Phan văn Huấn là chỉ huy trưởng của Liên Đoàn 81 BCD ( gồm 3 chiến đoàn . 1 , 2 và 3 . Vì cấp số thuộc Liên đoàn nên vị chỉ huy không có cấp bậc Tướng , ngoại trừ thành lập Sư Đoàn )
Mỗi Quân nhân đều tự hào với màu cờ sắc áo của đơn vị mình. Binh chủng Nhảy Dù (ND) với chiếc Mũ Ðỏ, Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Mũ Xanh màu nước biển, Biệt Ðộng Quân (BÐQ) Mũ Nâu, Thiết Giáp (TG) Mũ Ðen, và Lực Lượng Ðặc Biệt (LLÐB) hãnh diện với chiếc Mũ Xanh màu lá cây rừng (Green Beret), v.v... Ðối với các đơn vị tác chiến, nhất là các đơn vị Tổng trừ bị thì niềm kiêu hãnh này đã là chất xúc tác mạnh mẽ nâng cao tinh thần chiến đấu của đơn vị. Sau đây là câu chuyện của chiếc mũ mầu Xanh lá cây rừng (The Green Beret) LLÐBVN.
Ngày 22/4/57, tôi vào trình diện BTTM để nhận lệnh mới thì được đưa đến tạm trú tại dãy nhà ở đường Hiền Vương, gần Câu lạc bộ Sĩ quan An Ðông, Chợ Lớn để đợi lệnh. Sau hơn một tháng chờ đợi, hơn 20 anh em mới được đưa ra Vũng Tàu để học lớp Truyền tin đặc biệt, đại úy Bùi Thế Minh được chỉ định làm trưởng lớp, Đại úy Tống Hồ Hàm làm phó. Một buổi sáng nọ, được nghỉ học để nghe thượng cấp nói chuyện, chúng tôi lên xe ra thẳng bãi sau Vũng Tàu, nơi đây đã được cảnh sát canh gác cẩn thận, không một người dân nào được lai vãng gần nơi đó. Trên một bàn dài kê sẵn, thượng cấp gồm có Thiếu tướng Trần Văn Ðôn, Trung tá Lê Quang Tung, và vài ba vị cố vấn Mỹ. Tôi nhớ lời Tr/tá Tung nói : ”Các anh là nòng cốt của một Binh chủng mới, đó là Lực Lượng Ðặc Biệt (LLÐB). Sau 3 tháng học lớp Truyền tin xong, các anh sẽ học nhảy dù rồi học lớp LLÐB. Sau lớp LLÐB các anh sẽ chính thức hành quân đặc biệt là nhảy vào hậu phương địch để hoạt động, các anh nhớ là khi nhảy dù xuống hậu phương địch thì đã có người của mình đón tiếp và giúp các anh hoàn thành công tác giao phó”.
Sau một tháng học nhảy dù, chúng tôi di chuyển ra Nha Trang, học lớp LLÐB tại trường Biệt Ðộng Ðội ở Ðồng Ðế do một toán LLÐB Mỹ từ Okinawa đến huấn luyện. Ðại úy Cramer là trưởng toán, lớp học được hơn một tháng thì trong một cuộc thực tập phục kích gần đèo Rù Rì, Đại úy Cramer, một Thượng sĩ Cố vấn và Trung úy Phan Thanh Ðàn tử thương vì sơ ý trong việc xử dụng chất nổ ! Lớp học vẫn tiếp tục trong sự luyến tiếc những người đã nằm xuống và sự ngờ vực của người Mỹ. Một toán điều tra của Mỹ từ Saigon ra tìm hiểu sự thật một thời gian ngắn và kết luận là cố vấn Mỹ chết vì tai nạn chứ không phải vì một âm mưu phá hoại nào. Mặc dù đã được xác định như thế nhưng chúng tôi đi thực tập, chỉ được mang súng, không được mang đạn dược và chất nổ theo.
Sau 4 tháng gian khổ học tập, khóa A đầu tiên của Binh chủng LLÐB mãn khóa vào tháng 12/57. Các khóa B, C, D sau đó vẫn tiếp tục huấn luyện tại trường Biệt Ðộng Ðội Ðồng Ðế Nha Trang và Huấn luyện viên của các khóa sau này đều do khóa A đảm trách. Vì tính cách quan trọng của việc thành lập Binh chủng LLÐB. Ðại úy Phạm Văn Phú (Thiếu tướng) và Trung úy Trần Hữu Tác (Trung tá) là khóa sinh khóa B cũng như nhiều khóa sinh ưu tú khác nhập học. Sau khóa D mãn khóa thì có cuộc hành quân thực tập, nhảy dù xuống vùng Xuyên Mộc, Ðất Ðỏ thuộc tỉnh Bình Tuy chừng 2 tuần, cuộc hành quân này gồm nhiều toán A, mỗi toán 15 người, toán tôi thì có Tr/úy Lê Tất Biên toán phó, Thượng sĩ Kalani làm cố vấn. Toán tôi đóng quân trong mật khu Lang Ma của Cộng sản. Tại đây, một kỷ niệm mà tôi còn nhớ mãi là khi Tr/úy Biên cùng 2 người nữa mang súng Garant đi sâu vào rừng (Tr/úy Biên thích đi săn lắm), hôm đó Trung uý Biên đội đèn trên đầu tay cầm súng Carbine. Một giờ sau, thì tiếng súng nổ ran như đang giao tranh với Việt cộng. Tôi vội vã tập họp toán lại để đi tiếp cứu thì thấy toán Trung uý Biên hổn hển chạy về ! Trung úy Biên nói : "Tôi đang đi theo đường xe be giữa rừng cây um tùm thì hết thấy lối đi nhưng chiếu đèn trên cao, đột nhiên thấy nhiều con mắt của thú rừng như sao trên trời ! Nhìn kỹ thì đó là những đôi mắt của một đàn voi đang chắn lối đi ! Thế là cả 3 người đồng loạt nổ súng và chạy lui” Ðàn voi bị tấn công bất ngờ, chạy tán loạn. Ðêm đó chúng hú gọi nhau vang cả khu rừng làm anh em chúng tôi không dám ngủ, sẵn sàng tư thế chống trả.
Sau khi khóa A mãn khóa thì được mang danh hiệu là Liên Ðội Quan Sát Số 1 (LÐQSS1), Đại úy Bùi Thế Minh làm chỉ huy trưởng và Đại úy Tống Hồ Hàm, Chỉ huy phó. Nhưng đến khóa B thì Thiếu tá Ðàm Văn Quý thay thế làm Chỉ huy trưởng và được đội Mũ Ðỏ như Nhảy Dù. Ðến ngày 11 tháng 11 năm 1960, Liên Ðoàn Nhảy Dù do Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tr/tá Vương Văn Ðông, và Tr/tá Nguyễn Triệu Hồng chỉ huy làm cuộc đảo chánh Tổng thống Ngô Ðình Diệm nhưng bất thành, phải bỏ trốn sang Campuchia. LÐQSS1 tức tốc vào Saigon cứu giá, đoàn xe GMC chở LÐQSS1 đi lên Ban Mê Thuột rồi thẳng về Ðồng Xoài, Bình Dương và vượt sông Saigon bằng phà ở Thủ Thiêm để đến dinh Ðộc Lập (vì cầu Bình Lợi đã bị phá sập). LÐQSS1 chưa đến dinh Ðộc Lập thì trật tự đã được vãn hồi trước đó hai hôm ! Dù toàn bộ LÐQSS1 chưa vào đến Saigon nhưng đã có một toán 12 người của LÐQSS1 do Tr/úy Nguyễn Lộc chỉ huy đã từ Sở Liên Lạc tiến lên đến ngã tư Hồng Thập Tự và Bà Huyện Thanh Quan thì đụng phải Th/tá Phan Trọng Chinh (Thiếu tướng) và Nhảy Dù đang bao vây dinh, cuộc chạm súng ngắn ngủi đã xảy ra, bên LÐQSS1 có Tr/úy Trần Khắc Nghiêm bị thương ở đầu. Tr/úy Nguyễn Lộc là người đầu tiên của LÐQSS1 được vinh thăng Đại úy sau cuộc chạm súng thập phần nguy hiểm đó.
Sau chính biến, toàn bộ LÐQSS1 di chuyển vào đóng quân ở trại Hùng Vương, cạnh trường đua ngựa Phú Thọ. Thiếu tá Ðàm Văn Quí được lệnh về làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 nhảy dù đóng ở ngã tư Bảy Hiền và Đ/úy Tống Hồ Hàm làm Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 6 nhảy dù đóng ở Vũng Tàu, và một lần nữa Th/tá Phạm Văn Phú về làm Chỉ huy trưởng Liên Ðoàn 77.
LÐQSS1 đổi danh thành Liên Ðoàn 77 do nghị định số 1183/QP/NÐ của Bộ Quốc Phòng ngày 3/10/61, rồi LÐ77 đổi danh thành LD301 do nghị định 1409/QP/NÐ ngày 24/7/64, và giải tán do nghị định 284/QP/NÐ ngày 9/6/65. Liên Ðoàn 31 do Đ/úy Phạm Duy Tất làm Chỉ huy trưởng, không rõ Liên Ðoàn 31 thành lập năm nào, có lẽ năm 62, nhưng chỉ biết LÐ31 đổi danh thành LÐ111 do nghị định số 1409/QP/NÐ ngày 24/7/64 và giải tán do nghị định số 0284/QP/NÐ ngày 19/6/65. Quân số 2 Liên Ðoàn 301 và 111 giải tán để sắp xếp lại và chính thức gọi là Binh chủng LLÐB vào tháng 4/63, gồm có một Bộ Tư Lệnh, một Đại đội Tổng Hành Dinh, một Trung tâm huấn luyện, và 4 bộ chỉ huy C ở 4 vùng Chiến thuật, mỗi C có một số B và mỗi B có một số toán A tùy theo tình hình địa phương, mỗi toán A quân số vào khoảng 12 người, tổng cộng quân số LLÐB vào khoảng trên dưới 5,000 cho đến khi giải tán vào năm 70.
Từ năm 1961, LLÐB bắt đầu kế hoạch mở các trại Biệt Kích Biên Phòng (BKBP) (CIDG) dọc theo biên giới Việt Miên Lào để ngăn chặn việt cộng xâm nhập vào lãnh thổ VNCH, tùy theo tình hình, mỗi trại quân số BKBP có từ một Tiểu đoàn hoặc nhiều hơn. Cho đến ngày BKBP đổi danh thành Biệt Ðộng Quân Biên Phòng khi LLÐB giải tán vào năm 70 thì quân số đã lên đến trên 50 ngàn quân với gần 50 trại. Cũng từ năm 61 thì LLÐB bắt đầu thành lập các đại đội Biệt Cách Nhảy Dù (BCND) biệt lập rồi đến năm 1964 thì sát nhập lại thành lập Tiểu đoàn 91 BCND, Thiếu tá Trần Minh Huy làm Tiểu đoàn trưởng đầu tiên, đến ngày 1/4/68 đổi danh thành Tiểu đoàn 81/BCND. Cũng trong năm 64 này thì LLÐB lập thêm một đơn vị nữa, lấy tên là Trung Tâm Huấn Luyện Hành Quân Delta (TTHL/HQ/Delta) gồm có 12 toán Thám Sát, mỗi toán 6 người, và 12 toán Thám Kích Tiền Phong (TKTP) là Biệt Kích Quân lấy từ các trại do Mỹ trả lương. Ðại úy Nguyễn Văn Khách là Chỉ huy trưởng Delta đầu tiên. Bộ Tư Lệnh LLÐB chính thức thành lập vào tháng 4/63 do Đ/tá Lê Quang Tung làm tư lệnh, lần này Mũ Ðỏ lại đổi thành Mũ Ðen của Binh chủng LLÐB cho đến đầu năm 64 di chuyển ra NhaTrang vẫn còn đội Mũ Ðen, rồi chẳng bao lâu sau, Mũ Ðen đổi thành Mũ Xanh cho đến khi LLÐB giải tán vào tháng 8/70.
Ðại tá Lê Quang Tung kể như làm tư lệnh LLÐB từ ngày thành lập cho đến ngày 1/11/63 thì bị thảm sát. Trung tướng Lê Văn Nghiêm từ 63 đến 64. Chuẩn tướng Lam Sơn từ 64 đến cuối 64. Chuẩn tướng Ðoàn Văn Quảng từ 64 đến 69, sau đó C/tướng Lam Sơn trở lại năm 69, T/tướng Phạm Văn Phú năm 70, và cuối cùng là Đ/tá Hồ Tiêu.
LLÐB là Binh chủng đầu tiên thi hành những nhiệm vụ vô cùng bí mật đó là thả các toán Biệt Kích ra Bắc hoạt động. Khởi đầu thả vào năm 61 và chuyển giao nhiệm vụ này cho Nha Kỷ Thuật vào năm 64 để từ đó LLÐB chỉ lo hoạt động ở nội địa mà thôi.
LLÐB đã tham dự các trận đánh quyết liệt từ Khe Sanh, Lao Bảo, Làng Vei, Ashau, Alưới, Tà Bạt, Dapek, Dakto, Ben Het, Pleime, Ðức Cơ, Vũng Rô, Ðức Phong, Ðồng Xoài, Bình Long, An Lộc, Tống Lê Chân, Thiện Ngôn, Trại Bí, Ðức Hòa, Ðức Huệ, Ðôn Phục, Cái Cái, cho đến Biệt Khu Hải Yến, Côtô, v.v... Ða số các trận đánh này đều nằm dọc theo biên giới Việt Miên Lào để ngăn chặn việt cộng xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). (Vì thiếu tài liệu tham khảo, chỉ kể theo trí nhớ của tôi và nhiều bạn khác, nếu có điều gì cần bổ khuyết thì xin được các bạn chỉ giáo cho).
Không có cái buồn nào bằng cái buồn Binh chủng LLÐB bị giải tán vào tháng 8/70 ! Anh em LLÐB phân tán đi nhiều Binh chủng nhưng đa số là chuyển qua BÐQ và NKT; một số ít qua Bộ binh, hoặc các Trung tâm huấn luyện, nha sở, v.v... Duy chỉ có TTHL/HQ/Delta và Tiểu đoàn 81/BCND là không giải tán mà sát nhập lại để lập nên Liên Ðoàn 81/BCND (LÐ81/BCND) do tôi làm Chỉ huy trưởng, Tr/tá Trần Phương Quế làm chỉ huy phó, Đại úy Nguyễn văn Lân làm Sĩ quan phụ tá đặc trách về huấn luyện. LÐ81/BCND trở thành lực lượng tổng trừ bị trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu (BTTM). LÐ81/BCND phải đau xót cắt bớt 2 Đại đội cho Sư đoàn Nhảy Dù để trở thành 2 Đại đội trinh sát của Sư đoàn Mũ Ðỏ ! Vì vậy quân số của LÐ81/BCND đáng lý ra là 1200 quân, nhưng nay bị cắt mất 2 Đại đội, nên chỉ còn chưa đến 900, nghĩa là chỉ bằng một Tiểu đoàn. Nhiều anh em hỏi tôi là tại sao khi Thiếu tướng Phạm Văn Phú đi họp tại BTTM bàn về việc giải tán LLÐB mà lại không chịu tranh đấu cho anh em mũ Xanh ? Điều này thì chắc chỉ có cố Thiếu tướng biết mà thôi vì tình hình lúc đó rất là khó khăn và phức tạp.
Ngày 25/12/70, toàn bộ LÐ81/BCND di chuyển vào đóng quân tại trại Bắc Tiến, cạnh Trung tâm huấn luyện Quang Trung. Sau khi đã ổn định nơi đồn trú, tôi được lệnh lên trình diện Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng QLVNCH. Trước khi vào trình diện Đại tướng, tôi đi thăm các phòng của Bộ Tổng Tham Mưu để tìm hiểu xem ý kiến của BTTM đối với Liên Ðoàn mình như thế nào. Ý tôi muốn cứ giữ nguyên MÀU CỜ SẮC ÁO của binh chủng Lực Lượng Ðặc Biệt nhưng khi đề cập đến vấn đề đó thì tất cả Sĩ quan cao cấp của BTTM đều cho biết là khó thể Đại tướng chấp nhận yêu cầu này. Cái lý do rất dễ hiểu là LLÐB đã giải tán nghĩa là trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không còn có binh chủng LLÐB nữa, Liên Ðoàn 81 làm sao có thể xin giữ nguyên MÀU CỜ SẮC ÁO của Binh chủng LLÐB được ? Liên Ðoàn sẽ có phù hiệu riêng, còn mũ thì tất cả các đơn vị có NHẢY DÙ đều đội MŨ ÐỎ để cho quân đội được ÐỒNG NHẤT như Sư Ðoàn Nhảy Dù, Nha Kỷ Thuật, và Ðại Ðội Gấp Dù của Quân Nhu.
Sau khi nghe ý kiến chung của đại đa số sĩ quan cao cấp thuộc BTTM, tôi buồn bã nghĩ đến chiếc Mũ Xanh và phù hiệu cọp bay của LLÐB sẽ biến mất trong nay mai. Ôi cái Mũ Xanh và phù hiệu LLÐB là niềm hãnh diện của anh em chúng ta nay không còn nữa ! Không, nhất định tôi phải tranh đấu cho chiếc Mũ Xanh và phù hiệu LLÐB được duy trì trong QLVNCH. Biết bao nhiêu xương máu của anh em chúng ta đã đổ ra dưới màu cờ sắc áo này, nay phải thay đổi thì làm sao mà không buồn được ! Với quyết tâm đó, cho nên khi vào trình diện Đại tướng, tôi đã có sẵn những lý do vững chắc để xin giữ lấy chiếc Mũ Xanh và phù hiệu LLÐB. Sau những lời hỏi han về tình hình quân số, nơi ăn chốn ở, tinh thần quân sĩ của Liên đoàn, cuối cùng Đại tướng liền hỏi tôi có đề nghị gì không ? Ðây là lúc tôi phải đem hết tài hùng biện ra để xin Đại tướng cho Liên Ðoàn được duy trì chiếc Mũ Xanh và phù hiệu LLÐB như cũ. Tôi nói :
"Kính thưa Đại tướng, tinh thần chiến đấu của bất cứ đơn vị nào phần lớn đều dựa vào sự tự hào trên MÀU CỜ SẮC ÁO, như Sư đoàn Nhảy Dù với chiếc Mũ Ðỏ, Thủy Quân Lục Chiến thì có mũ Xanh, Biệt Ðộng Quân có Mũ Nâu, và anh em LLÐB thì hãnh diện với chiếc Mũ Xanh màu lá cây rừng. Anh em chúng tôi qua bao gian khổ đã tạo được nhiều chiến công ở chiến trường, một phần lớn cũng nhờ niềm kiêu hãnh đó. Nay LLÐB không còn nữa, nếu anh em chúng tôi không còn tiếp tục được đội chiếc Mũ Xanh và mang phù hiệu LLÐB thì không rõ tôi có đủ khả năng để duy trì tinh thần chiến đấu như cũ được không ? Kính xin Đại tướng minh xét cho điều lo lắng của tôi”.
Ðại tướng Viên ngồi yên lặng một lúc rồi nhìn tôi và nói :
- "Ðược rồi, để giữ vững tinh thần chiến đấu như khi còn LLÐB, tạm cho phép Liên Ðoàn được đội Mũ Xanh và mang phù hiệu LLÐB cho đến khi có lệnh mới"
Ðây là lần đầu tiên được đối diện với Đại tướng, nên tôi không dám nói gì nhiều, không dám phàn nàn về việc bị cắt mất 2 Đại đội để đưa sang ND, việc Ðại tướng chấp thuận cho được tiếp tục duy trì chiếc Mũ Xanh và phù hiệu LLÐB đã là mừng lắm rồi, mặc dù đó chỉ là tạm thời, nhưng tôi không dám mong mỏi gì hơn lúc này mà chỉ biết cám ơn Ðại tướng và ra về.
Trở về Liên Ðoàn, lòng buồn lo lẫn lộn, tôi không biết lệnh tạm thời này sẽ chấm dứt lúc nào để LÐ lại phải tuân lệnh cấp trên đội chiếc Mũ Ðỏ cho QLVNCH được đồng nhất. Tôi tự nghĩ, nếu những ngày sắp đến, LÐ81 không tạo nên được những chiến thắng đáng kể thì chắc chắn lệnh tạm thời kia sẽ chấm dứt ! Không còn cách gì có thể duy trì chiếc Mũ Xanh và phù hiệu LLÐB mà anh em mình đã từng hãnh diện mang nó từ nhiều năm nay. Sau khi tiếp xúc với nhiều giới chức ở BTTM và Tr/tướng Dư Quốc Ðống, Tư lệnh Sư đoàn ND thì được biết như sau : BTTM giao LÐ81 cho ND thì Tr/tướng Ðống không nhận mà chỉ xin lấy 2 Đại đội làm 2 Đại đội trinh sát cho sư đoàn mà thôi. Bất đắc dĩ, BTTM phải tạm thời duy trì LÐ làm đơn vị tổng trừ bị, dù với quân số chỉ bằng một Tiểu đoàn để xem tinh thần chiến đấu của LÐ81 có đáng được duy trì hay không rồi sẽ tính sau. Khi biết được tin này, tôi thật chán nản và muốn từ chức. Tôi là một Sĩ quan của chiến trường, đã được nhiều vị Tư lệnh biết đến, tôi rất nhiều hy vọng nhận được chức vụ xứng đáng ở đơn vị mới nhưng nghĩ lại, nếu tôi từ chức thì chắc chắn LÐ81 sẽ sát nhập vào Sư đoàn ND, rồi sẽ bị phân tán và bổ sung quân số cho các tiểu đoàn đang thiếu hụt. Sở dĩ tr/tướng Ðống không nhận LÐ81 vì không biết xử sự với tôi như thế nào, chả lẽ đưa tôi về làm Tiểu đoàn trưởng hoặc thay thế một Lữ đoàn nào đó, nay tôi từ chức thì việc sát nhập vào ND để Sư đoàn ND có được thêm quân số thì không gì quí bằng. Nghĩ vậy nên tôi nhất quyết ở lại với anh em, quyết tâm cùng anh em tạo nên những chiến thắng đáng kể dù cho tính mạng của tôi có bị hy sinh cũng chấp nhận, đó là lý do mà hể các anh em đồng đội có chạm súng với địch thì tôi đã có mặt tôi trên trời để điều động và yểm trợ, và nếu cần, tôi vẫn cho trực thăng chỉ huy đáp xuống để cứu toán hoặc Đại đội như tôi đã làm. Tôi chưa bao giờ vắng mặt trong bất cứ một trận đánh lớn nhỏ nào kể cả chiến trường An Lộc. Tôi chấp nhận hy sinh, đã nhiều lần bò sát đến từng vị trí phòng thủ để an ủi khuyến khích anh em chứ không chịu ngồi dưới hầm sâu để ra lệnh, do đó tôi nghĩ vì thế mà tinh thần chiến đấu của LÐ81 mỗi ngày mỗi lên cao.
Tôi rất hãnh diện được chỉ huy một đơn vị mà ở mặt trận nào, LÐ81 cũng làm rạng danh những người chiến sĩ QLVNCH, đặc biệt nhất là ở chiến trường An Lộc năm 72, với 2 câu thơ cảm đề của cô giáo Pha đã lưu truyền tiếng tăm của BCD đến cho mọi người :
“An lộc địa sử ghi chiến tích,
Biệt Cách Dù vị quốc vong thân”
Quân dân ở An Lộc gọi chúng tôi là Biệt Cách Dù Cọp Bay (Vì chúng tôi được mang phù hiệu BCD ở tay trái và LLÐB ở tay phải) nhưng đa số gọi chúng tôi là Biệt Cách Dù Lực Lượng Ðặc Biệt (BCDLLÐB).
Sau trận An Lộc, tôi được Đại tướng gọi lên trình diện, Đại tướng thật vồn vã, niềm nỡ, không nghiêm nghị như lần trình diện đầu tiên, Đại tướng nói :
- "Từ nay LÐ81 chính thức được phép đội Mũ Xanh và mang phù hiệu LLÐB. LÐ81 xứng đáng được hưởng những Huy chương mà trước đây LLÐB đã nhận lãnh."
Tôi rất đỗi vui mừng và thấy đây là lúc nêu lên vấn đề quân số của LÐ81 và 4 chữ BIỆT CÁCH NHẢY DÙ đã bị BTTM cắt mất khi ban hành bản cấp số cho LÐ81. Ð/tướng cũng chấp thuận cho phục hồi lại 4 chữ BCND và sau này LÐ81 đã có bảng cấp số mới, quân số lên đến 3000 gồm có một Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn, 1 Ðại Ðội Chỉ Huy Yểm Trợ và 3 Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật (BCH/CT), mỗi BCH/CT có 4 Biệt Ðội (BÐ), mỗi BÐ có 200 quân. Ðiều may mắn nhất là LÐ81 được hưởng các Huy chương của LLÐB để đủ số huy chương ấn định cho việc mang dây biểu chương màu đỏ BẢO QUỐC HUÂN CHƯƠNG, nếu không được số huy chương của LLÐB thì LÐ81 còn phải nhiều năm và phải tốn biết bao nhiêu xương máu nữa mới đạt được dù rằng số huy chương của LLÐB cũng do công đóng góp của BCD và Delta không nhỏ.
Sau cuộc tổng công kích tết Mậu Thân năm 68, Việt cộng bị thảm hại nặng nề, nên chúng tạm ngưng hoạt động để chỉnh đốn lại hàng ngũ. Trong thời gian này, toàn lãnh thổ VNCH kể như được tạm thời lắng dịu, ít có những trận đánh lớn mà chỉ có những trận đánh nhỏ của các đơn vị du kích địa phương mà thôi. Rồi đến Mùa Hè Ðỏ Lửa năm 72, nghĩa là sau 4 năm chỉnh đốn lại hàng ngũ, Việt cộng đồng loạt mở các cuộc tổng tấn công vào 3 thành phố lớn của VNCH đó là An Lộc, Kontum, và Quảng Trị với cấp quân số lên đến cỡ Quân Ðoàn. Lại một lần nữa Việt cộng bị đánh cho tan nát khắp nơi mặc dầu chúng đã đưa vào những vủ khí mới tối tân hơn lần đầu tiên được đem ra xử dụng tại chiến trường miền Nam như chiến xa T54, T59, PT76,AT3 chống chiến xa, SA7 cầm tay chống phi cơ, cao xạ phòng không 37 ly và 75 ly, v.v... Ngoài ra, Việt cộng còn dùng chiến thuật đặc công, chỉ dùng một số ít quân số, mang súng nhỏ, còn phần lớn đều trang bị kềm cắt dây kẻm gai và chất nổ, lợi dụng đêm tối, đặc công cắt hàng rào đột nhập vào vị trí đóng quân của ta tấn công bằng chất nổ đã gây nhiều tổn thất nặng nề cho ta. Ngoài chiến thuật đặc công quỉ quái này, chúng còn áp dụng chiến thuật đóng chốt và đóng kiền cũng không kém phần nguy hiểm ! Chỉ với quân số cấp trung đoàn mà địch đã đóng chốt cầm chân cả Sư đoàn 21 Bộ Binh và lực lượng Dù của ta trên quốc lộ 13 ở suối Tàu Ô khi tiến vào giải tỏa An Lộc cả gần một tháng trời vẫn không vượt qua được ! Lúc này LÐ81 đang tử thủ trong thành phố An Lộc nên đã không được cùng các đơn vị bạn “nhổ chốt, phá kiềng” cho VC nể mặt. Cho nên năm 1973 khi chúng vào đóng chốt ở Bến Thế thuộc tỉnh Bình Dương, Sư đoàn 5 đưa lực lượng đến giải tỏa nhiều ngày không được, nên LÐ81 đang hành quân ở chiến khu D (Sau khi tham dự hành quân tái chiếm Quảng Trị trở về) liền được lệnh thay thế Sư đoàn 5 để “phá chốt ” ở Bến Thế. Chỉ sau hai đêm hành quân đã lấy lại Bến Thế mà không cần đến pháo binh hoặc không quân yểm trợ, Quân đoàn III thấy LÐ81 nhổ chốt phá kiền dễ dàng quá nên hễ nơi nào đơn vị bạn gặp khó khăn thì LÐ81 được ưu ái gọi đến. Hết Bến Thế lại đến Trảng Bàng, đặc biệt là tại Tha La xóm đạo sau ngày đã ký kết hiệp định đình chiến vào đúng tết năm 73, khi tiểu khu Hậu Nghĩa cho 1 Tiểu đoàn Ðịa Phương Quân đến giải tỏa nhiều ngày không được thì LÐ81 lại được gởi đến, tại đây cũng chỉ cần 2 đêm hành quân, không cần đến pháo binh hoặc không quân yểm trợ đã tái chiếm lại được Tha La xóm đạo với rất ít tổn thất nhưng nhà cửa và tài sản của dân chúng không bị hư hao. Hết Bến Thế, Tha La xóm đạo, rồi năm 1974 tại Tân Phú Trung thuộc quận Củ Chi, chỉ cách Saigon không bao xa, Việt cộng vào đóng chốt tại đây, ngăn chận lưu thông trên Quốc lộ I từ Tây Ninh về Saigon ! Tất cả xe hàng từ Tây Ninh muốn chạy về Saigòn phải chạy vòng lên Bình Dương mới về Saigòn được. Sư đoàn 25 gặp vài khó khăn để bứng VC ra khỏi những “chốt kiềng” vì chúng đã đưa Tiểu đoàn 9, tinh nhuệ nhất của Tr/đoàn 172 thuộc Sư đoàn 7 Việt cộng đến đóng chốt tại đây. Chốt này thật quá kiên cố, cộng sản đã đưa đến cả súng cối 82 ly và một hệ thống điện thoại chằng chịt qua nhiều chốt nhỏ khắp xã Tân Phú Trung, nên LÐ81 đã được gửi tới và dù “chốt kiềng” của địch vững chắc như thế nhưng chỉ với 1 ngày và 2 đêm giao chiến ác liệt, không cần cả đến sự yểm trợ của pháo binh hay không quân dể tránh gây thiệt hại cho dân chúng cũng như dùng chiến thuật du kích chiến để “Gậy ông lại đập lưng ông” mà nhổ chốt với một số tổn thất của ta tương đối chấp nhận được.
Qua những chiến thuật mà LÐ81 đã áp dụng để tạo nên những kỳ công, BTTM đã lấy những chiến thắng của LÐ81 làm tài liệu phổ biến Kinh Nghiệm Chiếạn Trường gởi đến cho QLVCNCH để rút kinh nghiệm. Qua nhiều lần gặp mặt Đ/tướng Viên và nhiều giới chức có thẩm quyền ở BTTM thì được biết tất cả nhận thấy LÐ81 có 3 cái khả năng đáng kể mà ít có đơn vị nào có được, đó là :
* Có thể tách ra thành từng toán nhỏ để thả sâu vào hoạt động nhiều ngày ở hậu tuyến địch.
* Có thể đánh đêm bằng du kích chiến được.
* Có thể tập trung lại để đánh trận địa chiến như các đơn vị khác được.
Nếu không có ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì chắc chắn LÐ81 sẽ còn lớn mạnh hơn nữa nhưng than ôi Liên Ðoàn đã phải uất hận cùng toàn thể Quân lực miền Nam buông súng vào giờ phút cuối của cuộc chiến để rồi nhiều chiến hữu đã phải trải qua bao nhục nhã đắng cay trong các nhà tù cải tạo của Cộng sản. Tuy thất trận, nhưng LÐ81 cũng đã làm cho Cộng sản phải nể phục với tinh thần kỷ luật của một đơn vị Anh hùng trong hàng ngũ chỉnh tề cho đến giây phút cuối cùng khi buông súng.
Trại tù Nam Hà có gần 1,000 tù cải tạo vào năm 78, trong số đó có vài trăm cấp Đại tá không đi lao động suốt nhiều tháng, được nghỉ ở trại để viết về đề tài CUỘC ÐỜI TÔI nghĩa là kê khai tất cả chi tiết từ nhiều đời, đến khi vào quân đội cho đến ngày 30/4/75. Suốt ngày ngồi viết dưới sự trông coi của cán bộ, chiều đến thì nạp bài để đêm đến họ kiểm soát lại xem mình có viết đúng như họ hướng dẩn không. Sáng hôm sau thì họ kêu những người không viết theo hướng dẫn lên để xỉ vả ! Cán bộ thì ngồi trên ghế, người bị kêu lên ngồi dưới đất để nghe những lời hạch hỏi thiếu văn hóa của kẻ thắng trận. tôi nhìn cảnh đó quá uất hận, rồi nghĩ nếu chẳng may đến lượt mình thì có chịu đựng được không ? Nhất là khi Danh dự của chiếc Mũ Xanh bị tổn thương, lúc đó chắc tôi khó mà kềm chế được sự tức giận để rồi sự thể có ra sao cũng đành cam chịu. Ðiều bất hạnh là tôi bị kêu lên thật, tên Tr/úy Quốc là Cán bộ văn hóa của trại với giọng nói cục cằn đã xỉ vả tôi “Anh viết tắt thế này (tôi viết tắt chữ Biệt Cách Nhảy Dù thành BCND).thì khi gởi thư, bố mẹ anh làm sao đọc được ? "Không kềm chế được ! Máu uất nổi lên, tôi đứng phắt dậy, dằn mạnh tập giấy đang viết xuống bàn và la lên cốt cho tất cả mọi người cùng nghe". Nếu tôi có tội thì cứ giết tôi, còn cha mẹ tôi không có tội, cán bộ đừng đụng đến cha mẹ tôi”. Bị tôi phản ứng bất ngờ, tên Quốc giận tím mặt, ngồi yên lặng một lúc rồi đứng dậy đến bắt tay tôi và xin lỗi. Tôi liếc nhìn anh em đại tá đang ngồi, thấy anh em hoảng hốt, sợ tánh mạng tôi sẽ bị nguy hại vì sự nóng giận đó, sau đó mới thấy tôi tuy quá uất hận nhưng cũng rất khôn ngoan đã lợi dụng cái lỗi của nó đụng chạm đến cha mẹ tôi để làm lớn chuyện mà tên Quốc không làm gì tôi được lúc đó nhưng tôi biết chắc chắn tôi sẽ bị trả đũa sau này. Từ sau ngày đó, tôi thấy bọn chúng bớt hống hách hơn với anh em Đại tá.
Viết xong CUỘC ÐỜI TÔI thì tiếp đến viết về đề tài CÁC TƯỚNG NGỤY, viết tất cả những Tướng nào mà mình biết, tôi chỉ viết các Tướng tư lệnh LLÐB đã chỉ huy trực tiếp tôi mà thôi, tôi vẫn lập luận là cấp Tướng thì đương nhiên phải giỏi hơn tôi, tôi làm sao giỏi hơn để phê bình họ được ? Tôi chỉ nói sơ lược cách hành xử của các Tướng tư lệnh mà không một phê bình nào về đúng hay sai nên cán bộ bực tôi lắm ! Cũng thành thực mà nói trong số mấy trăm Đại tá cũng có một hai người phê bình cấp Tướng chỉ huy của mình, anh em nói nhỏ với nhau là tên đó không được ông Tướng chỉ huy nâng đỡ nên bây giờ là có dịp để trả thù ! Một buổi sáng nọ, tất cả lên Hội trường để nghe cán bộ ở Bộ nội vụ về nói chuyện, khi đã ngồi yên vị, cán bộ liền nói "Hôm nay là buổi họp mặt để phê bình những khai báo của các anh trong mấy tháng qua, có 3 anh đáng được đưa ra để anh em phê bình xây dựng, đó là anh Phan Văn Huấn, anh Tạ Thành Long, và anh Lý Văn Minh đã có những tư tưởng không tốt như anh Huấn chẳng hạn, anh Huấn viết là : "Tôi chưa bao giờ nói dối với các con tôi, ngày đi trình diện học tập cải tạo, tôi đã nói Chính phủ Cách mạng chỉ bắt đi học tập cải tạo một tháng rồi ba sẽ trở về với các con, nay đã 3 năm rồi không thấy về nhưng tôi không biết giải thích với các con tôi như thế nào, vậy xin Cán bộ chỉ giùm cho, các anh cho biết những thắc mắc của anh Huấn như thế có đúng không ?” Cán bộ nói xong liền cho anh em nghĩ 10 phút để suy nghĩ và góp ý phê bình. Trong thời gian đó, tôi thấy nhiều Cán bộ gọi nhiều người ngồi riêng để nói chuyện nhỏ to gì đó, tôi biết chắc là cán bộ khuyên dụ anh em phải phê bình tôi không biết ơn Cách mạng đã tha tội chết cho mà còn đặt những câu hỏi làm mất uy tín Cách mạng. Ðến giờ vào họp lại thì lần lược các anh Cao Văn Ủy, Phạm Bá Hoa, Phan Thông Tràng, và nhiều anh em khác lần lược đứng lên phát biểu ý kiến, tôi biết chắc một điều là cộng sản chỉ cần một anh phê bình tôi là lập tức tôi bị cùm và dẩn đi kiên giam ở một nơi khác để dằn mặt các Đại tá. Như T/tá Hàng, Trưởng ty cảnh sát tỉnh Quảng Tín vì chủ mưu trong việc mua Radio của một Cán bộ để nghe lén đài BBC nên bị đưa đi kiên giam, chỉ hôm sau là đã thấy tù hình sự khiêng xác đi chôn, Tr/tá Nguyễn văn An, LLÐB trốn trại hai lần bị bắt lại liền bị đưa ra trại Mễ kiên giam, ít lâu sau thì cũng khiêng xác ra nghĩa địa ! Ðội 20 lao động chống đối lao động liền bị đưa đi giam ở trại Mễ, chỉ ít lâu sau thì có sáu bảy người nó nghi là xách động cũng đều bị khiêng xác ra nghĩa địa. Bây giờ số phận tôi nằm trong danh dự của các anh em Đại tá, thôi ta chấp nhận chết, đây cũng như là tử trận ở chiến trường mà ta đã chấp nhận từ lâu. Ðiều hãnh diện hết sức là anh em cứ nói vòng vo Tam Quốc, không đâu vào đâu hết khiến cho các Cán bộ bực tức mà chẳng biết làm gì hơn được.
Năm 1988, tôi và một số lớn tù được tha về vào mấy ngày trước Tết, về tới nhà tôi rất đau lòng khi thấy vợ và 7 con đang sống trong cảnh nghèo nàn xơ xác, nhưng tôi cũng tự an ủi là mình còn may mắn hơn nhiều anh em khác, khi về nhà đến nhà thì không còn đủ vợ con. Ngày 18/3/93 vợ chồng tôi và 3 con được ra đi đến định cư tại California theo diện nhân đạo HO, tại đây đã có hội Thân Hửu Lực Lượng Ðặc Biệt thành lập từ năm 1987 và đang ngưng hoạt động, do đó anh em đã đề nghị tôi đứng ra thành lập hội Gia Ðình 81 BCND/LLÐB để đại diện đầy đủ hơn cho các chiến hữu của cả hai Binh chủng BCD, LLÐB cũng như anh em Delta, và hội đã được thành lập ngày 04 tháng 7 năm 1993.
