THÀNH LẬP TRUNG TÂM HUẤN LUYỆN BĐQ ĐÀ NẴNG VÀ SÔNG MAO
Trung tuần tháng 4 năm 1960, trong cuộc thăm viếng trường Biệt Động Đội Đồng Đế (sau đổi tên là TTHL Biệt Động Quân Nha Trang), Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm rất hài ḷng cách thức huấn luyện và thực tập do một số sĩ quan Huấn luyện viên tốt nghiệp khoá Ranger tại Fort Benning, Georgia, Hoa Kỳ, về áp dụng.
Trở về Sàigon, ông liền chỉ thị cho Bộ Tổng Tham Mưu/ QLVNCH thành lập 2 TTHL/ BĐQ;
- Một tại Đà Nẵng để huấn luyện cho Sĩ quan và Hạ sĩ quan thuộc Quân Đoàn I
- Một tại Sông Mao huấn luyện cho Sĩ quan, Hạ sĩ quan thuộc Quân Đoàn III, và Quân Đoàn IV.
Bộ TTM/ QLVNCH yêu cầu phái bộ Viện trợ Mỹ (Military assistance Advisory group) giúp đỡ tổ chức các toán huấn luyện viên hỗn hợp cho 2 TTHL này.
Vào trung tuần tháng 5 năm1960, Liên đoàn 77 Special Forces đến Việt Nam chia làm hai toán, một toán tới Đà Nẵng và một toán tới Sông Mao.
Cũng trong thời gian này, các sĩ quan Việt Nam tốt nghiệp khoá bộ binh cao cấp (IOAC), và các sĩ quan tốt nghiệp khoá Đại đội trưởng (ACO) tại trường Fort Benning, Georgia, Hoa Kỳ, hồi hương về tŕnh diện Ban Quân Huấn (sau này thành Tổng Cục Quân Huấn) thuộc pḥng Bộ 3 TTM, được phân phối về TTHL/ BĐQ Sông Mao.
Các Đại uư :
- Đỗ văn Sáu
- Hồ văn Phước
- Trần công Liễu
- Đào vĩnh Thi
- Trần hữu Toán
- Nguyễn Ni Văn
Các Trung uư :
- Ngô Minh Hồng
- Quan Minh Tống
- Nguyễn Văn Sảo, và Phan Văn Cẩm.
Về TTHL/ BĐQ Đà Nẵng, gồm các Đại uư :
- Nguyễn Văn Đại (trưởng toán)
- Trần Văn Hai
- Vơ Công Trí
- Nguyễn Hoành Bảo
- Cao Quốc Điền
- Trần đ́nh Nại
- Cao Văn Chơn
Các Trung uư :
- Nguyễn Kim Biên
- Phạm Quang Vân
- Nguyễn Văn Vy và Hoàng Tôn Oai.
Về phía các huấn luyện viên Mỹ thuộc Team A 7th Special task Forces tại TTHL/ BĐQ Đà Nẵng gồm có :
- Thiếu tá Slade (trưởng toán), cùng các Đại uư :
- Kaiser
- Grimmett
- Yohmes
- Snyder
Trung uư Wynn
Thượng sĩ Gray, Schocomaker, Yones và Trung sĩ Y Tá Fouler.
Riêng tên các huấn luyện viên Mỹ ở TTHL/ BĐQ Sông Mao không được rơ.
- Thiếu tá Chương Phát Dưỡng, Chỉ Huy Trưởng, một Thiếu uư phụ trách Tiếp Liệu, Tiếp Vận, một Thiếu uư phụ trách ẩm thực cho khóa sinh, canh gác, tạp dịch và một Trung đội Bộ binh.
Tất cả thuộc Sư đoàn 2 Bộ binh biệt phái.
Cả hai TTHL/ BĐQ Đà Nẵng và Sông Mao đồng thành lập vào thượng tuần tháng 5 năm 1960.
Ở đây chỉ đề cập tới TTHL/ BĐQ Đà Nẵng làm điển h́nh.
Ngày 25 tháng 5 năm 1960, Thiếu tá Chương Phát Dưỡng giới thiệu hai toán huấn luyện viên Mỹ Việt, sau đó huấn luyện viên Việt nam cùng ngồi chung xe jeep của HLV Mỹ về cư xá sĩ quan Đà Nẵng nơi cư ngụ cuả SQ/ HLV Việt Nam.
HLV Mỹ về cư xá phái bộ cố vấn Mỹ ở cuối đường Độc Lập cạnh sông Hàn.
Sau đó mỗi buổi sáng, HLV Mỹ tới đưa HLV Việt nam vào TTHL (toạ lạc tại doanh trại của Bảo An Đoàn cũ, phía tây nam phi trường Đà Nẵng, kế cận Quốc lộ 1 và xă Phưóc tường, Hoà Cầm).
Công việc cấp bách của HLV Việt-Mỹ là thám sát điạ điểm huấn luyện, tổ chức các băi tập tại đèo Đại La, núi Ba Ra vùng Hoà Cầm, ven sông vùng Hà Thanh, Nam Ô…, cũng như dịch tài liệu, soạn phiếu huấn luyện, chuẩn bị trợ huấn cụ.
Trong thời hạn 15 ngày, tất cả các phương tiện, tài liệu, vật liệu, văn pḥng phẩm, và phương tiện di chuyển đều do team A 7th special Task Forces cung cấp.
Riêng xe cộ chuyển vận khoá sinh do Đại đội Vận tải Sư đoàn 2 BB cung cấp bất cứ lúc nào.
Ngày 10 tháng 6 năm 1960, các khóa sinh đến tŕnh diện chỉ phải đóng 6 tuần tiền ăn theo tiêu chuẩn b́nh thường.
Tuy vậy suốt thời gian thụ huấn, khoá sinh đuợc hưởng chế độ ăn uống cao và khẩu phần phụ trội sáng, trưa, chiều, mà không phải trả thêm một đồng nào.
Khoá sinh được trang bị đầy đủ quân trang, quân dụng, vũ khí như một quân nhân tác chiến.
Thành phần khóa sinh, một phần t́nh nguyện theo học, phần c̣n lại được tuyển lựa gồm :
- 50 HSQ
- 50 SQ cấp uư và cấp tá, trong số cấp tá có người đương kim là Trung đoàn phó, Tham Mưu Trưởng Sư đoàn, Tỉnh trưởng.
Theo nội quy, các khóa sinh tự gỡ bỏ cấp hiệu và mang số khoá sinh cho tới ngày măn khóa.
Mỗi HLV Mỹ và Việt ít nhất phải đảm nhiệm huấn luyện viên chính (prime instructor) một môn, ngoài ra sẽ làm huấn luyện viên phụ (assistanct instructor) cho các PI khác, hoặc kiêm thông dịch nếu PI là Mỹ.
Riêng 2 trưởng toán được miễn là AI v́ bận nhiều việc như lập lịch tŕnh huấn luyện và đón tiếp, hướng dẫn các VIP Mỹ Việt đến thăm.
Tóm lại, sự phối hợp huấn luyện giữa Mỹ và Việt rất nhịp nhàng, chặt chẽ, đồng đều. Chương tŕnh huấn luyện sáu tuần lễ, thời lượng trung b́nh mỗi tuần là 84 giờ, bất kể ngày đêm.
Chỉ có ngày chủ nhật huấn luyện viên, khoá sinh được nghỉ xả hơi.
Tuy nhiên, tất cả HLV phải họp mặt vào lúc 10.00 sáng chủ nhật để kiểm điểm công tác trong tuần.
Các môn học gồm :
- Phục kích
- Phản phục kích
- Đột kích
- Thám sát
- Kỹ thuật sưu tầm tin tức
- Chiến tranh chống du kích, bơi lội, vượt sông, ḿn, chất nổ, cạm bẫy, cấp cứu sơ khởi, mưu sinh thoát hiểm
- Cận chiến, tác xạ làm quen các loại vũ khí, tác xạ di động, tác xạ phản ứng nhanh ngày, đêm
- Di hành với ba lô, súng đạn (nặng 15 kgs) leo núi, băng rừng, trên đường về trung tâm đi gia tốc đoạn đường dài 10 km và bài tập dă ngoại 48 giờ.
Ngoài ra tập thể dục từ 4 đến 5 giờ sáng mỗi ngày, và tự giác đu xà ngang 15 lần trước khi vào pḥng ăn.
H́nh phạt thông thường là hít đất, nhẩy xổm, chạy ṿng ṿng.
Theo thông lệ, huấn luyện viên biểu diễn trước, khóa sinh bị phạt thi hành sau.
Khóa sinh nào khai bệnh nghỉ hai ngày trở lên đều bị loại và phải học lại khóa kế tiếp.
Lễ măn khoá 1 BĐQ dưới quyền chủ tọa của trung tướng Trần văn Đôn, Tư Lệnh Quân đoàn I.
Ông đă khen ngợi khóa sinh “tích cực thụ huấn” và tuyên dương TTHL/ BĐQ Đà nẵng là đơn vị duy nhất của Quân đoàn “làm việc không biết mệt mỏi, hoàn thành trách nhiệm huấn luyện tối ưu”.
Kết quả huấn luyện qua vóc dáng, nét mặt của 100 khóa sinh tốt nghiệp so với ngày đầu đến thụ huấn, đă biến mầu da thành sạm nắng, nâu đậm (nếu không muốn nói là đen kịt), nhưng rất khoẻ mạnh vui vẻ, năng động, cương nghị, tự tin hơn nh́ều.
Khóa sinh rời khỏi trung tâm cũng là lúc tất cả Huấn luyện viên được nghỉ 15 ngày phép về thăm gia đ́nh bạn hữu.
Trung tuần tháng 8 năm 1960, Team A 7th Special Forces măn nhiệm về nước.
Thiếu tá Lê Tích Thiểu (tốt nghiệp khóa I BĐQ) giữ chức CHT/ TTHL/ BĐQ Đà nẵng thay Thiếu tá Chương Phát Dưỡng.
Kể từ khóa 2 BĐQ, khai giảng vào cuối tháng 8 năm 1960, huấn luyện viên Việt nam hoàn toàn đảm nhận mọi trọng trách huấn luyện với sự tiếp tay của một số sĩ quan, hạ sĩ quan tốt nghiệp khóa I BĐQ được lưu giữ làm phụ tá HLV và sự yểm trợ tích cực của toán cố vấn do Thiếu tá John Warren, là cố vấn trưởng đến từ 1st Special task Forces, Okinawa.
