă hội Trung Quốc theo đuổi lợi ích (vật chất) trên các phương diện, rất khó có thể tưởng tượng ra việc Trung Quốc có thể thực hiện sự chuyển đổi nhanh chóng và thành công đến vậy.
Về tổng thể, trong giai đoạn từ cuối thập niên 1970 tới những năm giữa và cuối thập niên 1980, kinh tế Trung Quốc tương đối cởi mở. Khi các tập đoàn lợi ích, gồm cả công nhân và nông dân đều gặt hái được lợi ích từ cải cách. Xung đột giữa các tập đoàn lợi ích với nhau và xung đột giữa các tập đoàn lợi ích với xă hội do đó không rơ ràng. Măi tới thời kỳ cuối thập niên 1980, khi cải cách gặp khó khăn, xung đột giữa các tập đoàn lợi ích với nahu, đặc biệt là xung đột giữa các tập đoàn lợi ích chính trị với nhau bắt đầu bộc lộ, cuối cùng là dẫn tới sự kiện Thiên An Môn năm 1989 và cải cách bị ngừng lại.
Đầu những năm 1990, sự kiện Liên Xô, Đông Âu sụp đổ đă thúc đẩy Trung Quốc tiến hành cải cách ở quy mô lớn hơn. Năm 1992, sau khi Đặng Tiểu B́nh đi khảo sát ở phía Nam, đảng cầm quyền đă phát động một làn sóng mở cửa và trao quyền mới có quy mô lớn hơn, h́nh thành cục diện phân phối lại lợi ích với quy mô lớn. Giai cấp lănh đạo truyền thống như giai cấp công nhân bắt đầu bị đẩy ra bên lề, tầng lớp mới nổi như doanh nghiệp dân doanh lớn mạnh nhanh chóng. Đứng trước cục diện mới, đảng cầm quyền bắt đầu điều chỉnh nền tảng thống trị của ḿnh, thông qua sửa đổi hiến pháp và đề ra các bộ luật mới nhằm bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, hơn nữa c̣n cho phép các nhà doanh nghiệp dân doanh tham gia quá tŕnh chính trị, mở rộng một cách hữu hiệu nền tảng xă hội của chính quyền.
Từ đầu thế kỷ 21 tới nay, đảng cầm quyền bắt đầu điều chỉnh chính sách cải cách. Dưới sự dẫn dắt của “quan niệm phát triển khoa học” và học thuyết chính sách “xă hội hài hoà”, đảng cầm quyền hi vọng sẽ cân bằng được quan hệ giữa tầng lớp mới nổi và tầng lớp xă hội truyền thống, chủ yếu là nhằm vào căn chỉnh cục diện nghiên về tầng lớp mới nổi một cách phiến diện ở giai đoạn đầu mà coi trọng không đúng mức lợi ích của tầng lớp xă hội truyền thống, nỗ lực thực hiện công bằng xă hội. Đương nhiên, cách làm như vậy cũng phù hợp với lợi ích của tầng lớp mới nổi. Bởi trong bối cảnh thiếu sự công bằng chính nghĩa xă hội, các vấn đề xă hội khó có thể tiếp tục và chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới lợi ích của tầng lớp mới nổi.
Doanh nghiệp nhà nước và công chức trở thành tập đoàn lợi ích mới
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu năm 2008 là một bước ngoặt. Nhằm ứng phó với khủng hoảng, nhà nước (Chính phủ Trung Quốc) đă tung ra chương tŕnh tài chính tiền tệ rất lớn. Nguồn lực tài chính khổng lồ từ chương tŕnh đó đều được rót cho bản thân nhà nước, tức là các ngành quốc hữu. Thực tế này đă dẫn tới sự bành trướng mạnh mẽ của tập đoàn lợi ích. Sự bành trướng mạnh mẽ của các ngành quốc hữu ngay lập tức đă phá vỡ trạng thái tương đối cân bằng trước đây giữa ngành quốc hữu và ngành dân doanh, các doang nghiệp quốc hữu giành lấy vị trí chủ đạo tuyệt đối, nhanh chóng chiếm lĩnh không gian của các doanh nghiệp dân doanh. Sau những năm giữa và cuối của thập niên 1990, các doanh nghiệp dân doanh có được không gian phát triển rất lớn, nhưng hiện nay thời kỳ tốt đẹp ấy không c̣n và họ bắt đầu đi t́m lối thoát mới như thông qua phương thức di dân để rút khỏi xă hội Trung Quốc.