Kể từ ngày thành lập đến nay GÐ81/BCD/LLÐB đã liên lạc được trên 500 anh em Delta (kể cả BKQ), BCD và LLÐB, đã gây quỹ TÌNH THƯƠNG để tương trợ cho các gia đình thương binh tử sĩ và anh em BCD/LLÐB nghèo khổ ở quê nhà, số tiền tương trợ đã lên tới trên 50,000 và đã được báo cáo chi tiết trên 28 bản tin nội bộ. Tuy GÐ81 là một hội riêng nhưng công việc làm đều được thực hiện dưới danh nghĩa chung cho cả hai đơn vị BCND và LLÐB vì DANH DỰ của “Mầu cờ sắc áo”, và của chiếc nón màu Xanh lá cây rừng DŨNG CẢM.
Phan Văn Huấn
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
NGƯỜI QUÂN CẢNH CUỐI CÙNG CHẾT TẠI BỘ TỔNG THAM MƯU
Lời giới thiệu: Giờ thứ 25 của ngày 30 tháng 4-1975, có một hạ sĩ quan Quân Cảnh của đại đội 1 tại Tổng Tham Mưu đã tự sát dưới chân cột cờ trước tòa lầu chính. Một Quân Cảnh còn sống đến hôm nay sẽ kể lại câu chuyện. Nhưng trước đó xin quý vị nghe qua về cuộc đời của chính tác giả: Anh Huỳnh Hồng Hiệp gốc Kiến Hòa, sinh sống tại Sài Gòn đã đầu quân vào binh chủng Quân Cảnh từ cấp binh nhì. Sau đó anh lên binh nhất rồi đi học lớp Hạ Sĩ Quan căn bản, trải qua lớp chuyên môn binh chủng rồi phục vụ tại Phú Quốc. Hàng ngày những hạ sĩ quan Quân Cảnh VNCH phải đối diện với 40,000 chiến binh cộng sản trong các trại giam. Đây là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn phức tạp và hiểm nghèo. Sau khi hiệp định Paris ký kết, trại tù binh giải tán, các tiểu đoàn Quân Cảnh của Phú Quốc trở về đất liền tham dự các buổi hành quân tảo thanh và bình định. Chiến dịch chấm dứt. Một số tiểu đoàn giải tán, binh sĩ chuyển qua Biệt Động Quân. Các hạ sĩ quan Quân Cảnh trong đó có thanh niên Kiến Hòa Huỳnh Hồng Hiệp phải vào Dục Mỹ huấn nhục. Vừa vất vả, vừa bị các quân nhân đơn vị bạn ghét Quân Cảnh nên kỳ thị phá phách. Nhưng rồi mọi thứ cũng trôi qua và ở trong câu chuyện cuối tháng Tư sau đây, xin mời quý vị theo chân người hạ sĩ quan Quân Cảnh gian truân của chúng ta trên đường từ Dục Mỹ về Sài Gòn cho đến ngày cuối tại Bộ Tổng Tham Mưu.
Sau cơn hồng thủy 75, anh Huỳnh đã ở lại Sài Gòn rồi sau này mới vượt biên. Vì năm 75 chợt thấy mình yêu nước nên ở lại. Chuyến vượt biên những năm sau là thảm kịch gia đình. Nhưng đây lại là một câu chuyện khác. Hôm nay chúng ta chỉ nghe câu chuyện chấm dứt dưới chân cờ.
Riêng đối với các quân nhân Việt Nam Cộng Hòa đã chạy được qua ngả Tân Sơn Nhất vào tuần lễ cuối cùng. Nếu đi ngang qua cổng trại Trần Hưng Đạo của Bộ Tổng Tham Mưu thì sẽ thấy Trung sĩ Huỳnh đứng giữ trật tự. Suốt tuần lễ dài như cả trăm năm, anh vẫn đứng gác cho đến giờ phút cuối để các cấp trên di tản theo hệ thống quân giai. Bởi vì người trai Hiến Hòa đã không biết tại sao trong những giờ phút đó, anh lại chợt thấy mình yêu nước, yêu quân đội. Mà quân đội đối xử với anh có đẹp đẽ gì đâu?
Giao Chỉ San Jose.
* * *
Vào khoảng 8 giờ sáng, ngày 29 tháng 3-1975, tôi với một vài người bạn ra chợ Dục Mỹ để uống cà phê và cũng để nghe ngóng tình hình chiến sự. Tin tức từ những quân nhân hướng Khánh Dương chạy về cho biết là phòng tuyến này do các chiến sĩ Nhảy Dù ngăn chận Cộng quân đã đổ vỡ. Chúng tôi lập tức trở về TTHL Dục Mỹ thì quang cảnh quân trường đã thay đổi hẳn. Các khóa sinh và cơ hữu của trung tâm ra các giao thông hào trong tư thế sẵn sàng tác chiến. Biến động này làm cho nhóm 17 khóa sinh gốc Quân Cảnh chúng tôi lại thêm hoang mang. Số là nhóm chúng tôi đã thụ huấn xong khóa cuối Rừng Núi Sình Lầy và có danh sách được trở về binh chủng Quân Cảnh. Khóa học đã mãn hơn 10 ngày rồi mà chưa có Sự Vụ Lệnh để trình diện đơn vị. Chúng tôi cử một đại diện có cấp bậc cao nhất trong nhóm là Thượng Sĩ lên trình diện Đại Tá CHT/TTHL Dục Mỹ sau khi đã qua các văn phòng theo hệ thống quân giai. Đại tá Đại rất bận rộn nhưng ông vẫn cho gặp. Ông ngạc nhiên về trường hợp chậm trễ. Tuy nhiên sau cùng, ông lục ở ngăn kéo nơi làm việc tìm ra được Sự Vụ Lệnh mà ông đã ký rồi và đưa ra trao cho trưởng toán chúng tôi. Khi nhận được Sự Vụ Lệnh thì Quân Trường Dục Mỹ không thể cung cấp phương tiện đến Nha Trang. Chúng tôi đành tự túc mạnh ai nấy đi. Đến chiều khoảng 1 giờ, chúng tôi gặp nhau tại ở Nha Trang với hy vọng tìm được máy bay về Sài Gòn. Tôi và vài bạn nữa đi ngang qua Bộ Tư Lệnh QĐ II thì lá cờ tướng đã hạ xuống, Quân Cảnh gác cổng không còn. Đi quan Bộ Chỉ Huy BĐQ QK II thì cũng vườn hoang nhà trống. Súng M16 cả đống nên mỗi anh em nhặt một cây để phòng thân. Không có phương tiện của quân đội nên chúng tôi mạnh ai nấy đi bằng cách đổ ra ngả Ba Thành và leo xe nhà binh tìm đường xuôi Nam. Lúc bấy giờ có Quân Cảnh Hiệp, người lớn tuổi hơn tôi nên bạn bè gọi là Hiệp Già. Anh có một vợ 5 con, đơn vị gốc là Tiểu đoàn 8 Quân Cảnh, cùng học chung với tôi mấy khóa ở Trường Quân Cảnh và Trường HSQ Đồng Đế. Suốt đêm hôm đó và đến khoảng 3 giờ chiều hôm sau, đoàn xe di tản đến thị xã Phan Thiết. Khi xe ra khỏi Phan Thiết một đỗi chúng tôi gặp một số quân nhân chạy ngược lại, được biết Việt cộng phục kích và có giao tranh ở ngả ba Bình Tuy (Rừng Lá). Tin này làm chúng tôi chùn chân vì tôi biết chắc với đám quân không có chỉ huy nếu gặp Việt cộng thì chỉ có chết. Sở dĩ tôi nghĩ như thế là vì suốt từ nhiều ngày qua đã có lúc giành mấy củ khoai ở cổng Ba Làng Cam Ranh mà bắn nhau chết. Thị xã Phan Thiết đang yên lành thì bị cướp, bị phá cửa sắt lấy bia, nước đá, thực phẩm tạo ra sự giành giựt rồi giết nhau. Điều này ai có đi khoảng thời gian đó đều biết. Với máu Quân Cảnh trong người, tôi rất bất mãn nhưng không thể làm gì được. Sau cùng, tôi bàn với anh Hiệp già là nên trở lại Phan Thiết tìm ghe hoặc tàu bè về Vũng Tàu chắc ăn hơn. Anh Hiệp không đồng ý nên chúng tôi chia tay. Sau cùng tôi cũng tìm đường thủy về Sài Gòn qua ngả Vũng Tàu. Trình diện ở trại đường Tô Hiến Thành xong, được lệnh trả tôi về binh chủng. Tôi bắt thăm trúng được Tiểu đoàn 5 Quân Cảnh. Nỗi vui mừng thật lớn, coi như thoát được nạn trong mấy ngày vừa qua. Hơn sáu năm đi lính, lần đầu tiên bắt thăm được trúng đơn vị ở gần nhà. Biết bao là mừng vui. Tại Ban Nhân Viên Tiểu Đoàn tôi được lệnh tăng phái cho Đại đội 1 Quân Cảnh tại Bộ TTM. Thật tình mà nói, tôi chỉ được nghe tên vị Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu tá Hưng hay Trung tá Hưng (không rõ), còn các Đại Đội Trưởng và Trung Đội Trưởng của tôi tôi chưa kịp gặp mặt, hoàn toàn không biết là ai. Cứ nhận lệnh đi tăng phái đã. Tôi không nhớ chính xác bao nhiêu quân nhân từ Tiểu đoàn 5 Quân Cảnh tới tăng cường cho Đại Đội 1 Quân Cảnh, hình như khoảng 15 anh em gì đó. Nhiệm vụ chúng tôi đứng các nút chặn ngả ba Chú Ía, ngả tư Võ Duy Nguy Võ Tánh, Võ Tánh gần Bệnh Viện III Dã Chiến Hoa Kỳ, và Võ Tánh gần ngả ba Trương Quốc Dung. Có một ngày, vào khoảng 15 tháng 4-1975, tôi gặp lại một bạn Quân Cảnh cùng chạy ở Dục Mỹ hỏi thăm anh Hiệp Già và được biết anh bị một viên đạn bắn sẻ của Việt cộng trúng ngay giữa tam tinh gần ngả ba Rừng Lá. Tôi bần thần về tin này cả tuần. Trong thời gian tăng phái cho TTM, ngày đứng đường, đêm về các điểm phòng thủ trong Tổng Tham Mưu. Có một đêm tôi nằm dưới thềm Tổng Cục Tiếp Vận coi TV thấy Tổng thống Thiệu đọc diễn văn chửi Mỹ. Mắt coi TV, tai nghe đạn pháo kích lòng dạ sao xuyến tan nát. Cường độ pháo của cộng quân càng tăng. Trước 3 trái thì 2 trái vô Tân Sơn Nhất còn trái vô TTM. Sau 2 trái thì 1 trái vô Tân Sơn Nhất và 1 trái vô TTM. Nghe quen, tôi cũng bắt chước số anh em khác mà đoán tầm gần xa, lúc nào sắp nổ. Tôi vẫn ở TTM nhưng phạm vi hoạt động rút lại gần hơn và chịu pháo nhiều hơn. Trong thời gian này, bên gia đình vợ tôi có đường chạy ra ngoại quốc. Nếu muốn đi thì chắc chắn chúng tôi sẽ ra đi bình yên. Tôi là hạ sĩ quan với sắc phục Quân Cảnh. Đi đâu cũng gặp toàn bạn bè cùng binh chủng. Không những đi dễ dàng mà còn lo cho được cả gia đình họ hàng. Nhưng không biết tại sao vào những giây phút đó tôi lại thấy mình yêu nước. Bỏ đi không đành. Đó là tấm lòng thành thực, nghĩ sao thì nói vậy. Sau này vợ tôi cứ nói mãi về vụ di tản. Bây giờ bả không còn nữa nhưng tôi vẫn còn nghe như tiếng nói than thở bên tai.
Sáng ngày 30 tháng 4-1975: Tôi được lệnh tăng cường cho cổng 1 TTM. Lúc bấy giờ cộng quân gia tăng cường độ pháo kích dữ dội. Các Quân Cảnh cơ hữu của Đại Đội 1 Quân Cảnh rất bận rộn. Có tin cổng 4 có một số sĩ quan TTM phá rào chui ra đến nỗi Quân Cảnh Đại Đội 1 TTM phải dùng hàng rào người mà cản lại. Cũng có một số sĩ quan cấp Trung và Đại Tá tự ký Sự Vụ Lệnh ra cổng. Chưa đến nỗi hỗn loạn nhưng Quân Cảnh khá mệt nhọc vất vả mới giữa được trật tự. Lệnh Tướng Hạnh là nội bất xuất, ngoại bất nhập. Chúng tôi thì chỉ có nhiệm vụ yểm trợ cho Đại Đội 1 Quân Cảnh mà thôi. Tôi quan sát tại điếm canh cổng số 1 có anh Quân Cảnh làm việc thật tích cực và hiệu quả. Nhìn kỹ ra là anh Minh người cao lớn. Tôi thật tình quên mất họ của Minh là Trần hay Nguyễn. Nhưng có thể là Trần Văn Minh. Minh cùng chung một khóa với tôi ở Trường HSQ Đồng Đế. Đó là khóa 1/71 Đặc Biệt HSQ hiện dịch, lúc đó tướng Linh Quang Viên làm Chỉ Huy Trưởng. Sau đó chúng tôi gặp lại nhau tại Trường Quân Cảnh một hai lần nữa. Giờ đây, rõ ràng là Minh đang ở Đại Đội 1 Quân Cảnh TM. Giơ tay chào nhau, nói vài câu, rồi ai làm việc nấy. Lúc đó tôi ở cổng chánh khoảng 100 mét về hướng tòa nhà chánh.
11 giờ 30 ngày 30 tháng 4-1975: Lúc 11 giờ 30, từ cổng 1 TTM tôi nghe súng nổ dữ dội ở phía Bệnh Viện Dã Chiến Hoa Kỳ, thì ra các anh em LĐ 81 BCND đang bắn xe tăng Việt cộng. Khi chiếc xe T54 của Việt cộng có treo cờ GPMN hướng về cổng 1 TTM thì tất cả chúng tôi lái xe Jeep rút về văn phòng Đại Đội 1 Quân Cảnh vì xe cộ đồ đạc tất cả đều để đây. Khi xe ngừng, Minh bước xuống và nước mắt đã đầm đìa. Tôi nhìn Minh mà lo cho thân mình nên vội vàng cột ba lô mang súng ống, rồ xe Mobylette phóng chạy. Cái cảnh lúc đó thật là hoảng loạn, mạnh ai nấy lo, giành đường thoát ra.
11 giờ 40 ngày 30 tháng 4-1975: Sau lưng tôi, Minh khóc và nói một mình “Thôi rồi, mất nước rồi.” Nói xong anh Minh bước tới gần cột cờ, nghiêm chỉnh đưa tay lên, chào xong móc khẩu Colt 45 bên hông kê lên màng tang. Một tiếng nổ đơn độc vang lên. Tôi chắc tiếng nổ đó đã hòa tan trong tiếng máy của hàng trăm chiếc xe Honda, Vespa, Suzuki. Minh ngã xuống. Trung sĩ I Trần Văn Minh đã trả xong nợ nước vào giờ thứ hai mươi lăm. Tôi là một người sợ chết nên nhìn Minh một lần chót, nén xúc động và chạy thoát thân với hàng đoàn người kia. Giờ đây Minh họ Nguyễn hay Trần tôi không biết chắc. Anh đã chết thật hay chỉ bị thương cũng không biết chắc. Có điều Minh đã làm một việc thật là đáng để tôi quỳ xuống mà lạy anh. Tất cả các đoạn trên tôi viết dông dài chỉ nhằm mục đích kể lại đoạn cuối về cái chết của một Quân Cảnh tại Bộ Tổng Tham Mưu. Chúng tôi là binh chủng lo về quân kỷ của quân đội. Xin các anh em chiến hữu hiểu rằng chúng tôi cũng sống chết với quân đội như anh em. Và trong hàng ngũ hạ sĩ quan chúng tôi cũng có người tự vẫn dưới ngọn cờ Tổng Tham Mưu vào giờ thứ 25. Gần 30 năm qua, ngồi cố nhớ mà viết lại chắc có nhiều chi tiết thiếu sót, ước mong các chiến hữu bổ khuyết dùm cho.
Quân Cảnh Huỳnh Hồng Hiệp, San Jose
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Ðã 25 năm kể từ ngày tôi tham-dự trận hải-chiến Hoàng-Sa, tôi chưa từng trình bầy hay viết mô-tả lại về trận đánh này, ngay cả có nhiều lần tôi đã thất hứa với các bậc tiên-sinh yêu-cầu tôi thuật lại chi-tiết của cuộc đụng-độ. Dù thắng hay bại, chỉ có một điều duy-nhứt không thể chối cãi được là các chiến-hữu các cấp của Hải-quân Việt-Nam Cộng-Hòa trong trận hải-chiến đã anh-dũng chiến-đấu bằng phương-tiện và kinh-nghiệm có trong tay để chống lại một kẻ xâm-lăng truyền-kiếp của dân-tộc hầu bảo-vệ lãnh-thổ của Tổ-quốc. Trước một thù-địch có sức mạnh gấp bội, dù cuộc-chiến có hạn-chế hay kéo dài hoặc mở rộng, phần cuối là chúng ta vẫn phải tạm lùi bước trước các cuộc cường-tập của đối-phương để tìm-kiếm một cơ-hội thuận-tiện khác hầu khôi-phục lại phần đất đã bị cưỡng-chiếm.
Hôm nay nhân ngày Tết Kỷ-Mão, tôi viết những giòng này để tưởng-niệm anh-linh các liệt-sĩ đã hy-sinh khi cùng tôi chiến-đấu chống kẻ xâm-lăng trên các mảnh đất xa vời của Quốc-Tổ, một số đã vĩnh-viễn nằm lại trong lòng biển Hoàng-Sa như để thêm một chứng-tích lịch-sử của chủ-quyền quốc-gia, một số khác đã bỏ mình trên biển cả khi tìm đường thoát khỏi sự tàn-bạo của người phương bắc.
Có nhiều chiến-hữu Hải-quân đã từng hăng-say viết lại một trang-sử oai-hùng của Hải-quân và toàn Quân-lực Việt-Nam của nền Ðệ-Nhị Cộng-Hòa, nhưng đã thiếu-xót nhiều chi-tiết chính-xác mà vào những năm trước 1975 chưa được phép phổ-biến, và cũng vì phải lưu-lạc khắp thế-giới tự-do nên các chiến-hữu đó đã không thể liên-lạc để tham-khảo cùng tôi.
Nhiều chi-tiết về giờ-giấc và về vị-trí bạn và địch, cũng như tên họ của các cấp có liên-hệ tới biến cố, vì không có tài-liệu truy-lục, nên chỉ có thể viết vào khoảng gần đúng nhất. Tôi chỉ tường-thuật trung-thực những chi-tiết theo khía-cạnh của một người chỉ-huy chiến-thuật được biết và cũng mong-mỏi các chiến-hữu nào còn có thể nhớ chắc-chắn các chi-tiết quan-trọng khác, tôi sẽ sẵn-sàng tiếp-nhận qua tòa-soạn này, để sửa lại tài-liệu này cho đúng.
Hai câu thơ với lối hành-văn vận theo sấm Trạng-Trình đã được truyền-khẩu rất nhanh khi Hải-đội Ðặc-nhiệm Hoàng-Sa trở về tới Ðà-nẵng vào sáng sớm ngày 20 tháng 4 năm 1974. Và câu thơ này do chính Hải-quân Ðại-Tá Nguyễn-Viết-Tân (thủ-khoa Khóa 5 của tôi) lúc đó đang giữ chức-vự Chỉ-huy-trưởng Sở Phòng-Vệ Duyên-hải, đọc cho tôi nghe. Từ ngày đó tới nay đã đúng 25 năm, và do sự khuyến-khích của các bậc thượng-trưởng của Hải-quân Việt-Nam, những chi-tiết về diễn-tiến chưa tùng tiết-lộ của trận hải-chiến cần được ghi lại để làm chứng-liệu lịch-sử.
Sau trận hải-chiến, những ưu và khuyết điểm về chiến-thuật và chiến-lược của Hải-quân Việt-Nam Cộng-Hòa đến nay nếu nêu ra thì sẽ không còn một giá-trị thực-tiễn nào để có thể làm những bài học cho những biến-cố kế-tiếp. Vì vậy một vài điều nếu có nêu ra tại đây thì chỉ để ghi lại tình-trạng và khả-năng khi Hải-quân Việt-Nam Cộng-Hòa khi đã phải đương đàu với Trung-cộng, là một quốc-gia vào thời-điểm đó, đã sẵn có một lực-lượng hùng-hậu về hải-lục-không-quân gấp bội của Việt-Nam Cộng-Hòa.
Một điểm hãnh-diện cho Hải-quân Việt-Nam Cộng-Hòa lúc bấy giờ là đã không những phải sát-cánh với lực-lượng bạn chống lại kẻ nội-thù là cộng-sản miền bắc trong nội-địa, lại vừa phải bảo-vệ những hải-đảo xa-xôi, mà lại còn phải chiến-đấu chống kẻ xâm-lăng, đã từng biết bao lần dầy xéo đất nước trong suốt lịch-sử lập-quốc và dành quyền độc-lập của xứ sở.
So-sánh với các cuộc hành-quân ngoại-biên vào các năm 1970-71 của Quân-lực VNCH sang đất Kampuchia va Hạ-Lào, thì quân-lực ta chỉ chiến đẵu ngang ngửa vơi cộng-sản Việt-Nam ẩn náu trên đất nước láng-giềng mà thôi. Phải thành-khẩn mà nhận rằng Hải-quân Việt-Nam Cộng-Hòa ngoài nội-thù còn phải chống ngoại-xâm mà đã rất khó tiên-liệu để chuẩn-bị một cuộc chiến chống lại một lực-lượng hải-quân Trung-cộng tương-đối dồi-đào hơn cả chúng ta về phẩm cũng như lượng. Hải-quân Việt-Nam ta đã có những gánh nặng về hành-quân để yểm-trợ lực-lượng bạn và hành-quân ngăn-chận các vụ chuyển-quân lén-lút của Việt-cộng qua biên-giới Miên-Việt trong vùng sông ngòi cũng như các vụ tiếp-tế quân-dụng của chúng vào vùng duyên-hải.
Trước khi đi vào chi-tiết của trận hải-chiến lịch-sử này, chúng ta thử nhắc sơ-lược lại cấu-trúc nhân-sự
của thượng-tầng chỉ-huy và của các đơn-vị tham-chiến của Hải-quân vào lúc biến-cố:
Sơ đồ điều quân của trận hải chiến Hoàng Sa quanh hai đảo Duy Mộng và Quang Hoà Đông .Sơ đồ này dựa theo các vị trí trong Phúc trình Hành Quân Hoàng Sa của Soái hạm HQ 5 có chữ ký và đóng dấu của HQ Trung Tá Pham Trọng Quỳnh .
Lý-do tôi đã có mặt tại Hoàng-Sa
Rất nhiều chiến-hữu trong Hải-quân đã không rõ nguyên-cớ nào mà tôi đã có mặt để đích-thân chỉ-huy tại chỗ trận hải-chiến Hoàng-Sa. Sự có mặt của tôi bắt nguồn từ khi tôi được Hội-đồng Ðô-đốc chỉ-định tôi tăng-phái cho Vùng I duyên-hải khoảng từ cuối năm 72 đầu 1973. Lý do tăng-phái của tôi đến Vùng I duyên-hải tôi không được biết trước cho đến khi tôi tới Quân-Khu 1, tôi mới được biết nhiệm-vụ chính của tôi là chuẩn-bị một trận thư-hùng giữa Hải-quân VNCH và hải-quân Bắc-Việt mà lúc đó, tin tình-báo xác-nhận là cộng-sản đã được viện-trợ các cao-tốc-đĩnh loại Komar của Nga-sô trang-bị hỏa-tiễn hải-hải (surface to surface). Vào thời-gian đó Hải-quân VNCH chỉ có khả-năng chống-đỡ thụ-động loại vũ-khí này. Cuộc hải-chiến tiên-liệu có thể xẩy ra khi lực-lượng hải-quân cộng-sản tràn xuống để hỗ-trợ cho quân-bộ của chúng khi chúng muốn tái-diễn cuộc cường-tập xuất-phát từ phía bắc sông Bến-Hải như vào ngày cuối tháng 3 năm 1972 để khởi phát các cuộc tấn-công suốt mùa hè đỏ lửa 1972.
Tôi lưu lại Vùng I duyên-hải chừng hai tuần lễ hầu nghiên-cứu để thiết-kế. Kế-hoạch chính của cuộc hải-chiến này là xử-dụng nhiều chiến-hạm và chiến-đỉnh (WPB và PCF) để giảm bớt sự thiệt-hại bằng cách trải nhiều mục-tiêu trên mặt biển cùng một lúc. Song-song với việc này là các chiến-hạm và chiến-đĩnh phải xử-dụng đạn chiếu-sáng và hỏa-pháo cầm-tay như là một cách chống hỏa-tiễn thụ-động. Ngoài ra Hải-quân cũng cần đặt ra sự yểm-trợ của pháo-binh của Quân-đoàn I để tác-xạ ngăn-chặn và tiêu-diệt lực-lượng hải-quân cộng-sản tại phía bắc Cửa Việt trước khi họ tràn xuống phía nam để đủ tầm phóng hỏa-tiễn.
Sau khi đã thuyết-trình tại Bộ-Tư-Lệnh Hải-quân Vùng I duyên-hải cùng các Chỉ-huy-trưởng các đơn-vị duyên-phòng và duyên-đoàn, Tư-lệnh HQ Vùng I duyên-hải chấp-thuận kế-hoạch và đưa kế-hoạch lên thuyết-trình tai Bộ-Tư-Lệnh Quân-đoàn I và Quân-Khu I. Buổi thuyết-trình tại BTL/Quân-đoàn I do đích-thân Trung-Tướng Ngô-quang-Trưởng chủ-tọa, ngoài Tư-lệnh HQ Vùng I duyên-hải còn có Ðại-Tá Hà-mai-Việt Trưởng Phòng 3 Quân-đoàn, Ðại-tá Khiêu-hữu-Diêu, Ðại-Tá Nguyễn-văn-Chung Chỉ-huy-trưởng pháo-binh Quân-đoàn và một số rất ít các sĩ-quan phụ-tá. Nhu-cầu yểm-trợ pháo-binh cho cuộc hải-chiến được chấp-thuận ngay và Chỉ-huy-trưởng pháo-binh quân-đoàn hứa sẽ phối-trí pháo-binh, đặc-biệt là pháo-binh 175 ly để thỏa-mãn kế-hoạch của Hải-quân, khi được yêu-cầu.
Kể từ khi được chỉ-định tăng-phái, tôi thường có mặt tai Vùng I duyên-hải mỗi tháng chừng hai tuần tùy theo công-việc của tôi tại Hải-đội, nhưng chưa lần nào Bộ-Tư-lệnh HQ, Bộ-Tư-lệnh Hạm-đội hoặc Vùng I Duyên-hải chỉ-thị tôi phải có mặt trong vùng. Khi có mặt tại vùng tôi thường tìm-hiểu tình-hình tổng-quát tại Quân-Khu I cũng như đi hoặc tháp-tùng Tư-lệnh HQ vùng I duyên-hải thăm-viếng các đơn-vị lục-quân bạn cấp sư-đoàn, lữ-đoàn hay trung-đoàn.
Trở lại trận hải-chiến Hoàng-Sa, vào khoảng ngày 11 tháng giêng năm 1974, chỉ khoảng vài ngày sau khi Ngoại-trưởng Hoa-Kỳ Kissinger rời Trung-cộng, thì đột-nhiên Ngoại-trưởng Trung-cộng lại một lần nữa tuyên-bố về chủ-quyền của họ trên các quần-đảo Hoàng và Trường-Sa. Tôi rất lưu-ý tin này vì tôi đã chỉ-huy công-cuộc đặt quân trú-phòng đầu tiên trên đảo Nam-Yết vùng Trường-Sa vào cuối mùa hè 1973. Vài ngày sau, vì Ngoại-trưởng VNCH Vương-văn-Bắc còn bận công-cán ngoại-quốc, thì phát-ngôn-viên Bộ Ngoại-giao VNCH bác-bỏ luận-cứ của Trung-cộng và tái xác-nhận một lần nữa chủ-quyền của VNCH trên các quần-đảo đó.
Ngày 16 tháng giêng năm 1974, tôi từ Sàigòn đi Vũng-Tầu để chủ-tọa lễ trao-quyền chỉ-huy Tuần-dương-hạm HQ5 Trần-bình-Trọng đang neo tại chỗ, cho tân-hạm-trưởng là Hải-quân Trung-tá Phạm-trong-Quỳnh (tôi không còn nhớ tên cựu hạm-trưởng). Khi trở về Sàigòn, lúc theo dõi bản tin-tức hàng ngày của đài truyền-hình thì thấy Ngoại-trưởng Vương-văn-Bắc hùng-hồn và nghiêm-trọng khi tuyên-bố chủ-quyền của VNCH trên 2 quần-đảo Hoàng và Trường-Sa. Tôi thấy có chuyện bất-ổn có thể xẩy ra tại Vùng I duyên-hải nhất là Việt-cộng có lẽ được Trung-cộng hỗ-trợ tạo ra tình-thế rắc-rối ngoài hải-đảo để thu-hút lực-lượng của Hải-quân Việt-Nam, và đương nhiên cộng-sản sẽ lợi-dụng để tràn-xuống dưới vĩ-tuyến 17 như đã dự-liệu.
Nên sáng sớm ngày 17, không kịp thông-báo đến Tư-lệnh Hạm-đội; tôi lên phi-trưởng Tân-sơn-Nhứt và đến thẳng ngay Trạm hàng-không quân-sự. Tôi gặp ngay một vị Thượng-sĩ không-quân trưởng-trạm và nói là tôi cần đi gắp ra Ðà-nẵng. Vị Thượng-sĩ trình với tôi là danh-sách hành-khách đã đầy-đủ cho chuyến bay và giới-thiệu tôi gặp vị Trung-úy phi-công-trưởng phi-cơ C130. Sau khi trình-bầy lý-do khẩn-cấp đi Ðà-nẵng của tôi, vị phi-công-trưởng trang-trọng mời tôi lên phi-cơ ngồi vào ghế phụ trong phòng phi-công.
Ðến Ðà-nẵng khoảng 9:00 sáng, tôi mới kêu điện-thoại cho HQ Ðại-tá Nguyễn-hữu-Xuân, Tư-lệnh-phó Vùng cho xe đón tôi tại phi-trường. Ðến BTL/HQ Vùng I duyên-hải tôi mới được biết chi-tiết những gì đang xẩy ra tại Hoàng-Sa, và được biết thêm là chiếc tuần-dương-hạm HQ5, mà tôi vừa chủ-tọa trao quyền chỉ-huy ngày hôm qua tại Vũng-Tàu sẽ có mặt tại quân-cảng vào buổi chiều tối cùng với biệt-đội hải-kích.
Tư-lệnh HQ vùng I duyên-hải cũng cho tôi hay và giơ một tờ giấy nhỏ nói là ông có thủ-bút của Tổng-thống vừa tới thăm bản-doanh trước đây, nhưng tôi không hỏi về chi-tiết cũng như xin xem thủ-bút vì tôi nghĩ đó là chỉ-thị riêng tư giữa Tổng-Thống và một vị Tướng-lãnh. Vị Tư-lệnh này còn cho tôi hai chọn-lựa: một là chỉ-huy các chiến-hạm ngay tại Bộ-Tư-lệnh Vùng, hai là đích-thân trên chiến-hạm. Tôi đáp trình ngay là: Tôi sẽ đi theo các đơn-vị của tôi. Từ ngày được thuyên-chuyển về Hạm-đội, không như các vị tiền-nhiệm, tôi thường xa Bộ-chỉ-huy để đi theo các chiến-hạm trong công-tác tuần-dương. Mỗi chuyến công-tác, sự hiện-diện của tôi đã mang lại cho nhân-viên chiến-hạm niềm phấn-khởi sau nhiều ngày phải xa căn-cứ. Tôi thường lưu ý các vị hạm-trưởng đến việc huấn-huyện nội-bộ hoặc thao-dượt chiến-thuật với chiến-hạm khác khi được phép.
Ðến khoảng buổi chiều thì Tư-lệnh vùng I duyên-hải còn hỏi tôi có cần thêm gì, tôi trình xin thêm một chiến-hạm nữa vì cần hai chiếc khi di-chuyển trong trường-hợp bị tấn-công trên hải-trình, chứ không phải vì số lượng chiến-hạm Trung-cộng đang có mặt tại Hoàng-Sa. Chiếc Hộ-tống-hạm (PCE) HQ10 Nhựt-Tảo đựơc chỉ-định xung vào Hải-đoản đặc-nhiệm, với lý-do chính là chiếc Hộ-tống-hạm này đang tuần-dương ngay khu-vực cửa khẩu Ðà-nẵng nên giảm bớt thời-gian di-chuyển, chiến-hạm chỉ có một máy chánh khiển-dụng mà thôi. Ngoài ra vị Tư-lệnh HQ vùng còn tăng-phái cho tôi HQ Thiếu-Tá Toàn (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: HQ Thiếu Tá Nguyễn Chí Toàn, Khóa 11 SQHQ/Nha Trang), mà tôi chưa biết khả-năng nên trong suốt thời-gian tăng-phái tôi chỉ trao nhiệm-vụ giữ liên-lạc với các Bộ Tư-lệnh cho vị sĩ-quan này. Tôi dùng cơm chiều gia-đình cùng Tư-lệnh HQ Vùng tại tư-thất trong khi chờ đợi Tuần-dương-hạm HQ5 tới. Sau bữa ăn, Tư-lệnh HQ Vùng đích-thân đi bộ tiễn-chân tôi ra cầu quân-cảng. Sau trận-chiến, vị Ðô-đốc này có thổ-lộ cùng tôi là ông đã tưởng đó là bữa cơm cuối cùng của ông với tôi. Như vậy là trận hải-chiến đã dự-liệu là sẽ có thể xẩy ra, và chắc vị Ðô-đốc đã mật-trình về Tư-lệnh Hải-quân thường có mặt tại Bộ-Tư-lệnh.
Tuần-dương-hạm HQ5 rời bến khoảng 09:00 tối và tôi trao nhiệm-vụ đi tới Hoàng-Sa cho Hạm-trưởng HQ5 là vị hạm-trưởng thâm-niên hơn (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: HQ5 và HQ10 cùng đi Hoàng Sa, Hạm Trưởng HQ5 là Trung Tá Quỳnh thuộc khóa 11 SQHQ Nha Trang, thâm niên hơn Hạm Trưởng HQ5 là Thiếu Tá Thà thuộc khóa 12 SQHQ Nha Trang). Sự hiện-diện của tôi trên chiến-hạm này đã làm tân-hạm-trưởng, vừa nhậm-chức 2 ngày trước, được vững-tâm hơn vì chắc tân-hạm-trưởng chưa nắm vững được tình-trạng chiến-hạm cũng như nhân-viên thuộc-hạ. Các chiến-hạm đều giữ im-lặng vô-tuyến ngoại trừ các báo-cáo định-kỳ về vị-trí.
Những diễn-tiến ngày hôm trước trận hải-chiến
Khoảng 8 hay 9:00 giờ sáng ngày 18, hai chiến-hạm HQ5 và HQ10 đã đến gần Hoàng-Sa, và trong tầm âm-thoại bằng máy VRC46 (hậu-thân của máy PRC25 nhưng với công-xuất mạnh hơn) để liên-lạc bằng bạch-văn, vì tầm hữu-hiệu của máy chỉ ở trong vùng Hoàng-Sa mà thôi, tôi nói chuyện với Hạm-trưởng HQ4 HQ Trung-tá Vũ-hữu-San, lúc đó đang là sĩ-quan thâm-niên hiện-diện, để được am-tường thêm tình-hình cũng như thông-báo về sự hiện-diện của tôi, vừa là Chỉ-huy-trưởng Hải-đội vừa là để thay-thế quyền chỉ-huy mọi hoạt-dộng, theo đúng thủ-tục ghi trong Hải-quy. Sau khi được trình bầy chi-tiết các diễn-tiến, tôi có lời khen ngợi Hạm-trưởng này và chia sẻ những khó-khăn mà vị này đã trải qua trong những ngày trước khi tôi có mặt tại vùng.
Vào khoảng xế trưa, thì cả 4 chiến-hạm (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: HQ4, HQ5, HQ10 và HQ16) đều tập-trung trong vùng lòng chảo của quần-đảo Hoàng-Sa và Hải-đoàn đặc-nhiệm được thành hình. Nhóm chiến-binh thuộc Tuần-dương-hạm HQ16 và Khu-trục-hạm HQ4 đã đổ-bộ và trương quốc-kỳ VNCH trên các đảo Cam-Tuyền (Robert), Vĩnh-Lạc (Money) và Duy-mộng (Drummond) từ mấy ngày qua vẫn được giữ nguyên vi-trí phòng-thủ để giữ đảo. Sau khi quan-sát các chiến-hạm Trung-cộng lởn vởn phía bắc đảo Quang-Hòa (Duncan), tôi quyết-định ngay là hải-đoàn sẽ phô-trương lực-lượng bằng một cuộc thao-diễn chiến-thuật tập-đội để tiến về phía đảo Quang-Hòa với hy-vọng là có thể đổ-bộ hải-kích như các chiến-hạm ta đã làm trước đây. Lúc này trời quang-đãng, gió nhẹ và biển êm. Tất cả chiến-hạm đều phải vào nhiệm-sở tác-chiến, nhưng các dàn hải-pháo và vủ-khí đại-liên phải ở trong thế thao-diễn. Khởi hành từ nam đảo Hoàng-Sa để tiến về đảo Quang-Hòa, 4 chiến-hạm vào đội-hình hàng dọc, dẫn đầu là Khu-trục-hạm HQ4, theo sau là tuần-dương-hạm HQ5 làm chuẩn-hạm đã có trương hiệu-kỳ hải-đội, thứ ba là tuần-dương-hạm HQ16 và sau cùng là Hộ-tống-hạm HQ10, tốc-độ chừng 6 gút, khoảng cách giữa các chiến-hạm là hai lần khoảng cách tiêu-chuẩn (tức 1000 yard), phương-tiện truyền-tin là kỳ-hiệu và quang-hiệu, và âm-thoại bằng VRC46 hoặc PRC25 chỉ xử-dụng để tránh hiểu-lầm ám-hiệu vận-chuyển chiến-thuật mà thôi.