Ngoài 2 TTHL Đà Nẵng và Sông Mao, TTHL/ BĐQ Nha Trang là hậu thân của Trường Biệt Động Đội Đồng Đế, đặc trách Huấn luyện cho sĩ quan va hạ sĩ quan thuộc Quân đoàn II
.
Song song với 3 TTHL nêu trên, c̣n có TTHL/ BĐQ Trung Hoà, và Thất Sơn, huấn luyện cho các đại đội Biệt động Quân.
THÀNH LẬP BỘ CHỈ HUY BIỆT ĐỘNG QUÂN
Ngày 01 tháng 7 năm 1960, Bộ TTM/ QLVNCH chính thức thành lập Binh Chủng Biệt Động Quân.
Bộ Chỉ Huy đặt tại một doanh trại cũ đường Tô Hiến Thành, quân 3 Sàigon, có nhiệm vụ quản trị, điều hành, bổ sung quân số, trang bị, thanh tra, theo dơi, thống kê các hoạt động của tất cả các đơn vị BĐQ.
Chỉ huy Trưởng đầu tiên của binh chủng là :
- Thiếu tá Phan Trọng Chinh, kế tiếp là :
- Thiếu Tướng Tôn Thất Xứng
- Chuẩn Tướng Lam Sơn
- Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận
- Trung Tá Trần Văn Hai
- Trung tá Trần Công Liễu và cuối cùng là Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Ngay sau khi thành lập BCH/ BĐQ, phù hiệu, huy hiệu BĐQ được thực hiện theo mẫu vẽ cuả Đại Uư Nguyễn Thành Chuẩn gồm :
Phù hiệu mang trên cánh tay áo trái là h́nh khiên nền vàng có đầu beo đen, ngôi sao trắng.
Phù hiệu trên beret nâu là nhành dương liễu vàng, mũi tên có cánh mầu trắng nằm ngang.
Riêng huy hiệu đeo trên ngực áo là :
- Nhành dương liễu mầu vàng, hai thanh kiếm gác chéo, có ngôi sao vàng, dành cho tất cả sĩ quan và hạ sĩ quan, kể cả cảnh sát và đồng minh tốt nghiệp khóa Biệt Động Quân hoặc khoá học Rừng núi śnh lầy.
Quân phục tác chiến của BĐQ là đồng phục rằn ri mầu hoa rừng.
Kể từ ngày thành lập binh chủng, tất cả các BĐQ không phân biệt cấp bậc đều được hưởng thêm 300$ (VND) một tháng ngoài tiền lương ấn định. 24-THÀNH LẬP TTHL /BĐQ / DỤC MỸ.
Ngày 1 tháng 8 năm 1961, Bộ TTM/ QLVNCH quyết định sát nhập các TTHL/ BĐQ Đà Nẵng, Nha Trang, Sông Mao thành một TTHL/ BĐQ thống nhất tại Dục Mỹ, toạ lạc tại bản doanh cũ cuả SĐ23 BB, kế cận quốc lộ 21, giữa quận lỵ Ninh Hoà và Khánh Dương.
Cũng thời gian này TTHL/ BĐQ Trung Hoà và Thất Sơn được sát nhập thành TTHL/ BĐQ Trung Lập chuyên huấn luyện các Đại đội và Tiểu Đoàn BĐQ.
Đại uư Trần Đ́nh Nại nguyên là HLV tại TTHL/ BĐQ Đà Nẵng đuợc chỉ định giữ chức CHT TTHL/ BĐQ Trung Lập và Thiếu tá Tom Henry làm cố vấn trưởng.
Trung tâm Huấn luyện BĐQ Dục Mỹ gồm :
- Chỉ huy Trưởng
- Chỉ Huy Phó, Tham Mưu Trưởng
- Pḥng quản trị nhân viên
- Pḥng an ninh t́nh báo
- Pḥng 3
- Pḥng tài chánh
- Pḥng Tiếp Vận, tiếp liệu
- Pḥng Quân Huấn
- Liên Đoàn Khoá Sinh
- Ban truyền tin
- Bệnh xá
- Ban Chỉ huy Trại cùng 2 Đại đội 301 và 302 (canh gác, tạp dịch, làm gỉa địch, diễn tập).
Pḥng Huấn luyện là quan trọng nhất gồm có các ban :
- Ban Nghiên cứu
- Ban Kế Hoạch
- Khoa Chiến Thuật
- Khoa Tổng quát và Vũ tác Ḿn
- Ban trợ huấn cụ. Pḥng này phụ trách huấn luyện :
• Khoá căn bản BĐQ cho tân khóa sinh.
• Khoá Rừng Núi Śnh Lầy.
• Khoá bổ túc TĐ/ BĐQ.
• Khóa Viễn Thám.
Chỉ Huy Trưởng TTHL/BĐQ/ Dục Mỹ đầu tiên là :
- Trung tá Vĩnh Biểu, kế đến là :
- Đại Tá Đặng Văn Sơn
- Trung Tá Nguyễn Văn Kiên
- Thiếu tá Trần Công Liễu
- Trung tá Nguyễn Hữu Phú
- Trung Tá Nguyễn Khắc Trường, cuối cùng là :
- Đại tá Nguyễn Văn Đại cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Chương tŕnh huấn luyện 42 ngày đêm liên tục, trung b́nh 18 giờ/ ngày.
Các môn học tương tự như ở TTHL/ BĐQ Đà-Nẵng trước đây, ngoài ra thêm môn :
Riêng khóa Rừng Núi Śnh Lầy có 10 ngày thực tập tại căn cứ Núi Rừng (phía bắc Dục Mỹ khoảng 10km), 10 ngày thực tập tại căn cứ Śnh Lầy ở chân đèo Rọ Tượng (gần Quốc lộ I, giữa quận lỵ Ninh Hoà và NhaTrang).
Chứng chỉ 2 RNSL chỉ được trao cho cấp Sĩ quan BĐQ và trong Quân–Binh–Chủng của QLVNCH nếu quân nhân đó đă trải qua một khóa huấn luyện kéo dài trong 6 tuần về căn bản của "Chiến Thuật Tác Chiến Biệt Động"
Nơi đây là trường đào tạo chiến binh BĐQ QLVNCH
Khóa huấn luyện bổ túc Tiểu đoàn có thêm bài tập :
- Bộ Chỉ Huy (Tham Mưu) 24 giờ, và cuộc thực tập :
- Tiểu đoàn hành quân 72 giờ trong vùng đồng ruộng, làng mạc, đồi núi phía Tây Bắc quận lỵ Ninh Hoà.
Trung tâm huấn luyện BĐQ Dục Mỹ c̣n đảm nhiệm huấn luyện RNSL ( Rừng Núi Śnh Lầy ) cho :
- Sinh viên sĩ quan Vơ Bị Đàlạt
- Thủ Đức
- Cảnh Sát và hai (2) khoá cho Sĩ quan, Hạ sĩ quan cho Đại Hàn.
Tất cả Huấn luyện Viên ṇng cốt ban đầu đều được tu nghiệp tại các quân trường :
- Fort Benning Georgia
- Fort Bragg
- North Carolina
Nhưng khi các TTHL/BĐQ Đà-Nẵng, Nha Trang, Sông Mao giải tán, về tập trung tại Dục Mỹ chỉ c̣n khoảng một nửa.
Nửa c̣n lại xin trở về đơn vị gốc tại Huế, Đà Nẵng, NhaTrang, Biên Hoà, và Sàigon.
Các thế hệ Huấn luyện viên và phụ tá huấn luyện viên kế tiếp đều tốt nghiệp các khoá :
- BĐQ Đà Nẵng
- Nha Trang
- Sông Mao và RNSL tại Dục Mỹ.
Từ cuối năm 1961 đến tháng 11 năm 1963, dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Đặng Văn Sơn, Trung Tâm Huấn luyện BĐQ Dục Mỹ đă nổi tiếng là “Ḷ Luyện Thép”, không những ở trong nước mà tiếng vang đă đến khắp vùng Đông Nam Á Châu.
Rất nhiều phái đoàn cao cấp của quân đội đồng minh cũng như chính khách quan trọng, các Tướng lănh Tư Lệnh các Quân Đoàn và Bộ TTM/ QLVNCH thường xuyên đến thăm liên tục.
Thành quả nêu trên đều nhờ vào tất cả mọi thành viên thuộc TTHL có :
- Kinh nghiệm, năng nổ, nhiệt t́nh, tự giác, gương mẫu cùng với sự trợ giúp của các cố vấn, với phương pháp huấn luyện sáng tạo, thực tiễn, khắt khe, kỷ luật, lư thuyết ngắn gọn, thực hành tối đa, rèn luyện cả tinh thần lẫn thể chất.…
Lễ măn khóa đơn giản nhưng trang trọng, khoá sinh nhận Bằng Tốt Nghiệp với ḷng tự hào, tươi vui.
Chính lúc này cũng là lúc họ đă lột xác từ bạch diện thư sinh thành các pho tượng đồng đen, sẵn sàng lao vào cuộc chiến với tinh thần bất khuất…
Nhiều Tiểu Khu đă sử dụng các Đại đội BĐQ sai nguyên tắc, không đúng với chức năng Biệt Động Quân, tệ hơn nữa họ dùng BĐQ để canh gác bảo vệ Tỉnh Trưởng.
V́ vậy, theo đề nghị của MACV (Military Assistance Command VN) vào đầu năm 1962, Bộ TTM/ QLVNCH, thu hồi các đại đội này và thành lập 3 Tiểu Đoàn BĐQ :
- Tiểu đoàn 10 tại Đà-Nẵng (QĐI)
- Tiểu đoàn 20 tại Pleiku (QĐII)
Tiểu đoàn 30 tại Sàigon (BKTĐ) với nhiệm vụ tiến sâu vào ḷng địch, kiểm soát để truy t́m và tiêu diệt chúng.
Năm 1963, quân đội Bắc Việt gia tăng xâm nhập vào miền Nam Việt nam, mở rộng chiến tranh.