Nghiêm trọng hơn là sự bành trướng của ngành quốc hữu cũng không mang lại cái ǵ đó tốt đẹp cho tầng lớp xă hội truyền thống. Dưới nền kinh tế kế hoạch truyền thống, ngành quốc hữu là nền tảng chế độ của giai cấp công nhân. Nhưng hiện nay ngành quốc hữu đă có tính chất khác, các doanh nghiệp quốc hữu rất khó có thể nói là của nhà nước mà phần nhiều đă thuộc về người quản lư doanh nghiệp nhà nước hoặc người đại diện của nhà nước. Trên thực tế, doanh nghiệp quốc hữu đă trở thành căn nguyên của các hiện tượng như bất công xă hội, khoảng cách giàu nghèo nới rộng…
Bản thân hệ thống công chức cũng trở thành tập đoàn lợi ích. Sau cải cách mở cửa, dù đă đưa ra mục tiêu cải cách là xây dựng “chính quyền nhỏ, xă hội lớn” và mỗi lần cải cách cũng muốn tinh giản cơ cấu chính quyền và số lượng công chức, nhưng thực tế diễn ra lại ngược với mong muốn. Hệ thống công chức ngày càng lớn, xă hội ngày một nhỏ đi. Trong bối cảnh phân quyền, các tầng nấc chính quyền ngày càng nhiều, ngày càng phức tạp. Ví dụ: cấp địa khu trước đây chỉ là cơ quan hành chính th́ nay đă trở thành thực thể, là một cấp chính quyền. Đồng thời, cũng đă xuất hiện các thành phố kế hoạch kinh tế độc lập (thành phố được coi là một đơn vị trong kế hoạch của nhà nước, có quyền hạn quản lư kinh tế ngang cấp tỉnh như Đại Liên, Thanh Đảo, Ninh Ba, Hạ Môn, Thâm Quyến). Đây không chỉ là biểu tượng cho sự ph́nh to về cơ cấu công chức, mà hơn thế c̣n gây ra cản trở trong quan hệ giữa trung ương và xă hội.
Sự ph́nh to vô hạn của cơ cấu công chức đương nhiên thu hẹp không gian xă hội. Cùng với việc nguồn tài chính tập trung vào cơ cấu công chức, t́nh trạng nước giàu dân nghèo đă không thể tránh được. Nghiêm trọng hơn là việc cơ cấu công chức đang cho thấy sự không ăn khớp nghiêm trọng với xă hội, các cơ cấu công chức như một thành luỹ không có sự liên hệ hữu cơ với nhân dân. Hơn nữa, hệ thống công chức bắt đầu diễn biến thành hệ thống độc lập, hưởng thụ những ǵ tốt đẹp của thị trường và có thể không phải chịu đựng những ǵ xấu xă của thị trường. Việc này được thể hiện qua sự không ngừng xuất hiện những hệ thống cung cấp đặc biệt về bảo đảm xă hội, y tế điều trị, nhà ở và thực phẩm (cho công chức) trong xă hội. Một sự thật tàn khốc là cải cách của Trung Quốc thường đi từ trên xuống dưới, v́ thế trong bối cảnh hệ thống công chức đang không ăn khớp nghiêm trọng với xă hội, không cảm nhận được nỗi khổ của nhân dân, lẽ nào động lực của cải cách lại có thể xuất hiện?
Đồng thời việc ph́nh to của các tập đoàn lợi ích, khả năng giới lănh đạo đảng cầm quyền khắc phục trở ngại đến từ các tập đoàn lợi ích cũng ngày càng bị hạn chế và sẽ giảm mạnh. Do nhu cầu dân chủ trong đảng, giới lănh đạo thực hiện tập thể lănh đạo và không ngừng mở rộng quy mô của giới lănh đạo (ví dụ: Thường vụ Bộ Chính trị từ 5 người của những năm 1980 tăng lên 9 người hiện nay). Mức độ dân chủ trong đảng được tăng cường đồng nghĩa với trạng thái phân tán quyền lực ở phần chóp bu. Do quyền lực không c̣n được tập trung, sự thực thi của quyền lực tự nhiên không c̣n hữu hiệu. Thêm vào đó, do phân quyền cho xă hội, nên các tổ chức xă hội không thể phát triển. Đồng thời, xă hội cũng không có một cơ chế hữu hiệu để có thể ảnh hưởng tới quá tŕnh chính trị, cho nên xă hội vừa không thể ủng hội giới lănh đạo về chủ trương cải cách, cũng không thể nào kiểm soát được các lợi ích đă đạt được.