Chừng nửa giờ sau khi hải-đoàn vận-chuyển vào đội-hình hướng về phía đảo Quang-Hòa thì hai chiến-hạm Trung-cộng loại Kronstad mang số-hiệu 271 và 274 bắt đầu phản-ứng bằng cách vận-chuyển chặn trước hướng đi của hải-đoàn, nhưng hải-đoàn vẫn giữ nguyên tốc-độ, trong khi đó thì hai chiếc chiến-hạm khác nhỏ hơn mang số 389 và 396 (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: đây là hai trục lôi hạm tức là tầu vớt mìn loại T43) cùng 2 chiếc ngư-thuyền ngụy-trang 402 và 407 (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: ngư thuyền số 402 mang tên Nam Ngư) của họ vẫn nằm nguyên vị-trí sát bờ bắc đảo Quang-Hòa. Tôi đã không chú-tâm đến 2 chiếc chiến-hạm nhỏ của địch vì cho rằng, hai chiếc này chỉ là loại phụ mà thôi (sau này, khi sưu tầm tài liệu về trận hải chiến Hoàng Sa, HQ Thiếu-Tá Trần-Ðỗ-Cẩm truy ra theo số-hiệu là loại trục-lôi-hạm và chắc trang-bị vũ-khí nhẹ hơn) còn hai chiếc tầu tiếp-tế ngụy-trang như ngư-thuyền thì không đáng kể. Hành-động chận đường tiến của chiến-hạm ta đã từng được họ xử-dụng trong mấy ngày trước đây khi các chiến-hạm ta đổ quân lên các đảo Cam-tuyền, Vĩnh-lạc và Duy-mộng để xua quân của Trung-cộng rời đảo. Chiếc Kronstad 271 bắt đầu xin liên-lạc bằng quang-hiệu để xin liên-lạc, Tuần-dương-hạm HQ5 trả lời thuận và nhận công-điện bằng Anh-ngữ: “These islands belong to the People Republic of China (phần này tôi nhớ không chắc-chắn) since Ming dynasty STOP Nobody can deny” (Phần này tôi nhớ rất kỹ vì tôi có phụ nhận quang-hiệu). Tôi cho gởi ngay một công-điện khái-quát như sau: “Please leave our territorial water immediately”
Công-điện của chiến-hạm Trung-cộng được lập đi lập lại ít nhất 3 lần sau khi họ nhận được công-điện của Hải-đoàn đăc-nhiệm VNCH, và chiến-hạm ta cũng tiếp-tục chuyển lại công-điện yêu-cầu họ rời khỏi lãnh-hải của VNCH.
Vì 2 chiến-hạm Kronstad Trung-cộng cố-tình chặn đường tiến của Hải-đoàn đặc-chiệm với tốc-độ khá cao, nếu Hải-đoàn tiếp-tục tiến thêm thì rất có thể gây ra vụ đụng tầu, tôi đưa Hải-đoàn trở về phía nam đảo Hoàng-Sa và vẫn giữ tình-trạng ứng-trực cũng như theo dõi các chiến-hạm Trung-cộng, họ cũng lại tiếp-tục giữ vị-trí như cũ tại phía bắc và tây-bắc đảo Quang-Hòa. Sự xuất-hiện thêm 2 chiến-hạm của Hải-quân Việt-Nam vào trong vùng chắc-chắn đã được chiếc Kronstad 271 của Trung-cộng, được coi như chiến-hạm chỉ-huy, báo cáo về Tổng-hành-dinh của họ, và việc tăng-viện có thể được coi như đã được chuẩn-bị.
Với hành-động quyết-liệt ngăn-chặn ta không tiến được đến đảo Quang-Hòa, tôi cho rằng họ muốn cố-thủ đảo này. Việc đổ-bộ quân để xua đuổi họ ra khỏi đảo, lúc đó tôi hy-vọng, chỉ có thể phải thực-hiện bất-thần để tránh hành-động ngăn-chặn của họ và có lực-lượng hải-kích với trang-phục người nhái, may ra họ có thể phải nhượng-bộ, như Tuần-dương-hạm HQ16 và Khu-trục-hạm HQ4 đã thành-công trong mấy ngày trước đó. Nếu họ tấn-công thay vì nhượng-bộ, Hải-đoàn đặc-nhiệm buộc phải sẵn-sàng chống-trả.
Vào khoảng 8 giờ tối, tôi yêu-cầu Tuần-dương-hạm HQ16 chuyển phái-đoàn công-binh của Quân-đoàn I sang Tuần-dương-hạm HQ 5 bằng xuồng. Phái-đoàn công-binh Quân-đoàn I do Thiếu-tá Hồng hướng-dẫn đã vào gặp tôi tại phòng ăn Sĩ-quan có theo sau Ông Kosh thuộc cơ-quan DAO Hoa-Kỳ tại Ðà-nẵng. Tôi cho cả hai hay là tình-hình sẽ khó tránh khỏi một cuộc đụng-độ nên tôi không muốn các nhân-viên không Hải-quân có mặt trên chiến-hạm và tôi sẽ đưa họ lên đảo. Tôi cũng yêu-cầu Tuần-dương-hạm HQ5 cấp cho tất cả một ít lưong-khô. Riêng ông Kosh thì tôi yêu-cầu Hạm-trưởng HQ5 đưa cho ông 1 bịch thuốc lá 10 bao Capstan. Tôi tiễn chân tất cả phái-đoàn xuống xuồng và vẫy tay chào họ khi xuồng bắt đầu hướng về đảo Hoàng-Sa. Kể từ giờ phút đó tới nay tôi không có dịp nào gặp lại ông Kosh để thăm hỏi ông và yêu-cầu ông cho trả lại Tuần-dương-hạm HQ5 bịch thuốc lá Capstan vì thuốc lá này thuộc quân-tiếp-vụ của chiến-hạm xuất ra ứng trước. Riêng Thiếu-tá Hồng thì tôi đã có dịp thăm hỏi ông tại Los Angeles vào năm 1996, cũng theo lời ông thì ông đã viết xong vào trước năm 1975, một cuốn ký-sự về thời-gian bị bắt làm tù-binh trong lục-dịa Trung-Hoa nhưng không được Tổng Cục Chiến-tranh Chính-trị cho xuất bản vì chưa phải lúc thuận-tiện.
Vào khoảng 10 giờ tối, tôi trực-tiếp nói chuyện bằng vô-tuyến với tất cả hạm-trưởng để cho hay là tình-hình sẽ khó tránh được một cuộc đụng-độ, và yêu-cầu các vị này chuẩn-bị các chiến-hạm và huy-động tinh-thần nhân-viên để sẵn-sàng chiến-đấu. Tôi biết rõ cuộc chiến nếu xẩy ra thì tất cả nhân-viên đều không đủ kinh-nghiệm cho các cuộc hải-chiến, vì từ lâu các chiến-hạm chỉ chú-tâm và đã thuần-thuộc trong công-tác tuần-dương ngăn-chặn hoặc yểm-trợ hải-pháo mà thôi, nếu có những nhân-viên đã phục-vụ trong các giang-đoàn tại các vùng sông ngòi thì họ chỉ có những kinh-nghiệm về chiến-đấu chống các mục-tiêu trên bờ và với vũ-khí tương-đối nhẹ hơn và dễ-dàng trấn-áp đối-phương bằng hỏa-lực hùng-hậu.
Vào khoảng 11:00 giờ tối ngày 18, một lệnh hành-quân, tôi không còn nhớ được xuất-xứ, có thể là của Vùng I duyên-hải, được chuyển mã-hóa trên băng-tần SSB (single side band) (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: đây là công điện Mật/Khẩn chiến dịch mang số 50.356, nhóm ngày giờ 180020H/01/74 do BTL/HQ/V1ZH gửi với tiêu đề: Lệnh Hành Quân Hoàng Sa 1) . Lệnh hành-quân vừa được nhận vừa mã-dịch ngay nên không bị chậm-trễ, và lệnh này ghi rõ quan-niệm hành-quân như sau: tái-chiếm một cách hòa-bình đảo Quang-Hòa. Lệnh hành-quân cũng không ghi tình-hình địch và lực-lượng trừ-bị nhưng những kinh-nghiệm từ trước tới nay nhất là trong hai năm tôi đảm-nhận trách-vụ Tham-mưu-phó hành-quân tại BTL/HQ, tôi dự-đoán Trung-cộng, vì đã thiết-lập một căn-cứ tiền-phưong tại đảo Phú-lâm thuộc nhóm Tuyên-đức nằm về phía đông-bắc đảo Hoàng-Sa sát vĩ-tuyến 17, nên họ đã có thể đã phối-trí tại đây lực-lượng trừ-bị, và hơn nữa trên đảo Hải-Nam còn có một căn-cứ Hải-quân rất lớn và một không-lực hùng-hậu với các phi-cơ MIG 19 và 21 với khoảng cách gần hơn là từ Ðà-nẵng ra. Việc Trung-cộng lấn-chiếm những đảo không có quân trú-phòng của ta trong vùng Hoàng-Sa, đã phải được họ chuẩn-bị và thiết-kế chu đáo từ lâu trước khi tái tuyên-bố chủ-quyền. Trong khi đó việc Hải-quân VNCH phát-hiện sự hiện-diện của họ chỉ có từ khi Tuần-dương-hạm HQ16 được lệnh đến thăm-viếng định-kỳ và chở theo phái-đoàn công-binh Quân-đoàn I ra thám-sát đảo để dự-kiến việc thiết-lập một phi-đạo ngắn.
Ngay sau khi hoàn-tất nhận lệnh hành-quân, tôi chia Hải-đoàn thành hai phân-đoàn đặc-nhiệm: Phân-đoàn I là nỗ-lực chính gồm Khu-trục-hạm HQ4 và Tuần-dương-hạm HQ5 do Hạm-trưởng Khu-trục-hạm HQ4 chỉ-huy; Phân-đoàn II là nỗ-lực phụ gồm Tuần-dương-hạm HQ16 và Hộ-tống-hạm HQ10 do Hạm-trưởng Tuần-dương-hạm HQ16 chỉ-huy. Nhiệm-vụ là phân-đoàn II giữ nguyên vị-trí trong lòng chảo Hoàng-Sa để tiến về đảo Quang-Hòa vào buổi sáng. Phân-đoàn I khởi hành vào 12:00 đêm đi bọc về phía tây rồi xuống phía nam sẽ có mặt tại nam đảo Quang-Hòa vào 06:00 sáng ngày hôm sau tức là ngày 19 để đổ-bộ biệt-đội hải-kích. Phân-đoàn I phải đi bọc ra phía tây quần-đảo thay vì đi thẩng từ đảo Hoàng-Sa xuống đảo Quang-Hòa là để tránh việc các chiến-hạm Trung-cộng có thể lại vận-chuyển ngăn-chặn đường tiến của chiến-hạm như họ đã làm vào buổi chiều, vả lại việc hải-hành tập-đội về đêm trong vùng có bãi cạn và đá ngầm có thể gây trở-ngại cho các chiến-hạm, nhất là Khu-trục-hạm còn có bồn SONAR (máy dò tiềm-thủy-đĩnh), hy-vọng hải-trình như vậy sẽ tạo được yếu-tố bất ngờ. Hơn nữa về mùa gió đông-bắc, việc đổ-bộ vào phía tây-nam sẽ tránh được sóng biển cho xuồng-bè. Nên ghi-nhận tại điểm này là kể từ năm 1973, toán cố-vấn HQ Hoa-kỳ tại Hạm-đội mà trưởng toán là HQ Ðại-tá Hamn (tên họ) đã nhiều lần yêu-cầu tháo gỡ máy Sonar trên các khu-trục-hạm. Phó Ðề-đốc Nguyễn-thành-Châu (lúc đó còn mang cấp HQ Ðại-tá) Tư-lệnh Hạm-đội đã trao nhiệm-vụ cho tôi thuyết-phục họ giữ máy lại để dùng vào việc huấn-luyện. Mãi đến khi HQ Ðại-tá Nguyễn-xuân-Sơn nhận chức Tư-lệnh Hạm-đội một thời-gian, tôi vẫn tiếp-tục liên-lạc với toán cố-vấn, và sau cùng họ mới bằng lòng giữ máy lại với tính-cách để huấn-luyện. Thực ra một khu-trục-hạm mà thiếu máy thám-xuất tiềm-thủy-đĩnh thì khả-năng tuần-thám và tấn-công sẽ giảm đi nhiều.
Diễn-tiến trận hải-chiến ngày 19 tháng giêng năm 1974
Ðúng 6:00 sáng ngày 19, trời vừa mờ sáng, Phân-đoàn I đã có mặt tại tây-nam đảo Quang-Hòa, thủy-triều lớn, tầm quan-sát trong vòng 1.50 đến non 2.00 hải-lý, trời có ít mây thấp nhưng không mưa, gió đông-bắc thổi nhẹ, biển tương-đối êm tuy có sóng ngầm. Phân-đoàn I tiến sát đảo khoảng hơn 1 hải-lý, Tuần dương-hạm HQ5 nằm gần bờ hơn một chút để thuận-tiện đổ-bộ hải-kích. Hai chiếc Kronstad 271 và 274 bị bất ngờ rõ-rệt nên thấy họ đã vận-chuyển lúng-túng và không thực-hiện được hành-động ngăn-cản như họ đã từng làm vào chiền hôm trước. Tôi cũng bị bất-ngờ là hai chiếc chủ-lực địch lại có mặt cùng một nơi để sẵng-sàng đối đầu mà tôi không phải tìm-kiếm họ, như tôi đã coi họ như là muc-tiêu chính. Họ đã phải luồn ra khỏi khu lòng chảo vào ban đêm, nhưng không hiểu là họ có theo dõi được đuờng tiến-quân của Phân-đoàn I hay không. Vào giờ này thì họ đã phải biết rõ là Tuần-dương-hạm HQ5 là chiến-hạm chỉ-huy của ta và cũng đã phải biết được hỏa-lực của chiếc khu-trục-hạm.
Biệt-đội hải-kích do HQ Ðại-úy Nguyễn-minh-Cảnh chỉ-huy đã được tôi chỉ-thị là không được nổ súng và lên bờ yên-cầu toán quân của họ rời đảo. Trong biệt-đội này có một chiến-sĩ hải-kích Ðỗ-văn-Long và luôn cả HQ Ðại-Úy Nguyễn-minh-Cảnh là những chiến-sĩ đã tham-dự cuộc hành-quân đầu-tiên Trần-hưng-Ðạo 22 (nếu tôi không lầm) cũng do tôi chỉ-huy để xây-cất doanh-trại và đặt quân trú-phòng đầu-tiên trên đảo Nam-Yết thuộc quần-đảo Trường-Sa vào cuối mùa hè năm 1973.
Một lần nữa, khi biệt-đội hải-kích xuồng xuồng cao-su, tôi đích-thân ra cầu thang căn-dặn và nhấn mạnh về việc đổ-bộ mà không được nổ súng, và khi bắt liên-lạc được với họ thì yêu-cầu họ rời khỏi đảo.
Tôi không chắc là cuộc đổ-bộ sẽ thành-công vì quân Trung-cộng trên đảo đã phải tổ-chức bố-phòng cẩn-mật tiếp theo sự thất-bại của họ trên các đảo khác đã nói ở trên, trong khi đó biệt-đội hải-kích lại không có được hỏa-lực chuẩn-bị bãi đổ-bộ. Một lần nữa tôi lại chỉ-thị cho các hạm-trưởng chuẩn-bị để chiến-đấu. Nếu cuộc đổ-bộ thất-bại thì với hỏa-lực của 2 khẩu 76 ly tự-động trên Khu-trục-hạm HQ4, một chiến-hạm chủ-lực của Hải-đoàn đăc-nhiệm, sẽ có đủ khả-năng loại ít nhất là hai chiến-hạm chủ-lực Trung-cộng ra khỏi vòng chiến không mấy khó-khăn, còn quân-bộ của Trung-cộng trên-đảo thì tôi tin chỉ là một mục-tiêu thanh-toán sau cùng. Tôi còn có ý-định là sẽ điều-động chiếc khu-trục-hạm vượt vùng hơi cạn trực-chỉ hướng bắc vào thẳng vùng lòng chảo để tăng-cường cho Phân-đoàn II nếu cần sau khi đã loại xong 2 chiếc Kronstad mà tôi luôn-luôn cho là mục-tiên chính. Tôi rất vững lòng vào hỏa-lực của chiến-hạm chủ-lực vì tôi đã được tường-trình đầy-đủ về khả-năng của hải-pháo 76 ly tự-động khi Khu-trục-hạm này yểm-trợ hải-pháo tại vùng Sa-hùynh trong nhiệm-kỳ hạm-trưởng của HQ Trung-Tá Nguyễn-quang-Tộ.
Biệt-đội hải-kích tiến vào đảo bằng 2 xuồng cao-su, từ chiến-hạm ta, việc quan-sát sự bố-phòng của Trung-cộng trên đảo không được rõ ràng. Các chiến-hạm Trung-cộng cũng không có phản-ứng gì đối với xuồng của hải-kích. Theo báo-cáo của Biệt-đội-trưởng hải-kích thì chiến-sĩ hải-kích Ðỗ-văn-Long là người đầu-tiên tiến vào đảo và vừa nổ súng vừa tiến vào trong nên đã bị hỏa-lực trong bờ bắn tử-thương ngay tại bãi-biển. HQ Trung-Úy Lê-văn-Ðơn (xuất-thân từ bộ-binh) tiến vào để thâu-hồi tử-thi của liệt-sĩ Long cũng lại bị tử-thương ngay gần xuồng nên tử-thi vị sĩ-quan này được thâu-hồi ngay. Việc thất-bại đổ-bộ được báo-cáo ngay về Bộ-Tư-lệnh HQ vùng I duyên-hải và chừng ít phút sau đó (vào khoảng 09:30 sáng) thì đích thân Tư-lệnh HQ VNCH hay Tư-lệnh Vùng I duyên-hải ra lệnh vắn-tắt có hai chữ: “khai-hỏa” bằng bạch-văn cho Hải-đoàn đặc-nhiệm và không có chi-tiết gì khác hơn. Tôi nhận biết được khẩu-lệnh trên băng siêu-tần-số SSB (single side band) không phải là của nhân-viên vô-tuyến mà phải là của cấp Ðô-đốc, nhưng từ đó đến nay tôi vẫn tin rằng là của Tư-lệnh Hải-quân mà tôi đã quen-thuộc giọng nói, nên tôi đã không kiểm-chứng thêm về sau. Tôi trở nên yên-tâm hơn vì khẩu-lệnh khai hỏa đã giải-tỏa trách-nhiệm của tôi ghi trong phần quan-niệm của lệnh hành-quân là tái-chiếm một cách hòa-bình. Tôi đích-thân vào máy siêu-tần-số trình ngay là chưa có thể khai-hỏa được vì phải chờ triệt-thối Biệt-đội hải-kích về chiến-hạm, họ còn trên mặt biển và ở vào vị-thế rất nguy-hiểm. Riêng tử-thi của liệt-sĩ hải-kích Ðỗ-văn-Long tôi lệnh không cho vào lấy vì có thể gây thêm thương-vong. Tôi tin rằng tử-thi của Liệt-sĩ Long sẽ không khó-khăn để thâu-hồi khi toán quân-bộ Trung-cộng được tiêu-diệt sau đợt các chiến-hạm của họ bị loại hoàn-toàn khỏi vòng chiến.
Vào khoảng gần 10:00 giờ sáng, biệt-đội hải-kích được hoàn-tất thu-hồi về Tuần-dương-hạm HQ5 với HQ Trung-Úy Lê-văn-Ðơn tử-thương. Trong khi đó thì tôi chỉ-thị cho các chiến-hạm chuẩn-bị tấn-công, mỗi chiến-hạm tấn-công một chiến-hạm địch, và bám sát địch trong tầm hải-pháo 40 ly (khoảng 3 cây-số), vì loại hải-pháo này có nhịp tác-xạ cao, dễ điều-chỉnh và xoay hướng nhanh hơn. Tôi không tin-tưởng nhiều vào hải-pháo 127 ly và khả-năng điều-khiển chính-xác của nhân-viên vì hải-pháo chỉ có thể tác-xạ từng phát một, nạp đạn nặng-nề và chậm xoay hướng nên tốt hơn là trực-xạ.
Tất cả các chiến-hạm phải cùng khai-hỏa một lúc theo lệnh khai-hỏa của tôi để tạo sự bất ngờ và sẽ gây thiệt-hại trước cho các chiến-hạm Trung-cộng. Vì tầm quan-sát còn rất hạn-chế, nên từ Tuần-dương-hạm HQ5 không quan-sát được Tuần-dương-hạm HQ16 và Hộ-tống-hạm HQ10 cũng như hai chiến-hạm khác và hai ngư-thuyền ngụy-trang của Trung-cộng nên tôi không rõ các chiến-hạm này bám-sát các chiến-hạm Trung-cộng được bao nhiêu, nhưng tôi đã tin rằng Phân-đoàn II không có bận tâm về việc đổ-bộ nên có nhiều thì-giờ hơn để thi-hành kế-hoạch tấn-công và sẽ dễ-dàng chế-ngự được hai chiến-hạm phụ của địch cùng hai ngư-thuyền. Riêng Tuần-dương-hạm HQ5 và Khu-trục-hạm HQ4 đã nghiêm-chỉnh thi-hành lệnh. Trước khi ban-hành lệnh khai-hỏa tôi lần nữa hỏi các chiến-hạm đã sẵn-sàng chưa và nhấn-mạnh một lần nữa là phải khai-hỏa đồng-loạt để đạt yếu-tố bất-ngờ. Các hạm-trưởng đích-thân trên máy VRC46 lần-lượt báo-cáo sẵn-sàng. Tôi rất phấn-khởi vì giờ tấn-công hoàn-toàn do tôi tự-do quyết-định, không phải lệ-thuộc vào lệnh của thượng-cấp và vào ý-đồ chiến-thuật của địch. Ðịch lúc này đã tỏ ra không có một ý-định gì cản-trở hay tấn-công chiến-hạm ta.
Hải-quân Ðại-Tá Ðỗ-Kiểm, Tham-mưu-phó hành-quân tại Bộ-Tư-lệnh Hải-quân còn đặc-biệt cho tôi hay là có chiến-hạm bạn ở gần, nhưng với sự hiểu-biết của tôi, tôi không có một chút tin-tưởng gì vào đồng-mình này vì kể từ tháng 2 năm 1972 khi Hoa-Kỳ và Trung-cộng đã chấm-dứt sự thù-nghịch nên Hải-quân của họ sẽ không một lý do gì lại tham-dự vào việc hỗ-trợ Hải-quân Việt-Nam trong vụ tranh-chấp về lãnh-thổ. Họa chăng họ có thể cứu-vớt những người sống-sót nếu các chiến-hạm HQVN lâm-nạn. Nhưng thực-tế cho thấy trong suốt cuộc tìm-kiếm những nhân-viên từ Hộ-tống-hạm HQ10 và các toán đã đổ-bộ lên trấn giữ các đảo đã đào-thoát để trở về đất liền, chúng ta không nhận thấy một hành-động nhân-đạo nào từ phía đồng-minh kể cả của phi-cơ không-tuần.
Khoảng 10:24 sáng thì lệnh khai-hỏa tấn-công được ban-hành và tôi vào trung-tâm chiến-báo trực-tiếp báo cáo bằng máy siêu-tần-số SSB, tôi đã cố ý giữ ống nói sau khi tôi chấm-dứt báo-cáo để tiếng nổ của hải-pháo cũng được truyền đi trên hệ-thống này. Cuộc khai-hỏa tấn-công đã đạt được yếu-tố bất ngờ cho các chiến-hạm địch vì tôi cho rằng họ vẫn tin là các hành-động của chiến-hạm cũng tương-tự như trong những vài ngày trước, khi Hải-quân Việt-Nam đổ-quân trên các đảo Cam-tuyền, Vĩnh-lạc và Duy-mộng và nhất là cuộc phô-diễn lực-lượng của hải-đoàn đặc-nhiệm ngày hôm trước Hải-quân Việt-Nam đã không có một hành-dộng khiêu-khích nào, mà còn chấp-thuận giữ liên-lạc bằng quang-hiệu.
Chiếc Kronstad 271 nằm về hướng tây gần đảo Quang-Hòa, hướng mũi về phía tây là mục-tiêu của Tuần-dương-hạm HQ5 đang hướng mũi vào bờ tức là phía đông, đặt mục-tiêu về phía tả-hạm (tức là phía bắc). Chiếc này bị trúng đạn ngay từ phút đầu, vận-chuyển rất chậm-chạp nên đã là mục-tiêu rất tốt cho Tuần-dương-hạm HQ5. Hỏa-lực của chiếc Kronstad 271 này không gây nhiều thiệt-hại cho Tuần-dương-hạm HQ5, nhưng có thể đã gây thiệt-hại nặng cho Hộ-tống-hạm HQ10 nằm về phía bắc. Khu-trục-hạm HQ4 nằm về phía tây-nam của Tuần-dương-hạm HQ5 đặt mục-tiêu là chiếc Kronstad 274 nằm về phía bắc tức là tả-hạm của chiến-hạm. Nhưng chẳng may, HQ4 báo cáo bị trở-ngại tác-xạ ngay từ phút đầu-tiên và phải chờ sửa-chữa. Việc này đã làm đảo lộn các dự-tính của tôi và làm tôi bối-rối. Sau vài phút thì chiến-hạm này xin bắn thử và kết-quả là vẫn bị trở-ngại và cần tiếp-tục sửa chữa thêm, nhưng tôi vẫn còn chút hy-vọng. Khu-trục-hạm HQ4 vài phút sau lại xin tác-xạ thử lần thứ ba nhưng vẫn không có kết-quả, tuy-nhiên chiến-hạm này vẫn phải tiếp-tục bám-sát mục-tiêu của mình trong tầm các loại đại-liên nên đã bị thiệt-hại nhiều bởi hỏa-lực của chiếc Kronstad 274, và đại-liên đã không áp-đảo được hỏa-lực của địch.
Trên Tuần-dương-hạm HQ5, tôi xử-dụng chiếc máy PRC 25 trước ghế hạm-trưởng bên hữu-hạm của đài chỉ-huy để liên-lạc với các chiến-hạm, tôi vừa rời ghế để ra ngoài quan-sát hai phía thì một trái đạn loại nổ mạnh gây một lỗ lủng khoảng nửa thước đường kính và làm nát máy PRC25, nên từ phút này trở đi tôi phải vào tận Trung-tâm chiến-báo để dùng máy VRC46. Hạm-trưởng Tuần-dương-hạm HQ5 đứng cạnh đài chỉ-huy bên tả-hạm với sĩ-quan hải-pháo để dễ quan-sát mục-tiêu được chỉ-định, nên tôi thường nói trực-tiếp với hạm-trưởng tại nơi này. Trung-tâm chiến-báo của chiến-hạm này chỉ quen-thuộc dùng radar vào việc hải-hành, vả lại trời mù, mây thấp, radar có nhiều nhiễu-xạ nên tôi không được rõ về vị-trí của Phân-đoàn II và các chiến-hạm của địch còn nằm trong khu lòng-chảo Hoàng-Sa.
Sau chừng 15 phút thì Tuần-dương-hạm HQ16 báo-cáo là bị trúng-đạn hầm máy, tầu bị nghiêng nên khả-năng vận-chuyển giảm-sút, buộc phải lui ra ngoài vòng chiến để sửa-chữa và cũng không còn liên-lạc được với Hộ-tống-hạm HQ10, không biết rõ tình-trạng và chỉ thấy nhân-viên đang đào-thoát. Tôi nhận thấy một tuần-dương-hạm đã vận-chuyển nặng-nề mà chỉ còn một máy và bị nghiêng, nếu tiếp-tục chiến-đấu thì sẽ là một mục-tiêu tốt cho địch, nên tôi đã không ra phản-lệnh. Ngoài ra, Hạm-trưởng Tuần-dương-hạm HQ16 là một vị sĩ-quan ít tích-cực hơn, nên tôi không mấy tin-tưởng là vị này có thể vượt qua được các khó-khăn kỹ-thuật để cố-gắng tiếp-tục tấn-công. Khu-trục-hạm HQ4 đã bị thiệt-hại nhiều sau khi phải bám-sát chiến-hạm địch trong tầm đại-liên, nên tôi ra lệnh cho Khu-trục-hạm HQ4 phải rút ra khỏi vòng-chiến ngay và chỉ-thị cho Tuần-dương-hạm HQ5 yểm-trợ cho chiếc này khi tiến ra xa, vì tất-nhiên Hải-đội đặc-nhiệm không thể để bị thiệt-hại một khu-trục-hạm mà Hải-Quân VNCH chỉ có tổng-cộng 2 chiếc mà thôi.
Khi khu-trục-hạm HQ4 ra khỏi vùng chiến, lại không bị chiếc Kronstad 274 truy-kích hoặc tác-xạ đuổi theo, ngược lại chiếc này của địch có phần rảnh tay hơn để tấn-công Tuần-dương-hạm HQ5 vào phía hữu-hạm hầu giảm-bớt hỏa-lực của chiến-hạm ta như để cứu vãn chiếc 271 đang bị tê-liệt. Vào giờ này thì tin-tức từ Bộ-Tư-lệnh Hải-quân tại Sàigòn do chính Tham-mưu-phó hành-quân cho hay là một phi-đội khu-trục-cơ F5 đã cất-cánh để yểm-trợ cho Hải-đoàn đặc-nhiệm. Do sự liên-lạc từ trước với Bộ-Tư-lệnh Sư-đoàn I Không-quân tại Ðà-nẵng, tôi hiểu là phi-cơ F5 chỉ có thể yểm-trợ trong vòng 5 tới 15 phút mà thôi vì khoảng-cách từ Ðà-nẵng tới Hoàng-Sa quá xa so với nhiên-liệu dự-trữ. Tôi vẫn tin rằng loan tin việc phi-cơ cất-cánh, Bô-Tư-lệnh Hải-quân đã cho rằng tin này có thể làm cho tôi vững-tâm chiến-đấu. Một điều nữa là từ trước tới giờ phút đó tôi chưa được thấy có cuộc thao-dượt hỗn-hợp nào giữa Không-quân và Hải-quân nên tôi rất lo-âu về sự nhận-dạng của phi-công để phân-biệt giũa chiến-hạm của Hải-quân Việt-Nam và chiến-hạm Trung-cộng, nhất là lúc có mây mù thấp, nên phi-cơ có thể gây tác-xạ nhầm mục-tiêu. Máy VRC 46 trong Trung-tâm chiến-báo phải chuyển sang tần-số không-hải và đích thân tôi dùng danh-hiệu để bắt liên-lạc với phi-cơ. Một viên đạn xuyên-nổ trúng ngay Trung-tâm chiến-báo từ hữu-hạm, sát gần ngay nơi tôi đứng, làm trung-tâm bị phát-hỏa. Các nhân-viên trong trung-tâm còn mải núp sau bàn hải-đồ thì tôi nhanh tay với một bình cứu-hỏa gần chỗ tôi đứng dập tắt ngay ngọn lửa. Tôi bị té ngã vì vấp chân vào bàn hải-đồ, bàn chân trái bị đau mất vài ngày. Tôi vẫn vẫn tiếp-tục liên-lạc với phi-cơ nhưng sau chừng 5 tới 10 phút vẫn không thấy đáp-ứng nên tôi phải ngưng và chuyển tần-số về liên-lạc với các chiến-hạm khác vì cuộc giao-tranh đã đến độ khốc-liệt hơn. Sau phút này thì Tuần-dương-hạm HQ5 bị trúng nhiều đạn làm sĩ-quan trưởng-khẩu 127 ly tử-thương và hải-pháo bị bất-khiển-dụng vì phần điện điều-khiển pháo-tháp tê-liệt, và máy siêu-tần-sớ SSB không còn liên-lạc được vì giây trời bị sập rớt xuống sàn tầu, hiệu-kỳ hải-dội bị rách nát phần đuôi. Tôi ra ngoài quan-sát phía tả-hạm và được nghe báo cáo là hầm-đạm phát-hỏa. Tôi nói ngay với hạm-trưởng là cằn phải làm ngập hầm-đạn. Khẩu hải-pháo 40 ly đơn tả-hạm bị bất khiển-dụng vì bị trúng đạn vào khối nạp-đạn và khẩu 40 ly hữu-hạm bị hư-hại nhẹ. Tôi yêu-cầu hạm-trưởng là chỉ nên cho tác-xạ từng viên mà thôi, vì nhu-cầu phòng-không rất có thể xẩy ra trong một thời-gian ngắn.
Bất thần về phía đông vào khoảng 11:25 sáng cách xa chừng 8 đến 10 hải-lý, xuất hiện một chiến-hạm của Trung-cộng loại có trang bị mỗi bên một dàn phóng kép hỏa-tiễn loại hải-hải (Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm: đây là loại khinh tốc đĩnh Komar) đang tiến vào vùng giao-tranh với một tốc-độ cao, quan-sát được bằng mắt viễn-kính và không một chiến-hạm nào báo-cáo khám-phá được bằng radar từ xa. Tôi dự-đoán loại chiến-hạm này ít khi được điều-động từng chiếc một, và tin là có thể thêm ít nhất một chiếc theo sau. Với tình-trạng của Hải-đội đăc-nhiệm: một hộ-tống-hạm bị loại khỏi vòng-chiến; một tuần-dương-hạm bị thương nơi hầm máy; một khu-trục-hạm và một tuần-dương-hạm chỉ còn hỏa-lực rất hạn-chế; cộng với nguy-cơ bị tấn-công bằng cả hỏa-tiễn hải-hải cũng như bằng phi-cơ rất có thể xẩy ra, nên tôi triệt-thoái phần còn lại của lực-lượng là Khu-trục-hạm HQ4 và Tuần-dương-hạm HQ5 ra khỏi vùng Hoàng-Sa tiến hướng đông-nam về phía Subic Bay (Hải-quân công-xưởng của Hoa-Kỳ tại Phi-luật-tân). Tôi cũng cầu-nguyện Ðức Thánh Trần, Thánh-Tổ của Hải-quân VNCH ban cho tôi một trận mưa để giảm tầm quan-sát và khả-năng tấn-công của phi-cơ địch. Sau khi hai chiến-hạm còn lại rút ra khỏi vùng giao-tranh chừng 10 phút thì một trận mưa nhẹ đã đổ xuống toàn vùng quần-đảo Hoàng-Sa. Các chiến-hạm ta đã không bị truy-kích và phi-cơ địch cũng chưa xuất-hiện. Mục-đích tôi hướng về phía đông-nam là để tránh bị phục-kích của tiềm-thủy-đĩnh Trung-cộng tại hải-trình Hoàng-Sa Ðà-nẵng, và khi ra ngoài xa lãnh-hải thì nếu còn bị tấn-công bằng phi-cơ hoặc tiềm-thủy-đĩnh thì may ra đồng-minh Hải-quân Hoa-Kỳ có thể cấp-cứu chúng tôi dễ-dàng hơn theo tinh-thần cấp-cứu hàng-hải quốc-tế. Nếu chúng tôi không còn bị tấn-công thì việc đến Subic Bay Phi-luật-tân để xin sửa-chữa trước khi hồi-hương là một điều khả-dĩ được thượng-cấp chấp-thuận.
Tuần-dương-hạm HQ5 phải mất gần một giờ mới kéo lên được giây trời khẩn-cấp để tái-lập sự liên-lạc bằng máy siêu-tần-số SSB. Hầm đạn phía mũi của chiến-hạm đã bị làm ngập, mũi bị chúc xuống nên tốc-độ có bị thuyên-giảm. Chính trong thời-gian mất liên-lạc, Bộ Tư-lệnh tại Sàigòn cũng như tại Ðà-nẵng rất bối-rối cho sự an-toàn của hai chiến-hạm và bản-thân tôi. Chính Tư-lệnh Hạm-đội tại Sàigòn cũng đã đưa tin mất liên-lạc đến với gia-đình tôi.
Vào khoảng 01:00 trưa, hai chiến-hạm HQ4 và HQ5 đã cách Hoàng-Sa chừng 10 hải-lý, trời nắng và quang-đãng. Tư-lệnh Hải-quân đích thân ra lệnh cho cả hai chiến-hạm phải trở lại Hoàng-Sa và đánh chìm nếu cần, tôi nhận được giọng nói của Ðô-đốc. Lệnh đã được thi-hành nghiêm-chỉnh ngay tức khắc. Sau khi liên-lạc vô-tuyến siêu-tần-số được điều-hòa trở-lại thì mọi báo-cáo chi-tiết về tổn-thất và tình-trạng lúc bấy giờ của các hai chiến-hạm được chuyển đầy-đủ. Trên Tuần-dương-hạm HQ5 tôi cũng được thông-báo về Tuần-dương-hạm HQ16 sẽ được Tuần-dương-hạm HQ6 tới hộ-tống về Căn-cứ Hải-quân Ðà-nẵng.
Ðến khoảng 02:30 chiều, khi cả hai chiến-hạm đang trở về Hoàng-Sa, quá ngang Hòn Tri-Tôn, nghĩa là còn cách đảo Hoàng-Sa chừng 1 giờ rưỡi hải-hành nữa, thì hai chiến-hạm được phản-lệnh trở về Ðà-nẵng. Lúc này trời đã nắng, mây cao nên rất dễ-dàng cho việc hải-hành. Trong một cuộc đến thăm Tư-lệnh Hải-quân VNCH tại tư-dinh vào khoảng tháng 2 năm 1974, thì vị Ðô-Ðốc này đã tiết-lộ rằng nếu biết được sớm tình-trạng của Hải-đoàn đặc-nhiệm thì Tư-lệnh đã cho lệnh trở về căn-cứ trước sớm hơn. Trên đường về, tôi vẫn ra lệnh cho các chiến-hạm giữ nguyên nhiệm-sở tác-chiến và nhất nhất các nhân viên không ở trong nhiệm-sở phòng máy phải túc-trực trên boong để tránh tổn-thất về nhân-mạng trong trường-hợp bị tiềm-thủy-đĩnh Trung-cộng phục-kích bằng ngư-lôi. Nhưng may-mắn là điều tôi dự-liệu đã không xẩy ra.Các chiến-hạm đã khởi-sự ngay thu-dọn các tổn-thất về vật-liệu và thu-hồi các dư-liệu tác-xạ. Tôi tò-mò mở đài phát-thanh BBC vào sáng sớm ngày 20, thì họ chỉ vỏn-vẹn loan tin một trận hải-chiến đã xẩy ra trong vùng quần-đảo Hoàng-Sa giữa Hải-quân Việt-Nam Cộng-Hòa và Cộng-Hòa Nhân-dân Trung-Hoa, mỗi bên thiệt-hại 1 chiến-hạm và không thêm một chi-tiết nào khác. Tôi tỏ ra khâm-phục đài nay về sự loan-tin nhanh chóng và xác đáng.
Tôi đã không hút thuốc từ nhiều tháng qua, nhưng tôi muốn hút một vài điếu thuốc cho tinh-thần bớt căng-thẳng sau gần 48 tiếng đồng-hồ liên-tục không được nghỉ-ngơi, tôi yêu cầu Hạm-trưởng dùng hệ-thống liên-hợp để loan-báo xem có nhân-viên nào còn thuốc lá cho tôi xin một ít để hút. Tôi không ngờ là các nhân-viên tuần-tự mang đến cho tôi hơn 2 chục bao cả loại trong khẩu-phần C của đồng-minh và các loại thuốc trong thương-trường lúc bấy giờ, tôi lấy làm cảm-động về sự ưu-ái của các nhân-viên trên chiến-hạm này. Vào khoảng 2 giờ đêm tôi soạn-thoản một sơ-đồ hành-quân và các chi-tiết về tổn-thất để chuẩn-bị thuyết-trình khi về tới căn-cứ.