Biệt Động Quân được xử dụng càng lúc càng nhiều nhằm ngăn chặn Việt Cộng, chặn đứng các cuộc chuyển quân và tiếp vận từ miền Bắc vào.
Để đáp ứng trọng trách này, ngoài 3 tiểu đoàn đă thành lập như :
- TĐ11 (TĐ10 đổi tên)
- TĐ21 (TĐ 20 đổi tên)
- TĐ30 (giữ nguyên) thành lập thêm các :
- TĐ22/ BĐQ tại Dục Mỹ
- TĐ32 và 33 BĐQ tại Sàigon.
Hai tiểu đoàn 32 và 33 sau khi được huấn luyện tại TTHL Trung Lập, đặt thuộc quyền QĐ III, vào tháng 5 năm 1963.
Sau đó, bốn Ban đại diện BĐQ tại bốn quân khu được h́nh thành tại :
- Đà Nẵng
- Pleiku
- Biên Hoà, và Cần Thơ.
Tổ chức và trách nhiệm của các Ban đại diện BĐQ quân khu cũng tương tự như Bộ Chỉ Huy BĐQ trung ương, không trực tiếp chỉ huy hay điều động các đơn vị BĐQ hành quân.
The Following User Says Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
Sau cuộc đảo chánh (1-11-1963), lật đổ nền Đệ Nhất Cộng Hoà, Bộ tứ tướng “Minh, Đôn, Xuân, Đính” chỉ thị phá bỏ hệ thống các ấp chiến lược do Đệ Nhất Cộng Hoà thiết lập nhằm mục đích tách rời du kích cộng sản ra khỏi làng mạc thôn ấp.
Có thể đây là một quyết định sai lầm của các tướng nói trên.
Lợi dụng sự bất ổn chính trị và sự yếu kém của chính quyền quân nhân, du kích cộng sản nằm vùng chỗi dậy, quân chủ lực miền Bắc xâm nhập công khai vào các vùng dọc theo biên giới Việt-Lào-Miên.
Để đối phó với t́nh h́nh này, theo lệnh của Bộ TTM/ QLVNCH, các đại đội BĐQ c̣n lại lần lượt được tổ chức thành 15 tiểu đoàn BĐQ, hoàn tất vào năm 1965.
Đến thời điểm này, Binh chủng Biệt Động Quân/ QLVNCH có tổng cộng 20 tiểu đoàn như sau :
• Quân đoàn I :
Huy hiệu Bộ Chỉ Huy BĐQ/Quân Khu I
Huy hiệu các Bộ Chỉ Huy LĐBĐQ 11, 12, 14, & 15
Huy hiệu các Tiểu Đoàn BĐQ 21, 37, và 39 thuộc LĐ12BĐQ, QLVNCH
Huy hiệu các Tiểu Đoàn tác chiến BĐQ,QLVNCH thuộc Quân Khu I
Huy hiệu các Tiểu Đoàn BĐQ 68, 69, và 70 thuộc LĐ11BĐQ, QLVNCH
Huy hiệu các Tiểu Đoàn BĐQ 60, 61, và 94 thuộc LĐ15BĐQ, QLVNCH
Các tiểu đoàn đều tự trị, dưới quyền chỉ huy và điều động trực tiếp của BTL quân đoàn.
THÀNH LẬP CÁC LIÊN ĐOÀN BĐQ.
Ngày 01 tháng 7 năm1967, các ban đại diện BĐQ ỡ quân khu hoàn tất việc giải thể, tái tổ chức thành các Liên đoàn Biệt động quân để có thể điều động nhanh, thống nhất chỉ huy, đủ khả năng đối đầu với chủ lực quân cộng sản Bắc Việt.
Liên đoàn BĐQ là lực lượng trừ bị, phản ứng nhanh của Quân đoàn, nhưng nhiều trường hợp đă đặt họ chiến đấu như những đơn vị bộ binh.
• Liên đoàn I BĐQ (tại Đà nẵng) gồm các tiểu đoàn :
- 37, 39, và 21(hoán chuyển với Tiểu đoàn 11 năm 1966)
Theo chỉ thị 100-9 của Bộ TTM/ Liên Quân (LQ)/ QLVNCH, ngày 22 tháng 5 năm 1970, thiết lập tại mỗi quân đoàn một Bộ Chỉ Huy BĐQ (ngoài ban Tham Mưu, c̣n có một đại đội truyền tin, một đại đội yểm trợ) đảm trách nhiệm vụ chỉ huy các đơn vị dân sự chiến đấu (Civilian Irregular defense group) nguyên thuộc Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ và Việt Nam tổ chức, huấn luyện, tài trợ và trang bị.
Hầu hết các thành viên thuộc đơn vị dân sự chiến đấu là người dân tộc thiểu số.
Việc sáp nhập, tái tổ chức CIDG và Biệt động Quân kéo dài tới ngày 4 tháng 1 năm 1971 mới hoàn chỉnh thành 37 Tiểu đoàn BĐQ Biên Pḥng , sau nhiều cuộc bàn luận giữa Bộ TTM/ Liên Quân/ QLVNCH, MACV, BTL Quân Đoàn và cố vấn Quân đoàn.
• Quân Đoàn I có :
- 8 TĐ/ BĐQ biên pḥng.
• Quân Đoàn II có :
- 12 TĐ/BĐQ biên pḥng.
• Quân Đoàn III có :
- 9 TĐ/BĐQ biên pḥng.
• Quân đoàn IV có :
- 8 TĐ/BĐQ biên pḥng.
Ngày 29 tháng 9 năm 1971, Tướng Abram, MACV, đồng thuận với Bộ TTM/ Liên quân VNCH cho thực hiện đồng nhất lực lượng chủ lực BĐQ gồm có 21 Tiểu đoàn BĐQ thành 7 Liên đoàn BĐQ.
Mỗi liên đoàn có 3 Tiểu đoàn.
Bốn (4) Liên đoàn trực thuộc Bộ chỉ huy BĐQ quân đoàn.
Ba (3) liên đoàn c̣n lại trực thuộc Bộ chỉ Huy BĐQ Trung Ương là lực lượng Tổng Trừ Bị của Bộ TTM Liên Quân.
Mỗi tiểu đoàn Biệt Động quân có một toán cố vấn (2 SQ, 1 HSQ và 1 binh sĩ truyền tin).
Nhiệm vụ của Cố vấn trưởng là góp ư hoặc thảo luận với Tiểu đoàn trưởng về chiến thuật, kế hoach hành quân, liên lạc với các đơn vị Hoa Kỳ trong các cuộc hành quân, phối hợp, hoặc trong vùng để khi cần xin pháo yểm, không yểm, hải pháo, trực thăng yểm trợ chiến đấu hoăïc tải thưong và máy bay quan sát.
Tóm lại sự giao hảo giữa cố vấn và BĐQ các cấp dù ở hậu cứ hay tiền tuyến đều rất thân thiện, hài ḥa.
Họ luôn luôn sát cánh bên nhau, cùng vào sinh ra tử, đầy t́nh đồng đội, tận sức cứu giúp bảo vệ nhau khi gặp hiểm nguy.
ảnh minh họa
Một số đông cố vấn Mỹ cho BĐQ được tưởng thưởng huy chương Anh dũng bội tinh của quân đội Hoa Kỳ và của quân lực VNCH.
Đồng thời, cũng có khoảng 50 cố vấn BĐQ tử thương (hy sinh tại mặt trận).
Điều đáng ghi nhận là sự quan hệ giữa cố vấn Mỹ với đối tượng BĐQ/ VN rất tốt đẹp hơn bất cứ các quân binh chủng khác (theo lời học giả Gerald Canon Kickey dựa vào cuộc phỏng vấn khỏang 320 cố vấn Hoa Kỳ).
Đến cuối năm 1973, người cố vấn cuối cùng thầm lặng hồi hương.
TÁI TỔ CHỨC VÀ PHỐI TRÍ BĐQ
Tháng 9 năm 1973, Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng/ QLVNCH đệ tŕnh lên Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bản đánh giá và tái hoạch định cơ cấu tổ chức cùng việc sử dụng BĐQ và đă được chấp thuận.
Những điểm chính trong kế hoạch này là :
• Băi bỏ hệ thống tiền đồn biên giới.
Các Tiểu đoàn BĐQ biên pḥng được tái tổ chức thành Liên đoàn BĐQ, với di động tính, có khả năng trở lại hoạt động vùng biên giới nếu cần hoặc được điều động tới các chiến trường sôi động.
• Có đủ lực lượng làm Tổng trừ bị cho Bộ TTM, thay thế Sư đoàn Dù và Sư đoàn TQLC được bối trí tại mặt trận QK I
• Giải tán BK 44 v́ t́nh h́nh Quân khu IV lắng diụ (đơn vị chủ lực và du kích VC đă bị loại ra khỏi ṿng chiến).
- Giải thể 8 TĐ/ BĐQ biên pḥng thuộc Quân Khu IV, bổ sung cho các tiểu đoàn BĐQ/ QK I và QK II đang thiếu hụt quân số.
Phối trí lại 58 TĐ/BĐQ (kể cả BĐQ biên pḥng) c̣n 45 Tiểu đoàn kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1974 như sau :
Do t́nh h́nh quân khu IV lắng diụ nên Liên đoàn 4 BĐQ được chuyển về lực lượng Tổng trừ bị. Quân đoàn IV, Quân khu IV không c̣n lực lượng Biệt động quân trực thuộc.
Tóm lại , kế hoạch tái cấu trúc không những đáp ứng đúng khả năng, sở trường chiến đấu của Biệt động Quân, c̣n tái lập được một lực lượng tổng trừ bị năng động trong tay của vị Tổng Tham Mưu Trưởng cũng như một lực lượng hùng mạnh, phản ứng nhanh dưới quyền điều động cuả các Tư lệnh Quân đoàn I, II và III để đối phó kịp thời với t́nh h́nh chiến sự ngày càng khốc liệt.
CÁC TRẬN CHIẾN TIÊU BIỂU CỦA BĐQ.
Kể từ đầu năm 1965, Quân lực VNCH, phải đối đầu với các đại đơn vị chủ lực của Cộng sản Bắc Việt (có ưu thế về hoả lực đại pháo, hỏa tiễn 122ly, xe tăng).
Trong đó BĐQ được các vị Tư lệnh chiến trường sử dụng tối đa vào các trận chiến gay go, ác liệt, hiểm nguy.