Tiến tŕnh cách mạng lặng lẽ bắt đầu
Kết quả là làm công cuộc cải cách của Trung Quốc rơi vào trạng thái đă đề cập ở phần đầu của bài viết. Rất nhiều dấu hiệu cho thấy khi cải cách không thể tiếp tục, tiến tŕnh cách mạng sẽ lặng lẽ bắt đầu. Người ta có thể cảm nhận được sự tồn tại của các nhân tố cách mạng ở Trung Quốc trển tất cả các phương diện.
Trước tiên, các tập đoàn lợi ích có thể ảnh hưởng tới chính sách cải cách. Thông thường, họ có thể tối đa hoá các chính sách có lợi cho lợi ích của họ và giảm đến mức thấp nhất các chính sách không có lợi cho lợi ích của họ. Các tập đoàn lợi ích có thể bao vây nghị tŕnh cải cách của các nhà lănh đạo bất cứ lúc nào. Nếu có một quan niệm cải cách nào đó không phù hợp với lợi ích của họ, họ liền “đánh hội đồng” với tất cả các thủ đoạn. Do đó, việc có người cho rằng các tập đoàn lợi ích đă “thao túng” nghị tŕnh cải cách của Trung Quốc là muốn nói việc các tập đoàn lợi ích có thể đề ra chính sách và giới lănh đạo cùng chính quyền chỉ là “công cụ” giúp họ vẽ ra chính sách.
Người dân đă mất đi niềm tin cơ bản vào hệ thống công chức, chính quyền và nhân dân bắt đầu rơi vào trạng thái đối lập. Phong trào chống đối trong xă hội không ngừng diễn ra. Do cải cách lâm vào khó khăn, chính quyền rất khó sử dụng phương thức cải cách để hoá giải sự đối lập giữa chính quyền và người dân, cho nên các ngành hữu quan bắt đầu dùng biện pháp cưỡng chế để thống trị và kiểm soát xă hội, ví dụ như hành động “duy tŕ ổn định”. Nghiêm trọng hơn là trong quá tŕnh kiểm soát xă hội với cường độ cao, công cụ bạo lực vốn do nhà nước độc quyền bắt đầu được tư hữu hoá. Quyền lực công “thuê ngoài” của một số chính quyền địa phương đă dẫn tới sự sản sinh của một số hành vi mới như “gian giữ trái pháp luật”. Một số doanh nghiệp bất động sản đă hung hăn đánh người, thậm chí là giết người trong quá tŕnh giải phóng mặt bằng. Kết quả là làm sâu sắc hơn sự đối lập giữa nhà nước và xă hội, giữa chính quyền và nhân dân.
Cần phải chỉ ra rằng, trong bất cứ một xă hội nào, phong trào đối kháng xă hội là b́nh thường và không phải tất cả sự đối kháng xă hội nào cũng dẫn tới cách mạng. Nhưng đối kháng xă hội mang ư thức chính trị cuối cùng cũng sẽ dẫn tới cách mạng. Trong rất nhiều năm, các sự kiện mang tính tập thể hoặc các phong trào chống đối xảy ra ở Trung Quốc đều là nhằm lợi ích kinh tế cụ thể. Nhưng ngày nay, trong xă hội Trung Quốc, các h́nh thái ư thức ồ ạt trỗi dậy và đồng thời với sự phân hoá về h́nh thái ư thức trong xă hội, ư thức chính trị cũng đựơc rót vào các tập thể xă hội. Người dân có thể lựa chọn trong rất nhiều h́nh thái ư thức xă hội khác nhau, phát triển ra các loại ư thức chính trị khác nhau. H́nh thái ư thức là kim chỉ nam của hành động, sự tồn tại của các loại h́nh thái ư thức khác nhau đương nhiên sẽ gây ra hâu quả chính trị.
Trong bối cảnh như vậy, các tập đoàn lợi ích cũng bắt đầu cảm nhận được sự mất an toàn. Ngoài việc thực hiện kiểm soát với cường độ cao, họ c̣n muốn luận chứng về tính hợp pháp, hợp lư của ḿnh về mặt tư tưởng. Họ bắt đầu t́m kiếm lực lượng ủng hộ trong các trào lưu tư tưởng. Nhưng những tư tưởng này cho dù là sản sinh ở Trung Quốc hay du nhập từ nước ngoài, đối với họ, chỉ mang tính chất của một loại công cụ. Về tổng thể, các tập đoàn lợi ích đang trong trạng thái vô ư thức tập thể. Họ không muốn cải cách, sợ cải cách, sợ sẽ mất cái ǵ đó trong cải cách. Họ chỉ biết không thể làm ǵ mà không biết nên làm ǵ. Một số phần tử cực đoan thậm chí c̣n bắt đầu “ma quỷ hoá” cải cách.