Khoảng 7:00 sáng ngày 20 tháng giêng thì hai chiến-hạm của Phân-đoàn I về tới căn-cứ an-toàn. Tuần-dương-hạm HQ16 cũng đã về bến trước đó ít lâu. Một điều mà các nhân-viên của các chiến-hạm và riêng tôi rất cảm-động là trên cầu Thương-cảng Ðà-nẵng là nơi đã được chỉ-định cho các chiến-hạm cặp bến, đã có sự hiện-diện của các vị Ðô-Ðốc Tư-lệnh và Tư-lệnh-phó HQ VNCH, Ðô-Ðốc Tư-lệnh HQ Vùng I Duyên-hải, một số đông sĩ-quan cùng nhân-viên của các đơn-vị HQ vùng Ðà-nẵng cùng các trại gia-binh đã túc-trực đón đoàn chiến-hạm trở về với rừng biểu-ngữ :
“Hải-quânViệt-Nam quyết-tâm bảo-vệ lãnh-thổ đến giọt máu cuối cùng”.
“Một ý-chí : chống cộng.Một lời thề : bảo-vệ quê-hương”.
“Hoan-hô tinh-thần chiến-đấu anh-dũng của các chiến-sĩ Hải-quân tham-dự Hải-chiến Hoàng-Sa”.
“Hoan-hô tinh-thần bất-khuất của các chiến-sĩ Hải-chiến Hoàng-Sa“.
Sau khi di-tản các chiến-sĩ thương-vong và tử-vong lên căn-cứ thí chỉ có 3 vị Ðô-Ðốc cùng HQ Ðại-tá Nguyễn-viết-Tân Chỉ-Huy-Trưởng Sở Phòng-vệ Duyên-hải lên Tuần-dương-hạm HQ5 và vào phòng-khách của Hạm-trưởng để dự cuộc thuyết-trình về trận đánh. Ba vị Hạm-trưởng đều có mặt để trình bầy chi-tiết về chiến-hạm của mình. Các vị Ðô-đốc cũng không hỏi thêm tôi về những yếu-tố đã đưa đến những quyết-định chiến-thuật của tôi, nhất là quyết-định triệt-thoái phần còn lại của Hải-đoàn đặc-nhiệm ra khỏi vùng Hoàng-Sa. Sau phần thuyết-trình các vị Ðô-Ðốc đã đi quan-sát sự thiệt-hại của các chiến-hạm và úy-lạo nhân-viên các cấp. Tôi cũng được nghe Ðô-đốc Tư-lệnh-phó đề-nghị với Tư-lệnh HQ là sẽ không có thuyết-trình cho Tư-lệnh Quân-đoàn I.
Sau chừng một giờ thì Trung-tướng Tư-lệnh Quăn-đoàn I/Quân-Khu I cũng tới thăm-viếng và được hướng-dẫn quan-sát một vòng các chiến-hạm để nhận-định sự thiệt-hại.
Kết-quả của trận-hải-chiến
Một cách tổng-quát thì sự thiệt hại của hai đối-thủ được kể như tương-đương trong trận hải-chiến. Mỗi bên bị tổn-thất một chiến-hạm, như đài BBC loan tin vào sáng sớm ngày 20 tháng giêng, phía VNCH là Hộ-tống-hạm HQ10, phía Trung-cộng là chiếc Kronstad 271(được coi là chiến-hạm chỉ-huy) còn một số khác thì chịu một sự hư-hại trung-bình hoặc trên trung-bình. Hai chiếc nhỏ hơn 389 và 396 cùng hai ngư-thuyền ngụy-trang theo tôi ước-lượng chỉ hư-hỏng hơi nặng mà thôi vì tầm hỏa-lực của ta trội hơn. Riêng chiếc Kronstad 271 có thể bị tổn-thất nhiều nhân-viên hơn vì trúng nhiều hải-pháo của Tuần-dương-hạm HQ5 vào thương-tầng kiến-trúc, trong khi đó chiếc 274 thì tổn-thất được coi là nhẹ hơn cả vì chỉ bị tấn-công nhiều bằng đại-liên và ít hải-pháo về sau này. Tuy-nhiên trong các trận hải-chiến thì người ta thường kể về số chiến-hạm bị loại khỏi vòng chiến hơn là số thương-vong về nhân-mạng. Riêng trên Hộ-tống-ham HQ10, theo các nhân-viên đã đào-thoát về được đất liền, thì vị Hạm-trưởng và Hạm-phó đều bị thương-nặng, nhưng Hạm-trưởng đã từ-chối di-tản và quyết ở lại tuẫn-tiết cùng chiến-hạm của mình theo truyền-thống của một sĩ-quan hải-quân và một nhà hàng-hải. Hạm-phó được nhân-viên dìu đào-thoát được nhưng đã phải bỏ mình trên mặt biển vì vết thương quá nặng. Vụ này làm tôi nhớ lại, theo lời kể của các bậc tiên-sinh, thì khi hải-quân Pháp hành-quân trên sông (nếu không lầm thì là Sông Ðáy) một chiến-hạm loại trợ-chiến-hạm (LSSL) hay Giang-pháo-hạm (LSIL) đã bị trúng đạn đài-chỉ-huy, làm tử-thương cả hai hạm-trưởng và hạm-phó cùng một lúc, sĩ-quan cơ-khí đã phải lên thay thế tiếp-tục chỉ-huy. Sau kinh-nghiệm này, hải-quân Pháp không cho hạm-trưởng và hạm-phó có mặt cùng một nơi khi lâm-trận. Cá-nhân tôi lúc đó đã không có chút thì giờ để nhớ tới kinh-nghiệm mà các bậc tiên-sinh đã truyền lại tôi mà áp-dụng.
Hoàng Sa Vị Quốc Vong Thân
Một điều lạ là Trung-cộng có đủ khả-năng tuy khiêm-nhượng, vào lúc cuối trận-chiến, vì có thêm tăng-viện đến kịp thời, nhưng đã bỏ rơi cơ-hội truy-kích khi lực-lượng ta triệt-thoái, hay xử-dụng hỏa-tiễn hải-hải vì lực-lượng ta vẫn còn nằm trong tầm hữu-hiệu của loại vũ-khí này. Tôi cho rằng có thể họ đã bận-tâm vào việc cứu vãn chiếc Kronstad 271 và quân bộ trên đảo Quang-Hòa, hoặc họ đã không nhận được lệnh tấn-công, và chỉ đương-nhiên chống-trả tự-vệ mà thôi. Tôi nhận rằng ước-tính của tôi về phản-ứng của địch đã cao hơn như thực-tế đã xẩy ra. Việc Hải-quân Viêt-Nam khai-hỏa tấn-công sau khi thất-bại đổ-bộ đã tạo cho Trung-cộng có nguyên-cớ vì bị tấn-công mà phải hành-động, nên đã dùng cường-lực cưỡng-chiếm các đảo vào ngày sau.
Theo các quân-nhân trú-phòng trên đảo Hoàng-Sa thì sáng sớm ngày hôm sau tức là ngày 20 tháng giêng, Trung-cộng đã huy-động một lưc-lượng hùng-hậu kết -hợp hải-lục-không-quân đổ-bộ tấn-chiếm đảo Hoàng-Sa và các đảo kế-cận mà các chiến-binh hải-quân đang chiếm-giữ. Theo ký-giả Lê-Vinh, một cựu sĩ-quan hải-quân, đã từng đảm-trách chức-vụ thư-ký cũa ủy-ban nghiên-cứu trận hải-chiến cho biết, thì vào thời-gian trận hải-chiến, Hải-quân Hoa-Kỳ đã chuyển cho Hải-quân Việt-Nam một tin-tức về 42 chiến-hạm Trung-cộng với 2 tiềm-thủy-đĩnh đang tiến xuống Hoàng-Sa. Dù nhiều hay ít thì lực-lượng của họ sễ trội hẳn lực-lượng Hải-quân Việt-Nam có thể điều-động tới. Nếu hai chiến-hạm còn lại của Hải-đoàn đặc-nhiệm phải lưu-lại Hoàng-Sa như lệnh ban ra lúc đầu, với khả-năng chiến-đấu đã bị giảm-sút nhiều thì sự bảo-tồn của hai chiến-hạm này rất mong-manh. Thế cho nên phản-lệnh cho hai chiến-hạm phải trở về căn-cứ được kể như là đúng lúc và sát với thực-tế hơn.
Trung-cộng đã bắt giữ tất cả quân-nhân và dân-chính Việt-Nam trên đảo Hoàng-Sa và toán hải-quân đổ-bộ thuộc Khu-trục-hạm HQ4 trên đảo Vĩnh-Lạc (sát phía nam đảo Hoàng-Sa) mà trưởng toán là HQ Trung-Uý Lê-văn-Dũng (sau được vinh-thăng HQ Ðại-Uý tại mặt-trận), làm tù-binh đưa về giam-giữ đầu tiên tại đảo Hải-nam. Riêng ông Kosh là nhân-viên của cơ-quan DAO Hoa-Kỳ tại Ðà-nẵng thì được trao trả cho Hoa-Kỳ sớm nhất tại Hồng-Kông. Còn các nhân-viên Việt đã bị họ nhồi-sọ về chủ-nghĩa của họ trong suốt thời-gian tại Quảng-Ðông, và trao trả về Việt-Nam tại ranh-giới HồngKông và Trung-cộng. Ðô-đốc Tư-lệnh-phó HQ đã được đề-cử đích-thân đến HồngKông tiếp-nhận. Các chiến-sĩ từ Trung-cộng hồi-hương đều được đưa vào Tổng-Y-viện Cộng-Hòa điều-trị về các bệnh-trạng gây ra do các hành-động ngược-đãi trong khi bị giam-cầm trên lục-địa Trung-Hoa.
Thế là cuối cùng thì Việt-Nam Cộng-Hòa đã mất nốt nhóm đảo Nguyệt-Thiềm phía nam của cả quần-đảo Hoàng-Sa cho tới ngày hôm nay.
Các chiến-sĩ Hải-quân đào-thoát từ Hoàng-Sa, sau nhiều ngày trôi-dạt trên mặt biển, một số đã được chính các tuần-duyên-đĩnh của Hải-quân cứu vớt, một số đã được các thương-thuyền trên hải-trình Singapore HồngKông bắt gặp. Tất cả các chiến-sĩ thoát-hiểm được đưa về diều-trị tại các Tổng-y-viện Duy-Tân (Ðà-nẵng) hay Cộng-Hòa, và còn được Thủ-tướng chính-phủ, các vị Tư-lệnh Quân-đoàn, và các vị Ðô-đốc Hải-quân đến thăm hỏi và úy-lạo. Các chiến-sĩ Hải-quân đào-thoát từ Hoàng-Sa, sau nhiều ngày trôi-dạt trên mặt biển, một số đã được chính các tuần-duyên-đĩnh của Hải-quân cứu vớt, một số đã được các thương-thuyền trên hải-trình Singapore HồngKông bắt gặp. Tất cả các chiến-sĩ thoát-hiểm được đưa về diều-trị tại các Tổng-y-viện Duy-Tân (Ðà-nẵng) hay Cộng-Hòa (Sàigòn), và còn được Thủ-tướng chính-phủ, các vị Tư-lệnh Quân-đoàn, và các vị Ðô-đốc Hải-quân đến thăm hỏi và úy-lạo..
Công-cuộc chuẩn-bị tái-chiếm Hoàng-Sa
Khi phần thăm-viếng của thượng-cấp kết-thúc, thì tất cả các chiến-hạm bắt tay ngay vào việc sửa-chữa và tái tiếp tế đan-dược đề chuẩn-bị tấn-kích tái-chiếm Hoàng-Sa. Một toán thợ thượng-thặng của Hải-quân công-xưởng cũng đã được điều-động từ Sàigòn ra để phụ-lực với chuyên-viên của Thủy-xưởng Ðà-nẵng. Riêng Tuần-dương-hạm HQ16, tuy không bị hư-hại nhiều trên thượng-tầng kiến-trúc, nhưng các chuyên-viên đã tháo-gỡ được đần viên đạn đã xuyên lủng hầm máy. Viên đạn này là một loại đạn xuyên-phá và không nổ 127 ly của Tuần-dương-hạm HQ5 bị lạc. Kinh-nghiệm cho thấy là loại đầu đạn không nổ nếu trúng nước thì đạn-đạo sẽ thay đổi rất nhiều vì đầu đạn nhọn bị nước làm chuyển hướng đi rất xa. Tin này do đích thân Tư-lệnh phó Hải-quân mang đến cho tôi. Ðó là một điều không may-mắn cho Hải-đoàn đặc-nhiệm Hoàng-Sa, nhưng trong bất cứ một cuộc chiến-tranh nào, sự nhầm-lẫn về mục-tiêu, về bạn và địch, về vị-trí tác-xạ đều đã xẩy ra ít nhất là tại chiến-trường Việt-Nam. Hơn nữa trong cuộc hải-chiến này, Tuần-dương-hạm HQ5 đã tác-xạ cả trăm đại-pháo 127 ly, mà chỉ có một viên bị lạc, nên vẫn còn là điều may-mắn. Việc chiến-hạm bị trúng 1 viên đạn của bạn cộng với việc hai khẩu hải-pháo 76 ly tự-động trên khu-trục-hạm HQ4 đã bị trở-ngại kỹ-thuật ngay từ phút đầu của cuộc chiến, là hai nhược-điểm chiến-thuật mà Hải-quân VNCH chỉ muốn phổ-biến hạn-chế vào đầu năm 1974 là thời điểm, mà nhiều sự phân-tích đáng tin cho rằng Tổng-Thống Nguyễn-văn-Thiệu đã lợi-dụng biến-cố Hoàng-Sa để tránh-né sự chỉ-trích của các phần-tử đối-lập lúc đó đang rất-mạnh.
Sau ít ngày sửa chữa, thì Tuần-dương-hạm HQ16 chỉ đủ khả-năng tự hải-hành về quân-cảng Sàigòn và được đón-tiếp trọng-thể. Khu-trục-hạm HQ4 không sửa chữa tại chỗ được hai khẩu 76 ly tư-động. Tuần-dương-hạm HQ5, sau khi tái tiếp-tế đạn và hàn vá các hư-hại đã cùng HQ6 ra khơi tìm-kiếm các nhân-viên đào-thoát khỏi vùng Hoàng-Sa. Các phi-cơ C130 đã bay lượn trong một vùng duyên-hải hạn-chế để tránh sự hiểu nhầm về hành-động khiêu-khích của Việt-Nam đối với Trung-cộng. Các phi-cơ hướng-dẫn các chiến-hạm xem xét các vật trôi trên mặt biển nhưng vẫn chưa cấp-cứu được nhân-viên nào ngoại trừ vỏ một thùng xăng dự-trữ . Tôi vẫn có mặt trên Tuần-dương-hạm HQ5 để tham-dự cuộc tìm-kiếm. Riêng hộ-tống-hạm HQ10, vì mất liên-lạc nên tôi đã không biết được tình-trạng cuối cùng của chiến-hạm, nhưng chúng tôi vẫn còn một hy-vọng tuy mong-manh là chiến-hạm này chưa chìm hẳn và có thể trôi dạt về phía duyên-hải miền Trung trong mùa gió đông-bắc.
Với Tuần-dương-hạm HQ6 đã có mặt trong vùng và vừa hoàn-tất hộ-tống Tuần-dương-hạm HQ16 từ nửa đường Hoàng-Sa Ðà-nẵng về bến, cộng với HQ17 (Hạm-trưởng HQ Trung-Tá Trần-đình-Trụ) điều-động từ Trường-Sa tới tăng-cường đã kết-hợp với Tuần-dương-hạm HQ5 thành một Hải-đoàn đặc-nhiệm mới với nhiệm-vụ chuẩn-bị tái-chiếm Hoàng-Sa. Mặc dầu nhiều sĩ-quan thâm-niên hơn tôi có mặt tại chỗ, nhưng tôi vẫn được chỉ-định tiếp-tục chỉ-huy. Một cuộc thao-dượt chiến-thuật và thực-tập tác-xạ đã diễn ra trong vòng một ngày tại vùng một đảo nhỏ nằm về phía bắc vùng Cù-lao Chàm phía đông-nam Ðà-nẵng. Sau cuộc thao-dượt, tôi trình bầy kết-quả việc huấn-luyện trong các buổi thuyết trình hành-quân tại Bộ-Tư-lệnh Hải-quân vùng, vẫn được Tư-lệnh-phó Hải-quân chủ-tọa.
Nhưng cuối cùng thì công-cuộc tái-chiếm Hoàng-Sa được hủy-bỏ. Tuy vẫn được tín-nhiệm để chỉ-huy, nhưng tôi tin rằng cuộc phản-kích tái-chiếm sẽ thất-bại ngoại trừ đó là một chiến-thuật thí-quân nằm trong một chiến-lược cao hơn. Với các tuần-dương-hạm cũ-kỹ (WHEC) xử-dụng trong lực-lượng phòng-vệ duyên-hải Hoa-Kỳ (US Coast guard) từ lâu, được trang-bị vào công-tác tuần-tiễu hơn là để chiến-đấu, vừa chạm-chạp và vận-chuyển nặng-nề, nên khó chống trả lại với các chiến-hạm chiến-đấu tối-tân hơn. Loại này chỉ có một hải-pháo 127 ly, còn 2 hải-pháo 40 ly đã được Hải-quân Việt-Nam đặt thêm vào lái tầu là nơi đã được dùng làm sàn đáp trực-thăng.
Trong thời-gian tại căn-cứ, Tư-lệnh-phó HQ ít nhất đã hai lần tập-hợp nhân-viên tất cả các chiến-hạm có mặt tại chỗ để chỉ-thị không được có hành-động kiêu-ngạo về chiến-tích của Hải-quân VNCH. Ðể làm gương cho tất cả nhân-viên thuộc quyền, tôi đã giữ một thái-độ rất khiêm-nhượng và im-lặng. Tôi chưa bao giờ thảo-luận hoặc trình bày chi-tiết với bất cứ một ai hay một tổ chức nào, về những yếu-tố đã đưa đến các quyết-định chiến-thuật của tôi trong trận đánh.
Tôi lưu-lại Vùng I duyên-hải chừng hơn một tuần-lễ, đã được cùng Phó Ðề Ðốc Tư-lệnh HQ vùng I Duyên-hải xuất-hiện trên đài chỉ-huy cũng của Tuần-dương-hạm HQ5 để thực-hiện một phóng-sự cho đài truyền-hình quân-đội. Sau đó tôi trở về nhiệm-sở chính tại Sàigòn. Tôi còn được đến phòng thâu-hình của quân-đội cùng các vị hạm-trưởng và một vài hạ-sĩ-quan trưởng pháo-khẩu để trình bầy các chiến-tích. Tuy nhiên tôi không đề-cập nhiều chi-tiết và nhường lời lại nhiều hơn cho các hạm-trưởng vì tôi nghĩ rằng các vị này đáng được đề-cao vì đã đích-thân huy-động tinh-thần nhân-viên và can-dảm trực-tiếp chiến-đấu. Ít lâu sau tôi phải theo học Khóa Chỉ-huy Tham-mưu đặc-biệt tại Long-Bình, đặc-biệt vì khóa gồm nhiều các sĩ-quan đang đảm-trách những vai-trò then-chốt của quân-lực và các đại-đơn-vị. Khi Phó-Ðề-đốc Phụ-tá hành-quân biển của Tư-lệnh-Hải-quân đến thuyết trình tại trường về tổ-chức của Hải-quân Việt-Nam, thì một câu hỏi đầu-tiên của khóa-sinh là về hải-chiến Hoàng-Sa. Ðô-đốc đã chuyển câu hỏi này cho tôi đang ngồi trong hội-trường, quả thật vị này đã trao cho tôi một trái banh khó đỡ. Tôi đáp lại câu hỏi vỏn-vẹn ngay là: Các quí-vị đã nghiên cứu về trận đánh Ấp-Bắc, thì trận hải-chiến Hoàng-Sa cũng gần tương-tự. Sau câu trả lời của tôi thì không một câu hỏi nào về trận Hoàng-Sa được nêu ra thêm. Xin ghi thêm vào nơi này, trận Ấp-Bắc đã làm cho quân-lực bị bất ngờ về chiến-thuật cửa địch, có sự sai lầm về ước-tính tình-báo và nhầm-lẫn về chiến-thuật điều-quân.
Vào những năm tháng cuối cùng của cuộc-chiến Việt-Nam tôi được biệt-phái giữ chức-vụ Phụ-Tá Hải-quân cho Trung-tướng Chỉ-Huy-trưởng Trường Chỉ-huy Tham-mưu Liên-quân đồn-trú tại Long-Bình.
Phần sau trận hải-chiến
Sau trận hải-chiến, Hải-quân được nhiều vinh-danh nhờ trận-chiến đã nêu cao và nối-tiếp được tinh-thần chống bắc-xâm của dân-tộc. Trận hải-chiến được liên-tục ca-ngợi hàng ngày trên các phương-tiện truyền-thông của quân-đội cũng như ngoài dân-sự để thêm vào với: Bình-long anh-dũng, Kontom kiêu-hùng v.v….
Hoàng-Trường-Sa với Việt-Nam là một
Cũng nhờ trận hải-chiến mà phần đông nhân-dân Việt-Nam mới được biết đến phần lãnh-thổ nằm xa vời trong Biển-Ðông mà Hải-quân VNCH từ ngày thành-lập đã âm-thần bảo-vệ và tuần-tiễu.
Nói về trận hải-chiến, dù Hải-quân VNCH giả thử có thắng được trận ngày đầu, thì chúng ta khó lường được sự tổn-thất nếu Hải-quân còn ở lại để cố-thủ Hoàng-Sa. Phó Ðề-Ðốc Chủ-tịch Ủy-Ban nghiên-cứu về trận hải-chiến khi vị này đích thân thăm-viếng Khu-trục-hạm HQ4, khi đang nằm trong ụ lớn sửa chữa đã nói riêng với tôi: thế là vừa đủ, ý của vị này nói là không nên tiếp-tục chiến-đấu thêm ít nhất là vào thời-điểm đó Hải-quân còn phải đảm-nhận nhiều công-tác tiễu-trừ cộng-sản trong đất liền. Ðó là chưa kể việc tấn-chiếm phần còn lại của quần-đảo Hoàng-Sa có thể đã nằm trong các đường lối đi-đêm chiến-lược của các cường-quốc. Tôi nghĩ rằng nếu chiếc khu-trục-hạm HQ4 không bị trở-ngại kỹ-thuật và trận-chiến đã xẩy ra gần như tôi đã dự-liệu và mong-muốn, nghĩa là ta thắng trận đầu, thì cường-lực hải-lục-không quân của chúng huy-động ngày hôm sau không những đủ sức tràn ngập quân trú-phòng và lại còn đủ sức truy-kích Hải-quân VNCH trong một vùng rộng lớn hơn. Tôi đã tin-tưởng rằng Quân-đoàn I/Quân-khu I đã phải đặt trong tình-trạng báo-động đề-phòng sự tấn-công của Trung-cộng ngay sau khi trận hải-chiến diễn ra. Một phi-tuần chiến-đấu-cơ F5 của Sư-đoàn I Không-quân tại Ðà-nẵng đã sẵn-sàng trên phi-đạo nhưng không được lệnh cất cánh từ cấp cao để yểm-trợ cho Hải-quân vì có thể là e-ngại sẽ châm ngòi cho một cuộc chiến mới, hoặc chỉ hạn-chế trận-chiến tới mức có thể chấp-nhận được trong một thế chính-trị.
Một lần nữa, giả-dụ rằng ta cứ để Trung-cộng có mặt trên đảo Quang-Hòa, trận hải chiến đã không xẩy ra thì chúng ta vẫn có thể tiếp-tục hiện-diện trên đảo Hoàng-Sa, tuy nhiên có thể phải trải thêm quân trên các đảo Cam-Tuyền, Vĩnh-Lạc và Duy-Mộng, để tránh sự lấn-chiếm, cộng thêm là Hải-quân Việt-Nam phải thường-xuyên tuần-tiễu với một hải-đoàn tương-đối mạnh. Nhưng dần dà họ cũng sẽ lấn chiếm theo kế hoạch bành trướng thế lực của họ trong vùng Ðông Nam Á. Có thể Trung-cộng đã trả đũa hay dập theo khuôn-mẫu Việt-Nam Cộng-Hòa khi ta đã đặt quân trú-phòng trên đảo Nam-Yết và Sơn-Ca nằm phía nam và đông cùng trên một vòng-đai san-hô với đảo Thái-Bình, đã bị Trung-Hoa Dân-quốc (Ðài-Loan) chiếm-đóng từ khi Nhật-Bản thua trận đệ-nhị thế-chiến. Người Trung-Hoa dù là lục-địa hay hải-đảo, đã từng nhiều lần tuyên-bố là lãnh-thổ của họ, không những vùng này mà thôi mà cả toàn vùng Hoàng-Sa Trường-Sa. Phải thành-khẩn mà nhận rằng, khi Việt-Nam Cộng-Hòa đặt quân trú-phòng trên các đảo còn bỏ trống trong vùng Trường-Sa như Nam-Yết, Sơn-Ca, Song-Tử-đông, Song-Tử-tây, Trường-Sa v.v.., chúng ta đã không gặp một hành-động đối-kháng về quân-sự nào từ phía Trung-Hoa Dân-quốc hoặc Phi-Luạt-Tân hay Mã-Lai-Á.
Một suy-luận nữa là có thể trận hải-chiến là một cuộc điều-chỉnh sự nhường quyền chiếm-giữ từ một nhược-tiểu đến một cường-quốc theo một chiến-lược hoàn-cầu mà vài cường-quốc đã ngầm thỏa-thuận trước. Chúng ta có thể nhớ lại cuộc tấn-công hùng-hậu của Anh-quốc trong cuộc tranh-chấp đảo Falkland (Nam Mỹ-Châu) vào thập-niên 80, mà Á-căn-đình (Argentina) vẫn luôn coi như lãnh-thổ của họ. Họ đã chiến-đấu mạnh-mẽ trên mặt ngoại-giao và buộc phải chiến-đấu trên mặt quân-sự sau khi ngoại-giao thất-bại. Về mặt quân-sự, họ biết trước là khó chống lại Anh-quốc với lực-lượng khá dồi-dào, nhưng họ đã phải chiến-đấu trong khả-năng của họ, họ biết tự kiềm-chế cường-độ chiến-tranh để giảm-thiểu tổn-thất. Kết-quả là đảo Falkland đã về tay Anh-quốc. Tuy đảo Falkland rộng lớn hơn về diện-tích và nguồn-lợi cũng như dân-số, quân-lực hai đối-thủ đưa vào cuộc đụng-độ hùng-hậu hơn, mức-độ chiến-tranh nặng hơn, nhưng hai trận Falkland và Hoàng-Sa đã gần tương-tự nhau về tính-chất của một cuộc chiến.
Người Pháp, trong chiến-tranh tại Ðông-dương sau 1945, vì chiến-cuộc gia-tăng tại nội-địa, đã phải bỏ-ngỏ hoàn-toàn nhóm đảo Tuyên-đức phía bắc, và bỏ-ngỏ nhóm Nguyệt-thiềm phía nam trong vài năm. Riêng nhóm Tuyên-đức phía bắc đã do Trung-Hoa Dân-quốc cưỡng-chiếm trong ít lâu, nhưng sau đó họ đã phải rút về vì sự thất-trận củu họ trong lục-địa. Về sau, hiệp-định Balê 1954 lại đề ra khu phi-quân-sự dọc theo vĩ-tuyến 17, đã làm cho Việt-Nam Cộng-Hòa đã không thể tích-cực hiện-diện tại nhóm Tuyên-Ðức bắc đảo Hoàng-Sa thuộc nhóm Nguyệt-thiềm.
Xét về sự phòng-thủ, so sánh với đảo Thái-Bình trong vùng Trường-Sa thì thế bố-trí trên đảo Hoàng-Sa của VNCH đã thua kém rất xa, và không thể đủ sức để cố-thủ chống lại một cuộc cường-kích thủy-bộ. Trên đảo không có công-sự nặng, chỉ có khỏang một trung-đội địa-phương-quân với vũ-khí cá-nhân và một vài quan-sát viên khí-tượng. Trong khi đó Ðảo Thái-Bình, khi Nhật chiếm-đóng trong đệ-nhị thế-chiến, họ đã xây-cất nhiều công-sự nặng. Sau này khi Trung-Hoa dân-quốc (Ðài-Loan) chiếm-đóng, chắc-chắn họ đã tăng-cường mọi cơ-cấu phòng-thủ, lại có trang-bị các khẩu đại-pháo chống chiến-hạm, đưa quân-số trú-phòng có thể tới cấp hơn tiểu-đoàn và do một vị Ðại-tá Thủy-quân lục-chiến chỉ-huy.
Ngoài ra việc tuyên-bố chủ-quyền của Trung-cộng trên cả hai quần-đão Hoàng-Sa và Trường-Sa được nhận-xét chỉ diễn ra sau cuộc thăm-viếng Trung-cộng của Ngoại-trưởng Hoa-Kỳ Kissinger. Ít nhất là Hoa-Kỳ và Trung-cộng đã ngầm có nhiều thỏa-thuận về chiến-lược hay ít nhất cũng đồng-ý là Hoa-kỳ sẽ không can-thiệp vào các hành-động của Trung-cộng trong vùng. Ðối với Việt-Nam Cộng-Hòa, Hoa-Kỳ đã không muốn can-dự vào sự bảo-vệ lãnh-thổ. Trong ngày hải-chiến thì các đối-tác-viên tại Bộ-Tổng-Tham-mưu đã khẳng-định đó là công chuyện riêng của Việt-Nam .
Quan-niệm của Hoa-Kỳ trong việc mở-rộng lưc-lượng Hải-quân chỉ là vừa đủ để hành-quân yểm-trợ hỏa-lực và ngăn-chặn trong vùng sông-ngòi và duyên-hải mà thôi. Cộng-cuộc xây-cất một hệ-thống thám-báo liên-tục từ Bến-Hải đến Vịnh Thái-lan là một công-tác cao, cả về kỹ-thuật lẫn tài-chánh với mục-tiêu duy-nhất là kiểm-soát hữu-hiệu sự xâm-nhập lén-lút bằng đường-biển của cộng-sản Bắc-Việt vào vùng duyên-hải. Việc viện-trợ hai chiếc khu-trục-hạm, vì là loại tấn-công, nên sau 1973 họ đã nhiều lần đòi tháo gỡ máy dò tiềm-thủy-đĩnh như đã trình-bầy, làm như vậy là sẽ giảm khả-năng của loại này một nửa. Vũ-khí tấn-công trên mặt biển và trên không của khu-trục-hạm là hai dàn hải-pháo 76 ly tự-động với nhịp tác-xạ khỏang 60 viên một phút. Với hỏa-lực tấn-công mạnh-mẽ như vậy, Hải-quân Hoa-Kỳ, vào những năm cuối của cuộc chiến, song-song với kế-hoạch rút lui, đã không bỏ sót cơ-hội cắt đứt hay ít nhất cũng trì-hoãn việc tiếp-tế cơ-phận thay-thế cho loại hải-pháo tối-tân này.
Sau trận hải-chiến, để nêu gương hy-sinh của các chiến-sĩ bỏ mình trên đại-dương, Bộ-Tư-lệnh HQ đã có nghiên-cứu một kiến-trúc dự-định xin phép Ðô-thành Saigòn Chợ-lớn xây cất trong khu-vực cột-cờ Thủ-Ngữ bên sông Sàigòn. Riêng Hội-đồng Ðô-thành đã đồng-ý trên nguyên-tắc là sẽ có một đường-phố mang tên Ngụy-văn-Thà. Một buổi lễ kỷ-niệm lần thứ nhất trận hải-chiến Hoàng-Sa đã được tổ-chức vào ngày 19 tháng giêng năm 1975 do Tư-lệnh Hải-quân, Ðề-Ðốc Lâm-ngươn-Tánh chủ-tọa nhưng tôi không được thông-báo để đến tham-dự.
Hàng năm cứ mỗi Tết nguyên-đán đến, dù vào tháng giêng hay không, tôi luôn luôn có ít phút tưởng-niệm dành cho các liệt-sĩ đã hy-sinh và cũng tưởng nhớ tới chiến-sĩ đã anh-dũng cùng tôi chiến-đấu trong trận-hải-chiến Hoàng-Sa, mà số đông đang lưu-lạc trong vùng đất tự-do. Họ là những anh-hùng đã xả-thân để bảo-vệ lãnh-thổ của tiền-nhân xây-dựng từ bao thế-kỷ. Mong rằng tài-liệu này sẽ mang lại niềm hãnh-diện cho toàn-thể các chiến-sĩ Hải-quân đã tham-dự trận đánh mà tôi đã có vinh-dự chỉ-huy.
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 5 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Cho tôi xin ngậm ngùi
Bao người đã nằm xuống
Cho tôi xin khóc thương
Những dân mình ra biển
Cho tôi xin nụ cười
Huynh đệ vẫn bên nhau
Cho tôi xin mảnh đất
Quê hương đã không còn
Cho tôi xin màu cờ
Tổ quốc vẫn còn đây
Cho tôi xin nằm cạnh
những chiến hữu của tôi
HL22
Bái thơ ý nghĩa rất thâm sâu và bao quát rộng rãi nhiếu vấn đề canh cánh bên lòng mà người trai VNCH chưa chu tròn việc nước. Cám ơn bạn đã khơi dậy niềm tự hào là người lính năm xưa và tình huynh đệ chi binh.
The Following 4 Users Say Thank You to laongoandong For This Useful Post:
CHUẨN TƯỚNG TRẦN QUANG KHÔI : 5 NGÀY CUỐI CÙNG CỦA CUỘC CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Tình hình vào hạ tuần tháng 4/75 biến chuyển dồn dập. Áp lực địch ở mặt trận phía Đông ngày càng nặng, tôi được Quân Đoàn tăng cường Trung Đoàn 8/SĐ5BB do Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng chỉ huy. Lực lượng địch và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III giằng co dữ dội trên tuyến Hưng Lộc, Ngã Ba Dầu Giây. Tôi buộc phải sử dụng hai quả bom CBU 55 của Không Quân Biên Hòa để chận đứng địch và giải cứu Chiến Đoàn 52/SĐ18-BB của Đại Tá Dũng khỏi bị tiêu diệt. Ở Sài Gòn có âm mưu lật đổ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, tôi được móc nối đảo chánh nhưng cương quyết từ chối và tuyên bố chống lại. phi trường Biên Hòa đóng cửa
Ngày 20/4-75 SĐ18BB của Tướng Lê Minh Đảo rút bỏ Xuân Lộc về Long Bình. Ngày 21/4/1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức. Ngay ngày hôm sau, tại mặt trận, tôi viết thư cho Trung Tướng Charles Timmes, phụ tá Đại Sứ Martin ở Sài Gòn, đại ý nói: “Thưa Trung tướng, trong khi tôi đang ngăn chận các sư đoàn Cộng Sản ở đây thì cũng là lúc quốc hội Hoa Kỳ đang thảo luận có nên tiếp tục viện trợ thêm 300 triệu Mỹ kim cho Quân Lực VNCH không? Tình hình gần như tuyệt vọng. Tôi nghĩ rằng cho dù ngay bây giờ quốc hội Hoa Kỳ có chấp thuận viện trợ cho quân lực chúng tôi đi nữa thì cũng đã quá muộn rồi. Tuy nhiên tôi và toàn thể quân nhân các cấp thuộc quyền tôi nguyện sẽ chiến đấu đến phút cuối cùng. Tôi chỉ xin Trung Tướng giúp cho gia đình tôi được di tản đến một nơi an toàn…”
Sau khi SĐ18BB được nghỉ 5 ngày bổ sung quân số và dưỡng quân, ngày 25/4/1975 Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III điều động đơn vị này lên mặt trận Trảng Bom, Hưng Lộc, Ngã Ba Dầu Giây để thay thế Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III được rút về Biên Hòa dưỡng quân. Trung Đoàn 9/SĐ5BB được hoàn trả về hậu cứ ở Lai Khê. Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III trở thành lực lượng trừ bị Quân Đoàn.
Về tới Biên Hòa chưa kịp nghỉ ngơi, ngay chiều ngày 25/4/1975, có tin lực lượng địch chiến trường ???) Thiết Giáp và tiến ra hướng Quốc Lộ 15. Có lệnh Quân Đoàn, tôi liền phái Chiến đoàn 322 tăng cường 1 Tiểu đoàn TQLC do Trung Tá Nguyễn Văn Liên chỉ huy tấn công theo hướng Ngã Ba Long Thành và trường Thiết Giáp. Chiến đoàn vừa rời Quốc Lộ 15 tiến về hướng trường Thiết Giáp, thì chạm địch nặng và giao tranh dữ dội với chúng đến khuya, bắn cháy 12 chiến xa T-54 buộc chúng phải rút vào bên trong. Chiến thắng này làm nức lòng toàn dân ở Biên Hòa. Sau khi kiểm soát kết quả trận đánh, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân đoàn III hứa sẽ thưởng 1,200,000 đồng cho các chiến sĩ có công diệt chiến xa địch, mỗi chiếc hạ được 100,000 đồng.
Ngày 29/4/1975 có lệnh mới của Quân Đoàn. Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III ngoài Liên đoàn 33 BĐQ, được tăng phái thêm: Lữ đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến, Lữ đoàn 4 Nhảy Dù (1 Tiểu đoàn) và Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, yểm trợ hỏa lực trực tiếp có: Tiểu đoàn 46 PB-155ly và Tiểu đoàn 61 PB-106 ly Quân Đoàn.
12 giờ trưa ngày 29/4/1975, Trung Tướng Toàn triệu tập một phiên họp khẩn cấp tại Bộ Tư Lệnh SĐ18BB ở Long Bình. Chỉ có Toàn, Đảo và tôi. Anh chỉ tay lên bản đồ ra lệnh cho SĐ18BB của Đảo phòng thủ khu vực Long Bình và kiểm soát xa lộ Biên Hòa, kế đó ra lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III của tôi phòng thủ bảo vệ thành phố Biên Hòa và đặt lực lượng Địa Phương Quân (ĐPQ) và Nghĩa Quân (NQ) của Tiểu Khu Biên Hòa dưới quyền kiểm soát của tôi. Sau này đi tù, tôi mới biết ngay lúc này phía bên khu vực SĐ25BB ở Củ Chi đã bị địch chiếm, SĐ25BB đã bị đánh tan và Tướng Lý Tòng Bá đã bị địch bắt. Nguyễn Văn Toàn giấu tôi và Lê Minh Đảo tin xấu này. Anh chuẩn bị sắp xếp để bỏ trốn.