Nhưng với truyền thống bất khuất dũng cảm, thiện chiến, và quyết tử, luôn luôn áp dụng triệt để chiến thuật “Bất ngờ, Mau lẹ” cũng như các cấp chỉ huy lúc nào cũng ở tuyến đầu với binh sĩ, điển h́nh là :
Tiểu đoàn trưởng luôn luôn đi với đại đội tiên phong .Biệt Động Quân đă đạt nhiều chiến thắng oai hùng, vẻ vang.
Xin được ghi lại một số trận đánh, chiến thắng tiêu biểu :
TIỂU ĐOÀN 42 BIỆT ĐỘNG QUÂN :
Do Thiếu Tá Nguyễn văn Biết chỉ huy trong cuộc hành quân “Dân Chí 100” vào đầu năm 1965,
Tiểu đoàn được trực thăng vận xuống xă Đại Ngăi, Long Phú (Ba Xuyên), dưới sự yểm trợ của :
- Trực thăng Cobra và phản lực F4 của Hạm đội 7 Hải Quân Hoa Kỳ.
Sau 4 ngày giao tranh ác liệt với các đơn vị Việt cộng :
– Kết quả :
- 154 tên Việt cộng bỏ xác tại chỗ, 12 tên bị bắt làm tù binh.
- TĐ 42 BĐQ tịch thu :
- 5 súng đại liên pḥng không 12.7ly,
- 3 súng không giật 57 ly
- 3 thượng liên bắn máy bay 12.8
- 8 súng B40
- 5 súng B41 chống chiến xa và 59 súng cá nhân các lọai.
Hơn 3500 súng trường và súng tiểu liên mới c̣n bọc trong vải tẩm dầu
– Thiệt hại :
- 12 chiến sĩ hy sinh trong đó có Đại uư Phan,Tiểu đoán Phó
- 35 bị thương
= 2 trực thăng UH1D bị bắn rơi.
– Huy chương :
Ngoài Anh Dũng bội tinh đủ loại do Tướng Nguyễn hữu Có đại diện trao gắn,Tiểu đoàn 42 BĐQ c̣n được Tuyên dương :
“US Presidential Unit Citation” do Đại Tướng William C.Westmoreland, Tư Lệnh quân đội Hoa kỳ tại Việt nam, đại diện Tổng Thống Hoa Kỳ trao tặng (đơn vị quân đội VNCH đầu tiên được tặng thưởng loại huy chương này).
- 2 đại đội tân binh BĐQ và 1 đại đội Điạ phương Quân, do Đại Uư Nguyễn Kim Biên chỉ huy, tăng phái cho SĐ23 BB tham dự hành quân “Vũng Rô”, quận Hiếu Xương, tỉnh Phú Yên.
Ngày 20 tháng 2 năm 1965, tiểu đoàn được phân nhiệm đổ bộ bằng tầu Hải Quân vào băi biển Vũng Rô (nơi chiếc tầu Cộng sản bị Không quân VN bắn ch́m và đại đội Biệt kích dù, một đơn vị người nhái đổ bộ khám xét ngày 18-2-65, tịch thu được :
- Hơn 1000 súng CKC c̣n nguyên trong thùng, nhưng v́ hỏa lực của cộng quân quá mạnh, gây cho một số Biệt Kích thương vong và một thượng sĩ HQ trên pháo tháp tử thương, Biệt Kích phải rút lui).
Một số thùng đạn trong số hơn một triệu viên đạn tịch thu được
Tiểu đoàn BĐQ tiến về phiá Đông Bắc khoảng 1km th́ bắt đầu chạm địch (SĐ Sao Vàng CS).
Sau hai ngày giao tranh ác liệt với địch tại vùng rừng nuí Tây Bắc đồi Hải Đăng, địch đă chịu tổn thất nặng nề.
Kết quả 25 cộng quân bỏ xác tại chỗ cùng với :
- 11 AK47
- 1 Trung liên Tiệp Khắc, 11CKC, ngoài ra TĐ BĐQ c̣n tịch thu thêm 83 CKC c̣n mới nguyên trong bao khi cộng quân vác chạy, nhưng rồi dấu trong lùm bụi để tẩu thoát lấy người.
Về phiá ta, có 2 BĐQ bị thương nặng được trực thăng chở về QYV Nha Trang, nhưng sau đó đă từ trần, 4 Biệt Động Quân khác bị thương nhẹ.
Trong lễ tuyên dương công trạng, dưới quyền chủ tọa cuả Thủ Tướng Phan Huy Quát, Tồng Tham Mưu Trưởng Trung Tướng Trần Văn Minh và Đại tướng William C. Westmoreland, tại bộ Tư Lệnh SĐ 23 BB, Ban Mê Thuột :
- 32 huy chương anh dũng bội tinh gồm :
- Nhành dương liễu, huy chương vàng, bạc và đồng đă được trao gắn cho Biệt Động Quân cùng nhiều huy chương khác cho các quân nhân các cấp thuộc Hải-Lục Không quân tham dự hành quân.
Các nhật báo Anh, Pháp, Việt ngữ xuất bản tại Sàigon đều tường thuật về chiến thắng Vũng Rô :
- Hàng trăm cộng quân bị tiêu diệt
- Chiếc tầu chở vũ khí của cộng sản bị bắn ch́m
- Hàng ngàn vũ khí cùng đạn dược của cộng sản đă bị quân lực ta tịch thu, cùng trên trang nhất có đăng h́nh ảnh Đại uư Nguyễn Kim Biên dưới tiêu đề :
@hoathienly19 Huua61n luyên cho BCD khóa mưu sinh và thám sát 43 ngày ở Dục mỹ cũng phê lắm bị loại ra gần hết .BCD vào học khóa này tính theo tỉ lệ 10 th́ chọn được 3
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
@hoathienly19 Huua61n luyên cho BCD khóa mưu sinh và thám sát 43 ngày ở Dục mỹ cũng phê lắm bị loại ra gần hết .BCD vào học khóa này tính theo tỉ lệ 10 th́ chọn được 3
Dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Sơn Thương, hành quân giải tỏa áp lực địch tại căn cứ Thạch Trụ, Quảng Ngăi, do một đại đội Điạ Phương Quân trú pḥng.
Đại Úy BĐQ Sơn Thương, sau lên đại tá
Đêm 21 tháng 11 năm 1965, Tiểu đoàn tăng cường pḥng thủ, được phi, pháo Việt Nam và hải pháo của Tuần dương hạm Saint Paul Hải quân Hoa Kỳ tại bến Sa-Huỳnh yểm trợ, đă bẻ gẫy chiến thuật biển người, tiền pháo hậu xung của Trung Đoàn 914 và Trung đoàn18 thuộc SĐ 325 cộng sản Bắc Việt quyết san bằng căn cứ Thạch Trụ.
Qua 6 đợt xung phong, 2 bên quần thảo nhau một mất một c̣n kéo dài tới gần trưa hôm sau.
Kết quả :
- 225 xác cộng quân bỏ nằm rải rác trên chiến địa, một số vắt trên hàng rào kẽm gai, một số trong căn cứ.
- Ba sơn pháo 75 ly
- Một súng không giật 57 ly, hai đại liên 30 (7.62mm)
- 200 (hai trăm) súng cá nhân tiểu liên AK47, cùng nhiều vũ khí cá nhân khác, ba máy truyền tin Trung cộng bị tịch thu.
Về phía ta :
- 40 BĐQ và ĐPQ hy sinh
- 80 bị thương
- Hai cố vấn Mỹ tử thương.
Sau chiến thắng Thạch Trụ, Đại Tướng William C. Westmoreland đại diện Tổng Thống Hoa Kỳ trao tặng :
- “US PRESIDENTIAL UNIT CITATION” cho Tiểu Đoàn 37 BĐQ và Thiếu tá Sơn Thương được vinh thăng Trung Tá cùng rất nhiều quân nhân tham chiến cũng được tưởng thưởng công trạng xứng đáng.
Tiểu đoàn 21 BĐQ do Đại uư Nguyễn văn Sách chỉ huy , tăng phái cho chiến đoàn giải tỏa, cứu viện căn cứ Pleime :
- 1 toán Lực lượng Đặc Biệt Việt nam
- 12 cố vấn Mỹ và 400 dân sự chiến đấu trú đóng) bị trung đoàn 32 (+) cộng sản Bắc Việt bao vây tấn công vào đêm19 tháng 10 năm 1965.
Trên trục tiến quân, chiến đoàn gồm :
- Trung đoàn Thiết kỵ do Trung tá Nguyễn Trọng Luật chỉ huy
- Tiểu đoàn 21 BĐQ, theo sau là đoàn xe GMC tiếp tế lương thực đạn dược cùng hai khẩu đại bác 105 ly, ba xe M113 hộ tống đoạn hậu, bị phục kích.
Tất cả đă nhất quyết đánh trả, dẹp tan cuộc phục kích, nhất là các chiến sĩ BĐQ đă b́nh tĩnh, gan lỳ, nhanh chóng phản phục kích, cùng với hỏa lực dũng mănh của chiến xa M41 và Thiết vận xa M113, tiêu diệt lực lượng cộng quân đang từ các ngọn đồi, ven rừng tràn xuống tấn công biển người.
Cuộc chiến ác liệt diễn ra suốt ngày đêm cho đến sáng hôm sau (23-10-1965).
Các tiểu đoàn 344, 635, 966 thuộc trung đoàn 32 CSBV, cùng một tiểu đoàn cuả trung đoàn 33 tăng cuờng bị tan nát chạy về vùng núí Chu Prong.
Kết quả :
- Trung đoàn 32 CSBV tổn thất 40%
- Hai tiểu đoàn trưởng chết
- 18 khẩu 12.7mm pḥng không, 11 súng cối 82 mm bị tịch thu và bị huỷ diệt bởi phi pháo
- 92 súng cá nhân :
- AK47, carbine, CKC.
Ngoài ra, ta c̣n tịch thu rất nhiều ḿn, lựu đạn, đạn súng cộng đồng, đạn súng cá nhân, xẻng cuốc cá nhân bỏ lại…
Trung đoàn 33 của CS thiệt hại nặng hơn trung đoàn 32 địch.