Rất rơ ràng, khi mục tiêu cuối cùng của các tập đoàn lợi ích là bảo vệ lợi ích của ḿnh và làm cho nó trở nên vĩnh cửu hoá, họ hoàn tàon không c̣n năng lực để vượt qua lợi ích bản thân. Khi họ không thể vượt qua lợi ích bản thân, sự cởi mở về chính trị chắc chắn sẽ mất đi. Trong khi đó, sự khép kín của thể chế chắc chắn sẽ dẫn tới sự nảy sinh và phát triển của các nhân tố cách mạng. Nguyên nhân rất đơn giản, khi không thể tiến hành cải cách từ nội bộ, cải cách bên ngoài sẽ trở thành lựa chọn.
Kinh nghiệm mách bảo chúng ta rằng đây đều là hiện tượng manh nha của tiến tŕnh cách mạng, nhưng tiến tŕnh cách mạng được tiến hành như thế nào th́ vẫn c̣n phải xem xem việc tồn tại hay không công cuộc cải cách hữu hiệu. Nếu trong thời kỳ đầu của tiến tŕnh cải cách mà cải cách được thực thi một cách hữu hiệu, tiến tŕnh cách mạng sẽ dừng lại. Trong trường hợp ngược lại, tiến tŕnh cách mạng sẽ tiếp tục tới khi bùng nổ thực sự. Xem xét lịch sử, người ta thấy khi cách mạng sắp bùng nổ, giai cấp thống trị sẽ c̣n tiến hành một cuộc cải cách lớn, nhưng đáng tiếc là khi đó đă muộn. Thời Măn Thanh là một minh chứng điển h́nh. Khi Hoàng đế Quang Tự muốn tiến hành cải cách, Từ Hi Thái hậu và các thế lực bảo thủ đă giết hại các nhà cải cách. Nhưng sau này khi t́nh h́nh thúc ép, v́ sự sinh tồn, Từ Hi Thái hậu thực sự muốn tiến hành cải cách, thậm chí là với mức độ và cường độ lớn hơn cả mong muốn của Hoàng đế Quang Tự. Tuy nhiên, xu thế chung đă qua đi, cách mạng đă trở thành động lực chính, bất cứ công cuộc cải cách nào cũng khó có thể văn hồi được thế cuộc nữa.
Vậy th́ cách mạng sẽ có kết quả như thế nào? Trong trạng thái lư tưởng, cách mạng là hành động sống mái, là tṛ chơi được mất ngang nhau. Nhưng cách mạng cũng thường dẫn tới kết cục cùng huỷ diệt. Cho dù trong bất cứ t́nh huống nào, hi sinh nhiều nhất là đại đa số người dân trong xă hội, đặc biệt là lợi ích của tầng lớp trung, hạ lưu. Mỗi lần cách mạng, giới tinh hoa xă hội cũng bị hy sinh, nhưng so với đại đa số của xă hội, sự hi sinh này không thấm tháp ǵ. Xem xét ở góc độ chính trị, trong môi trường chính trị của Trung Quốc, kết quả của cách mạng rất có tểh chính là một sự thay đổi không có bất cứ ư nghĩa mang tính thực chất nào. Sự thay đổi thực sự của xă hội Trung Quốc nằm ở sự cải cách dần dần. Cải cách v́ thế phù hợp với lợi ích của các bên, vừa phù hợp lợi ích của quần chúng xă hội, vừa phù hợp lợi ích của các tập đoàn lợi ích.
Cho dù cách mạng trong nhiều t́nh huống đều cáo chung bằng bi kịch, nhưng trong bối cảnh các tập đoàn lợi ích vô ư thức, bị kịch này lại là điều b́nh thường của lịch sử. Nếu không phải như vậy th́ rất khó giải thích sự tuần hoàn của cách mạng trong lịch sử.
Rất rơ ràng, đối với Trung Quốc hiện nay, cải cách tuyệt đối không phải là cái ǵ đó có cũng được, không có cũng chẳng sao, mà cải cách là cần thiết./.
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Sáu, ngày 01/07/2011
TTXVN (Hồng Công 28/6)
|