Vừa nhận nhiệm vụ xong, tôi chợt thấy xuất hiện Đại Tá Hiếu, Trung đoàn Trưởng Trung đoàn 43/SĐ18BB với giọng run run xúc động, Hiếu báo cáo: quân địch đang tấn công Trảng Bom và Trung đoàn 43BB đang rút quân về hướng Long Bình, mặt Đảo cau lại, Toàn nổi giận la hét Hiếu bắt Hiếu phải đem quân trở lại vị trí cũ, Hiếu làm như tuân lệnh, chào và lui ra. Trong thâm tâm tôi, tôi biết là mặt trận phía Đông Biên Hòa ở Trảng Bom của SĐ18BB khó có thể cầm cự nổi vì SĐ18BB đã bị kiệt sức sau trận đánh lớn ở Xuân Lộc không được bổ sung. Sự sụp đổ chỉ là vấn đề thời gian. Giao nhiệm vụ cho tôi và Đảo xong, Toàn đứng dậy bắt tay hai chúng tôi và nói: “Hai anh cố gắng, tôi sẽ bay về Bộ Tổng Tham Mưu xin yểm trợ cho hai anh.” Xoay qua tôi, anh nói tiếp: Còn số tiền thưởng 1,200,000, tôi sẽ cho người mang đến Lữ đoàn.” Đấy là những lời nói cuối cùng của Tư Lệnh Quân Đoàn III.
Về đến Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III, tôi liền họp các Lữ đoàn Trưởng, Liên đoàn Trưởng, Chiến đoàn Trưởng, và các Đơn Vị Yểm Trợ. Tiểu Khu Trưởng và Tiểu Khu Phó Biên Hòa đã bỏ trốn từ mấy ngày trưc. Trước hết, tôi ban hành lệnh thiết quân luật ở Biên Hòa kể từ 15 giờ 00 ngày 29/4/1975, chỉ thị cho các đơn vị ĐPQ và NQ chung quanh thị xã Biên Hòa bố trí tại chỗ, ở đâu ở đó, không được rời vị trí, không được di chuyển. Cảnh sát Biên Hòa chịu trách nhiệm an ninh bên trong thành phố. Triệt để thi hành nguyên tắc nội bất xuất, ngoại bất nhập. Để phòng thủ bảo vệ thành phố Biên Hòa, tôi phối trí Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III như sau:
Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù: Bố trí trong khu phi trường Biên Hòa, giữ mặt Bắc BTL/Quân đoàn III.
Lữ đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC): 1Tiểu đoàn bảo vệ BTL/Quân đoàn III, 1Tiểu đoàn bố trí phòng thủ mặt Nam BTL/Quân đoàn III.
Lữ đoàn 4 Nhảy Dù (1Tiểu đoàn): Tổ chức phân tán thành nhiều tiểu đội chiến đấu nhỏ, giữ Cầu Mới và Cầu Sắt Biên Hòa, và đặt các nút chận trên đường xâm nhập vào thành phố Biên Hòa.
Chiến đoàn 315: Bố trí án ngữ từ ngã Tý Lò Than đến ngã Tư Lò Than (gần trại Ngô Văn Sáng).
Chiến đoàn 322: Bố trí án ngữ từ ngã tư Lò Than đến cổng phi trường Biên Hòa (trừ bị 1).
Chiến đoàn 318: Bố trí án ngữ từ cổng phi trường Biên Hòa đến Cầu Mới Biên Hòa (trừ bị 2).
Pháo Binh: Kế hoạch yểm trợ hỏa lực.
BTLLĐ3KB/Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III: Đặt tại tư dinh Tư Lệnh Quân Đoàn III.
Vào khoảng 15 giờ 00 ngày 29/4/1975, tôi đang ăn cơm trưa với Bộ Tham Mưu trong tư dinh Tư Lệnh Quân Đoàn, thì thình lình chiếc trực thăng chỉ huy của Tướng Toàn đáp xuống bãi đáp trong vườn hoa tư dinh bên cạnh chiếc trực thăng chỉ huy của tôi. ThiếuTá Cơ (phi công) vào chào tôi và báo cáo cho tôi biết. Sau khi rời Long Bình, Cơ đưa Tướng Toàn và bộ hạ ra Vũng Tàu, nơi đó anh thấy có các Tướng Lãm và Hiệp chờ Tướng Toàn, rồi cả 3 người cùng đi bằng tàu đánh cá ra Hạm Đội Mỹ ở ngoài khơi. Tin Toàn bỏ trốn không làm tôi ngạc nhiên. Anh Cơ xin được ở lại làm việc với tôi. Tôi đồng ý vì đơn vị trực thăng của anh giờ này không còn ở Biên Hòa nữa.
Lúc 17 giờ 00 ngày 29/4/1975, tôi dùng xe Jeep có hộ tống đi một vòng quan sát tình hình trong và chung quanh thành phố Biên Hòa. Tình hình chung có vẻ yên tĩnh, dân chúng không ra đường, phố xá đóng cửa. Vào khoảng 18 giờ 00, quân cộng sản bắt đầu xâm nhập vào mặt Bắc và Đông Bắc thành phố từ hướng phi trường đụng với quân Biệt Cách Dù và TQLC. Giao tranh bắt đầu, 1 cánh quân BĐQ của Chiến đoàn 315 cũng đụng địch ở gần trại Ngô Văn Sang. Địch bám sát vào tuyến phòng thủ mặt Bắc và Đông Bắc của quân ta. Hai bên bám trận địa nằm cách nhau 10-15 mét. Cho đến giờ phút này, quân ta chiến đấu vững vàng tự tin. Không có tình trạng bỏ ngũ. Dưới sự yểm trợ mạnh mẽ của hỏa lực Thiết Giáp, quân ta đẩy địch ra xa tuyến phòng thủ.
Lúc 20 giờ 00 tôi gọi trại Phù Đổng ở Sài Gòn. Nơi đây là Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp và là nơi Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III vừa đặt bản doanh. Có trả lời nhưng không một ai có thẩm quyền để nhận báo cáo của tôi hoặc liên lạc với tôi. Tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, không có cách gì liên lạc được. Tôi nóng lòng chờ lệnh của Sài Gòn. Tôi tự hỏi Đại Tướng Dương Văn Minh, tân Tổng Thống, Tổng Tư Lệnh Quân Đội có giải pháp gì không? Có lệnh gì mới cho chúng tôi không?
Đến 22 giờ 10 có chuông điện thoại reo, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có gọi tôi ở đầu giây: “Tôi là Trung Tướng Có đây, tôi đang ở bên cạnh Đại Tướng, anh cho chúng tôi biết tình hình ở Biên Hòa như thế nào?” Thưa Trung Tướng, tôi giữ thị xã Biên Hòa, Lê Minh Đảo giữ Long Bình, Toàn đã bỏ chạy, phi trường Biên Hòa địch chiếm, áp lực địch rất nặng ở hướng Bắc và Đông Biên Hòa.” 1, 2, 3 phút trôi qua, ở đầu giây, Tướng Có nói tiếp ” “Đại tướng hỏi anh có thể giữ vững Biên Hòa đến 08 giờ 00 sáng mai, để Đại tướng nói chuyện với bên kia được không?” Tôi trả lời không do dự ” Được, tôi có thể giữ vững Biên Hòa đến 08 giờ 00 sáng mai.” Trong máy điện thoại, tôi nghe văng vẳng tiếng nói của Tướng Có báo cáo lại với Đại tướng Minh. Cuối cùng Tướng Có nói: “Lệnh của Đại tướng cho anh: Chỉ huy phòng thủ bảo vệ Biên Hòa đến 08 giờ 00 sáng ngày 30/4/1975. Chúc anh thành công.” Tôi đáp nhận.
Vào khoảng 23 giờ 45 khuya, địch bắt đầu pháo dữ dội vào thị xã Biên Hòa, chúng tập trung một lực lượng hỗn hợp bộ binh chiến xa cấp Trung đoàn từ Ngã Ba Hố Nai – Xa Lộ tấn công về hướng Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III. Chiến đoàn 315 của Trung Tá Đỗ Đức Thảo xông ra chận địch. Hỏa lực chiến xa M-48 của ta áp đảo địch. Giao tranh quyết liệt. Một số chiến xa địch bị bắn cháy. Địch rút lui.
Lúc 02 giờ 00 sáng ngày 30/4/1975, Tướng Lê Minh Đảo gọi tôi ở đầu máy PC-25: “Báo anh hay tôi bị quân địch tràn ngập, Long Bình đã bị chúng chiếm.” Tôi liền hỏi: “Anh hiện giờ ở đâu? Có cần gì tôi không?” Đảo đáp: “Tôi hiện ở gần Nghĩa trang Quân Đội, đang rút đi về hướng Thủ Đức.” Tôi cảm thấy đau buồn và tội nghiệp Lê Minh Đảo vô hạn. Những năm cuối cùng của cuộc chiến, tôi và Đảo rất vất vả. Hai chúng tôi có mặt ở khắp các mặt trận, vì Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III của tôi là lực lượng cơ động số 1, và SĐ18BB của Đảo là lực lượng cơ động số 2 của Quân Đoàn. Trong tù, bọn cán bộ cộng sản rất để ý đến hai chúng tôi vì đã gây cho chúng rất nhiều tổn thất nghiêm trọng và chúng coi hai chúng tôi là hai tên chống cộng “điên cuồng” nhất.
Vào khoảng 03 giờ 30 sáng, địch lại pháo vào Biên Hòa, lần này chúng pháo rất mạnh và chính xác. Tôi đoán chúng định tấn công dứt điểm Biên Hoà sau khi đã chiếm được Long Bình. Tôi chuẩn bị sẽ tung cả 3 Chiến đoàn Thiết Giáp vào trận đánh quyết định, nhưng thật bất ngờ, chúng vừa xuất hiện 1 đoàn chiến xa dẫn đầu, bộ binh theo sau, liền bị Chiến đoàn 315 đánh chận đầu và bọc sườn, chúng bèn rút chạy ngược ra xa lộ. Kể từ đó, thị xã Biên Hòa trở nên yên tĩnh.
Đúng 08 giờ 00 sáng ngày 30/4/1975, tôi cố gắng gọi về Bộ Tổng Tham Mưu để liên lạc với Trung Tướng Nguyễn Hữu Có nhưng không được. Tôi liền họp các Lữ đoàn Trưởng, Liên đoàn Trưởng, Chiến đoàn Trưởng, và các Đơn vị trưởng Yểm Trợ. Chúng tôi trao đổi tin tức và thảo luận tình hình ở mặt trận, tình hình trong thành phố Biên Hòa. Áp lực địch bên ngoài không còn nữa. Chung quanh bên ngoài thị xã, chỉ có hoạt động lẻ tẻ của du kích, bên trong thành phố vắng vẻ. Đặc biệt đêm qua, tôi có cho tăng cường canh giữ nhà giam Biên Hòa. Không có tình trạng dân chúng xuống đường hô hào ủng hộ cộng sản. Tôi sung sướng nhất là thấy tinh thần của chiến sĩ ta rất tốt, không có tình trạng đào ngũ. Tuyệt nhiên cũng không có tình trạng hãm hiếp cướp bóc trong thành phố, các sĩ quan thi hành quân lệnh nghiêm chỉnh. Trong đêm qua có nhiều tốp lính bạn thuộc SĐ18BB rã ngũ định chạy qua thành phố, tôi ra lệnh chận lại, đuổi họ trở ra, cương quyết không cho vào thành phố đang giới nghiêm vì sợ có tình trạng gây mất tinh thần rã ngũ giây chuyền như đã xảy ra ở miền Trung trước đây.
Bây giờ là 08 giờ 30 ngày 30/4/1975, tôi kết luận buổi họp: “Biên Hòa không còn là mục tiêu tấn công của địch nữa. Tôi nghĩ rằng giờ này các lực lượng chủ lực cộng sản BV đang tập trung tấn công Sài Gòn. Rõ ràng chúng bỏ Biên Hòa, dồn lực lượng đánh vào Thủ Đô. Chúng ta mất liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu. Bây giờ tôi quyết định kéo toàn bộ Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III về tiếp cứu Sài Gòn.” Tất cả các Đơn vị trưởng ủng hộ quyết định này của tôi.
Tôi liền ban hành Lệnh Hành Quân và điều động Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III tiến về Sài Gòn theo kế hoạch sau đây: Lấy đường xe lửa Biên Hòa-Sài Gòn và xa lộ Đại Hàn làm hai trục tiến quân chính.
a) Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù + Lữ đoàn 4 Nhảy Dù (1 Tiểu đoàn) do Đại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy: Tiến bên phải đường sắt hướng Sài Gòn. Đến ngoại ô Bắc Sài Gòn, co cụm lại, bố trí bên phải đường sắt, chờ lệnh.
b) Lữ đoàn 2 TQLC do Trung Tá Liên (TQLC) chỉ huy: Tiến bên trái đường sắt hướng Sài Gòn. Đến ngoại ô Bắc Sài Gòn, co cụm lại, bố trí bên trái đường sắt, chờ lệnh.
c) Lữ đoàn 3 Kỵ Binh + Liên đoàn 33 BĐQ: Bố trí yểm trợ quân BCD, ND, và TQLC rời vị trí phòng thủ, rút an toàn qua Cầu Mới Biên Hòa trước. Sau đó, lấy xa lộ Đại Hàn làm trục chính, tiến về Sài Gòn theo thứ tự như sau:
Chiến đoàn 315 do Trung Tá Đỗ Đức Thảo chỉ huy: Đi trước, đến ngoại ô Bắc Sài Gòn, bố trí bên này cầu Bình Triệu, chờ lệnh.
Chiến đoàn 322 do Trung Tá Nguyễn Văn Liên (TG) chỉ huy: Đi sau CĐ 315, đến ngoại ô Bắc Sài Gòn, bố trí sau CĐ 315, chờ lệnh.
Chiến đoàn 318 do Trung Tá Nguyễn Đức Dưỡng chỉ huy: Đi sau cùng, đến Sài Gòn, bố trí sau BTL và Đơn vị Yểm Trợ, chờ lệnh.
Trước khi lên trực thăng Chỉ Huy, tôi duyệt đoàn quân lần cuối. Quân ta từ từ rời thành phố Biên Hòa trong vòng trật tự, quân phục chỉnh tề, tác phong nghiêm chỉnh, không hề nao núng, giống y như những lần hành quân trước đây khi còn Đại Tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy xông trận trên chiến trường Campuchia. Lúc này là 09 giờ 00 ngày 30/4/1975.
Tôi lên trực thăng Chỉ Huy của Tướng Toàn do Thiếu Tá Cơ lái, chiếc trực thăng Chỉ Huy thứ hai bay theo sau. Tôi cho trực thăng bay lượn trên thành phố Biên Hòa, quan sát thấy tình hình bên dưới vẫn yên tĩnh. Các cánh quân ta vẫn tiến đều đặn về hướng Sài Gòn. Những ổ kháng cự, những chốt của địch dọc trên trục tiến quân của ta bị đè bẹp hoặc bị nhổ nhanh chóng. Tôi đang suy nghĩ và lo lắng. Tôi lo vì không liên lạc được với SàiGòn, khi quân ta về đến nơi, sợ quân bạn ở Biệt Khu Thủ Đô bắn lầm. Tôi đang miên man suy nghĩ cách đối phó thì đột nhiên Thiếu Tá Cơ hỏi tôi: “Thiếu Tướng có muốn ra đi không? Tôi sẽ đưa Thiếu Tướng đi.” Tôi liền hỏi lại: “Còn anh thì sao?” “Khi đưa Thiếu Tướng đi xong, tôi sẽ trở về, tôi sẽ ở lại với vợ con còn ở Biên Hòa.” “Cám ơn anh, tôi cũng ở lại với anh em. Tôi đã quyết định việc này từ lâu rồi.”
Chúng tôi bay về hướng Gò Vấp, tôi biểu Cơ lấy cao độ. Xa xa phía dưới, tôi thấy những đoàn quân xa chở đầy quân, những chiến xa, những pháo kéo của quân CSBV như những con rắn dài trên xa lộ Biên Hòa và trên Quốc Lộ 13 bò vô Sài Gòn. Hai trực thăng của chúng tôi đáp xuống trại Phù Đổng nơi đặt BCH TGB và BTL/Quân đoàn III. Tôi vội đi vào văn phòng tìm sĩ quan trực. Tôi thấy các nhân viên văn phòng chạy qua lại nhớn nhác. Tôi không gặp một ai có thẩm quyền, chỉ có 1 Trung úy mang huy hiệu Quân đoàn III, tôi nói tôi muốn sử dụng điện thoại để liên lạc với BTL Biệt Khu Thủ Đô (BKTĐ) báo cho họ biết gấp các cánh quân của tôi sắp về tới cửa ngõ Bắc Sài Gòn để tránh bắn lầm nhau. Tôi gọi nhiều lần, gọi một cách tuyệt vọng, không có ai ở đầu máy trả lời. Rồi tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, cũng không liên lạc được. Lúc bấy giờ tôi nghe nhiều loạt đạn pháo binh địch nổ ở hướng sân bay TSN. Giờ này, các cánh quân Thiết Giáp của tôi cũng vừa đến Bình Triệu gần khu nhà thờ Fatima.
Trong khi tôi đang lúng túng trong việc liên lạc với BKTĐ và Bộ Tổng Tham Mưu, thì thình lình tôi nghe lời kêu gọi ngưng chiến đấu của Tổng Thống Dương Văn Minh phát ra từ một máy thu thanh đâu đấy. Tôi nhìn đồng hồ tay: 10 giờ 25 phút.
Thế là hết. Kể từ giờ phút này, tôi tự chấm dứt quyền chỉ huy của mình và xem nhiệm vụ của LĐ3KB và Luc Luợng Xung Kích Quân Đoàn III đến đây là kết thúc. Tôi để cho các đơn vị tự động buông vũ khí đầu hàng theo lệnh của Tổng Thống. Tôi không có gì để nói thêm, chỉ thầm cám ơn tất cả các chiến hữu đã cùng tôi chiến đấu đến phút cuối cùng của cuộc chiến và cùng tôi giữ tròn khí tiết của người chiến sĩ đối với Quân Đội và Tổ Quốc.
Quan Điểm và Kết Luận
Sau khi ngưng chiến theo lệnh của Tổng Thống Dương Văn Minh, tôi bị địch bắt, truy vấn, tù đầy 17 năm và sang Mỹ năm 1993 theo diện tỵ nạn chính trị. Mỗi năm cứ đến ngày 30/4, tôi đọc đi đọc lại nhiều bài viết của bên cộng sản cũng như của bên ta về cuộc chiến Việt Nam. Có không ít bài viết lờ mờ hoặc viết sai về một số sự kiện trong cuộc chiến. Đặc biệt khi viết về Biên Hòa thì không có bên nào nói đúng. Ai cũng biết Biên Hòa là vị trí chiến lược số 1 của miền Nam, Việt Nam, phi trường Biên Hòa còn là nơi đặt bản doanh BTL/Quân đoàn III và Vùng III Chiến Thuật, đầu não của bộ máy quân sự miền Đông. Biên Hòa là cửa ngõ quan trọng bậc nhất ở phía Bắc thủ đô Sài Gòn. Để mất Biên Hòa là mất Sài Gòn, mất miền Nam Việt Nam.
Nhưng cho đến bây giờ, tôi chưa thấy một tài liệu nào nói rõ về Biên Hòa trong những ngày cuối cùng của chiến tranh VN. Thế mà tôi vẫn giữ im lặng cho đến ngày hôm nay, vì nghĩ rằng cuối cùng rồi sự thật lịch sử cũng được phơi bày. Vả lại khi viết về cuộc chiến tranh mà mình là nhân chứng trực tiếp, không khỏi phải nói nhiều rất nhiều về mình, cái mà tôi không hề thích vì như Pascal nói: “Cái tôi là đáng ghét” (Le moi est haissable). Nhưng anh Nguyễn Minh Tánh đã viết sai sự thật về Lữ Đoàn 3-Kỵ Binh (LĐ3KB) do tôi chỉ huy, đã xúc phạm đến DANH DỰ của chúng tôi nên tôi có bổn phận với những người đã hy sinh và những người còn sống, phải cải chính và nói lại cho rõ để không phụ lòng những chiến sĩ anh hùng đã cùng tôi chấp nhận ở lại chiến đấu đến cùng.
Những năm đầu trong ngục tù, cán bộ cộng sản luôn truy vấn tôi kịch liệt. Chúng làm tổng kết chiến tranh để rút kinh nghiệm chiến trường, chúng ngạc nhiên trước sức chiến đấu của LĐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III, đặc biệt chúng bắt tôi viết đề tài Những nguyên nhân nào mà LĐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III do tôi chỉ huy không bị tan rã trước sức tấn công của quân đội cách mạng.
Chính miệng chúng nói với tôi: “Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III là đại đơn vị duy nhất của Quân Đội SàiGòn chiến đấu tới cùng cho đến khi có lệnh ngưng bắn.” Chúng kể ra những thành tích chiến đấu của Chiến đoàn 318 trên chiến trường Campuchia thời Tướng Đỗ Cao Trí của LĐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III mà chúng gọi là những tội ác “Trời không dung Đất không tha” và kết tội tôi đã kéo dài chiến tranh nhiều năm.
Chúng đã chọn và định đưa một số chúng tôi ra Tòa Án Chiến Tranh của chúng để xét xử như những tội phạm chiến tranh nếu không có áp lực mạnh mẽ của Hoa Kỳ và Cộng Đồng thế giới tự do cũng như của dư luận Quốc Tế lúc bấy giờ.
Tôi không hề ân hận việc mình đã làm, không hề hối tiếc hay than van về những hậu quả mà mình phải gánh chịu sau khi bị bắt. Nếu phải làm lại từ đầu, thì tôi cũng vẫn làm như thế. Tôi biết rằng làm như thế là tôi mất tất cả, mất tất cả trừ DANH DỰ.
Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Xin phép trang chủ HOANGLAN22 và các quí huynh cho phép mình tâm sự với người em cùng binh chũng QC lần đầu mới biết nhờ Trang của lính VBF
Quân Cảnh Huỳnh Hồng Hiệp, San Jose. Hiệp ơi, Cho anh gọi Hiệp là em nhe vì anh là SQ cùng trong binh chủng QC. Chúng mình là những người lính trong những ngượi lính trụ lại giờ phút cuối cùng của chính thể VNCH. Đọc mẫu chuyện em kể anh không cầm được nước mắt và cảm phục trước tinh thần bất khuât của MINH người trai trong thời loạn, không phân biệt cấp bậc và không phân biệt nhiệm vu dù ở sa trường hay hậu phương
Thời gian em kể cận kề tháng 4 đen là thời gian anh được biệt phái từ ngoài trường QC vủng Tàu về Tiểu Đoàn 6 QC, (em biết Tiểu Doàn 6 QC trách nhiệm thủ đô Sài gòn rồi) Anh và một vị SQ khác cũng ở trường về tăng cường cho Sài gòn với nhiệm vụ an ninh tuần tiểu kiểm soát tất cả mọi người kể cả dân (trong thời chiến) Nhưng em biết khoảng thời gian một tuần sau kể từ khi VC tràn vào các tỉnh miền trung, dân bắt đầu di tản ồ ạt thì mọi việc đều thay đổi. Vì một số cấp trên đã di tản, QC ở Bộ TTM, QC Tiểu đoàn 6 và Tòa đô chánh SG là đơn vị trực tiếp chi huy của anh đã không thấy đâu. Ngay cả người SQ đi theo anh cũng đã rời đơn vị để về lo di tản gia đình của họ. Nên tất tật mọi vấn đề là anh lo hết. Bộ chỉ huy tạm thời là trước tòa đô chính thành phố, hay nói đúng hơn là công viên trước rạp hát REX. Lúc đó hình như trong đầu không nghỉ là trong tương lai về lâu về dài như thế nào mà chỉ chăm lo giải quyết công việc cấp bách hằng ngày thôi. Đêm đêm nằm gối đầu trên nón sắt nhìn lên nền trời dỏi theo những chiếc trực thăng chở đầy người từ trên nóc nhà tòa ĐS Mỷ bay ngang thành phố rồi hướng ra hạm đội MỶ ngoài khơi. Lính mình rải rác khắp nơi làm nhiệm vuj chuyên môn. Một số xe tuần tiểu khắp Sài gòn, Gia định. Các trạm ven biên đô thành vẩn có QC, CS và an ninh nhưng không làm gì được vì dân và lính quá đông di tản qua lại đành chỉ ở đó để quan sát và báo cáo mà thôi. Một số đến tăng cường cổng tòa ĐS Mỷ. Chổ này rất hổn tạp vì đủ mọi thành phần chen nhau vào để được lên chiếc trực thăng đậu trên nóc nhà.Xe cộ của người đến đây di tản đậu la liệt hai bên đường. Có người chỉ cần đi thôi họ không màng tới xe của họ nữa. Có một đêm, một chú QC trong đơn vị đến xin anh một chút xăng. Anh hỏi: Để làm gì? thì cậu ta bảo: Có người vừa cho em chiếc xe nhưng hết xăng rồi.Tội nghiệp cậu này đậu xe ngay chổ bùng binh hì hục múc nước rửa chiếc xe gần như suốt đêm không ngũ. Xe trông cũng khá đẹp và tốt. Tôi kí cho 10 lít xăng. Thế rồi sáng hôm sau thấy mặt cậu ta buồn thiu thì cậu ấy bảo là chủ xe sáng sớm đến xin lại xe vì đi không được.
Dù em ở ĐĐ1 trong BTTM hay anh ở ngay ngoài SG đường Nguyễn Huệ chúng ta cùng một nhiệm vụ của binh chủng giao cho hay các quân nhân khác cùng lo chung một nhiệm vụ quá đặc biệt trong lúc nhiễu nhương ấy. Lúc đó chúng ta không biết nhau nhưng giờ đây chúng ta và các huynh đệ may mắn được quen nhau qua trang này. Âu cũng là cái duyên định mệnh để mọi người có thể ôn lại quá khứ dù trong niềm đau mất nước nhưng không hổ thẹn vơi đời sau.
Hình ảnh Minh tuẩn tiết trước lá cờ tổ quốc nói lên trách nhiệm với tổ quốc là trên hết. Anh không rỏ là Minh có gia đình hay không nhưng có giây phút anh chạnh lòng nhất vào khoảng thời gian này là ngày 28/4 hay 29/4 gì đó, chỉ nhớ là trong đơn vị này có hai ông thượng sĩ thâm niên mà quân đội thường gọi là thượng sĩ già, cùng một lúc đến với tôi, ngay tại cái bùng binh nước gần đó. Hai người lần lượt nói gần như rơi nước mắt. Họ xin một cái phép mà hình như hồi đó trong quân ngũ tới giờ anh chưa bao giờ cấp cái loại phép này. Phép từ biệt ra đi không biết bao giờ trở lại. Họ xin về miền trung, bây giờ anh không nhớ là về đâu nữa, về để lo cho gia đình, không biết có gặp được gia đình không nửa,không biết là gia đình đang di tản hay đi về đâu.. Họ vừa xin cấp phép, vừa từ biệt chi huy và đơn vi,vừa kể lể những công trạng bao nhiêu năm trong quân đội từ bên đơn vị tác chiến chuyễn sang QC, giờ đổ ra sông ra biển hết. Nhóm thầy trò ngậm ngùi không bút mực nào tả hết. Một hồi lâu anh quyết định sau khi suy nghĩ về các đơn vị khác, các cấp chi huy đã di tản nên cấp cho mỗi người một chiếc jeep đầy xăng và thêm một can xăng phụ để tìm về nhà. Dỉ nhiên là hy vọng rất mong manh nhưng đó là trách nhiệm của mỗi con người đối với gia đình. Trên hai chiếc xe đó trong đơn vị ai muốn theo họ thi đi. Viết những lời này nếu ai là những chiến sỉ anh em trong đơn vị năm xưa còn sót và đọc được xin lên tiếng cho mình được thỏa mản kỳ vọng còn ngấm mãi trong lòng trong 43 năm nay.
Đến đây cảm xúc dâng đầy anh xin tạm dừng và chúc em và những người thân bên em được mọi điều may mắn để bù lại nhưng tổn thất năm xưa và lúc nào cũng xứng đáng người lính kỷ luật dù không còn mang sắc phục QC và quân nhân nữa. Riêng anh đời lính và đời thường cũng đổ nát theo vận mệnh của đất nước và hiện giờ sau cùng anh cũng tìm được bến đổ hạnh phúc cho những ngày còn sót lại.
Thân chào em.
Đại đội trưởng ĐĐ3 QC đường Tô Hiến Thành 1964// Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 9 QC ( Phú Quốc) 1971//SQ huấn luyên hoạt động chuyên môn QC tại trường QC Năm 1974
The Following 2 Users Say Thank You to laongoandong For This Useful Post:
Câu chuyện nầy xảy ra tại trại cải tạo Nam Hà vào khoảng năm 1979-1980 (vì lâu quá nên tui hổng dám chắc năm nào). Thời gian đầu của đời tù cải tạo thì những người tù bị đưa lên vùng núi Hoàng Liên Sơn do Bộ đội quản lý. Tới năm 1978 vì sư phụ Trung Cộng muốn dạy cho đệ tử Việt Cộng một bài học nên đánh tràn qua biên giới Việt-Trung. Do đó tù cải tạo được chuyển giao qua cho Công an quản lý để bộ đội rảnh tay mà tiếp thu bài giảng của thầy. Rất nhiều tù, trong đó có tui, được chuyển về trại Nam Hà vào năm 1978.
Sau vài ngày ổn định mọi thứ thì các tù binh bắt đầu được lên lớp và sau đó là đi lao động. Về lên lớp, nói chung, thì các cán bộ Công an cũng nói y hệt như các cán bộ bên Bộ đội. Đại khái như : Mỹ là đế quốc xâm lược; ngụy quyền miền Nam là tay sai bán nước; ngụy quân là công cụ đánh thuê; tất cả các người tù đều là có tội chết nhưng được Đảng khoan hồng tha chết và cho đi cải tạo, lao động để trở thành người lương thiện; lao động là vinh quang chớ hổng phải là đày ải, hành hạ. Chỉ khác một điều duy nhứt là bên Bộ đội thì không kêu chúng tôi là tù mà cũng cấm chúng tôi không được tự xưng và kêu nhau là tù; còn ở trại Nam Hà nầy thì các cán bộ Công an nói thẳng chúng tôi là tù cải tạo. Còn về công việc lao động thì tui đã làm qua nhiều thứ như phụ xây thêm nhà tù, làm ruộng trồng lúa, đào kênh thủy lợi, trồng nấm, đục đá. Mỗi công việc đều có nhiều chuyện để kể nhưng trong phạm vi đề tài của bài nầy tui chỉ kể giới hạn về công việc làm ruộng trồng lúa mà thôi.
Trại Nam-Hà nằm trên một khu đồi cao gần bên một quả núi nhỏ và ngay cạnh con đường đất (nghe nói đường nầy có thể đi tới chùa Hương). Bên phía dưới thấp là vùng đầm lầy ăn liền ra đồng ruộng của hợp tác xã. Công việc làm ruộng được bắt đầu lúc đó là đang mùa Đông. Và ai cũng biết làm ruộng trồng lúa thì sẽ có những việc như cày, bừa, gieo mạ, cấy lúa, gặt lúa rồi đập và phơi lúa. Đám tù được dẫn ra tới ruộng mới biết công việc cụ thể mà mình phải làm ra sao. Những thửa ruộng đã gặt xong tự hồi nào chỉ còn trơ gốc rạ. Ruộng đang ngập nước, đất đã mềm sẳn nên hổng cần cày mà chỉ có bừa. Bừa để nhận những gốc rạ chìm xuống sình lấy chỗ cấy lúa. Và xưa nay việc kéo cày hay kéo bừa nếu hổng có máy thì là do con trâu làm. Người thì cầm càng đi phía sau điều khiển con trâu. Nhưng khi ra tới ruộng mới biết hổng có máy cày mà cũng hổng thấy con trâu nào dù trại có nuôi một bầy trâu mấy chục con. Té ra là mọi thứ sẽ do người tù làm hết. Tù được chia thành từng nhóm 4 người cho một cái bừa. Trong nhóm thay phiên nhau, ba người kéo bừa đi trước thay con trâu và một người cầm càng đi sau giữ bừa. Mèn ơi ! Trâu thì hổng xài lại bắt người kéo thế. Cái nầy mà dám nói là vinh quang hổng phải đày ải đây. Theo tui thì đày ải chỉ một phần, mà phần lớn là muốn hạ nhục người tù. Dĩ nhiên là tất cả mọi người tù đều phải chịu nhục mà làm. Người nầy nhìn người kia cùng nuốt hận để làm. Không hẹn mà nên, những người cầm càng phía sau không ai dám đứng lên cái bừa cho bạn kéo như khi điều khiển trâu mà chỉ lội sình để cầm càng. Coi vậy chớ kéo cũng nặng lắm vì lội sình đã khó đi rồi mà đằng nầy còn phải kéo cái bừa nữa. Những bước chân nặng nề dưới ruộng sình. Những bắp chân tái tím vì dầm trong nước lạnh buốt. Những thân hình co ro, lầm lủi trong gió mùa đông. Hoạt cảnh nầy liệu có nơi nào trên thế giới có được hay không. Làm được một lúc là bắt đầu nghe có tiếng cự nự trong các nhóm kéo bừa. Mấy anh kéo bừa phía trước cự anh cầm càng phía sau: Bộ mắc ông nội mầy hay sao mà đè chi nặng dữ vậy mậy. Đè vừa thôi. Một hồi tới phiên mầy kéo là tao đè lại cho biết.
Thì ra anh cầm càng mà đè mạnh chừng nào thì mấy anh phía trước phải kéo nặng chừng nấy. Mà hể đè hổng mạnh thì gốc rạ hổng chịu chìm. Nghe nhóm nầy cự rồi tới nhóm kia cự đâm ra thấy tức cười. Mà cười ra nước mắt. Hổng ai có thể tưởng tượng được cuộc đời của mình có lúc lại thê thảm như vầy. Chắc mấy tay cán bộ trên bờ đang hả hê trong bụng lắm. Người nào nghĩ ra được “phương cách” lao động nầy chắc phải được Đảng tuyên dương. Trong đám cán bộ có một người có vẻ là có thớ lắm, đó là Thiếu Úy Lự. Hắn đi vòng vòng từ đội tù nầy tới đội tù khác dòm ngó. Đi tới đâu hắn cũng kêu tập họp tù lại cho hắn lên lớp. Bởi vậy đám tù cũng khoái cho hắn tới chỗ mình mà lên lớp lắm. Hổng phải vì hắn nói hây nên muốn nghe. Vì hắn nói thì cũng như con két nói, chỉ toàn lập lại những điều cũ rích. Hắn vừa nói một tiếng là ai cũng biết hắn sẽ nói tiếp cái gì. Vậy thì tại sao tù lại khoái nghe hắn nói ? Thưa hổng phải khoái nghe hắn nói, mà chính là khoái được đứng để nghỉ ngơi khỏi làm trong mươi mười lăm phút. Hắn nói càng dai càng tốt vì mình được đứng nghỉ càng lâu. Lần đó hắn lại chỗ đội tù của tui để lên lớp. Sau khi nói đã đời, hắn kết luận :
- Các anh cần phải tích cực lao động cho có năng suất cao. Về với gia đình sớm hay muộn là tùy ở chính bản thân các anh. Không phải chỉ làm chiếu lệ cho hết giờ, mà làm cho hết việc và mỗi người cần phải phát huy sáng kiến để gia tăng năng suất.
Nói xong thì hắn hỏi như thường lệ là ai có ý kiến hoặc thắc mắc gì hôn. Thường thì hổng ai có ý kiến ý cò gì ráo. Nhưng lần đó có một anh bạn tù đưa tay lên. Hắn chỉ về anh bạn đó và hỏi anh muốn nói gì. Anh bạn tù nói :
- Thưa cán bộ, muốn gia tăng năng suất lao động, ở trại có nuôi một bầy trâu mấy chục con sao không xử dụng để kéo bừa ?
Chà ! Câu hỏi nầy có lý quá ha. Ai cũng thấy ý kiến của anh bạn tù nầy cũng chính là ý kiến của mình nên rất hào hứng với câu hỏi nầy. Các bạn có biết Thiếu Úy Lự trả lời ra sao hôn ? Hắn hổng cần suy nghĩ gì cho lâu mà phán ngay một câu xanh dờn với một vẻ đắc ý như vừa nghĩ được một câu danh ngôn bất hủ :
- Các anh mới cải tạo chớ con trâu đâu có cải tạo mà bắt nó kéo bừa.
Nói xong hắn gật gù với vẻ mặt hả hê, dương dương tự đắc nhìn từng gương mặt xanh tái của đám tù vì câu nói xanh dờn của hắn. Mọi người im thin thít và nghẹn họng như vừa bị tạt một gáo nước lạnh vào mặt giữa trời Đông. Đúng là Việt Cộng nói vậy mà hổng phải vậy.
Tui chợt nhớ tới lời của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu “Đừng nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn những gì Cộng Sản làm”. Tiếc thay khi mà cả miền Nam lẫn miền Bắc Việt Nam đã nhìn thấy được những gì Cộng Sản làm thì… quá trễ. Vậy mà tới giờ cũng vẫn còn có những người hổng nhìn thấy, hay nhìn mà cố tình hổng chịu thấy những gì Cộng Sản đã làm.
LHN.
potay.com
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Sau khi hay tin 15 Biệt Hải thuộc Tuần Dương Hạm HQ 16 Lý Thường Kiệt được một ngư thuyền cứu vớt tại eo biển Qui Nhơn, cách đảo Cù Lao Xanh (hay còn gọi là Mũi Yến) 55 cây số về phía Đông và vẫn còn ở ngoài hải phận quốc tế, nhiều phóng viên quân đội đã chạy đôn chạy đáo tìm mọi cách để đến gặp và nhìn tận mắt những người lính biển đầu tiên đã viết những dòng hải sử chiến đấu chống quân Trung cộng, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam
Chỉ với 15 người lính, các anh đã phải đối đầu với một lực lượng hung hãn địch gấp gần 20 lần hơn trên đảo Vĩnh Lạc. Trong lúc những chiến hạm của Hải Quân Việt Nam còn đang giáp chiến với hải quân Trung cộng, tiếng đại bác của hai bên nổ rền mặt đại dương, thì 15 chiến sĩ Biệt Hải đã kiệt liệt đối súng với hàng trăm lính bộ chiến của Trung cộng trên hòn đảo nhỏ này. Giữa cơn lửa đạn mù rời, toán Biệt Hải nhận được lệnh rút bỏ Vĩnh Lạc, vì cấp chỉ huy mặt trận Hoàng Sa không thể hy sinh oan uổng những đoàn viên ưu tú nhất của quân chủng. Không có một chiếc tàu nào đến đón, vì lúc đó 14 tàu chiến Trung cộng đang vây đánh Tuần Dương Hạm HQ 16 Lý Thường Kiệt, Tuần Dương Hạm HQ 5 Trần Bình Trọng, Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 và Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ 4. Chiếc xuồng đổ bộ giờ đây đã trở thành chiếc phao cứu sinh duy nhất của toán chiến sĩ lạc loài này. Cuộc hành trình vượt chết trên vùng biển bão tố bắt đầu.