Chiến đoàn cứu viện tổn thất :
- 8 xe vận tải
- Hai thiết vận xa M113
- Hai đại bác 105mm bị phá huỷ bởi đạn B40, SKZ 57mm, sơn pháo 75mm của địch.
- 60 quân nhân (có 3 sĩ quan) tử trận và 72 bị thương (bao gồm BĐQ, TG, ĐPQ).
Sau đó, chiến đoàn cứu viện lại tiếp tục tiến theo trục hành quân đến giải cứu Plei Me.
Điều đáng nói, có lẽ địch dồn hết lực lượng để đánh phục kích, thất bại nên khi chiến đoàn tiến về Plei Me th́ công việc gỉai toả rất nhẹ nhàng
Dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt , trong cuộc hành quân Dân Chí 135, tiểu đoàn được trực thăng vận đổ xuống Giai lăng, Vĩnh Châu, Ba Xuyên vào năm 1966, tấn công nơi trú quân của Tiểu đoàn cơ động và Tỉnh đội Việt cộng Ba Xuyên.
Kết quả :
- 130 VC chết, bỏ xác tại chỗ
- 12 tên bị bắt sống và 100 súng đủ lọai bị tịch thu.
Kết quả bên ta :
- 18 BĐQ tử trận
- 32 bị thương.
Chiến thắng lần này quân kỳ, cùng quân nhân các cấp thuộc Tiểu đoàn 42 BĐQ được mang dây biểu chương mầu tam hợp.
Một số sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ được tưởng thưởng anh dũng bội tinh.
Đặc biệt Tiểu đoàn trưởng Lưu Trọng Kiệt được ân thưởng Đệ tứ đẳng bảo Quốc huân Chương kèm theo với nhành dương liễu.
Ngoài ra TĐ42 BĐQ cũng được Đại Tướng Abrahm, đại diện Tổng Thống Hoa Kỳ trao tặng :
Dưới quyền chỉ huy cuả Đại uư Hoàng Phổ được không vận tới Khe Sanh (Quảng Trị) vào ngày 27 tháng 1 năm 1968, tăng cường cho lực lượng Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ pḥng thủ căn cứ Khe Sanh.
Xuyên suốt 77 ngày đêm tử thủ chống lại lực lượng địch gồm các :
- Sư đoàn 304, 325, 324B, 320 chính quy thiện chiến Bắc Việt
- Trung đoàn Thiết giáp PT76, T54, hai trung đoàn đại pháo 130mm, 152mm cùng hỏa tiễn 122mm.
Với chiến thuật biển người, tiền pháo hậu xung, cố gắng biến căn cứ Khe Sanh thành một Điện Biên Phủ thứ II, nhưng Cộng Quân Bắc Việt đă bị thảm bại.
Kết quả :
- Từ 15,000 đến 20,000 nhân mạng bị thương vong, loại khỏi ṿng chiến.
Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ :
- 205 tử trận
- 1,500 bị thương
- Biệt động Quân VN 34 chiến sĩ hy sinh, 300 bị thương.
Theo tài liệu “Việt Nam War”,Trung tướng Philip Davision, Trưởng pḥng 2 Quân lực Hoa Kỳ tại Việt nam, nhận xét :
- “ Tướng Vơ Nguyên Giáp đă sai lầm tưởng rằng tấn công dứt điểm pḥng tuyến của Biệt động quân VN dễ dàng hơn là vào tuyến pḥng thủ của TQLC/HK”.
Theo Siege of Khe Sanh, Valley of decision, Đaị uư Pipes, Đại đội trưởng TQLC Mỹ tại Khe Sanh viết :
- “ Thật là vinh dự cho chúng tôi được chiến đấu cùng với Sĩ quan, Hạ sĩ quan, Binh sĩ của đơn vị đồng minh BĐQ/ VN xuất sắc.
Họ là những chiến sĩ can trường, có quá nhiều kinh nghiệm tác chiến.
Khả năng đánh trận của họ có thể sánh ngang với bất cứ một đơn vị nào cuả quân đội Hoa Kỳ .”…
Dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Nguyễn Hiệp, vào lúc 2 giờ chiều ngày 17 tháng 6 năm 1967, trực thăng vận đổ xuống khu rừng thưa Suối Long thuộc vùng Mỏ Vẹt Tây Ninh, tấn công chiếm được :
- 1/3 căn cứ cộng sản, giết một số đông cộng quân trong đó có tên Tiểu đoàn trưởng, tịch thu nhiều súng cá nhân và cộng đồng trong đó có hai súng cối 61mm.
Tiểu đoàn Trưởng cho lệnh TĐ52 BĐQ đóng quân pḥng thủ đêm, chờ tăng viện
Sáng hôm sau, lúc 5giờ, khoảng 1,500 cộng quân dùng chiến thuật biển người, tiền pháo hậu xung tấn công đến 6.15 AM th́ giặc chọc thủng pḥng tuyến BĐQ.
Nhưng nhờ có Trực thăng vơ trang được gọi đến bắn rocket chặn đứng làn sóng tấn công.
Sau đó, Đại úy cố vấn trưởng Nightingale yêu cầu pháo binh 175mm của Hoa kỳ bắn yểm trợ.
Khi Tiểu đoàn 52 BĐQ lui binh, cộng quân vẫn tiếp tục truy sát và chúng đă trả giá với 300 tên chết nát thây dưới mưa bom của B52 Hoa Kỳ.
Đến khoảng 10.00 AM, hai tiểu đoàn 35 và 43 BĐQ cùng với lực lượng Mỹ đến tăng viện, đă chiếm được căn cứ Cộng quân vào trưa hôm sau, ngày 19-6-1967.
Tiểu đoàn 52 tổn thất :
- 28 chiến sĩ hy sinh, 82 bị thương, 12 bị mất tích.
Nhờ tin tức do một trung sĩ BĐQ bị thất lạc, khám phá ra điạ điểm tập trung quân của một đơn vị lớn cộng sản, Bộ Tư lệnh Mỹ đă cho B52 không tập trúng Bộ Chỉ Huy Trung Ương Cục Miền nam của chúng.
Với trận đánh Suối Long, Tiểu đoàn 52 BĐQ được tưởng thưỏng :
“US PRESIDENT UNIT CITATION” của Tổng Thống Hoa Kỳ trao tặng.
Trong cuộc hành quân Dân Chí 179, Tiểu đoàn 42 BĐQ được trực thăng vận để tấn công vào vườn dừa ông Mười trên kinh Thác Lác giữa Chương Thiện và tỉnh Phong Dinh lúc 11giờ 30, ngày 18 tháng 12 năm 1967.
TĐ tịch thu 30 súng đủ loại, nhưng khi tiến sâu vào mục tiêu th́ gặp chống cự rất mạnh của trung đoàn D cộng sản, trận chiến trở nên khốc liệt.
Tiểu đoàn trưởng Lưu Trọng Kiệt hy sinh cùng 34 đồng đội.
Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, hai tiểu đoàn 32 và tiểu đoàn 44 BĐQ được trực thăng vận đổ xuống giải cứu Tiểu đoàn 42 BĐQ, được pháo binh và phi cơ yểm trợ.
Hai tiểu đoàn này tấn công vũ băo vào lực lượng địch đông gấp 4 lần quân số tiểu đoàn 42.
Chịu không nổi, địch đă phân tán rút chạy, bỏ lại tại chỗ :
- 140 xác, và 45 súng các loại bị ta tịch thu.
H́nh minh họa
TIỂU ĐOÀN 44 BIỆT ĐỘNG QUÂN.
Ngay từ khi thành lập, tiểu đoàn đặt dưới quyền điều động trực tiếp của QK IV đă đạt được nhiều chiến tích trong các cuộc hành quân “T́m và Diệt Việt Cộng” , nhất là thời gian Đại uư Nguyễn Văn Dần làm Tiểu Đoàn Trưởng.
Trong cuộc hành quân trực thăng vận vào ngày 6 tháng 4 năm 1965, Tiểu đoàn 44 BĐQ tấn công phá vỡ hoàn toàn căn cứ cố thủ của 1 tiểu đoàn Việt Cộng, tại tỉnh Chương Thiện, gây cho chúng tổn thất nặng nề, hỗn loạn tháo chạy bỏ lại :
- 50 xác đồng bọn cùng nhiều vũ khí cá nhân và cộng đồng.
Kết quả sau cuộc hành quân,Tiểu đoàn 44 BĐQ đă được Tổng Thống Hoa Kỳ Lindon Johnson trao tặng :
- “US PRESIDENT UNIT CITATION” và cũng là đơn vị quân Lực VNCH đầu tiên được nhận vinh dự này.
Từ năm 1966 đên năm 1968, dưới quyền chỉ huy cuả Thiếu tá Nguyễn Công Thông, Tiểu đoàn hoạt động tại vùng Đức Hoà, Đức Huệ
Trong trận đánh tại ấp Trầm Lạc, quận Đức Hoà, tiểu đoàn 51 BĐQ đă loại khỏi ṿng chiến một trung đoàn cộng quân vừa mới xâm nhập từ đất Miên qua, tịch thu :
- 1000 vũ khí các loại (được trưng bày tại pḥng thông tin Đức Hoà cho báo chí, và đồng bào địa phương coi tận mắt chiến thắng này của Biệt Động Quân).
Một trận đánh khác cũng tại Đức Hoà, vào dịp tết Mậu Thân (1968), tiểu đoàn 51 BĐQ lại một lần nữa tiêu diệt gọn Trung đoàn (-) cộng quân gồm cả tên Chính trị viên, tịch thu 1000 vũ khí đủ loại, cũng được trưng bày tại thị xă Đức Hoà.
Cả hai cuộc trưng bày chiến lợi phẩm trên đều dưới quyền chủ tọa của Thiếu Tướng Nguyễn Xuân Thịnh, Tư lệnh Sư đoàn 25 BB.
Tiểu đoàn 51 BĐQ được đặc biệt tuyên dương công trạng trước quân đội và ân thưởng dây biểu chương :
Theo tài liệu của Bộ Chỉ Huy BĐQ/ QLVNCH, tổng kết đến ngày 28 tháng 01 năm 1973 (Hiệp định Paris) , các đơn vị Biệt Động Quân đă giết được :
- 40,000 cộng quân
- Bắt sống 7,000 tù binh
- Tiếp nhận 255 cán binh cộng sản hồi chánh, và tịch thu được :
- 1,467 vũ khí cộng đồng
- 10,941 súng cá nhân đủ lọai
Sài G̣n, 7/5/1968.