Một toán thám sát Biệt Hải được chiếc HQ 16 Lý Thường Kiệt thả xuống gần đảo Vĩnh Lạc, rồi các anh dùng thuyền nhỏ chèo vào và đổ bộ lên bờ biển. Đảo Vĩnh Lạc (còn gọi là đảo Quang Ảnh hay Money) thuộc chủ quyền Việt Nam từ thời triều đình nhà Nguyễn, nhưng đã bị hải quân Đài Loan lợi dụng lúc ra giải giới quân Nhật khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh ngày 21.8.1945, đã ngang ngược chiếm lấy và tuyên bố chủ quyền từ năm 1946. Đến lượt Trung cộng đoạt lấy đảo Vĩnh Lạc cuối năm 1949, sau khi đánh bại quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa ở lục địa. Đảo Vĩnh Lạc, cũng như hầu hết các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa (còn gọi là Paracel) có cấu tạo san hô rất kiên cố, nên địa thế rất khó khăn cho tàu bè cặp bến. Đây là đảo có nhiều cây cối và là nơi chim biển đến sinh sống nhiều nhất. Số phân phosphate từ phân chim ước lượng phải gần 1,200,000 tấn. Đó là một trong những lý do tại sao thu hút lòng tham lam bất chính của cả Đài Loan và Trung cộng.
Trung Úy Lâm Trí Liêm, Trưởng Toán Biệt Hải, khi anh dẫn 15 chiến sĩ đổ bộ lên Vĩnh Lạc, đã khám phá bốn ngôi mộ với bốn cái bia đá do Trung cộng dựng nên để xác nhận chủ quyền của chúng. Những ngôi mộ chẳng biết có bộ xương nào ở dưới hay không, nhưng những tấm bia chỉ là biểu trưng của sự giả trá quỉ quái của bọn cộng sản, với dụng ý chứng tỏ đã có dấu chân của chúng từ lâu. Trung Úy Liêm ra lệnh cho đoàn viên Biệt Hải nhổ những tấm bia đá này chuyển xuống HQ 16 để chuyên viên của ta dịch sang Việt ngữ xem chúng khắc cái quái gì trên đó, rồi đem về Sài Gòn. Ngoài nhiệm vụ phá hủy những di chứng giả tạo của Trung cộng, Toán Biệt Hải còn có công tác cắm cờ Việt Nam và bảo vệ cờ để xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa.
Khi Trung Úy Liêm cùng chiến sĩ Biệt Hải của anh đặt chân lên đảo Vĩnh Lạc, hòn đảo hoàn toàn hoang vắng không một bóng người, chỉ có mỗi bốn nấm mộ nằm chơ vơ giữa vùng trời nước. Quân ta nằm bố trí trên đảo chờ chuyến tiếp tế, nhưng vì các chiến hạm còn đang theo dõi thám sát những hành động của tàu Trung cộng, nên mãi đến chiều ngày 17.1.1974 mới có tàu đến đổ xuống một khối lượng lương khô cho 93 ngày, có nghĩa là Bộ Tư Lệnh Mặt Trận Hoàng Sa của Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc đã dự định phải giữ đảo ít nhất là ba tháng. Tiếng súng hải chiến bắt đầu nổ trên vùng biển Hoàng Sa ngày 19.1.1974. Lúc đó là 10 giờ 25 sáng. Lúc 10 giờ 22 phút, một hộ tống hạm Trung cộng loại Kronstadt đã hướng mũi tàu đâm thẳng vào Khu Trục Hạm HQ 4 Trần Khánh Dư đang giữ chặt đảo Quang Hòa. HQ 4 nhận được lệnh khai hỏa từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân ở Sài Gòn, quả đại bác đầu tiên được bắn ra sau nhiều ngày sẵn sàng tác chiến đã trúng ngay chiếc tàu giặc. Chiếc Kronstadt bị chìm xuống đáy biển. Chiếc HQ 4 bị hư hại nhẹ. Với chiến thắng nức lòng đó, những HQ 5, HQ 10 và HQ16 tuần hành chung quan các đảo Quang Hòa và Duy Mộng đồng nổ súng đánh đuổi địch. Cả một vùng Hoàng Sa ầm tiếng sấm phẫn nộ của người nước Nam. Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 trúng một chiếc hỏa tiễn Styx từ chiến hạm Trung cộng bị hư hại rất nặng và chìm dần. Hải Quân Trung Tá Ngụy Văn Thà trúng đạn giặc ở cầu thang chỉ huy, đã anh dũng hy sinh, 32 chiến sĩ trên tàu bị mất liên lạc. Những thủy thủ của HQ 10 bềnh bồng giữa đại dương đến 6 giờ 30 chiều ngày 22.1.1974 thì được thương thuyền Hòa Lan KOPIONELLA vớt được 23 người, cách phía Đông Đà Nẵng 287 cây số. Sáng hôm sau, chiến hạm Việt Nam đến tiếp nhận số chiến sĩ lưu lạc này, trong số đó có thân xác của Hải Quân Đại Úy Nguyễn Mạnh Trí, Hạm Phó HQ 10, đã chết và 2 chiến sĩ bị thương.
Những chiến sĩ Biệt Hải nằm trên đảo Vĩnh Lạc nhìn về hướng Duy Mộng và Quang Hòa cách đảo chừng 34 cây số đã thấy những đốm lửa sáng lóe lên. Đoàn viên truyền tin liên lạc với Đài Khí Tượng thì được biết một tàu Trung cộng đã bị quân ta bắn trúng đang từ từ chìm xuống biển cả. Những người lính Biệt Hải reo hò vang dậy chào mừng chiến công của đồng đội. Dẫu biết rằng Hải Quân Việt Nam ở thế hạ phong về tàu chiến và vũ khí, nhưng ngay phát súng đầu, HQ 4 Trần Khánh Dư đã nhắc cho giặc Bắc nhớ lại trận hải chiến kinh hoàng ở cửa biển Vân Đồn năm 1287, Tướng Quân Trần Khánh Dư đã đánh chìm hàng trăm chiến thuyền của tướng Ô Mã Nhi và tên hải tặc Trương Văn Hổ, mà đã đẩy đạo quân 20 vạn của Thoát Hoan trên bộ vào thảm cảnh chết đói và hoàn toàn chiến bại. Giao chiến bằng tàu thường không thắng nỗi bốn chiếc HQ thời Đệ Nhị Thế Chiến của ta, Trung cộng phải hối hả điều thêm những chiến hạm tối tân Komar trang bị hỏa tiễn tầm xạ Dù vậy, các HQ của Hải Quân Việt Nam cũng đã hủy diệt thêm một tàu và làm hư hại hai chiếc khác, trước khi nhận được lệnh rút ra khỏi quần đảo Hoàng Sa sau hai giờ pháo chiến. Một kế hoạch đánh tập kích lực lượng địch vài ngày sau đó của Bộ Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam được phác họa, nhưng đã không được thực hiện vì nhiều lý do khác nhau.
Cuộc hải hành bằng xuồng cao su trên đại dương
Ba ngày trấn giữ Vĩnh Lạc không thấy có Toán Thám Sát nào đến thay thế, hướng Hoàng Sa đã im tiếng súng mà trên không luôn có nhiều phi cơ rất lạ bay lượn vòng vòng, Trung Úy Liêm nhận định rằng tình hình ngày càng rất bất lợi cho đảo Vĩnh Lạc, với một nhúm chiến sĩ ít ỏi như thế này. Có tin Trung cộng đã điều chiến hạm đến tấn công Cam Tuyền và Vĩnh Lạc. Từng đợt hải pháo của tàu giặc dội ì đùng xuống một diện tích nhỏ bé của hòn đảo, rồi bốn chiếc Mig 21 và Mig 23 xuất phát từ đảo Hải Nam bay đến oanh kích dọn bãi để lính địch đổ bộ. Con số chiến hạm Trung cộng tham chiến đã lên đến 40 chiếc. Trung Úy Liêm quyết định chờ đêm tối dùng xuồng cao su thoát ra khỏi Vĩnh Lạc. Thật không may mắn cho những người lính cô đơn này, chiếc xuồng cao su lại bị lủng một lỗ nơi miệng cao su lót đáy, không biết có phải là do bởi mảnh pháo địch, nước biển tràn vào, các Biệt Hải xé vải nhét lại. Tình thế thật bi đát. Các chiến sĩ phải ngồi rải chung quanh thành ca nô, tránh ngồi tập trung ở giữa tránh tình trạng quá nặng. Trong khi quân ta âm thầm chèo ra ngoài khơi thì bỗng có quang hiệu của tàu Trung cộng gọi trở lại, nhưng Trung Úy Liêm ra lệnh cho các chiến sĩ tiếp tục hướng mũi ra biển. Thà chết vinh giữa biển cả, còn hơn là sống nhục trong lao tù cộng sản.
Chiếc xuống tiếp tục di chuyển về hướng Tây Nam. Sáu mái chèo thay nhau quạt nước. Một cái mền được dùng làm buồm căng trên một cái cột buồm bằng một cành tre tìm thấy trên đảo. Sức gió đã đẩy chiếc xuồng ọp ẹp đó xa dần đảo Vĩnh Lạc. Thêm một mảnh đất của Việt Nam đã lọt vào tay giặc. Tình hình ngày càng tồi tệ, khi lương thực đem theo đã dần cạn, quân ta phải hạn chế ăn uống, bi đát đến nỗi mỗi người chỉ có 6 muỗng nước mỗi ngày. Đến ngày thứ ba, số nước dự trữ chỉ còn có 30 lít, nhưng vì bị sóng nhồi nên đã bị đổ mất 10 lít, nên đành phải chịu giới hạn đến tối đa. Đến ngày thứ năm cuộc hành trình, chỉ uống nước mà không còn thức ăn, chiếc xuồng cao su nhấp nhô trên vùng biển động cấp 5, 6 chỗ bị lủng vẫn luôn luôn là mối đe dọa chết chóc của 15 người lính đã rất yếu sức. Ngày nắng như nung, lượng nước trong cơ thể bốc hơi nhanh chóng tạo ra hiện tượng mất nước (dehydration)., đêm thì lạnh buốt đến tận xương tủy. Chỉ có sức chịu đựng phi thường của những người lính cứng như thép Biệt Hải mới có thể sống sót qua thử thách này.
Ở giữa trùng khơi mênh mông không thấy đâu là bến bờ, dưới những cơn thịnh nộ của thủy thần đại dương, con người bé nhỏ chỉ có thể nguyện cầu xin được che chở. Thật mầu nhiệm, lời cầu nguyện đó của 15 Biệt Hải dường nhưng đã được nghe nhận từ cõi thiêng liêng. Theo lời kể của Trung Sĩ Nguyễn Trọng Tuấn, nhân viên điện tử, lúc đặt chân xuống thuyền, nhiều Biệt Hài đã khấn nguyện xin cho được an lành trở về với đất liền, với đồng bào và với quân đội để tiếp tục chiến đấu. Phép huyền diệu đó đã bắt đầu hiện ra từ ngày thứ sáu, mà tất cả chiến sĩ trên ca nô đều nhận biết như nhau.
Theo Trung Sĩ Tuấn, khi đến vùng biển động, sóng lượn theo chiều ngang rất nguy hiểm. Kinh nghiệm hải hành cho thấy rằng tàu nào gặp những con sóng ngang kiểu này cũng đều lắc lư rất dễ sợ. Nhưng có một điều kỳ dị rất khó giải thích là chiếc xuống lại lướt rất nhẹ nhàng một cách rất bình thản trên đầu ngọn sóng chết người đó. Hơn thế, nó còn chạy vo vo một mạch với tốc độ 40 cây số / giờ. Lợi dụng hiện tượng quái lạ này, anh em Biệt Hải gác mái chèo nghỉ xả hơi. Đặc biệt khi gặp sóng cao thì một lực nào đó giúp hóa giải sức giật ngaỵ Trung Sĩ Tuấn và nhiều Biệt Hải đã thấy một cái gì đó không phải thuyền chài, mà nó gần giống như cái kỳ cá nhú lên khỏi mặt biển, mà họ tin là cá voi, hay cá ông, những vị thần cứu mạng trong huyền thoại trên biển Nam Hải của giới thuyền bè qua lại trên vùng biển này. Có những con cá voi bị bão tấp vào bờ chết, đã được dân chài vùng biển chôn và lập đền thờ để nhớ ơn chúng đã cứu giúp ghe thuyền lúc hoạn nạn. Nhiều lúc các chiến sĩ nghe thấy nhiều tiếng lục cục dưới đáy chiếc xuồng ca nô, mái chèo thấy nhẹ hổng. Có lẽ một chú cá voi lạc loài nào đó tránh sóng bão đã tựa lưng vào cùng tồn tại với con người, mà nhờ sức mạnh thần kỳ của nó đã đưa chiếc xuồng vượt qua những con sóng chết. Hay đó có phải là phép nhiệm mầu của tạo hóa xót thương những người lính chân chính của một dân tộc tang thương vì nạn xâm lược của loài ác quỷ cộng sản. Không ai có thể giải thích được sự kiện nàỵ Nhưng sáu mái chèo kiệt lực không thể nào đưa chiếc xuống đi phom phom 40 cây số giờ như vậy được.
Giữa cơn bão giật, nhóm chiến sĩ Biệt Hải dường như trông thấy hình dáng một chiếc thuyền, quân ta vui mừng khấn nguyện cho nó tiến đến gần hơn, thì thình lình nó quày đầu chạy ngược trở lại. Vài chiến sĩ quá nóng lòng bèn bắn vài phát súng báo động. Nhưng càng nghe tiếng súng thì chiếc thuyền đó càng phóng dữ. Chẳng mấy chốc nó đã biến mất giữa những con sóng. Nhìn lại đã thấy một dải đất mờ, đối chiếu với hải đồ, thì có lẽ chiếc xuống đã dạt về đến vùng biển Mũi Cù Lao Ré ngoài hải phận Quảng Nam. Nhưng lưỡi hái của thủy thần vẫn còn treo đung đưa trên đầu, thấy đất liền đó mà sóng vẫn kéo chiếc xuồng ra xa dần ngoài khơi, không chèo vào được. Chiến sĩ trên xuồng chắc lưỡi tiếc hùi hụi, nếu đừng bắn súng cho cá ông sợ chạy mất, thì biết đâu ngài đã đưa anh em vào gần bờ hơn. Như vậy, Toán Biệt Hải đã được cá ông đưa vào hướng Đà Nẵng trọn một đêm dài, nhưng định mệnh vẫn còn thử thách chí quật cường của những người lính Hải Quân. Cuộc hành trình về với tổ quốc tiếp diễn.
Chiếc xuống càng lúc càng đến gần hải phận Việt Nam Cộng Hòa hơn. Qua đến ngày thứ bảy, các chiến sĩ Biệt Hải trông thấy nhiều ghe thuyền xuôi ngược liền bắn súng xin tiếp cứu, nhưng những chiếc tàu này hoặc là không nghe được tiếng nổ, hoặc là do một lý do nào khác đã chạy lảng ra xa. Tình trạng sức khỏe của những Biệt Hải trên ca nô đã trở nên rất tồi tệ, các anh như những cái xác còn cử động là nhờ ở ý chí tìm sống, nước uống trên xuồng đã hết sạch từ lâu. Qua đến ngày thứ chín cuộc hải hành chiến sĩ Biệt Hải đã phải uống nước tiểu của mình. Có lúc xuồng chỉ còn cách bờ biển Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi chừng 100 hải lý, nhưng không thể nào chèo vào được, ca nô vẫn bị cuốn trở ra ngoài khơi. Chiếc buồm được điều chỉnh về hướng Đông Bắc để gió có thể thổi tạt các anh về hướng Tây Nam, hy vọng tấp vào được gần bờ hơn. Mỗi đêm các chiến sĩ Biệt Hải có trông thấy nhiều máy bay lượn vòng thật cao, có lẽ đang hoạt động không ảnh, vì ánh sáng cứ lóe lên từng hồi chiếu xuống mặt biển. Mặc dù không biết những phi cơ này thuộc quốc tịch nào, nhưng quân ta vẫn bám víu vào một hy vọng mỏng manh, nên đã bắn lên nhiều hỏa hiệu để đánh dấu mục tiêu cùng điểm đứng của chiếc ca nô. Nhưng tất cả đều vô hiệu, có lẽ vì phi cơ bay với vận tốc nhanh và quá cao nên không thể thấy rõ những trái sáng.
Sự cố gắng đó cuối cùng rồi cũng được đền bù, ngày thứ mười, chiếc xuống đã giạt vào hải phận tỉnh Bình Định, cách đảo Cù Lao Xanh thuộc xã Phước Ninh, quận Nhơn Bình chừng 30 hải lý. Với khoảng cách này cái sống đã hiện ra rõ nét, nhưng chiếc xuồng vẫn còn nằm ngoài hải phận quốc tế. Trung Úy Lâm Trí Liêm, Trưởng Toán Biệt Hải, là người còn có thể đứng vững trong tình thế tuyệt vọng nhất, anh thật xứng đáng là một cấp chỉ huy tài ba, mà đã cứu được mạng sống của tất cả đoàn viên. Anh đã trông thấy có ba chiếc ghe đánh cá đang hoạt động gần đó, mừng quá anh bắn mấy phát súng cầu cứu. Hai chiếc ghe đầu tiên hoảng sợ bỏ chạy mất, nhưng chiếc ghe thứ ba, trời ơi, nó đã lừng lững tiến đến. Các chiến sĩ Biệt Hải đã có thể trông thấy những khuôn mặt Việt Nam đen rám vì nắng gió biển khơi, những ánh mắt xúc cảm và những nụ cười quá thánh thiện. Toán ngư phủ trên ghe vội vã ném dây cột chiếc xuồng cao su kéo về Qui Nhơn. Lúc đó là khoảng 12 giờ 30 trưa ngày 21.1.1974. Những người lính Biệt Hải sẽ nhớ mãi cái ngày hồi sinh này.
Trong lúc kéo xuồng cao su trở vào hải cảng Qui Nhơn, thì các ngư phủ đã giúp chừng phân nửa số chiến sĩ leo lên thuyền của họ, số còn lại quá mệt mỏi đành phải nằm nghỉ dưới xuồng. Hạ Sĩ Nhứt Nguyễn Văn Duyên, nhân viên Quản Kho hoàn toàn kiệt sức vì hiện tượng mất nước và thiếu ăn, anh đã từ từ chìm vào cơn kích sốc, khi được đưa lên thuyền đánh cá, thì anh đã nhắm mắt ra đi.
Điều dưỡng tại Quân Y Viện Qui Nhơn
Hải Quân Trung Tá Nguyễn Ngọc Tĩnh, Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn khi hay tin một chiếc ghe đánh cá đã vào gần đến hải cảng Qui Nhơn với 15 chiến sĩ Biệt Hải, đã lập tức cho tàu ra đón tại ngọn hải đăng đưa vào Căn Cứ và chờ phương tiện chở các anh về Quân Y Viện Qui Nhơn. Toán Biệt Hải đã được chở vào và được nằm điều dưỡng trong Trại Nội Thương 9. Bây giờ, các Biệt Hải đã đi đến cuối cuộc hành trình của mình sau hơn mười một ngày đêm tham dự cuộc hải chiến Hoàng Sa lịch sử. Nhiều chiến sĩ mê man nằm thiêm thiếp, mặc dù đã được các nhân viên Quân Y truyền cho loại huyết tương màu vàng để bổ sung nguồn protein, khoáng và nước bị mất. Các anh đã được bón cho những loại thức ăn nhẹ. Nửa căn phòng của Trại Nội Thương 9 đã được dành riêng cho nhóm 14 chiến sĩ Biệt Hải, dưới sự chăm sóc tận tụy của Quân Y và đồng đội thuộc Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn.
Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Xuân Cẩm, Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Qui Nhơn đích thân ra lệnh cho nhân viên Quân Y dành cho các Biệt Hải sự chăm sóc đặc biệt, vì các anh xứng đáng được đối xử như vậy. Mỗi ngày, mỗi chiến sĩ được truyền một chai huyết tương, uống sữa trứng gà ngày hai lần, cam vắt hai lần, uống nước súp xương thịt. Cuộc điều trị sang đến ngày 1.2.1974 thì các Biệt Hải được ăn cháo nấu với tim và cật, tình trạng sức khỏe của các anh đã rất khả quan. Những con người thép mà đã từng vượt qua chương trình huấn luyện “địa ngục” của Người Nhái, chẳng mấy chốc đã có thể ngồi dậy nói chuyện thoải mái và vui vẻ với tất cả những phái đoàn quân và dân tấp nập kéo nhau vào thăm hỏi, tặng quà khích lệ. Đặc biệt, các chiến sĩ Biệt Hải luôn nhớ ơn Bác Sĩ Cẩm Chỉ Huy Trưởng đã túc trực ngày đêm săn sóc các anh.
Phái đoàn đầu tiên đến thăm các chiến sĩ Vĩnh Lạc, Hoàng Sa, do Hải Quân Đại Tá Trịnh Quan Xuân, Tư Lệnh Vùng II Duyên Hải, đã dùng trực thăng đến an ủi và ủy lạo các anh với nhiều tặng vật trong ngày 31.1.1974. Đến 4 giờ chiều cùng ngày, Đại Tá Hoàng Đình Thọ, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Bình Định hướng dẫn một phái đoàn khác vào thăm. Sang ngày 1.2.1974, đến lượt Hải Quân Đại Tá Nguyễn Đức Vân, Trưởng Phòng Kế Hoạch Bộ Tư Lệnh Hải Quân, đại diện Đề Đốc Trần Văn Chơn, Tư Lệnh Hải Quân, đã đến thăm hỏi chiến sĩ trong buổi chiều và trao tặng mỗi anh số tiền 5,000 đồng. Món tiền tuy nhỏ nhưng nói lên cái tình giữa chiến hữu huynh đệ với nhau, và nó còn bày tỏ lòng tri ân của người hậu phương dành cho những chiến sĩ ở mãi tận ngoài đại dương.
Huy chương trao tặng cho những ân nhân
Một trong những cuộc viếng thăm có ý nghĩa nhất do Phó Đề Đốc Tư Lệnh Phó Hải Quân, hướng dẫn buổi sáng ngày 1.2.1974. Tư Lệnh Phó đã đại diện Tư Lệnh Hải Quân đến thăm hỏi, khích lệ và ủy lạo 14 chiến sĩ Biệt Hải. Tất cả các Biệt Hải đều vinh dự được tuyên dương công trạng, hãnh diện nhận mỗi người một huy chương cao quí Anh Dũng Bội Tinh. Phòng Tổng Quản Trị Hải Quân cũng trình Bộ Tư Lệnh Hải Quân đề nghị Bộ Tổng Tham Mưu thăng cấp đặc cách cho tất cả 14 Biệt Hải. Không quên những người ngư phủ đã cứu sống chiến sĩ Hoàng Sa, phái đoàn của Tư Lệnh Phó dùng tàu nhỏ di chuyển sang Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn để thay mặt chính quyền và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bày tỏ lòng tri ân với năm công dân Việt Nam Cộng Hòa. Năm vị ân nhân này đã cảm xúc nhận năm chiếc huy chương cao quí của Hải Quân là Hải Vụ Bội Tinh. Buổi lễ tri ân được tổ chức đơn giản nhưng trang trọng. Có thể là năm người ngư dân bình thường và vô danh này nghĩ rằng việc cứu sống những người lính Việt Nam Cộng Hòa là một việc bình thường trên biển cả với nhau. Nhưng chính là ở nghĩa cử này đã nói lên được một ý nghĩa cao cả, thắm thiết từ tận đáy lòng của họ. Đó là Tình Quân Dân gắn bó mà người lính gian nan của chúng ta qua những năm tháng phơi xương trải thịt chiến đấu bảo vệ đất nước và dân tộc đã chiếm được mối tình cảm của đồng bào ở hậu phương. Hải Vụ Bội Tinh vẫn chưa thấy đủ lòng tri ân, Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thì, Trưởng Phòng Tổng Quản Trị, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, đã làm tờ trình xin Bộ Tổng Tham Mưu ân thưởng cho ông Dư Thanh Long, chủ nhân chiếc thuyền đánh cá mang số 3874, huy chương Nhân Dũng Bội Tinh. Cuộc trao gắn chiếc Bội Tinh sẽ được tổ chức ngay sau khi nhận được Quyết Định của Bộ Tổng Tham Mưu. Ngoài ông Long là chủ nhân chiếc thuyền, còn lại là những thủy thủ Dư Thanh Dũng, Nguyễn Tâm, Nguyễn Ngọc, Lý Luông, tất cả đều cảm thấy sung sướng khi chính các anh đã cứu vớt kịp thời các chiến sĩ Biệt Hải. Câu chuyện tàu 3874 tìm thấy chiếc xuồng ca nô mà trên đó 14 chiến sĩ của chúng ta đã gần như kiệt lực đã do chính ông chủ tàu kể lại như sau.
Ông Dư Thanh Long đang lái chiếc thuyền đánh cá ngoài khơi Qui Nhơn, lúc đó khoảng 12 giờ 30 trưa. Ông Long chợt nhìn thấy một điểm đen ngoài xa, cách chiếc thuyền đánh cá của ông độ hai cây số. Lúc đầu ông Long tưởng là dân chài đánh cá gặp tai nạn nên dùng thúng chai chèo vào đảo Cù Lao Xanh, nhưng khi đến gần ông nhận thấy không phải, nên đã gọi những thủy thủ thức dậy để sẵn sàng cứu người, vì lúc đó anh em đang ngủ. Chiếc tàu đánh cá càng đến gần, thì nhóm ông Long đã có thể thấy rõ nhiều người ăn mặc rất lôi thôi, nếu không muốn nói là tơi tả, nhiều cánh tay đưa cao lên những khẩu súng. Là một người đánh cá từng trải và gan dạ, ông Long cẩn thận cho tàu của mình cặp sát vào chiếc xuồng cao su, ông đã nhận thấy trong số người lạ mặt này những bộ quân phục quen thuộc, nhưng tất cả kiệt sức nằm rũ riệt trong xuồng. Ông Long nghiêng mình hỏi vói xuống, rằng lại sao lại đến nông nỗi như thế. Trung Úy Liêm còn tỉnh nhất đã gào to lên:
– Tụi tôi đánh Hoàng Sa thoát về đây, xin cứu nhanh và đưa về Căn Cứ Hải Quân.
Ông Long phái mấy thủy thủ khỏe mạnh nhất nhảy xuống chiếc ca nô bồng lên từng người, những chiến sĩ nào còn có thể leo được thì tự leo lấy, nhưng phần lớn các anh đều phải nhờ sự giúp sức của các ngư dân. Khi đã leo lên được hết trên tàu, các Biệt Hải chỉ còn có thể nằm sải tay ra thở dốc và đòi nước như điên. Nhân có ấm nước đang sôi, anh em thuyền chài thi nhau thổi cho nguội bớt và trao cho các Biệt Hải nhấp từng ngụm cầm chừng. Đồng thời, các thủy thủ cũng dùng số thuốc cấp cứu mang theo trên tàu để cho các chiến sĩ dùng tạm. Nhận thấy tình trạng các Biệt Hải quá yếu, ông Long gọi bốn thủy thủ đem nồi cháo hồ đổ cho mỗi người nửa chén. Được một lúc, thấy những người lính có vẻ tươi tỉnh hơn, ông lại cho người đổ cháo tiếp, cứ mỗi nửa giờ đút cháo một lần. Tình hình sức khỏe các anh đã khả quan rất nhiều, trong lúc chiếc thuyền chỉ còn cách hải cảng Qui Nhơn chừng mười cây số. Ông Long đã rất lấy làm xót xa là đã không cứu được Biệt Hải Nguyễn Văn Duyên, vì khi anh được khiêng lên tàu, thì thân thể của anh đã bị tê liệt, anh đang thở những hơi cuối cùng. Chiếc ghe đánh cá đã xả hết tốc lực phóng vào bờ, với một hy vọng mỏng manh chạy đua với thời gian và thần chết, nhưng đã không còn kịp nữa rồi. Biệt Hải Nguyễn Văn Duyên đã anh dũng đền nợ nước. Chắc anh linh của anh cũng đã thanh thản bốc lên trên khoảng trời trong xanh và trên mặt sóng của quê hương. Anh đã về đến hải phận Việt Nam và đã ra đi trong những giọt nước mắt nghẹn ngào của anh em.
Một vài khoảnh khắc sau, một chiếc giang đỉnh của Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn đi tuần đã bắt gặp chiếc thuyền, được biết tự sự, đã khẩn cấp gọi về Bộ Chỉ Huy để chuẩn bị phương tiện cấp cứu. Nhiều chiến đỉnh xuôi ra khơi để hộ tống chiếc tàu đánh cá tiến vào Căn Cứ. Cuộc hành trình của 15 Biệt Hải vượt thoát từ mặt trận Hoàng Sa đã chấm dứt. Tuy rằng các anh và những chiến hạm HQ 4 Trần Khánh Dư, HQ 5 Trần Bình Trọng, HQ 10 Nhật Tảo và HQ 16 Lý Thường Kiệt đã phải đớn đau rút bỏ Hoàng Sa, nhưng ít nhất Hải Quân Trung cộng đã kinh hãi khi phải đối đầu với cơn phẫn nộ của hậu duệ Ngô Vương Quyền, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, dù chúng có tạm thời chiếm được Hoàng Sa nhưng cũng đã phải trả cái giá rất đắt. Hai chiến hạm bị chìm và hai chiến hạm bị hư hại.
Lịch sử bốn ngàn năm chống giặc ngoại xâm phương Bắc của dân tộc Việt Nam đã chứng minh rằng, chưa từng có đế quốc Hán tộc nào có thể hùng cứ lâu dài trên mảnh đất Hoa Lục mà không bị sụp đổ. Trung cộng không ra ngoài định lý ấy. Nền kinh tế của nó hiện nay đang phụ thuộc rất nặng nề vào tư bản Hoa Kỳ, đó là cái tiền đề để dẫn đến một cuộc sụp đổ không tốn một giọt máu kiểu Liên Sô năm 1989. Trung cộng đang giẫm vào vết xe đổ của Liên Sô qua những cuộc chạy đua võ trang và không gian với người Mỹ, ấy vậy mà bọn chúng đang rất kiêu hãnh đẩy mạnh tốc độ cuộc thi tài. Cũng tốt cho nhân loại. Càng chạy nhanh thì cái hố địa ngục càng đến gần hơn. Rồi cũng có một ngày quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ trở về với dân tộc Việt Nam. Đến lúc đó, thế hệ con cháu Việt Nam sẽ giở lại những trang sử hào hùng của cuộc hải chiến Hoàng Sa ngày 19.1.1974, và sẽ thêm một lần cúi đầu ngợi ca ông cha của mình đã đánh giặc phương Bắc kiệt liệt đến như thế nào.
Phạm Phong Dinh
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Cuộc sống của người lính chiến Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
Huy hiệu Nghĩa Quân.
Huy hiệu ĐPQ
Tôi sẽ không kể cho các bạn nghe những trận đánh hào hùng của các binh chủng Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Biệt Cách Dù, hay các Sư Đòan Bộ Binh thiện chiến của QLVNCH, tôi muốn kể đến các bạn nghe về cuộc sống của các anh lính chiến Địa Phương Quân và Nghĩa Quân mà tôi là một trong những người lính chiến ấy. Từ trước tới nay, khi nói tới lính chiến đánh giặc hay là nói tới lực lượng trừ bị, mà họ quên rằng những người lính Địa Phương Quân và Nghĩa Quân cũng đổ xương máu của họ cho đất nước Việt Nam và họ cũng chịu đựng gian khổ như người lính Tổng Trừ Bị… mà có khi còn cực hơn nửa. Câu chuyện bắt đầu.
Sau khi mãn khỏa ở trường Sĩ Quan Thủ Đức với 14 ngày phép và 2 ngày phép tự cấp cho hắn, hắn bắt đầu giã từ cha mẹ, vợ con và lên đường ra đơn vị. Trời tờ mờ sáng là hắn bắt đầu ra bến xe chuẩn bị về Phan Rang, một nơi mà hắn chỉ hình dung khi coi phim 1 tuần trước lễ mãn khóa. Đây là quê hương của Tổng Thống Nguyển Văn Thiệu. Lúc đó, hắn thấy cảnh chiếu trên ci nê sao mà hấp dẫn, dể thương, và bình yên quá! Hắn tự nghĩ chọn về nơi đó có đúng như ý mong muốn của hắn chăng? Mặc dù Chú của hắn là Tổng Thanh Tra Quân Đòan 2 đã dặn hắn là chọn về Tiểu Khu Pleiku và chức Trưởng Ban Tổng Quản Trị Tiểu Khu dành cho hắn, như vậy là chữ “thọ” an tòan như mong ước của cha mẹ hắn. Ngày chọn đơn vị, hắn đậu thứ 112 trên 1080 người, nếu hắn chọn những Tiểu Khu gần hay Pleiku thì quá dễ, nhưng hắn không chọn, mà hắn lại chọn Phan Rang quê hương của Tổng Thống chỉ vì cảnh đẹp nên thơ. Ôi! Ý nghĩ của một tân Chuẩn Úy sữa vô tư như vậy đó các bạn, và cuộc sống gian lao bắt đầu.
Tới Phan Rang gần 1 giờ trưa, hắn hỏi thăm dân chúng Tiểu Khu Phan Rang nằm chỗ nào? Hắn gọi xe ôm chở tới tiểu khu Ninh Thuận, và chuẩn bị vô trình diện Đại Úy trưởng phòng Tổng Quản Trị. Tới tiểu khu, hắn chỉnh lại quân phục đàng hòang, với lon quai chảo đen trên cổ áo, tay phải mang phù hiệu quân đòan 2 trông hắn cũng oai ra phết đấy chứ. (cho mình khen mình chút nhé các bạn) Vào phòng Tổng Quản Trị sau một màn trình diện Đại úy trưởng phòng ổng hỏi:
– Tại sau giờ này Chuẩn úy mới trình diện tiểu khu?Hắn viện lý do:
– Thưa Đại Úy, ba tôi bệnh nên tôi nán lại hai ngày lo cho ông.
Ông Đại úy trưởng phòng nói:
– Tất cả các Chuẩn úy đều trình diện 2 ngày trước rồi và đã ra đơn vị còn Chuẩn úy ra sau chỉ còn Đại đội 129 Địa Phương Quân ở Bỉnh Nghĩa mà thôi, bây giờ Chuẩn úy đi xuống quận Thanh Hải là có lính Đại đội ra rước về đơn vị.
Hắn cám ơn Đại úy trưởng phòng và rời khỏi tiểu khu, đón xe ôm đi xuống quận Thanh Hải, tới nơi gần 5 chiều, hắn thấy 1 anh lính Địa Phương Quân đang đứng bên xe ôm chờ hắn, vừa thấy hắn anh lính chạy chào hắn và hỏi
– Có phải Chuẩn úy về Đại đội 129 không? Hắn trả lời
– Phải
Anh lính nói:
– Em tên là Tư ra rước Chẩn úy đây.
Hắn ngồi sau xe ôm anh tư nầy chở hắn đi qua những làng mạc càng lúc chạy dần về phía núi, có những lúc hắn và anh lính nầy phải đi bộ vì sình lầy và nước ngập, sau cùng qua 1 làng chàm thì tói nơi Đại đội hắn đóng quân.
Vào tới cổng trại, hắn thấy 1 Trung úy còn trẻ tự giới thiệu tên là Xám, Đại đội trưởng, và 1 Thiếu úy tên Hiển Đại đôi phó, và 1 Chuẩn úy cao ráo đẹp trai tên Minh tự giới thiệu Trung đội trưởng trung đội 1, khóa 12 Đồng Đế, 1 Chẩn úy mang phù hiêu khóa 2/ 73 tên Tính tự giới thiệu Trung đội trưởng trung đội 2, và 1 Thiếu úy tên Độ là Trung đội trưởng vũ khí nặng, còn Trung đội 3, và 4 chưa có Trung đội trưởng, chỉ có Trung sĩ nhất xử lý thường vụ trung đội thôi. Sau khi cơm nước xong xuôi, ông Trung úy nói:
– Chuẩn úy về Trung đội 3 bước đầu có gì thắc mắc thì hỏi Trung sỉ nhất Hùng.
Hắn theo Trung sĩ nhất Hùng về Trung đội 3, về tới trung đội hắn thấy lính đã mắc võng trong hầm cho hắn rồi, tới nơi hắn leo võng và nằm ngủ thẳng cẳng cho tới sáng, để mặc cho Trung sỉ nhất Hùng bố trí quân canh gát. Ngày đầu tiên của hắn như thế.
Sáng hôm sau thức giấc, Trung sĩ nhất Hùng rủ hắn xuống làng Chàm uống cà phê, làng Chàm Bỉnh Nghĩa cách đồn của Đại đôi 129 ĐPQ khỏang chừng 500m, Trung sĩ Hùng bảo bọn lính Trung đội 3 đi theo vài người mang theo súng đạn cá nhân và sau đó cả bọn đi bộ xuống làng Chàm. Họ dẫn hắn tới ngôi nhà tương đối khang trang nhất làng, họ nói đó là nhà ông trưởng làng làng Chàm. Vô tới quán chỉ có vài ba bàn và mấy cái ghế, chắc có lẻ ít khách thăm viếng! Cả bọn tìm bàn lớn cùng ngồi với nhau, gọi cà phê uống và ăn sáng bằng bánh mì óp-la, đang uống cà phê thì trời mưa lớn, Trung sỉ Hùng, nói với hắn vùng này mỗi lần mưa có lẽ chừng vài ngày luôn. Cà phê được đem ra bởi ông chủ quán, vì quán nhỏ vá ít khách, ông chủ làng Chàm vừa là chủ vừa là bồi bàn luôn. Bưng ly cà phê lên uống, nước cà phê vừa vô tới cổ họng hắn là hắn muốn mửa ra liền. Trời ơi! cà phê ngoài đường ở Sài gòn còn ngon hơn nhiều. Lúc bấy giờ, hắn cảm thấy những ngày bình yên ở Sài gòn đi học, đi tán gái, coi ci nê, dạo chơi trên đại lộ Tự Do, uống cà phê gần rạp Rex nghe nhạc Trịnh, thật là thần tiên. Bây giờ hắn mới cảm thấy mắc nợ ơn nghĩa của người lính chiến nằm bờ ngủ bụi, đổ xương máu hy sinh hạnh phúc gia đình làm bổn phận một người lính chiến gìn giữ an bình cho nhân dân, bổng nhiên hắn cũng cảm thấy hãnh diện lây. Dù sau hắn cũng bắt đầu là một người lính tác chiến đang làm bổn phận của mình mặc dù chỉ là ngày thứ hai ra đơn vị, nhìn thấy bản mặt hắn như vậy, T/sỉ Hùng hỏi:
– Bộ cà phê dở lắm hả Chuẩn úy?