Vũ khí của bộ đội Bắc Việt và du kích Việt Cộng (QGPMN) bị binh sĩ VNCH thu được sau giao tranh tại khu vực Nghĩa trang Quân Đội Pháp (ngă tư Bảy Hiền).
Ảnh của Bettman/Corbis.
TUYÊN DƯƠNG
• Các Tiểu đoàn 42, 44, 51 BĐQ được tuyên dương công trạng cấp Quốc Gia với dây Biểu Chương Bảo Quốc.
• Tiểu đoàn 43, 21, 37, 41 và 52 BĐQ được tuyên dương cấp quân đội với dây biểu chương Anh Dũng Bội tinh với Nhành Dương Liễu.
Huy chương này là Anh Dũng Bội Tinh kèm Nhành Dương Liễu (tuyên dương công trạng trước quân đội) Nguyễn Phước Vĩnh Đoàn
• 23 Anh Dũng Bội tinh nhành dương liễu đơn vị dành cho các tiểu đoàn Biệt Động Quân.
HUY CHƯƠNG
• Rất nhiều Binh sĩ, Hạ sĩ quan, Sĩ quan BĐQ được tưởng thưởng :
- Anh dũng Bội tinh ngôi sao vàng
- Ngôi sao bạc
- Ngôi sao đồng , nhành dương liễu và một số Bảo Quốc Huân Chưong với nhành Dương Liễu.
• Rất nhiều quân nhân Binh Chủng Biệt Động Quân được thăng cấp đặc cách tại mặt trận.
- Mười một (11) “US PRESIDENTIAL UNIT CITATION” của Tổng Thống Hoa Kỳ được trao tặng cho :
- Tiểu đoàn 37 BĐQ 3 lần
- Tiểu đoàn 39 và 42 BĐQ được 2 lần
- Các Tiểu đoàn 21, 41, 44, và 52 BĐQ được một lần.
Nhiều “US AWARD SILVER STAR, BRONZE STAR và ARMY COMMENDATION MEDAL” được trao tặng cho nhiều quân nhân Biệt động quân có ḷng dũng cảm tuyệt vời trong lúc chiến đấu với địch quân.
PHẦN KẾT
Sau khi hiệp định đ́nh chiến Paris 28-3-1973 đầy xảo trá và phản bội, Quân đội Mỹ đơn phương rút hết khỏi Việt Nam, kể cả các cố vấn, viện trợ cũng cắt giảm tối đa.
Quân lực VNCH nói chung, Biệt Động Quân nói riêng, vẫn phải tiếp tục chiến đấu trong điều kiện ngặt nghèo, thiếu tiếp liệu, tiếp vận, đạn dược và yểm trợ, để chống lại kẻ thù miền Bắc, không những vẫn được duy tŕ hậu thuẫn mà c̣n gia tăng viện trợ đến mức tối đa của cả khối cộng sản Liên Xô, Trung Cộng.
Nhưng với ḷng tự hào v́ “Tổ quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm”, với tinh thần bất khuất dũng cảm “V́ dân Quyết chiến”, BĐQ đă chiến đấu, một mất một c̣n với kẻ thù đến phút cuối cùng.
Cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, một số đơn vị BĐQ, trong đó có :
- Tiểu đoàn 82 BĐQ từ vùng II
- Liên Đoàn 8 BĐQ gồm các Tiểu Đoàn 84, 86, 87
- Liên Đoàn 7, 9 BĐQ đă chiến đấu đến giờ thứ 25.
Kể cả sau khi có lệnh ngưng bắn, một số lớn vẫn chiến đấu không chịu buông súng theo lệnh đầu hàng của TT Dương văn Minh.
Sau khi Sàigon sụp đổ, Thiếu Tướng Chỉ huy Trưởng BĐQ Đỗ kế Giai, toàn bộ ba Chỉ huy Trưởng BĐQ Quân Khu, toàn bộ 15 Liên đoàn Trưởng Liên đoàn BĐQ, trên 90% các Tiểu Đoàn Trưởng, đa số Sĩ Quan, Hạ sĩ Quan và binh sĩ đều đă ở lại, chấp nhận số phận đen tối dành cho họ.
Các cấp chỉ huy BĐQ bị bọn cầm quyền cộng sản liệt vào danh sách thành phần tối nguy hiểm, bị đầy đọa tàn nhẫn trong các trại tù CS trên 10 năm.
Điển h́nh là Thiếu Tướng Chỉ Huy Trưởng, một số Sĩ Quan cao cấp BĐQ, đă trải dài cuộc đời suốt 17 năm trong tù ngục CSVN.
Ngày cuối cùng của tháng tư đen, BĐQ đă chịu chung số phận đắng cay, buồn tủi, đau xót, tuyệt vọng như Quân Lực VNCH, như tất cả Quân, Dân, Cán, Chính miền Nam. Rất nhiều trong số họ đă tuẫn tiết.
Việt Nam Cộng Hoà, một đất nước nhược tiểu, đă kiên cường chiến đấu cho lư tưởng tự do, bị nước bạn Đồng Minh bỏ rơi!!!
Biết bao điều khổ đau, thù hận, tan tác… đă phủ lên cuộc đời những chiến sĩ kiêu hùng BĐQ, lên Quân đội VNCH, lên toàn thể dân chúng Miền Nam Việt Nam, ch́m trong đói nghèo, tuyệt vọng… khổ luỵ….
Tên tuổi của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đă bắt đầu lừng lẫy từ khi ông c̣n là một sĩ quan cấp Úy phục vụ trong binh chủng Mũ Nâu Biệt Động Quân ở Miền Tây.
Các cấp chỉ huy Biệt Động Quân trong thời điểm đầu những năm 1960 đă để ư nhiều đến tân Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn , Trung Đội Trưởng BĐQ, về những hành động quả cảm đến phi thường trong những cuộc giao tranh.
Người Trung Đội Trưởng trẻ mới có 22 tuổi đời đă đứng xơng lưng dẫn quân Mũ Nâu xung phong lên [b] đánh những trận long trời [b] trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long.
Những chiếc lon mới nở nhanh theo cùng với những chiến thắng.
Chỉ trong ṿng bốn năm, Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn đă được vinh thăng lên đến cấp bậc Đại Úy và được điều về làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 21 Bộ Binh “Tia Sét Miền Tây” .
Lúc đó trên lănh thổ Vùng 4 Chiến Thuật đă nổi lên những khuôn mặt chiến binh dũng mănh mà đă được ca tụng là những con mănh hổ miền Tây
Đại Úy Hồ Ngọc Cẩn có vinh dự nằm trong số năm vị này.
Những vị c̣n lại gồm những tên tuổi như sau :
- Thiếu Tá Nguyễn Văn Huy, Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân
- Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân.
- Thiếu Tá Lê Văn Dần, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân.
- Thiếu Tá Lê Văn Hưng, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 31, SĐ21BB.
- Thiếu Tá Vương Văn Trổ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 33, SĐ21BB.
Thật ra bản danh sách này chỉ có tính cách ước lệ và tượng trưng, đâu phải một Miền Tây rộng bát ngát mà chỉ có vỏn vẹn có năm người hùng.
Mỗi người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa xứng đáng được vinh danh là những anh hùng, v́ những đóng góp máu xương quá lớn cho tổ quốc.
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24.3.1938 tại xă Vĩnh Thạnh Vân, Rạch Giá.
Thân phụ của ông là một hạ sĩ quan phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam (danh xưng của quân đội trong thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, dưới sự lănh đạo của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm).
Đại Tá Cẩn không may sinh ra và lớn lên trong thời buổi chiến tranh, nên khi lên bảy tuổi ông sắp sửa cắp sách đến trường, th́ chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, việc học của ông bị gián đoạn.
Măi hai năm sau, tức vào năm 1947 ông mới được đi học lại, sau khi t́nh h́nh ở các thành phố trở lại yên tĩnh, quân Việt Minh rút về các chiến khu, quân Pháp chiếm đóng các thành phố.
Cậu bé Cẩn học muộn đến những hai năm, khi ông học tiểu học được bốn năm th́ thân sinh của cậu quyết định xin cho cậu nhập học Trường Thiếu Sinh Quân Gia Định.
Có lẽ vị thân sinh của người đă nh́n thấy được những dấu hiệu, những nảy nở của tinh thần và ư hướng, mà sau này sẽ hướng người vào con đường binh nghiệp, sẽ làm nên những công nghiệp lớn có ích lợi cho đất nước
Cuộc đời đèn sách trễ nải của chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn, lúc này đă 17 tuổi, đă ngáng bước đi lên về mặt văn hóa.
Theo học quy của Trường Thiếu Sinh Quân, một học sinh ở độ tuổi 17 chưa học xong Đệ Ngũ, sẽ được gửi đi học chuyên môn.
V́ vậy chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn được trường gửi lên Liên Trường Vơ Khoa Thủ Đức học khóa chuyên môn CC1 Vũ Khí.
Trong lớp văn hóa hồi ở Trường TSQ, ông chỉ ở mức trung b́nh, nhưng sau ba tháng học ở Thủ Đức, chàng trai trẻ lại đậu hạng ưu.
Ông được cho học thêm khóa chuyên môn vũ khí bậc nh́ CC2.
Sau khóa học này ông quyết định đăng vào phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, với cấp bậc Binh Nh́.
Theo quy chế dành cho các Thiếu Sinh Quân, th́ ba tháng sau, Binh Nh́ Hồ Ngọc Cẩn sẽ được thăng lên Hạ Sĩ, ba tháng kế tiếp được lên Hạ Sĩ Nhất và ba tháng sau nữa được thăng Trung Sĩ.
Trong ṿng chín tháng kế tiếp, với khả năng ưu hạng về môn vũ khí, Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được chọn làm huấn luyện viên vũ khí cho trường.
Cuộc đời làm huấn luyện của ông những tưởng êm đềm trôi và tài năng quân sự của người sẽ bị mai một trong một ngôi trường khiêm tốn.