Hắn gật đầu, hắn hỏi:
– Ở tỉnh nầy có chổ nào ca phê ngon không?
T/sỉ hùng trả lời:
– Có quán cà phê Hương của Tr/tá Tiến Tham mưu trưởng Tiểu khu và cà phê Tùng của Tr/ tá Ba là nơi các sĩ quan Tiểu khu thường ra uống, khi nào rảnh Chuẩn úy hỏi chuẩn úy Minh trung đôi 1 là biết.
Thầy trò ngồi tán dóc cho tới 11 giờ trưa thì phải đi về đồn dù rằng trời mưa tầm tả trên đường về đồn. Nếu ai từng ở vùng quê thì biết cảm giác lầy lội và dơ bẩn của phân bò, dê, trâu ỉa ngoài đường và nó hôi thúi như thế nào, đồn hắn thì gần làng Chàm nên đại đôi hắn hưởng trọn mùi hôi thúi đó. Về tới đồn, Tr/úy Xám mời hắn ăn cơm, nói dùng cơm cho nó oai chứ chỉ có cơm và cá khô nướng. Hắn thấy bọn lính cũng ăn như thế không phải Sĩ quan là ăn uống sướng hơn lính đâu, lính tác chiến là như thế đó, trong bửa ăn Tr/úy Xám nói ổng là sĩ quan Sư đoàn 23 về, còn Th/úy Hiển và Th/úy Độ là thuộc ĐPQ, họ mang thẻ quân nhân màu đỏ, còn chúng tôi các sĩ quan SĐ thì mang thẻ màu vàng. Bọn hắn nói chuyện và ăn cơm rất là vui vẻ, sau đó hắn về lại vị trí đóng quân của trung đội 3 của hắn và bắt đầu những ngày tháng gian khổ của người lính chiến ĐPQ…
Sáng thứ sáu đầu tuần của tháng 11 năm 1973 đó là ngày đầu tiên hành quân của một Chuẩn úy sữa không kinh nghiệm chiến trường. Từ sáng sớm, 1 người lính mang súng đạn dùng xe honda chở Thiếu úy Hiển đại đại phó đi tới quận Thanh Hải nhận phóng đồ hành quân, khỏang 10 giờ sáng thì Thiếu úy Hiển về tới đồn, Trung úy Xám đại đội trưởng kêu các trung đội trưởng lại và mỗi người nhận địa điểm hành quân, đóng chốt… Các trung đôi trưởng về lại chỗ trung đội của mình đóng và bảo mọi người chuẩn bị hành quân, đầu tiên hắn gọi Tr/ sĩ nhất Hùng và chỉ địa điểm trong bản đồ mà trung đội sẽ đi tới địa điểm hành quân. Vừa nhìn địa điểm trong bản đồ Tt/ sĩ nhất Hùng nói:
– Tôi biêt địa điểm này, Chuẩn úy đừng lo.
Hắn nghe nói vậy cũng yên tâm, và sau đó hắn nói Tr/ sĩ nhất Hùng tập họp trung đội 3 lại và hắn kiểm tra lại vũ khí, đạn dược và lương thực cho 3 ngày hành quân. 11 giờ sáng thì trung đội hắn bắt dầu di chuyển, trung đội hắn có 3 tiểu đội, tiểu đội 1 của Tr/sĩ Thành sẹo chỉ huy gồm 11 người, tiểu đội 2 của Tr/sĩ Lượm cũng được 11 người còn tiểu đội 3 của H/sĩ nhất Quản chỉ huy gồm 10 người còn hắn thì có 1 truyền tin mang máy PC 25 tên Giùm, và y tá tên Năm, còn thằng tà lọt tên là Tư mang lương thực cho hắn. Hắn nói lần đầu đi hành quân thì theo thứ tự từng tiểu đối 1,2, 3, sau đó sẽ thay phiên nhau sau những lần hành quân khác, hắn bảo lính đi ngoài đồng trống thì mỗi người cánh nhau 10 m để tránh pháo kích chết chùm.
Chao ôi ! dùng con mắt thường thì thấy dãy núi mật khu 19 gần mà sao hắn dẫn trung đội đi gần 2 giờ. Cái khốn nạn cho hắn là hắn lội hành quân ở vùng hai mà lại mang đôi bốt đờ sô từ trong quân trường Thủ Đức cho nên vừa bắt đầu leo lên núi là hắn cứ vấp té mãi, làm lính cười quá trời, Tr/sĩ nhất Hùng bảo hắn kỳ sau chuẩn úy nên mua đôi giày map của Mỹ mà đi chứ đi bốt đờ sô lội núi không được đâu. Leo lên nửa đồi hắn, không biết bao nhiêu lần trèo lên lại té tuột xuống làm bộ trây di mới muốn rách luôn, mồ hôi thì đổ ra mặc dù trời không nóng, khi leo lên tới đỉnh thì hắn hết xí quách luôn. Có lẽ hắn còn chất thư sinh trong người hơi nhiều. Bây giờ thì hắn thấm thía những bài học hành quân trong quân trường đi bộ vài cây số lèo tèo trên con đường bằng phẳng mà hắn còn cảm thấy mệt huống chi là leo núi cao. Sau 1 lúc nghỉ mệt và nhìn địa thế của núi, hắn bắt đầu phân công mỗi tiểu đội một phía phòng thủ và canh gác, hắn phân công giống như hình tam giác còn hắn và 3 người tà lọt , y tá , truyền tin thì ở giữa, hắn dặn mật khẩu cho các tiểu đội, khi ổn định vị trí xong xuôi hắn gọi máy PC 25 báo cáo tình hình cho Tr/ úy Xám Đại đội trưởng. Trung úy Xám dặn hắn nếu có bị tấn công thì gọi cho ổng liền, khi vừa tới nơi là thằng tà lọt giăng võng và nấu cơm liền, cả bọn ăn cơm chung cũng lại cá khô và cơm thôi, họ phải ăn trước khi trời tối vì trời tối đâu thấy đường vả lại cũng không thể đốt đèn hay dùng đèn pin xoi được vì đó là điều tối kị nhất. Những bài học trong quân trường mà các ông thầy là những sỉ quan tác chiến từ những đơn vị thiện chiến về đã giảng dạy cho bọn hắn, những thằng SVSQ mặt còn non chẹt, hỉ mủi còn chưa sạch. Hôm nay hắn nhớ lại và hắn nói với lính hắn không được làm cái gì có anh sánh trong đêm tối vì việt cộng có thể thấy và bọn nó sẻ pháo kích, hắn còn hăm nếu tên lính nào mà hắn thấy làm tỏa lộ ánh sáng và nói chuyện thì biết tay hắn.
Đêm đến nằm trên võng, hắn thấy ánh sáng mờ xa trước mặt, đó là thành phố đang lên đèn trong rất đẹp vì trời rất trong, hắn đóan giờ nầy thiên hạ đang đi chơi, nhảy đầm cuối tuần hay chui vào các quán ba nhậu cho say hay vào quán cà phê nghe nhạc và tự dưng hắn nhớ câu nhạc “rừng lá xanh xanh cây phủ đường đi thành phố sau lưng ôm mộng nghĩ gì …..giữa rừng già tôi có thấy gì đâu, sao không hát cho người giết giặc trên cầu…..“. Hắn cảm thấy lạnh vì trên núi gió thổi và cái lạnh của núi rừng vùng hai làm buốt thân người của hắn, hắn cố chịu đựng hắn đâu dám than vì tự ái, sợ những người lính của hắn đánh giá thấp về cấp chỉ huy không biết chịu đựng gian khổ, hắn cảm thấy thèm điếu thuốc Captan cho lòng bớt lạnh nhưng hắn không dám vì hắn biết nếu hắn không chịu đựng được mà hút đốt thuốc thì rất nguy hiểm cho trung đội. Bật hột quẹt lên thì dễ mà sao tay hắn cảm thấy quá nặng, hắn biết chỉ cần ánh sáng lên là VC sẽ pháo vào chổ hắn và binh sĩ của hắn ngay ( đang ở trong điểm mật khu VC mà).
Hởi những người bạn sống trong thành phố, trong khi các bạn đi chơi, dạo phố, nghe nhạc nhâu nhẹt, ngủ yên ổn không nghe bom đạn có bao giờ các bạn có nghĩ gì giờ nầy có những người lính chiến đang nằm trên núi cao, trên đầm lầy sình đọng, đang thức canh giác giữ vững sự tự do, yên ổn cho các bạn, họ đang chịu đựng sự giá buốt của cái lạnh lẽo, gió thổi cắt da, đỉa đeo hút máu, có người ngập nước vì trời mưa tầm tả vẩn phải canh gác không dám bỏ vị trí phòng thủ mà tìm nơi trú mưa hay tìm một chỗ núp nào đó cho riêng họ, vì họ biết nếu họ bỏ vị trí đó chỉ 1 tít tắt thôi, mọi sự sẽ đổi khác và nhiều sinh mạng sẽ mất.
Tôi không phải là nhà văn nên không có những câu văn hay để diễn tả gian khổ của người lính chiến, tôi chỉ là 1 sĩ quan cấp thấp của binh chủng ĐPQ & NQ, và tôi chỉ biết diễn tả sự gian khổ của các binh sĩ ĐPQ & NQ mà họ đã anh dũng chịu đựng từng giai đọan mà tôi cùng họ chia sẻ sự đổ máu, sự sống còn, sự sợ hải và chịu đựng gian khổ cùng nhau không phân biệt giai cấp sĩ quan hay binh sĩ hay binh chủng nào đó và đó là ngày đầu tiên của 1 sự gian khổ bắt đầu của 1 thằng Chuẩn úy sữa của tôi.
Đầu tháng 12 thì có sự thay đổi về đại đội trưởng “con đỉa ” của đại đội hắn, ( đại đội hắn mang phù hiệu nền xanh và gạch vàng vắt chéo nên hắn gọi đùa là đại đội con đỉa) và người mới về thay là Đ/úy Tôn thất Kỳ mới vừa tốt nghiệp khóa bộ binh cao cấp, ông nầy từng làm trung tâm trưởng trung tâm hành quân tiểu khu và từng là đại đội trưởng đại đội trinh sát Sư đòan 23, với những kinh nghiệm như thế hắn không hiểu tại sao ông ta bị điều về làm đại đội trưởng đại đội con đỉa của hắn giống như là bị đì, ( sau nầy Đ/úy Kỳ làm tiểu đòan trưởng 280 thần sói gần 75). Ngày bàn giao đại đội con đỉa giữa Tr/úy Xám và Đ/úy Kỳ chỉ trong buổi sáng, sau đó 1 màn giới thiệu các sĩ quan trung đội trưởng với Đại úy Kỳ, rồi các sĩ quan trung đội lại về chổ đóng của trung đội họ.
3 ngày sau, đại đội con đỉa phải hành quân ở quán thẻ thuộc quận An Phước, nhiệm vụ là bảo vệ trung đội pháo binh diện địa, đại đội hắn phải bảo vệ vòng ngoài cho pháo binh của Trung úy Minh ( trung đội PB), đóng ở trong rừng gần chiến khu đông mật khu nên ai nấy phải cẩn thận canh gác mặc dù trời mưa tầm tả không ngớt từ ngày di chuyển cho tới nay gần 1 tuần đã có 4 nguời lính thuộc đại đội hắn phải chở đi bịnh viện quân đội ở tiểu khu vì bị sốt rét. Lần đầu tiên hắn thấy lính bị sốt rét mặt mày xanh dờn, môi tím, mắt lờ đờ, luôn kêu lạnh quá, mặc dù đắp nhiều chân vào mà vẩn kêu lạnh, miệng thì run cằm cập, nếu người lính bịnh 2 ngày thì phải di chuyển hay sốt cao y tá đại đội tiêm thuốc vẫn không hết thì chở đi binh viện ngay không thì họ sẽ chết (cái cực nhất là phải khiên người bịnh từ trong rừng ra tới quốc lộ 1 vì xe cứu thương chỉ tải thương ở quốc lộ 1, họ không thể lái xe vô rừng tải bịnh nhân, lúc nầy là mùa mưa nên trời mưa tầm tả, 2 người khiên cáng 1 người lạnh thấy mẹ, và người thì ướt át, thân thể thì hôi rình, sĩ quan, lính tráng đều như nhau, họ là lính ĐPQ & NQ nên họ không có trực thăng tải thương như sư đòan. Mọi thứ đều là khiêng cáng cứu thương, bạn thử tưởng tưởng là 2 người lính vai mang vũ khí khiêng cáng cứu thương và thêm vài người lính đi bảo vệ gần hết tiểu đội, họ phải đi dưới trời mưa tầm tả đi lầm lủi 7-10 cây số trong rừng đi khỏang gần 2 giờ, đôi khi trược lên té xuống vì đường đi trong rừng vùng có nơi cao, nơi thấp… tải thương xong rồi lại phải lội bộ vô rừng lại) những cái cực khổ nầy không phải là lính chiến thì không bao giờ hình dung ra sự cực khổ như vậy.
Đóng quân ở trong rừng gần quán thẻ được 1 tuần thì ban đêm hắn nghe tiếng “cà ùm” của cọp, bà mẹ nó từ nhỏ tới lớn ở thành phố Sài-gòn sướng quá trời, có thấy ông 30 ở sở thú trong chuồng, chứ ai nghe tiếng ông cọp ở ngoài bao giờ. Nếu có nghe thì sợ vải đái ra quần luôn, hắn cũng vậy, nằm trên võng nghe tiếng “cà ùm” rất gần, từ lính tới quan ai cũng sợ cả, mặc dù ban đêm kéo hàng rào kẻm gai phòng thủ ở ngoài mỗi trung đội nhưng ai nấy cũng sợ vì nghe con cọp nó chạy vòng chung quanh mà ớn. Hắn sợ nên niệm bồ tát quan thế âm luôn miệng mà đêm thì không dám ngủ. Sáng hôm sau, hắn dắt trung đội 3 đi tuần, ra tới ngoài hàng rào kẻm gai bà mẹ ơi hắn và lính đều thấy nhiều dấu chân cọp, nhìn dấu cọp thầy trò hắn xanh mặt, VC thì không sợ vì còn thấy và có thể bắn nhau, còn cọp biết nó ở chung quanh mà không thấy nó cái đó mới đáng sợ, vì không biết lúc nào nó nhảy ra vồ lấy mình, nội tưởng tượng như vậy mà thầy trò hắn xanh mặt phải không các bạn. Hắn cũng vậy 1 tuần lễ trôi qua tối nào cũng nghe tiếng “cà ùm” như vậy cả đại đội hắn ăn ngủ không yên, cả quan lẩn lính đều cầu mong lịnh hành quân mau hủy bỏ.
Lúc đầu cả đại đội cứ tưởng cọp có 1 con, nhưng mấy người lính lâu năm nói vùng nầy có 2 con cọp lận. 1 con còn sợ thấy mồ nghe nói 2 con làm hắn và bọn lính còn sợ hơn, hắn hỏi Đ/úy ĐĐT làm sao bây giờ, ổng nói tối lâu lâu bắn vài tiếng súng, để cho cọp nó sợ, ổng nói khi bắn phải báo trước để khỏi lộn chạm địch. Có 1 hôm hắn dắt lính đi tuần về phía núi thì nghe mùi thúi xông lên giống như có con vật hay người bị chết, lần theo mùi thúi, hắn và lính thấy 1 con bò bị cọp ăn thịt còn dang giỡ, Trung/ sĩ Thành sẹo nói như vậy là có cách giết cọp rồi, ổng nói cọp ăn thịt bò không hết thường đi lại ăn lần nửa. Nghe thế, bọn hắn gài min claymore, và vài chục trái lựu đạn gần con bò chết, nếu con cọp lại ăn bò chết lần nửa chỉ cần vướng mìn hay lựu đạn nổ tung ra là cọn cọp sẽ dính máu ngay. Quả nhiên tối hôm đó, cả đại đại nghe tiếng nổ vang dội của lựu đạn và mìn, cả bọn biết là cọp trúng mìn rồi, nhưng vì trời tối không có ai dám đi tới chổ con bò nên phải chờ đến sáng. Sáng sớm, hắn dắt trung đội đi kiểm soát, quả nhiên thấy con cọp bị thương nằm gần đó nhưng chưa chết vì 4 chân của nó và thân mình đều trúng miểng nên con cọp không nhảy trốn được. Trung /sĩ Thành sẹo dùng súng M16 nã vài viên vào đâu cọp làm nó chết luôn. Hắn bảo thằng tà lọt lấy cái nanh cọp và 2 móng cọp cho hắn, thằng tà lọt dùng lưỡi lê đục móng cọp hoài mà không ra, chỉ lấy được 2 móng cọp hắn cất trong ba lô định khi nào vế phép Sàigòn sẽ làm đồ trang sức cho con hắn đeo. Ngay trong ngày đó, TK biết Đại đội hắn giết được con cọp, Đ/tá TKT cho xe GMC vào vùng mật khu chở xác cọp về TK (đời chó đểu thiệt, lính bị bịnh gần chết thì khiêng ra tận quốc lộ 1 mới có tải thương, còn cọp chết thì có nguyên chiếc GMC vô mật khu chở xác cọp). Trên đường chở xác cọp về TK, lính cứ nghe hai bên hông rừng tiếng con cọp cái chạy theo rống “cà ùm” hoài, làm tóan lính sợ thấy mẹ.
Ở rừng gần 2 tháng thì hắn được Đ/úy cho 2 ngày phép miệng ra tỉnh chơi, hắn bảo 1 tiểu đội mở đường theo hắn ra gần Quán Thẻ rồi hắn đón xe đò vào thành phố, tới TK lơn tơn đi bộ thì thấy 2 tên sĩ quan mang phù hiệu Thần Long bảng tên cùng khóa với hắn hóa ra thằng Ướt, và thằng Linh cùng ở chung TĐ 373 Thần Long ở Song Pha. Cả bọn vào cà phê Hương của Tr/tá T. Tham mưu trưởng TK uống cà phê, hắn thấy quán tòan là sĩ quan và quán đối diện là của Tr/ tá T. Tiểu khu phó cũng đông khách lắm và tòan là sĩ quan tiểu khu. Hóa ra là 2 phe, nhưng quán cà phê Hương thì có 3 cô con gái của Trung tá T. cô Hương chị lớn 19t, mới cặp bồ với Ch/úy Minh đại đội hắn, cô thứ hai 18t thì cặp bồ với Ch/úy Phước TĐ Thần Hổ 231, còn cô út là tên Tâm 17t thì Ch/úy Dũng 2/73 thuộc đại đội hắn muốn tán cô nàng nhưng cô nàng chưa chịu. Ngồi nói chuyện thì thằng Ướt nói cùng khóa có mấy thằng về Đại Đội đóng ở phi trường như Quý 35 (942) Duy Minh 32 (944). Cả bọn đều ở xa nhà nên uống cà phê ban ngày, tối thì nhâu tại quán xong thì về KS Kim Sơn ngủ. Chiều ngày hôm sau, hắn đón xe đò về Quán Thẻ vô rừng tiếp, còn bọn thằngƯớt, Linh… thì đón xe đò về Song Pha. Đó là lần đầu tiên hắn được đi phép.
Về tới trung đội, nằm trên võng hắn cứ nghĩ về cà phê Hương, phải nói cà phê ngon thiệt, nhạc cũng hay và dàn amp-li thì hết xảy không thua gì những quán nhạc Sài gòn. Hán thấy hình như cô bé Tâm 17t có vẻ thích hắn, đang nghĩ lung tung thì có lịnh hành quân khẩn cấp. Cấp trên cho 1 tiếng chuẩn bị trung đôi 3 ( tới phiên xoay vòng) đi phục kích ở làng chài Thái An. Có xe sẽ chở xuống duyên đòan 27 và đổ bộ 3 giờ sáng vì có tin mật báo du kích VC về thu thuế và kiếm lương thực thêm. Xe đổ trung đội hắn xuống duyên đòan 27 vào nửa đêm theo kế họach, trung đội hắn lên hải thuyền vào lúc 1 giờ sáng tới điểm đổ quân là 3g, phục kíck là 4g, nhưng kế họach bị trật đường rầy vì hải thuyền chở trung đội hắn tới điểm hẹn là 5 g sáng, ở trên biển 5 g sáng thì sáng như ngày vì mặt trời mọc, tới nơi hắn cho tiểu đội 1 đổ trước, tàu vừa tiến vào bãi cát, lính vừa nhảy xuống nước lội vô bờ thì bị CKC súng bắn sẻ tử trên núi bắn xuống, làm tóan Tr/sĩ Lượm bị thương 3 mạng, bị bắn sẻ Hải thuyền liền lui thuyền ra biển lại, trưởng toán hải thuyền Trung sĩ Hải quân hỏi ý hắn tính sau, hắn nói trên 2 chiếc hải thuyền có 4 khẩu đại liên 50, hắn nhờ Hải quân đổ bộ vào bờ biển lần nửa và trong lúc 2 tiểu đội còn lại đổ độ thì Hải quân cứ dùng súng đại liên bắn vào đỉnh núi phía CKC vừa bắn để bọn hắn đổ bộ. Trong lúc đó, súng đại liên mặc dù không thấy rõ VC nhưng Hải quân họ vẩn bắn về phía đỉnh núi như mưa rào, nhờ vậy tóan đổ bộ sau vào bờ an toàn. Vào tới bờ xong thì tàu Hải quân lui ra và quay về duyên đòan 27 luôn, còn trung đội hắn thì đổ quân vào rừng dừa gần làng, hắn bảo y tá năm băng bó vết thương cho 3 người lính của tóan Tr/sĩ Lượm. Họ chỉ bị thương nhẹ ở tay và chân, 1 người không đi được phải làm cáng khiêng, rồi hắn gọi máy báo cáo tình trạng tổn thương cho Đ/úy Kỳ và hắn bảo Tr/sĩ Lượm ở lại cùng T/đội, còn hắn dắt 2 tiểu đội còn lại lên núi lục xoát. Lục xoát gần 2 g nhưng không thấy VC, hắn bảo binh sỉ nấu ăn rồi nằm chờ ở đó gần tối rồi di chuyển. Hắn gọi máy báo cáo xin lịnh rút quân, bỏ cuộc phục kích vì bị lộ rồi, Đại úy Kỳ bảo hắn cứ dàn quân ở đó chờ ổng hỏi lại Chiến đòan 1 của Thiếu tá Quang coi làm sau. Hắn đợi gần nửa tiếng thì có lịnh cho rút bằng đường bộ về Bỉnh Nghĩa, sáng ra sẽ có quân xa chở về Quán Thẻ lại ( rút về Bỉnh Nghĩa là con đường gần nhứt cở 10 Km). Gần 8 g tối hắn mới cho lịnh trung đội rút vì rút ban ngày sẽ bị bắn sẻ vì phải qua 1 bãi biền bằng cát, không có nhà cửa và cây cối để ẩn núp. Lúc trung đội hắn rút vế thì trời lại mưa tầm tả làm cho bọn hắn đã cực, mệt nhọc lại mệt nhoài thêm, đất cát ngấm mưa bám vào thân thể bọn hắn, không có áo mưa thầy trò lầm lủi đi như những bóng ma trong đêm, sao tang thương quá ! Ai bảo lính ĐPQ + NQ là sướng, đi bộ gần 2 g sáng mới về tới Bỉnh Nghĩa, khi rút về bằng đường bộ hắn phải liên lạc bằng máy P25 liên lạc các đơn vị bạn, báo cáo trung đội hắn sẽ di chuyển qua vùng họ nếu có gài mìn bẩy làm ơn gở ra, nếu không báo cáo như vậy đơn vị bạn cứ tưởng VC di chuyển mà gọi pháo binh hay họ bắn nhằm là bỏ mẹ cả đám, chết lảng xẹt. Hắn dắt trung đội đi về qua bãi biển cát giống như là đi trên xa mạc Sahara. Bà mẹ nó hành quân gì mà không tiên liệu bao lâu tới nơi gió thổi ngược tàu đi sẽ chậm, 3 giờ sáng trời vẩn tối và 5 g sáng trên biển khác nhau sáng trưng như ban ngày may là bị thương có 3 mạng , nếu bị chết vụ nầy mới lảng xẹt, đã vậy vụ lội bộ mới là khốn nạn, đi mệt bỏ mẹ đi được 5km hắn thấy cây M16 và 2 cấp số đạn và 10 trái lựu đạn cá nhân sau nặng quá trời luôn ( nếu có ai từng đi trên cát cở 10 cây số họ sẽ thấy cặp giò của họ rời thân thể họ như trung đội hắn vậy) giờ nầy nghĩ lại mà tôi còn thấy oải…
BK Nguyễn Văn Quan
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Saigon 30-4-1975 – Trung tá Nguyễn Văn Long tự sát trước tượng đài
Trung tá CSQG Nguyễn Văn Long tuẫn tiết dưới chân tượng đài Thủy Quân Lục Chiến (trước tiền sảnh Hạ Nghị Viện VNCH) sau khi Dương Văn Minh đầu hàng CS.
Cộng Sản chiếm được Miền Nam đã mười năm rồi mà tôi vẫn còn tiếp tục bị chúng kêu lên, kêu xuống hỏi cung. Tuy thế, nhờ những thời gian đợi đi “làm việc” như thế tại các trại giam như ThanhLiệt ở Hà Nội; Kho Ðạn, Hội An, và Hòa Sơn ở Quảng Nam mà tôi có dịp gặp nhiều cán bộ Việt Cộng cấp cao bị bắt về tội “kinh tế” hoặc “tham ô” và cả “bạo loạn” nữa. Cũng như đồng bào nhiều giới phạm tội “phản động hiện hành”, vượt biên, vượt biển, đưa hối lộ, xâm phạm hoặc phá hoại tài sản xã hội chủ nghĩa v..v… , nên tôi biết nhiều và biết sớm những biến cố xảy ra bên ngoài thế giới “cải tạo” hơn đa số anh chị em khác trong tù.
Tôi đã nghe tin trung tá Nguyễn Văn Long tự tử từ lâu. Nhưng vì có những trường hợp sự thật khác với tin đồn. Biết đâu đó không là một người khác mà lại trùng tên với người mà tôi thân thương; hơn nữa, anh Nguyễn Văn Long của tôi là một tín đồ Ky Tô Giáo, lẽ nào lại tự hủy mình. Do đó, tôi vừa âm thầm đau khổ về hoàn cảnh chung, vừa bán tín bán nghi về phần anh Long. Ðến khi tôi được nghe thêm hai viên “thủ trưởng”, một thuộc Cục Xuất-Nhập Khẩu 2 tại “thành phố Hồ Chí Minh”, một thuộc Ban Hậu Cần Quân Khu 5, khẳng định là họ có nghe đề cập trong nội bộ cơ quan rằng, ngoài một số tướng lĩnh miền Nam đã tự sát chứ không chịu đầu hàng hay trốn chạy ra nước ngoài, có một trung-tá Cảnh-Sát tên Nguyễn Văn Long, từ Ðà Nẵng di tản vào, đã tự tử chết phía trước trụ sở Quốc Hội Việt-Nam Cộng-Hòa, tôi mới tin chắc đó chính là anh Nguyễn Văn Long.
Anh Long vĩnh biệt cõi đời giữa cảnh lửa bỏng dầu sôi, bạn bè nói riêng và đồng bào nói chung thì còn bận lo tự cứu lấy mình, trong khi kẻ thù thì càng thù hận anh thêm, lấy đâu có những vòng hoa và những nén nhang cùng những dòng lệ thương tiếc tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Năm 1982, tại trại bí mật Thanh Liệt, thuộc Huyện Thanh Trì, Hà-Nội, là nơi giam cứu các phần tử quan trọng nhất, mà đa số là cán bộ Ðảng, nhà nước và bộ đội ở cấp trung uơng, do bộ Nội-Vụ trực tiếp quản lý, tôi mới được một “bạn tù” cho biết thêm một chi tiết quý báu về cái chết hùng vinh của trung tá Nguyễn Văn Long. Ðó là Phạm Trung Linh, một trung tá bộ đội Bắc Việt, nguyên trưởng Tiểu Ban Thanh Tra & Xét Khiếu Tố thuộc Trung Ương Cục Miền Nam (tổng thư ký của một tổ chức đảo chính quân sự dự định hành động vào đêm 24 rạng ngày Nô-En năm 1979 nhưng bất thành nên bị bắt cùng với một số tướng tá và cán bộ cao cấp khác) xác nhận rằng gã đã có trông thấy bức ảnh chụp cảnh trung tá Nguyễn Văn Long mặc cảnh phục chỉnh tề nằm chết trước một tượng đài Chiến Sĩ Quốc Gia phía trước trụ sở Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa, in trên bìa trước của một tạp chí Hoa Kỳ, trong kho sách báo ngoại quốc mà Việt Cộng ở một số cấp cao đã sưu tầm để nghiên cứu những gì có liên quan đến Việt Nam.
Thế là từ đó không những tôi nguôi tủi sầu mà trái lại còn cảm thấy lòng mình vui thỏa cho anh Long; báo Mỹ mà đã đăng lên thì khắp thế giới đều biết. Anh, cùng với những vị anh hùng tuẫn quốc khác trong biến cố lịch sử 30-4-1975, đã nói lên được hùng hồn và cụ thể tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam yêu chuộng Tự Do trước quyền lực của cộng sản bạo tàn.
Thuở ấy, vào khoảng 1950, miền Trung có hai hệ thống an ninh: một bên là Pháp với cơ quan Su^reté fédérale (Liêm Phóng Liên Bang) và Police franc,aise (Cảnh Sát Pháp), một bên là Việt Nam với cơ quan Công An & Cảnh Sát Quốc Gia. Anh Nguyễn Văn Long tùng sự bên Su^reté Fédérale (chính trị) của Pháp, trong số vài người phụ trách nội ô Thần Kinh; còn tôi thì bên Cảnh Sát (hình sự) của Việt Nam. Tôi kiêm cả việc sáng tác, ra báo, và dựng kịch cho sở làm, và cho riêng mình.
Chúng tôi thường uống cà phê ở quán Lạc Sơn, nhà hàng lộ thiên trên lề đại lộ Trần Hưng Ðạo, quay lưng vào chợ Ðông Ba. Dạo ấy, tôi viết cuốn truyện “Trai Thời Loạn” chống Pháp xâm lược và Bảo Ðại bù nhìn, nên bị bắt giam; sau nhờ phái đoàn của các nhân sĩ Cao Văn Tường, Cao Văn Chiểu, cùng với nhà báo Phạm Bá Nguyên và cả Giám Ðốc Thông Tin Lê Tảo can thiệp với Thủ Hiến Phan Văn Giáo, tôi mới được trả tự do. Ra tù, tự nhiên tôi được thiện cảm của nhiều người hơn.
Sau đó, anh Long đã chuyển qua Công An Việt Nam; và Vân Sơn Phan Mỹ Trúc cũng như Như Trị Bùi Chánh Thời thì vào Sài Gòn; kẻ thành ký giả tên tuổi, người nên luật sư tài danh. Sau khi gia nhập vào đúng hàng ngũ thích hợp để phụng thờ Chính Nghĩa Quốc Gia, trải qua mấy chục năm trời gắn bó với Lực Lượng Cảnh Sát & Công An Việt Nam Cộng Hòa, anh Nguyễn Văn Long tận tụy phục vụ, và đã nổi tiếng là một trong số những cấp chỉ huy tích cực, cương trực và liêm khiết nhất trong ngành.
Về mặt tư pháp, trung-tá Nguyễn Văn Long đã thực hiện đúng khẩu hiệu “pháp bất vị thân”. Ngay đối với chính đồng nghiệp, bất cứ nhân viên Cảnh Sát nào mà phạm tội hình sự là anh truy tố ra Tòa thẳng tay; anh nói, để lành mạnh hóa nội bộ, và nêu gương thượng tôn luật pháp cho người dân. Bởi thế, anh bị nhiều người gọi bằng cái tên “Long Lý”, ý nói anh chỉ biết chiếu lý chứ không vị tình.
Sau hiệp định Paris 1973, tình hình xã hội miền Nam thật là rối ren. Bên ngoài thì Cộng Sản Bắc Việt công khai ồ ạt đổ thêm quân và chiến cụ, vũ khí vào tấn công ta; bên trong thì các tổ chức xưng danh đối lập và lợi dụng tự do quá khích, tiếp tay với các phần tử nằm vùng, ngày càng gia tăng mức độ và cường- độ gây hỗn loạn trật tự và làm suy thoái tinh thần các lực lượng Quốc Gia. Về mặt chính trị, CSQG vừa phải đối phó với các bộ phận đảng, mặt trận, nhà nước và nhân dân của CSXL và “Việt-Cộng”, vừa phải chống đỡ các phần tử, phe nhóm chủ bại và nội ứng cho kẻ thù.
Về mặt tệ đoan xã hội, ung nhọt tràn lan khắp nơi. Riêng về nạn dịch nhũng nhiễu tham lam, công tác đương đầu đã gặp quá nhiều khó khăn. Hầu như kẻ nào làm bậy cũng đều nấp dưới danh nghĩa của một chính đảng, tìm sự che chở của một đoàn- thể hay một số cấp lãnh đạo nào đó trong chính quyền. Ðụng vào họ, dù họ là kẻ phạm pháp, có thể là tự rước lấy tai họa vào mình. Thế mà anh Long đã dám xúc tiến điều tra, lập hồ sơ truy tố nhiều nhân vật đáng sợ.
Với tôi, anh Long đã chịu nhượng bộ: nếu gặp nhân viên đặc cảnh liên can đến các vụ hình, anh để tùy tôi xét trước, để tránh oan ức, trở ngại cho công tác chìm. Ấy là nhờ anh hiểu rõ phương thức tình báo và đặt nhu cầu chống cộng lên hàng ưu tiên. Ðó là quyết định linh động duy nhất trong cương vị chánh sở pháp cảnh của anh Long.
Kỷ niệm đậm nét nhất trong đời tôi về anh Long là vụ rút lui ra khỏi Ðà Nẵng, thành lũy cuối cùng của Quân Khu I Việt Nam Cộng Hòa.
Lúc ấy vào khoảng 10 giờ tối ngày 28-3-1975. Trên máy vô tuyến truyền tin thuộc hệ Cảnh Sát sắc phục nội thành Ðà Nẵng, tôi nghe một đài gọi đài trung ương, nhưng không có ai trả lời. Lát sau, có một đài khác cất tiếng: “Ðừng gọi vô ích, bọn chúng chạy hết cả rồi!” Tôi bèn hỏi đài hồi nãy, thì được báo cáo là có nhiều người ăn mặc lộn xộn, vũ khí cầm tay, đang nép hai bên lề đường từ hướng Hòa Cường tiến vào.
Tôi dùng làn sóng của hệ đặc cảnh ra lệnh cho Sở tác vụ vùng và Sở đặc cảnh sở tại đối phó, đồng thời gọi máy điện thoại cho đại tá Nguyễn Xuân Lộc, Tư Lệnh Cảnh Lực Vùng I, lúc ấy đang cùng có mặt với các Chánh sở vùng và một số chỉ huy cảnh lực tỉnh tập trung tại đây.
Lát sau, anh Long đến ngồi tại phòng truyền tin của ngành đặc cảnh vùng, nơi đây có máy âm thoại của cả 2 hệ nổi chìm địa phương lẫn hệ toàn quốc, và máy điện thoại bưu điện, điện thoại quân sự, cách dăm mười phút lại gọi hỏi tôi tình hình thế nào. Khoảng sau 11 giờ đêm, từ đài đặc cảnh Vùng I trung tá Long gọi tôi. Lần nầy tôi nghe giọng anh run lên, lời lẽ trịnh trọng khác thường: “Tôi xin mời ông Phụ Tá đến ngay để tổ chức phòng tuyến và chỉ huy đội ngũ tử thủ cùng với anh em chúng tôi!” (Tử-thủ là lời cam kết của trung tướng Ngô Quang Trưởng đọc trên đài phá thanh Ðà Nẵng suốt chiều hôm nay).
Anh Long kể lại với tôi là anh được lệnh, cùng với mọi người có mặt tại trụ sở Vùng, Chánh sở các sở, chỉ huy của một số tỉnh, có cả mấy viên đại tá quân đội, theo đại tá Lộc xuống bến Giang Cảnh, lên tàu Giang Cảnh, rời bến hướng ra biển Ðông. Anh hỏi đi đâu thì đại tá Lộc trả lời: “Chúng ta di tản vào Nam!” Anh thấy máu uất xông lên đỉnh đầu, la lên: “Giặc chưa tấn công, thuộc viên vẫn còn ở lại, mà cấp chỉ huy đã lén lút bỏ đi như thế này là hèn!” Lộc cố giải thích: “Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn đã rút đi rồi. Trong tình huống này chúng ta đành phải phụ lòng anh em mà thôi!” Long bèn rút súng, nhìn thẳng vào mặt từng người với vẻ khinh thường, và bảo tàu ghé vào bờ cho anh trở lui. Và anh đã về trụ sở, để cùng chiến đấu, sống chết có nhau với anh em.
Tôi tin tưởng và kính phục anh Long vô cùng; nhưng tôi thấy rõ là nếu đến sở thì sẽ dính kẹt ở đó, khó lòng điều động hoạt động bên ngoài, nên nói là tôi bận họp. Anh xin mượn tôi một máy vô tuyến cầm tay, và đòi đến họp với tôi. Anh Long đã đến nhà tôi, hỏi tôi ở đâu, tôi đáp là đến Ðặc Khu, nhưng tôi đến Bộ Tư Lệnh Quân-Ðoàn; nơi đây vắng hoe. Anh hỏi, tôi đáp là vào phi trường, nhưng tôi đến Sở An Ninh Quân Ðội; nơi đây cũng chẳng còn ai. Anh không gặp tôi, lại hỏi; và tôi lại dối, tránh anh. Cứ thế mà tôi đến khắp các nơi vốn là chỗ dựa cho niềm tin của dân nhân.
Ðến sau nửa đêm thì cả thành phố đổ dồn qua cầu Trịnh Minh Thế để qua bến cảng, bãi biển quận III, để mong chạy vào SàiGòn. Tôi cùng Tác Vụ, thám sát đặc biệt, quan sát xong tình hình bên đó, len lách trở về thì thoáng dưới ánh đèn pha thấy rõ hình dáng của anh, mặc cảnh chiến phục, gác khẩu M-16 ngang đùi, mặt mày đỏ gay, tức uất nhưng đầy cương nghị, lái xe vụt qua. Ðó là hình ảnh cuối cùng của trung-tá Nguyễn Văn Long, mãi mãi hằn sâu trong ký ức tôi.