Nhưng định mệnh đă dành cho người anh hùng một vị trí xứng đáng trong quân đội và những cơ hội thi thố tài năng, mà sau này được mọi người truyền tụng lại như là những huyền thoại, để phục vụ và bảo vệ tổ quốc.
T́nh h́nh quân sự ngày càng nghiêm trọng cho một quốc gia non trẻ và một quân đội c̣n tập tễnh kinh nghiệm chiến đấu, sĩ quan chỉ huy thiếu hụt.
Bộ Quốc Pḥng quyết định mở các khóa Sĩ Quan Đặc Biệt bắt đầu từ năm 1962 để cung cấp thêm sĩ quan có khả năng cho chiến trường và nâng đỡ những Hạ Sĩ Quan có ước vọng thăng tiến.
Một may mắn lớn cho Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn, mà cũng là may mắn cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa, một cựu Thiếu Sinh Quân, đă nâng đỡ cho các đàn em TSQ.
Những Thiếu Sinh Quân không hội đủ năm năm quân vụ và có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp vẫn được cho đi học Khóa Sĩ Quan Đặc Biệt.
Hơn nữa, dường như Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và Đại Tướng Lê Văn Tỵ có mật lệnh, các tân Chuẩn Úy xuất thân từ Thiếu Sinh Quân đều được đưa về các binh chủng thiện chiến hay đặc biệt như :
- Nhảy Dù
- Thủy Quân Lục Chiến
- Thiết Giáp
- Biệt Động Quân
- Quân Báo
- An Ninh Quân Đội
- Lực Lượng Đặc Biệt.
Tổng Thống Diệm và Đại Tướng Tỵ cũng không quên gửi những Thiếu Sinh Quân tốt nghiệp Tú Tài vào học các Trường :
- Cao Đẳng Sư Phạm và Y Khoa để có nhân tài phục vụ xă hội và huấn luyện lại cho những thế hệ tuổi trẻ kế tiếp.
Đặc biệt nhiều Thiếu Sinh Quân cũng được cho vào học Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt để làm nền tảng cho cái xương sống chỉ huy chuyên nghiệp trong hệ thống quân đội Việt Nam Cộng Ḥa.
Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được cho theo học Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch tại Trường Hạ Sĩ Quan QLVNCH, Đồng Đế, Nha Trang.
Các tân Chuẩn Úy Đặc Biệt, trong đó có Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn tung cánh đại bàng bay đi khắp bốn phương và sau này đă trở thành những sĩ quan tài giỏi nhất của quân lực, lưu danh quân sử.
Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn được thuyên chuyển về Biệt Động Quân Vùng 4 Chiến Thuật Miền Tây, sau một khóa học Rừng Núi Śnh Lầy của binh chủng Mũ Nâu.
Lúc đó các đại đội BĐQ biệt lập theo lệnh của TT Diệm, đă được cải tổ và sát nhập thành các tiểu đoàn.
Khu 42 Chiến Thuật gồm lănh thổ các tỉnh :
- Phong Dinh
- Chương Thiện
- Ba Xuyên
- Bạc Liêu và An Xuyên, có hai tiểu đoàn BĐQ, mà lại là hai tiểu đoàn lừng lẫy nhất của binh chủng. Đó là :
- Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân “Cọp Ba Đầu Rằn”, và :
Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn nhận sự vụ lệnh tŕnh diện Tiểu Đoàn 42 BĐQ và làm Trung Đội Trưởng .
Khả năng quân sự thiên bẩm, tài chỉ huy và sự chiến đấu hết sức gan dạ của Chuẩn Úy Cẩn, mà đă đem nhiều chiến thắng vang dội về cho TĐ42BĐQ, được thăng cấp đặc cách nhiều lần tại mặt trận, đă nhanh chóng xác nhận Trung Úy tân thăng Hồ Ngọc Cẩn có khả năng chỉ huy tiểu đoàn.
Trung Úy Cẩn được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 42BĐQ, đặt dưới quyền chỉ huy của một chiến binh lừng lẫy và nhiều huyền thoại không kém ǵ Trung Úy Hồ Ngọc Cẩn là :
- Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, xuất thân từ Sư Đoàn 21 Bộ Binh, với tác phong chiến đấu dũng cảm làm quân giặc kiêng sợ và thuộc cấp kính phục.
Cung cách đánh giặc như vũ băo của Trung Úy Cẩn c̣n được nhân lên thập bội , khi lời yêu cầu của ông lên cấp chỉ huy xin cho các chiến binh gốc Thiếu Sinh Quân được về chiến đấu chung với ông.
Lời yêu cầu này được thỏa măn một phần, nhưng cũng đủ để cho Trung Úy Cẩn có thêm được sức mạnh cần thiết.
Có lần ông tâm sự với một người bạn lư do này :
- “ Một là để dễ sai. Tất cả bọn cựu Thiếu Sinh Quân này đều ra trường sau tôi. Chúng là đàn em, dù tôi không phải là cấp trên của chúng, mà chúng nó lộn xộn, tôi vẫn hèo vào đít chúng nó được.
Nay tôi muốn chúng nó về với tôi, để tôi có thể dạy dỗ chúng nó những ǵ mà quân trường không dạy.
Hai là truyền thống của tôi khi ra trận là chết th́ chết chứ không lùi.
V́ vậy cần phải có một số người giống ḿnh, th́ đánh nhau mới đă. Bọn cựu Thiếu Sinh Quân đều như tôi”.
Một câu chuyện dũng cảm và cảm động khác kể về Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 15 Bộ Binh tại mặt trận An Lộc năm 1972.
Trong khi quân của Trung Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh bị pháo địch nă hàng ngàn quả gh́m đầu xuống trong những hố cá nhân bên đường Quốc Lộ 13 gần thị xă An Lộc, th́ binh sĩ trung đoàn ngạc nhiên lẫn cảm kích khi thấy vị Trung Đoàn Trưởng của họ dẫn vài người lính cũng quả cảm như vị chỉ huy điềm tĩnh đi thẳng lưng dưới cơn hỏa pháo cường kích như băo lửa của Sư Đoàn 7 Bắc Việt từ công sự này sang hố chiến đấu kia thăm hỏi chiến sĩ, an ủi các chiến thương và khích lệ tinh thần binh sĩ.
Chiến binh Hồ Ngọc Cẩn coi thường cái chết, mà dường như cái chết cũng sợ hăi và tránh xa con người kiệt xuất ấy.
Định mệnh sẽ dành cho người một cái chết cao cả nhất, ít nhất cũng chưa phải là trong mùa hè đỏ lửa của năm 1972.
Dường như giữa Trung Tá Cẩn và cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí có rất nhiều chất hào hùng quả cảm giống như nhau.
Đại Tướng Đỗ Cao Trí thường nói với các phóng viên ngoại quốc đi trong cánh quân của người, khi họ tỏ ḷng khâm phục người chiến binh Nhảy Dù ấy đă đứng giơ cao khẩu súng Browning thúc giục binh sĩ tiến lên, giữa những làn đạn đan chéo như vải trấu của địch quân :
- “ Nếu đạn không trúng ḿnh th́ ḿnh được tiếng anh hùng, mà nếu đạn có trúng th́ ḿnh cũng được tiếng anh hùng luôn ”!
Các loại pháo địch từ 122ly đến 130ly, chưa kể đến những loại cối 81 ly và các loại súng đại bác không giật 75 ly và 90 ly dội hàng chục ngàn quả lên vị trí của quân ta.
Chỉ tính riêng Trung Quốc đă viện trợ cho Bắc Việt 2,2 triệu khẩu súng bộ binh các loại, bệ phóng và đạn tên lửa tương đương cơ số một trung đoàn loại tên lửa Hồng Kỳ
Liên Xô viện trợ gần 500.000 khẩu và các nước Xă hội chủ nghĩa khác khoảng 900.000 khẩu
Quân Trung Đoàn 15 đánh lên An Lộc dọc theo QL13 từ Tân Khai tiến rất chậm v́ đạn pháo giặc.
Để tránh bị thiệt hại nặng, Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn đă lệnh cho binh sĩ mỗi người đào một hố nhỏ như những cái “miệng ve” để ẩn trú.
Nếu pháo dội trúng cái “miệng ve” nào, th́ chỉ một chiến sĩ ở chỗ đó bị tử thương mà thôi.
Trong một khoảng chiến tuyến mỗi chiều bề dài 300 thước, có hàng mấy trăm cái hố nhỏ, mấy ngàn quả pháo của cộng quân dội xuống, tính trung b́nh mỗi mét vuông lănh vài trái.
Nếu tính theo lư thuyết toán học th́ mỗi chiến sĩ Trung Đoàn “ăn” từ hai trái lấy lên, và như vậy toàn bộ trung đoàn coi như chết hết.
Nhưng thật kỳ diệu, chiến thuật “c̣ ỉa miệng ve” của quân ta lại cứu sống hàng ngàn sinh mạng chiến sĩ.
Dứt cơn pháo địch, chiến sĩ ta nhú đầu lên điểm danh quân số, th́ thấy rằng, nhờ ơn trời, rất ít chiến thương.
Tuy nhiên khi quân Trung Đoàn 15 tiến quân trên QL13 và giao chiến với quân địch, th́ con số thương vong lên rất cao.
Có nhiều đại đội trên 100 người, khi tàn cuộc chiến trở về Quân Khu IV chỉ c̣n khoảng ba chục chiến sĩ.
Ở phía Nam Tân Khai, Sư Đoàn 21 Bộ Binh cũng bị thiệt hại nặng v́ pháo, nhiều sĩ quan cao cấp bị tử thương.
Trung Đoàn Trưởng của một trung đoàn là Trung Tá Nguyễn Viết Cần và một vị Trung Tá Trung Đoàn Phó của một trung đoàn khác hy sinh v́ pháo địch quá ác liệt.
Trung Tá Nguyễn Viết Cần chính là bào đệ của cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh.
Ông xuất thân từ binh chủng Mũ Đỏ Nhảy Dù, con đường binh nghiệp đang có nhiều triển vọng đi lên th́ ông bị liên can trong vụ thuộc cấp ngộ sát hai Quân Cảnh Mỹ tại Sài G̣n.
Thiếu Tá Cần bị thuyên chuyển về SĐ 21 BB, ít lâu sau ông thăng Trung Tá và nắm trung đoàn.
Cuối cùng th́ ḍng họ Nguyễn Viết đă cống hiến cho đất nước đến hai người con ưu tú.
Theo lời kể lại của Đại Úy Tiến, một vị Tiểu Đoàn Phó của Trung Đoàn 15 Bộ Binh lên An Lộc tham chiến, th́ Trung Tá Cẩn đă lệnh cho ông phải đứng lên điều động binh sĩ giữa lúc đạn pháo giặc dội như băo xuống các vị trí Trung Đoàn.
Tất cả các vị chỉ huy cao cấp của Trung Đoàn đều phải nêu gương dũng cảm cho thuộc cấp và chiến sĩ, để cùng xông lên giải cứu An Lộc.
V́ những chiến công ngoài chiến trường, tính đến năm 1970 th́ Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn là chiến sĩ được tưởng thưởng nhiều huy chương nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, với 78 chiếc gồm :
- 1 Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương
- 25 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu
- 45 Anh Dũng Bội Tinh với các loại Ngôi Sao
- 3 Chiến Thương Bội Tinh và 4 Huy Chương Hoa Kỳ.
Sau khi trở về từ An Lộc, Trung Đoàn 15 Bộ Binh c̣n tăng viện cho các trung đoàn bạn và Sư Đoàn 7 Bộ Binh đánh những trận long trời ở miền biên giới Việt-Miên, các tỉnh bờ Bắc sông Tiền Giang.
Những tổn thất và vết thương c̣n chưa hồi phục từ chiến trường Miền Đông, lại vỡ toác ra từng mảnh lớn khác.
Nhưng có sá ǵ chuyện tử sinh, làm thân chiến sĩ th́ người lính của chúng ta chỉ biết tận lực hiến dâng xương máu cho nền tự do của tổ quốc và cho niềm hạnh phúc của dân tộc.
Một lần nữa, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn được trao cho một chức vụ trọng yếu và hết sức khó khăn, khó có ai đảm đương nổi.
Ông sẽ đi trấn nhậm tỉnh Chương Thiện, một tỉnh có địa h́nh phức tạp nhất vùng đồng lầy Miền Tây, với cái gai nhọn nhức nhối mật khu U Minh Thượng trong lănh thổ, từ đó quân Bắc Việt và Việt Cộng phóng ra những cuộc đánh phá lớn, uy hiếp các quận xă hẻo lánh.
Chọn Đại Tá Cẩn về trấn giữ tỉnh Chương Thiện, vị Tư Lệnh Quân Đoàn IV biết chắc Đại Tá Cẩn cùng với lực lượng Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thiện chiến của ông sẽ ít nhất hóa giải được áp lực giặc, không cho chúng tiến xuống Cần Thơ.
Giữ vững được Chương Thiện tức là bảo đảm an toàn cho lănh thổ Quân Khu IV ở bờ Nam sông Hậu Giang.
QLVNCH nói về liên đoàn không ai mang cấp Tướng .Như Biệt đông quân mỗi liên đoàn có cấp TÁ chỉ huy và độc lập . BCD 81 cũng vậy chia ra gồm 3 chiến đoàn và mỗi chiến đoàn th́ có 4 Biệt đội họ không dùng đại đội như bên bộ binh bởi v́ biệt đội gồm có Xung kick , thám sát , trung đội hỏa lực etc ...C̣n các sư đoàn th́ có cấp TƯỚNG như Sư đoàn Dù , TQLC th́ chia ra gọi Lữ đoàn .C̣n bộ bịnh th́ chia ra có trung đoàn .Bên Không Quân th́ không đoàn chiến thuật .Về hải quân th́ là Giang đoàn về sông hạm đội th́ về biển .Đây là những QLVNCH dùng
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Trong thời gian Đại Tá Cẩn làm tỉnh trưởng Chương Thiện, nhiều huyền thoại khác về ông đă được kể lại.
Đại Tá Cẩn chẳng những là một nhà quân sự xuất chúng, mà c̣n là một nhà cai trị và b́nh định tài ba.
Một ngày trước khi ông nhận bàn giao tỉnh Chương Thiện, Đại Tá Cẩn đă ăn mặc thường phục, giả dạng thường dân đi thanh tra ngầm một ṿng tỉnh lỵ Vị Thanh.
Ông vào các ṣng bài, những nơi nhận tiền đánh số đề và những ổ điếm quan sát.
Ngày hôm sau, khi đă chính thức là vị Tỉnh Trưởng Chương Thiện, Đại Tá Cẩn cho gọi người Thiếu Tá Trưởng Ty Cảnh Sát tỉnh đến cật vấn nghiêm khắc về những tệ đoan xă hội trong tỉnh, rồi lập tức cách chức ông này.
Thay vào đó là Trung Tá Đường, một vị sĩ quan mẫn cán và tài năng.
Trung Tá Đường là cánh tay mặt vững chăi của Đại Tá trong lĩnh vực b́nh định, xă hội và truy bắt bọn Việt Cộng hoạt động dầy đặc trong tỉnh.
Bọn cộng phỉ rất căm thù Trung Tá Đường, đến nỗi sau ngày 30.4.1975 , chúng bắt được Trung Tá Đường, chỉ giam giữ ông một thời gian ngắn rồi đem ông ra xử bắn tại Vị Thanh.
Cùng đền ơn tổ quốc với Trung Tá Đường c̣n có Đại Úy Bé, Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Thám Báo Tỉnh.
Đại Úy Bé đă làm điêu đứng bọn giặc cộng, với những chiến sĩ Thám Báo nhảy sâu vào hậu cứ địch báo cáo tin tức, địch t́nh, cũng như tọa độ trú quân để Không Quân, Pháo Binh dội những cơn băo lửa lên đầu chúng.
Trung Tá Đường và Đại Úy Bé bị giặc tàn nhẫn bắn chết tại chân cầu dẫn vào thành phố Vị Thanh.
H́nh minh họa
Có một ông Quận Trưởng nọ, muốn cho chi khu của ḿnh được an toàn tối đa, chiều nào cũng xin Pháo Binh tiểu khu yểm trợ hỏa lực, nại lư do Việt Cộng pháo kích hay tấn công.
Đại Tá Cẩn thỏa măn tối đa và được báo cáo là quận bị thiệt hại một kho xăng và kho lương thực.
Đại Tá tin thật, ông lệnh cho sĩ quan Trưởng Pḥng 3 chuẩn bị xe Jeep đi xuống quận.
Buổi chiều chạng vạng trên những con đường đất hoang vắng rợn người ở vùng quê Chương Thiện mà vị Tỉnh Trưởng trẻ của chúng ta dám đi xe Jeep cùng với một vài người lính, chỉ có những chiến binh dũng cảm như Đại Tá Cẩn mới làm được.
Ông Quận Trưởng đang nằm trên vơng rung đùi uống Martell hoảng kinh ngồi bật dậy mặt mũi tái xanh đứng nghiêm chào vị Tỉnh Trưởng đầy huyền thoại.
Đại Tá Cẩn đi thẳng xuống Trung Tâm Hành Quân của Chi Khu xem bản đồ và ra lệnh cho ông Quận :
- “Tôi muốn những ấp loại C sau ba tháng được nâng lên loại B.
Những ấp loại B sau ba tháng phải được nâng lên loại A ”.
Ngài Quận Trưởng tạm ngưng uống rượu và làm việc trối chết.
Đại Tá Cẩn không trừng trị tội xao nhăng nhiệm vụ của ông Quận, nhưng cung cách độ lượng và cương quyết của Đại Tá Cẩn giống như lưỡi gươm trừng phạt treo đung đưa trên đầu.
Đúng ba tháng sau, nhận được báo cáo khả quan của vị Quận Trưởng, Đại Tá Cẩn lại xuống quận ngủ đêm, sau khi đă trân trọng gắn lon mới tưởng thưởng cho ông này.
Nếu tất cả 44 tỉnh của Việt Nam Cộng Ḥa đều có những vị Tỉnh Trưởng can đảm, mẫn cán và tài ba như Đại Tá Cẩn, làm sao giang sơn hoa gấm của tổ tiên của chúng ta có thể lọt vào tay bọn cộng nô tay sai Nga Tàu dễ dàng như vậy được.
Chúng ta cũng được biết rằng, Đại Tá Cẩn là vị Tỉnh Trưởng trẻ tuổi nhất của Việt Nam Cộng Ḥa. Ông nhận chức vụ này hồi năm 1973, lúc ông mới có 35 tuổi.
Những đóng góp và hy sinh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn lớn lao và nhiều không sao có thể kể được hết, suốt một đời người đă tận tụy với nước non , danh tiếng lừng lẫy và nắm giữ những chức vụ khó khăn, mà người vẫn khiêm nhường hết mực, giữ cuộc sống trong sáng và thanh liêm, tâm tư lúc nào cũng hướng về những thế hệ đàn em.
Một người bạn cũ trong một dịp gặp lại Đại Tá Cẩn ở Cần Thơ vào mùa hè 1974, đă hỏi ông :
- “Anh từng là Trung Đoàn Trưởng, hiện làm Tỉnh Trưởng, anh có nghĩ rằng sau này sẽ làm Tư Lệnh sư đoàn không” ?
Con người danh tiếng lừng lẫy trên các chiến trường đă khiêm tốn trả lời :
- “Tôi lặn lội suốt mười bốn năm qua gối chưa mỏi, nhưng kiến thức có hạn. Được chỉ huy trung đoàn là cao rồi, ḿnh phải biết liêm sỉ chớ, coi sư đoàn sao được.
Làm Tỉnh Trưởng bất quá một hai năm nữa rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy giờ tôi xin về coi Trường Thiếu Sinh Quân, hoặc coi các lớp huấn luyện Đại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được dạy đàn em.
Tôi sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh mà tôi đă trải qua ”.
Ôi cao cả biết ngần nào tấm chân t́nh với nước non và với thế hệ chiến binh đàn em của người. Con người chân chính để lại cho hậu thế những lời khí khái.
Nếu tính về quân số th́ nhiều hơn các sư đoàn dù hay TQLC và bộ binh .Cái lư do khi vào các đơn vị thiện chiến khám sức khỏe bị rớt th́ vào Biệt động quân hay các sư đoàn bộ binh .Ngay cả bên BCD 81 tuyển chọn rất kỹ không phải ai muốn vào cũng được cũng giống như Không Quân hay hải Quân
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.