Gần sáng ngày 29-3-1975, Việt Cộng pháo kích hải cảng, phi trường. Mờ sáng, đặc công từ hướng núi Non Nước bắt đầu tấn công vào. Ðến trưa, tôi gọi máy về cho đại-úy Nguyễn Văn Tuyên, Chánh sở nghiên kế, lúc đó còn ngồi tại chỗ, ra lệnh giải tán Trung Tâm Hành Quân của Ðặc Cảnh Vùng I, là bộ phận sau rốt của chính quyền VNCH còn hoạt động đến phút cuối cùng, và cho phép thuộc viên tự tìm phương tiện thoát thân. Xế chiều, tôi mới kiếm được chiếc thúng, rời bờ, liều lĩnh trước các làn đạn pháo kích của địch và trực xạ của chính bạn mình. Và tôi không còn gặp lại anh Long.
Cái chết của trung tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long làm tôi suy nghĩ rất nhiều. Anh đã phục vụ dưới nhiều chế độ khác nhau, đảm trách công tác ở nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng vẫn giữ mình trung chính khiết liêm. Anh tuy lớn tuổi nhưng vẫn trẻ trung trong lối sống và trong công việc, không bị lứa trẻ sau này vượt qua.
Trong lúc nước nhà đang bị cộng sản xâm lăng, anh ý thức được chúng là kẻ thù số một của toàn dân, sự nghiệp chống Cộng phải là ưu tiên số một của mọi người yêu quý Tự Do, nên anh phải góp phần vào. Thành quả chống cộng của CSQG nói chung, là đã có lúc hạ được nhiều tên cộng tặc hơn cả con số chúng bị thiệt hại trên chiến trường, do đó, anh tự nhận lãnh vào bản thân mình một phần trách nhiệm đối với đối phương về những tổn thất mà chúng hứng chịu nặng nề. Nhưng trên tất cả là sự sụp đổ thảm khốc của Việt Nam Cộng Hòa, mà đối với Tổ Quốc, Dân Tộc, Lịch Sử, và Thế Giới, thì cái trách nhiệm vô cùng lớn lao ấy nhất định là của mọi người, trong đó có anh. Nên anh tự xử, cũng như các anh hùng Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn v..v…, để tạ tội với tiền nhân và quốc dân, và để nói lên tinh thần bất khuất của người chiến sĩ Tự Do, không chịu hạ mình đầu hàng kẻ thù.
Cái chết của anh Long làm tôi hãnh-diện vô cùng. Tuy người chết không mong được đời nhắc đến, nhưng bổn-phận của người sống là phải phát huy những tấm gương trí dũng ngời sáng ấy, để nhờ đó mà mình tin tưởng và phấn khởi tiếp tục lo toan sự nghiệp chung.
Bây giờ, đối với toàn dân, Nguyễn Văn Long không còn là một trung tá, là một Chánh sở tư pháp, là một viên chức an ninh, là những gì gì khác nữa …. mà anh đã và vẫn còn là đại diện cho bất cứ chiến hữu ưu tú nào, không phân biệt cấp bậc, chức vụ, ngành nghề, hình sự hay phản gián, phái mạnh hay phái đẹp. Anh đã vinh quang đi vào lịch sử với tư cách một anh hùng của Dân Tộc Việt Nam nói chung và Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia nói riêng.
Lê Xuân Nhuận
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Thức dậy đi em
Sao ngủ vùi lâu vậy?
Biển Đông kia, giặc đã cướp lấy Hoàng Trường Sa...
Thức dậy đi em
Bọn tham quan đã thâu đất, lấy nhà
Đừng để mẹ ôm ngoại già than khóc.
Thức dậy đi em
Dân chúng mình đã bị hóa thân nô bộc
Cho lũ phản bội Quê Hương, tâng bốc ngoại xâm
Hãy mau thức dậy đi em, đời chúng ta nay đã bị giam cầm
Kể từ dạo ấy, 30 tháng Tư 75 nô cộng.
Thức dậy đi em để đứng lên giành cuộc sống
Đất mẹ 40 năm?
Nay như đống tro tàn
Thức dậy đi em, gia đình mình giờ khốn khổ lầm than
Mau thức dậy, kẻo muộn màng nô lệ.
Thức dậy đi và nghe anh kể
Chúng ta giờ đây phận giun dế thấp hèn
Đảng đã biến chúng ta thành khối dân đen
Để cho chúng dễ chèn dễ trị.
Hãy thức dậy cùng anh rèn Tinh Thần Vô Úy
Ta cùng nhau nung chí chống ngoại xâm
Dân tộc giờ đây?
Hàng hàng lớp lớp đã bị giam cầm
Để làm nô bộc cho giặc ngoại xâm tặc Hán.
Mau thức dậy em ơi cùng anh em bè bạn
Mau vươn vai súng đạn lên đường
Đừng ngủ vùi trên thống khổ của dân tộc của Quê Hương
Hãy thức dậy và can trường chiến đấu.
Thức dậy đi anh
Thức dậy đi anh mai lên đường chinh chiến
Phận làm trai phải dâng hiến cho non sông
Dân Tộc
Quê Hương?
Nhìn tan nát cõi lòng
Mẹ rướm lệ chờ mong con cứu nước.
Hỡi những mảnh đời lầm than xuôi ngược
40 năm dài, hỏi dân được gì chăng?
Khố rách, áo ôm, cơ cực, nhọc nhằn...
Mà cuộc sống vẫn khó khăn tiếp nối.
Thức dậy đi anh, cùng anh em đồng đội
Cùng toàn dân mở lối thoát đọa đày
Trùng điệp đau thương khắp chốn bủa vây
Vận mệnh đất nước?
Trong tay anh, tay chị.
Ngọc bất trác thì ngọc kia nào quí
Là thanh niên, ý chí nhẽ lãng quên?
Nợ nước, con dân, há chẳng phải đáp đền?
Vai u thịt bắp...ngại lằn tên mũi đạn?.
Thức dây đi anh, chớ ngủ vùi năm tháng
2020 giặc Hán chiếm non sông
"Mật Nghị Thành Đô", đảng đã đồng lòng
Đẩy dân tộc vào cùm gông nô lệ.
Nhẽ cúi mặt chịu qui hàng đồ tể?
Há sinh ra làm giun dế phận hèn?
Lẽ nào mò mẫm mãi trong tăm tối đêm đen?
Kiếp trâu ngựa...dần quen cuộc sống!.
Hãy thức dậy dẹp Hán ô phản động
Noi gương cha ông diệt Hán Tống Mông Nguyên
Vùng lên đấu tranh hỡi trai gái khắp ba miền
Xóa bỏ cộng sản, đem bình yên cho đất mẹ.
Mau thức dậy và đứng lên anh nhé
Là thanh niên chớ là kẻ cúi đầu
Việt tộc kiêu hùng, chẳng là ngựa, chẳng là trâu
Há chấp nhận kiếp nô hầu nhục nhã?.
Hãy thức dậy để giữ gìn non sông biển cả
Thức dậy đi và vội vã tiến lên đường
Góp bàn tay để gìn giữ Quê Hương
Dựng nước Việt trên con đường Dân Chủ.
Mai thanh bình hương hoa đơm nụ
Đã sạch tan bóng cờ rũ mưa sa
Cứu lấy Việt Nam, gìn giữ sơn hà
Khắp đất nước vang lời ca chiến thắng.
Nguyên Thạch
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Vị trí và địa hình cứ điểm Charlie trên bản đồ quân sự
Quả tình nếu không có trận chiến mùa Hè năm 1972, thì cũng chẳng ai biết đến Charlie, vì đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum.
Charlie, “Cải Cách,” hay “C,” đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Pô-Kơ và Đường 14, đông-bắc là Tân Cảnh với mười hai cây số đường chim bay, đông-nam là Kontum, thị trấn cực bắc vùng Tây Nguyên.
Từ xa xưa cho đến khi ngọn đồi này bị tràn-ngập. Nó vốn không hề có tên. Charlie chỉ là một check point trên bản đồ quân-sự cho các cuộc hành-quân hoặc một chiến-dịch. Và cái tên Charlie cũng chỉ là nhất thời, nó cũng như những check point khác như Delta, Yankee, Metro . . . chỉ được sử-dụng trong một giai-đoạn có thể là rất ngắn cho đến khi hết cuộc hành-quân hoặc chiến-dịch mà thôi. Qua đến chiến-dịch hoặc cuộc hành-quân khác, những check point cũ sẽ không còn được sử-dụng nữa. Chúng có thể sẽ được sử-dụng bởi những tên mới khác.
Charlie cái tên được đặt đầu mùa 1972 cho một ngọn đồi để tiếp nhận định mệnh tàn khốc trong cuộc chiến trùng trùng.
Người ở lại Charlie, Cố Đại tá Nguyễn Đình Bảo (phải),
Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn Song Kiếm Trấn Ải 11 Dù (với Đ/U Dù Đoàn Phương Hải. trái)
Tháng 4 năm 1972 Sư đoàn 320 Bắc Việt bao vây cứ điểm Charlie. Những cơn mưa pháo kinh khiếp, tàn nhẫn đạt tới “ điểm đứt hơi, điểm vỡ của chiến trận”(chữ dùng của PNN) phủ chụp xuống đồi Charlie, nối tiếp những đợt cường tập biển người của Cộng quân. Ngày 12 tháng 4 hỏa tiễn 122 mm pháo trúng hầm chỉ huy, Trung tá Nguyễn Đình Bảo (Tiểu Đoàn Trưởng ) tử trận. Một trong những con sói đầu đàn của binh chủng Nhảy Dù sau mười hai năm ngang dọc chiến trận đã chấm hết phút đó trên cao độ 1020 trông về bốn hướng chập chùng đồi cao tiếp núi thẩm. Trường Sơn ác độc nhận thêm một hình hài !
Thiếu tá Lê Văn Mễ lên thay thế và tiếp tục cuộc “thánh chiến” tử thủ Charlie.
Sau 7 ngày giao chiến không được tiếp tế, hết thực phẩm nước uống, cạn đạn dược. Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù được lệnh bỏ cứ điểm. Trong màn đêm họ rút về hướng Đông Bắc. Một số binh sĩ bị thương quá nặng đã tình nguyện ở lại cầm chân địch quân để đồng đội an toàn rời tử địa. Tiểu đoàn rút khỏi đỉnh đồi gần nửa cây số những cơn địa chấn dội xuống từ pháo đài bay B-52 san bằng Charlie, Cứ Điểm Thép của 11 Nhảy Dù cháy hừng hực trong cơn bão lửa, trong vụn vỡ nát tan của núi rừng hoang dã Tây Nguyên, chẳng còn gì nguyên vẹn ngoại trừ hồn phách của những người lính Nhảy Dù can trường của Tiểu Đoàn Song Kiếm Trấn Ải !
Nửa ngày ở Dakto
Sớm mai bắn súng lên trời
Chào cô gái Thượng mang đời trên lưng
Buổi trưa xuống, phố tưng bừng
Chào nhau, Mũ Đỏ không mừng không lo.
Vào Charlie
Trăm con chim lạ về rừng
Cờ treo hai ngọn, lẫy lừng chiến khu
Kontum gió núi, sương mù
Theo quân vào cuộc, sinh, từ, quê hương
Ba lô, súng trận, sa trường
Tiếng quân reo, dấy biên cương ngút ngàn
Điệu sầu nửa phím tơ loan
Áo phong sương đã mấy lần tả tơi
Xung phong vũ khúc lên đồi
Bom rơi, pháo nổ, thây người ngả nghiêng
Tóc tai phủ mặt đêm đen
Đầy trời khói lửa Tam Biên, bảo bùng
Một thời ngang dọc kiêu hùng
Charlie gẩy cánh thiên thần. Tiếc Thương
Cánh dù lộng gió muôn phương
Vào lòng đất mẹ, máu xương ngậm ngùi
Tay khô đốt sáng đỉnh trời
Lập loè đốm lửa, thắp đời quạnh hiu.
Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập
Để kính nhớ cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu đoàn trưởng 11 Dù, và đồng đội tôi. Để tưởng nhớ đề lô Tiểu đoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù, Trung úy Nguyễn Văn Khánh, Chuẩn Úy Sơn, ‘ và 10 đệ tử trong đó có hai đệ tử chúng tôi là Hạ sĩ Hạnh, Binh nhì Nhỏ còn ở lại Charlie… Để tưởng nhớ anh em Không Quân đã hy sinh để bảo vệ chúng tôi suốt trận đánh lịch sử này…
CHARLIE bây giờ
Ngày hôm nay, khi chúng tôi lại một lần nữa đến viếng ngọn đồi đã lừng-danh này. Cũng là ngôi mộ mang tên Charlie chôn kín niên-trưởng Cố Đại-tá Nguyễn-Đình-Bảo, Tiểu-đoàn Trưởng Tiểu-đoàn 11 – Song Kiếm Trấn Ải con sói đầu đàn của Sư-đoàn Nhảy Dù. Cùng bao chiến-sĩ Dù thuộc cấp của Ông.Từ một người phụ-nữ lam-lũ với đồng-áng, nương, rẫy. Đến những người hành-nghề Honda ôm tại Pleiku, Kontum nói chung, ở Sa-châu nói riêng v.v… tất thảy họ đều biết ngọn đồi Charlie. Họ sẽ chỉ-dẫn rất tận-tình và rõ-ràng những chi-tiết cho những ai muốn đến nơi đó.
Một ngày nào đó, khi non-sông gấm-vóc của chúng ta được tươi-sáng lại, những trang sử hào hùng đẫm máu và nước mắt của người lính VNCH trên “địa linh” CHARLIE sẽ được hồi sinh cho thế hệ con cháu đời sau chiêm ngưỡng.
Nếu không có sự hy-sinh của Tiểu-đoàn Song Kiếm Trấn Ải Hè Đỏ Lửa 1972. Hẳn trong dân-chúng miền Tây-nguyên đã không bao giờ biết đến nó, nhớ đến nó. Cố Đại-tá Nguyễn-Đình-Bảo và các chiến-hữu của Ông đã định danh cho nó rồi : Đồi CHARLIE.
Nếu trên Ql 14, tại Dakto chúng ta sẽ phải rẽ trái (hướng Tây). Rồi mất thêm 49 cây số nữa mới tới được Charlie tại thị-trấn Sa-châu.
Nhưng khởi-hành từ Kontum chúng ta đi, thì tới ngã ba Trung-chính chúng ta rẽ trái (hướng Tây) và chỉ mất hơn 20 cây số là đến Charlie (Sa-châu) mà thôi. Như vậy, nếu ta lấy 3 điểm Kontum, Dakto và Charlie, thì chúng sẽ tạo ra một hình tam-giác mà Charlie là đỉnh có cạnh đáy là Kontum và Dakto.
Đồi Charlie và khu dân-cư Sa-châu, được nhìn từ Sa-bình cách Sa-châu 9 cây số.
[IMG]http://vietbf.com/forum/attachment.php?
Lối vào dễ-dàng nhất và gần nhất để đến Charlie.
attachmentid=1326098&stc=1&d=1547179689[/IMG]
Charlie, Ngọn Ðồi Quyết Tử
Ðại Tá Nguyễn Ðình Bảo
Tất cả ám danh đàm thoại truyền tin của Pháo binh Nhảy Dù đều bằng 4 con số, thí dụ như pháo kích gọi là 3113, bắn hiệu quả gọi là 3134, và tên các giới chức gọi bằng 3 con số, thí dụ như tên chúng tôi gọi là 314, mọi tần số truyền tin đều chuyển qua hệ thống của đề lô cho dể tác xạ, và bài này sử dụng bạch văn cho độc giả dể hiểu.( Tiếng động cơ trưc thăng hoặc tiếng phi cơ vận tải dồn dập rồi đáp xuống). Những ngày gần cuối tháng 3 năm 1972, Tiểu đoàn 2 Pháo binh theo Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù đi hấp tại Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp ở Phước Tuy, giửa chương trình huấn luyện có một cuộc hành quân nhảy dù và có phi pháo yễm trợ bằng đạn thật. Cũng như những lần tập trước đây, bải đáp là một cánh đồng trống với nhiều bụi tre lúp xúp, khi toàn bộ Tiểu đoàn 7 và một Pháo đội Dù với 6 cây đại bác 105 ly kiểu M102 được trang bị vũ khí đầy đủ nhảy từ phi cơ 123 an toàn đáp xuống đất, là mở đầu ngay cuộc tấn công mục tiêu bằng đạn thật vào một khu rừng sát chân núi ( tiếng đạn nổ trên mục tiêu). Cũng vào thời gian này Pháo binh Nhảy Dù vừa mới được trang bị loại đạn cay CS 105 ly nên Tiểu đoàn của chúng tôi được lệnh phải bắn thử loại đạn này, tôi cùng một Tiền Sát Viên hình như là Trung úy Ðỗ Trọng Dụng được lệnh đeo mặt nạ ngồi dưới hầm gọi tác xạ bắn ngay trên đầu để thử công hiệu.
Cuộc bắn thử này có nhiều giới chức quân sự cao cấp đứng trên một khán đài ở xa để quan sát. Tôi vừa hồi hộp vừa tự trấn an, ai bảo đi pháo binh, sinh nghề tử nghiệp mà, nếu điều chỉnh xa mục tiêu thì mất mặt KBC 4522, còn nếu bắn ngay trên đầu thì chiếc mặt nạ thổ tả này có chịu nổi hàng chục trái đạn cay hay không. Tôi chưa kịp lo ra thì Tiểu đoàn thông báo cho tôi xuống pháo đội lảnh hai đề lô đi tiền sát cho Tiểu đoàn 9 Dù. Một chiếc xe Dodge đưa ngược chúng tôi về Saigon, thầy trò vừa xuống xe vào trình diện Ban 3 Tiểu đoàn 9 thì lại được một công điện về trình diện Tiểu đoàn 11 của Trung Tá Nguyễn Ðình Bảo để đi Kontum.
Những bất thường trong đời lính làm cho tôi không thấy có điều gì bất tường cả trong lệnh điều động này. Ðầu năm 1972, chiến sự đã trở nên sôi động nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến được gọi là chiến tranh ý thức hệ này cũng chẳng được giới sĩ quan trẻ như chúng tôi để ý nhiều, chỉ quan niệm đơn giản đến tuổi là phải đi lính để bảo vệ quốc gia. Mới đổi về Nhảy Dù đúng một năm mà đã tham dự hàng chục cuộc hành quân lớn nhỏ, cái chết lúc nào cũng cận kề làm tôi chẳng còn ý niệm gì về những cuộc ra đi của bạn bè về vùng 5 da ngựa bọc thây. Vì ở đâu, Nhảy Dù có đụng là đụng thứ thiệt, chơi thật sự với đại pháo 130 ly, với xe tăng T54, và biển người cỏ rác nhất định sinh Bắc tử Nam để thực hiện cho bằng được mộng làm tôi đòi cho cộng sản quốc tế của Bắc Bộ Phủ, ở đâu, chúng tôi cũng phải một đánh ba là thường xuyên, còn nếu không Bộ Tổng Tham Mưu chẳng bao giờ chịu sử dụng cả. Nhưng ở đây, Charlie, chúng tôi phải một đánh mười, Mặt trận B3 của cộng quân với Sư đoàn Thép 320, Sư đoàn 968, chưa kể các Trung đoàn pháo và phòng không dầy đặc đã sẳn sàng đợi Tiểu đoàn “Song Kiếm Trấn Ải ” danh hiệu 11 Dù hai cây đèn cầy.
Phi cơ bay ra Pleiku ở một đêm, rồi hôm sau theo đường bộ ra Kontum, rồi đi Tân Cảnh theo Quốc lộ 14, dọc đường nhiều quán thịt rừng mọc lên làm tôi nhớ lại Saigon, những bửa còn tiền thì đấu với đại võ sĩ Rémy Martin hoặc cạn túi thì chơi với võ sĩ hạng lông rượu rắn tại Quán thịt rừng Tân Vạn, gần hậu cứ Nguyễn Huệ. Xe qua Căn cứ B5 rồi Diên Bình, những người lính Ðịa Phương Quân đứng trên cầu vẫy tay cười cười, cái khung cảnh bình yên này chỉ trong thời gian ngắn nửa thôi là có chuyện lớn xảy ra, đó là cái bất tường của đời lính. Tại Bộ Chỉ Huy Lữ đoàn 2 Nhảy Dù ở Võ Ðịnh, tôi nhận bản đồ hành quân từ Tiểu đoàn 1 Pháo binh Dù của Thiếu Tá Bùi Ðức Lạc (hiện ở San Jose), là vị Tiểu Ðoàn Trưởng tiền nhiệm của Tiểu đoàn tôi, và chuẩn bị nhảy vào Charlie. Sĩ Quan Liên Lạc Pháo Binh Tiểu đoàn 11 Dù tức đề lô chúa là Trung úy Lưu Văn Ðúng danh hiệu 310, một đàn anh chưa bao giờ chịu học nhảy dù, đã triệu tập chúng tôi lại phân chia và thông báo nhiệm vụ, Trung úy Nguyễn Văn Khánh danh hiệu 311, cũng là bạn cùng khóa với tôi là đề lô Ðại đội 111 của Trung úy Thinh. Chuẩn Úy Sơn danh hiệu 312, đề lô Ðại đội 112 của Ðại Úy Hùng móm. Chuẩn Úy Trưng danh hiệu 313, đề lô Ðại đội 113 của Ðại Úy Hùng mập. Trung úy Nguyễn Văn Lập danh hiệu 314, đề lô Ðại đội 114 của Trung úy Phan Cảnh Cho (hiện nay ở Quận Cam). Ðại đội 110 của Ðại Úy Nho đóng chung với Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11. Pháo binh từ Căn cứ 5 danh hiệu 415, Pháo binh Căn cứ 6 danh hiệu 416, Căn cứ Yankee của Pháo đội D1 ở hướng bắc danh hiệu 417, và Pháo đội C1 danh hiệu 418 với 1 trung đội 155 ly C 220 danh hiệu 419 ở hướng Nam yễm trợ trực tiếp hoặc tăng cường cho chúng tôi theo yêu cầu. Nhìn một dọc các căn cứ hỏa lực yễm trợ cho Tiểu đoàn 11, tôi nhận thấy ngay tình hình rất là nghiêm trọng, một cuộc tapi khốc liệt sẻ diễn ra trên ngọn đồi vô danh nào đó nằm sâu trong dảy Trường Sơn.
Sáng ngày 25 tháng 3 năm 1972, Tiểu đoàn 11 được trực thăng vận bốc vào vùng hành quân, phi cơ bay ngang Tân Cảnh nơi đúng một năm trước đây, sau Hạ Lào, một số đơn vị của Sư đoàn Nhảy Dù từ Quãng Trị bay thẳng về đây giải tỏa Căn cứ 5 và Căn cứ 6. Cuộc hành quân ngoạn mục nhảy ngay trên đầu địch làm cho chúng bất ngờ và nhiều trăm tên bị tan xác tại đây, lúc này cuộc hành quân đang đi vào giai đoạn chót, tôi từ Tiểu đoàn 183 Pháo binh dã chiến Long Khánh về trình diện Thiếu Tá Lạc tại vùng hành quân và được vị Tiểu đoàn trưởng chịu chơi cho 4 ngày phép về Saigon coi như một đặc ân về Pháo Binh Nhảy Dù, đồng thời xù luôn 4 ngày trọng cấm mà Trung úy Toàn, Chỉ huy hậu cứ ( hiện ở tại San Jose) tặng cho tôi về tội dám cãi lại quan anh ngay lúc tôi còn mặc bộ đồ xanh bộ binh về trình diện Dù. Từ trên trực thăng nhìn xuống, ở xa về hướng nam, con sông Poko màu bạc uốn khúc theo dẩy Trường Sơn rồi đổ ra cắt ngang quốc lộ 14, đẹp như một nét chấm phá của thiên nhiên, và dẩy Trường Sơn ở hướng Tây trùng điệp những đồi núi ngút ngàn với hầu hết là những ngọn đồi trọc lá trơ cành, giơ những cánh tay khẳng khiu lên không như cầu nguyện cho một thiên đường vừa đổ vở. Hai chiếc Cobra bay phía trước hộ tống cho những chiếc chuồn chuồn UH1B đáp xuống căn cứ Charlie, không có màn bắn dọn bải đáp vì đã có quân ta đáp xuống trước, những người lính dù nhảy xuống trực thăng rồi tản ra hai bên ghìm súng phòng thủ sát giao thông hào, và tôi đã có mặt tại ngọn đồi vô danh mà sau này đã đi vào chiến sử Nhảy Dù như một địa danh bất khuất không thể nào quên của người lính quốc gia, cũng như làm cho tất cả quân dân cả Miền Nam biết đến qua bản nhạc “Người Ở Lại Charlie” của Trần Thiện Thanh.
Theo sự bố trí, Ðại đội 113 nằm phía bắc dưới chân đỉnh Yankee, cách Tiểu đoàn gần 3 cây số. Ðại đội 111 thủ Charlie cao độ trên 1000 mét. Còn lại Bộ chỉ huy Tiểu đoàn và các Ðại đội 110, 112, và 114 đóng quân tại căn cứ C2 cùng dẩy núi thoai thoải nhưng cao hơn và cách Charlie gần nửa cây số. Nhìn trên bản đồ thì tất cả các đơn vị của Tiểu đoàn 11 Dù đóng quân trên một trục Nam Bắc khá thẳng để dể quan sát về hướng Tây giáp với Kampuchia, nơi đường mòn Hồ Chí Minh rẻ ra các ngả vào ba biên giới Việt Miên Lào ở phía Tây Bắc, còn Căn cứ biên phòng Benhet thì nằm sâu gần biên giới hơn. Suốt trận chiến Charlie nổi tiếng trong quân sử, Benhet vẫn bình yên vì cộng quân dồn mọi nổ lực để nhổ cái gai Charlie nằm chận cuống họng xâm nhập vào Tỉnh Kontum qua ngả Dakto. Charlie là một căn cứ hỏa lực nhỏ của Mỹ bỏ đã lâu giờ trông rất hoang tàn, khi Tiểu đoàn 11 đổ quân xuống, sửa sang lại giao thông hào và giăng lại kẽm gai cho tiện việc phòng thủ. Bao quanh Charlie là những ngọn núi cao thấp với cao độ trên một cây số. Phía Tây dưới chân Charlie có một con suối nhỏ dốc đứng rất khó lên xuống nhưng nguồn tiếp tế nước uống và tắm rửa cũng từ con suối này. Trận chiến diễn ra ác liệt tại quanh khu vực này nên gọi chung là trận Charlie.
Ðại đội 114 đóng vòng cung phía Nam chịu trách nhiệm nặng nhất vì địa thế thoai thoải dể đánh lên , và ngoài phòng tuyến cở 50 mét có nhiều cây cao rất dể cho cộng quân nấp vào đó mà tấn công, và trận chiến bắt đầu cũng từ hướng này trước. Chưa bao giờ tôi thấy một Ðại đội trưởng cho đào một cái hầm trú ẩn hình chử nhật to và kiên cố đến như vậy với nắp hầm vừa thân cây vừa bao cát cao đến gần 1 mét, Trung úy Cho bảo tôi ra gần ngoài tuyến tìm chổ đào hầm, tôi nói tôi yễm trợ cho Trung úy, nếu Trung úy nằm đâu thì tôi nằm đó. Trung úy Cho đành để tôi ở chung trong hầm, nhờ vậy sau này tôi thoát chết dưới làn pháo khủng khiếp của cộng quân. Tôi bảo hai đệ tử Hạnh và Nhỏ ra gần ngoài tuyến tìm chổ đào hầm, còn máy PRC 25 thì đưa cho tôi, và thỉnh thoảng chạy vào xem tôi có cần gì không. Chiều xuống, như thường lệ khi đi trận, tôi gọi 417 tác xạ phòng thủ lập một số tuyến cản theo hình vòng cung ngoài vòng vị trí khoảng 100 mét ( có tiếng pháo binh bắn điều chỉnh), xong yêu cầu gửi yếu tố tác xạ đến các căn cứ khác để bắn theo yêu cầu khi cần. Nhờ những tuyến cản này mà chúng tôi đã giử được phía Nam C2 cho đến ngày Charlie thất thủ. Ðêm đầu tiên, tôi ngủ không được vì những tiếng rì rì của xe cơ giới chạy suốt đêm, từng đoàn xe Molotova và có cả tiếng xe tank chạy trong dảy Trường Sơn, hướng Tây và Tây Nam cách căn cứ Charlie không xa, quân xa cộng quân mở đèn chạy công khai như xa lộ không người. Tôi chấm một số điểm đâu đó trong rừng tình nghi là đường mòn theo hướng xe chạy để bắn quấy rối ( harrasing fire), khi pháo binh ta bắn, quân xa địch tắt đèn ngưng chạy, hết loạt đạn, chúng mở đèn chạy tiếp, đêm nào cũng thế, ngoài tầm bắn của pháo binh ta nên bọn chúng gần như công khai di chuyển. Chắn chắn chúng đang mở chiến dịch lớn lắm nên mới ồn ào điều quân như thế này, và Quân đoàn II cũng biết như thế nhưng không hiểu tại sao không cho B52 dập.
Thiếu Tá Lê Văn Mễ
Ngày hôm sau 26/3/1972, tôi theo Thiếu Tá Lê Văn Mễ, Tiểu đoàn phó danh hiệu Mê Linh (hiện nay ở San Jose), dẫn hai đại đội 112 và 114 đi đánh giải vây cho một đơn vị Tiểu đoàn 2 Dù ở hướng Nam. Mục tiêu là một đỉnh đồi cách Charlie khoảng gần 1 cây số, cộng quân thuộc Trung đoàn 3/ 320 đã chiếm ngọn đồi này và xác một Chuẩn Úy của ta vẫn còn đó. Gần đến nơi, Thiếu Tá Mễ gọi tôi bắn dọn đường xong chuyển xạ bằng một quả khói lên ngay trên đỉnh đồi cho phi cơ nhận diện đánh bom, rồi pháo binh làm tiếp .
-418 đây 314 xin tác xạ. Hết.
-314 đây 418 xin tác xạ. Hết.
-Lệ Hằng phải 1.5 lên 2.3. Một khói nổ chạm. Bắn khi sẳn sàng. Hết.
-Lệ Hằng phải 1.5 lên 2.3. Một khói. Hết.
Ðộ hai phút sau.
-Bắn. Trả lời.
-Bắn. Hết. (tiếng pháo nổ)
Thiếu Tá Mễ liên lạc với đứa con đi đầu, xong xin điều chỉnh tác xạ
-Hướng 800. Gần lại 100. Một khói . Hết.
-Hướng 800. Gần lại 100. Hết.
Ðến quả đạn khói thứ hai thì điều chỉnh vào đúng mục tiêu, dứt trái khói, Mê Linh nói tiếng Anh như gió liên lạc thẳng với phi cơ Phantom Mỹ nhào xuống thả bom, rừng núi rung chuyển như cơn địa chấn vì mục tiêu cách chúng tôi chỉ hơn 100 mét ( tiếng bom nổ). Khi phi đội rời mục tiêu, tôi xin pháo đội bắn hiệu quả 10 tràng vừa đạn nổ vừa delay để phá hầm, khẩu 3 (đang điều chỉnh) bắn trước một quả (mổi pháo đội có 6 đại bác tức là bắn 60 quả). Mê Linh dặn tôi khi dứt loạt đạn này là xung phong. Tôi trình Mê Linh để tôi chuyển xạ ra phía sau thành một tuyến lửa không cho tụi nó chạy, phải chấp nhận giao chiến với mình. Mê Linh OK. Dứt loạt đạn hiệu quả, pháo đội chuyển xạ thành một tuyến phía sau. Trung đội đầu tiến dè dặt vì địa hình không cho phép và đạn AK từ phía trên đỉnh đồi bắn xuống xối xả không xung phong được. Từng khinh binh Dù tiến lên theo thế chân vạc. Ðạn AK và M16 thi nhau nã từng loạt (tiếng súng nổ rời rạc). Dù len từng gốc cây, người này bắn che cho người khác tiến, và cuối cùng lên được triền đồi. Toán đầu tiên báo cáo sơ khởi dứt được hai vịt con (tức Việt cộng) tịch thu được 1AK, 1 CKC, và tìm được xác viên Chuẩn úy Tiểu đoàn 2 Dù cùng một binh sỉ. Mê Linh bảo ráng lên đến đỉnh xem có gì không. Vừa dứt lời thì tiếng depart đại bác từ phía Tây bắn tới cắt ngang hông Dù. Xịt oành, Xịt oành. Tiếng đại bác này là sơn pháo 75 ly không giật có sơ tốc độ cao nên vừa nghe tiếng depart là nổ liền. Dù bị đánh ngang hông, vừa dứt loạt pháo là bộ binh địch tràn lên cũng từ phía Tây. Mê Linh cho toán đi đầu lùi lại tránh pháo, kết quả ta chết một, bỏ lại một M16. Lúc này thì địch đã ngưng pháo chỉ dùng súng nhỏ. Mê Linh cho rút toàn bộ về nhập lại một vì sợ địch cắt đôi. Ðịch vẫn tiếp tục bắn theo. Mê Linh bảo tôi bắn chận.
-418 đây 314. Mục tiêu. Hướng 1000. Gần lại 200. Một nổ. Bắn khi sẳn sàng. Hết.
Lúc này Pháo đội C1 đã biết chúng tôi bị đánh ngang hông nên đã sẳn sàng bắn chận. Oành. Một tiếng nổ lớn như tiếng sét đánh ngay trên đầu, mãnh đạn bay túa túa, tiếng cành cây bị chém gảy rớt xuống đất nghe rào rào, xong hoàn toàn im lặng, có thể nói một tiếng thở kế bên cũng nghe rỏ. Chiến trường hoàn toàn im tiếng súng. Tôi biết đạn đạo chạm cành cây nên nổ trên không thay vì rớt xuống đất mới nổ, vì gấp rút quá nên tôi không cho bắn đầu nổ cao, mặc dù tôi đã trừ hao yếu tố nhưng đường tên đạn đạo chạm nổ trên cành, và đã vô tình ngăn chận địch không dám liều lĩnh truy nã. Tôi trình với Mê Linh:
-Thiếu Tá hỏi xem con cái mình có bị gì không, còn tụi vịt con tôi đoán thế nào cũng lãnh đủ trái này, mình giử nguyên yếu tố này, nếu tụi nó lên, mình dứt nó liền. Lúc này thì Cobra cũng lên vùng nhưng chưa bắn. Tiểu đoàn trừ cũng dừng lại dàn hàng ngang đề phòng địch xung phong. Một lúc sau, tôi nghe nói Trung úy Lạc, Ðại đội 112 là người bạn cùng Khóa 27 Thủ Ðức với tôi bị mãnh đạn chém ngay đầu bị thương nặng. Tôi bò lại thấy Lạc nằm gần đó mở đôi mắt lờ đờ, đầu quấn băng, máu tuôn xối xã. Tôi nằm xuống ghé sát tai Lạc nói:
– Tao xin lổi, tao bắn đó, chỉ có mình mày lãnh trái này, còn tụi nó không dám tấn công nửa nên chưa biết thế nào, mày mà chết tao ân hận lắm, phải bắn chận nếu không tụi nó tràn lên.
Lạc chỉ mĩm cười héo hắt, còn tôi thì hết sức buồn bả hỏi tiếp:
-Mày thấy thế nào.
-Ðau, không còn cãm giác gì hết. Thấy Lạc tỉnh táo như thế tôi càng lo hơn vì người bị thương nặng trước khi chết thường rất bình tỉnh như thế. Tôi lại nói với Lạc như nói với một người sắp chết:
-Một lần nửa, tao xin lổi mày. Nói xong tôi bò lại phía Thiếu Tá Mễ. Nhờ quả đạn đại bác này mà địch không dám đuổi theo. Trời đã gần chiều nên có lệnh trở về căn cứ, Lạc cũng được trực thăng di tãn. Trong lúc hai đệ tử lo ăn uống còn tôi xuống suối tắm. Tại đây tôi gặp Trung Tá Bảo cũng vừa đi xuống tắm, thân hình ông cao lớn và nụ cười rất dể thương, nhưng tôi thấy lạ một điều là ông mặc áo giáp khi đi tắm, và chỉ có ông là duy nhất mặc áo giáp mà thôi. Ðiềm gì đây, hay là ông đã linh cãm được điều gì.
Sáng ngày 27/4/1972, trong lúc tôi ăn cơm thì có một người lính chạy vào nói Thiếu Tá Mễ gọi. Tôi xách máy chạy ra ngoài tuyến giửa Ðại đội 112 và 114 thì thấy Thiếu Tá Mễ và Thiếu Tá Duffy, cố vấn Mỹ đang ngồi sát gốc cây nhìn về phía trước mặt chỉ chỉ. Lính gác phát giác địch xuất hiện phía bên kia triền đồi hướng Tây Nam căn cứ Charlie, bọn chúng đang đi lên đồi như đi chợ. Thiếu Tá Mễ hối tôi :
– Bắn nhanh lên không tụi nó đi hết.
Ðịch xuất hiện khá xa cở bảy tám trăm mét đường chim bay, tôi quay sang Thiếu Tá Duffy hỏi có đem theo ống dòm cho tôi mượn, xa quá mắt thường bắn không chính xác, Thiếu Tá Duffy chạy vội về hầm rồi trở lại đưa ống dòm cho tôi. Tôi giở bản đồ và địa bàn ra nhắm mục tiêu, xong chấm điểm địch xuất hiện rồi mở máy gọi 417 ở Yankee xin bắn, và gọi thêm 415 tăng cường. Quả đạn nổ đầu tiên cách mục tiêu khoảng 200 mét, điều chỉnh một lúc vào đúng mục tiêu, xong vạch một tuyến dài cở 300 mét trên bản đồ xin 417 và 415 chia nhau bắn, vừa gọi bắn tôi vừa nói
-Bảo đảm thế nào tụi nó cũng khiêng đó Thiếu Tá.
Thiếu Tá Mễ lại hối:
– Nếu trúng rồi bắn hiệu quả luôn.
Sau loạt đạn cuối cùng độ 10 phút, quả nhiên địch cứ hai thằng dìu một thằng bị thương đi ngược xuống đồi, tôi đưa ống dòm trình lại với Mê Linh:
-Trúng rồi, Thiếu Tá nhìn xem tụi nó khiêng xuống đồi kìa. Thiếu Tá Mễ xem xong đưa máy cho Thiếu Tá Duffy rồi lại hối tôi bắn hiệu quả ( fire for effect). Tôi đề nghị:
-Ðề nghị Mê Linh cho tụi nó dìu em xuống đồi, đồi cao như vậy thế nào tụi nó cũng phải tập trung dưới chân đồi băng bó và nghỉ mệt một lát rồi mới di chuyển, đợi tụi nó tập trung đông, mình làm một lần đưa em vào hạ, dứt cội da. Thiếu Tá Mễ phì cười nói OK. Còn Thiếu Tá Duffy không hiểu tiếng Việt cũng nhe răng cười theo nói OK đô.
Tôi gọi xin chuẩn bị bắn T.O.T ( time on taget ) tức là các vị trí pháo binh xa gần bắn trước sau nhưng cùng lúc đạn nổ trên mục tiêu, đợi 20 phút sau khi địch không còn khiêng quân xuống đồi nửa, tôi cho lệnh tác xạ. Lúc này thì họ nhà pháo cũng đã biết tin nên đích thân Bùi Ðức Lạc cho bắn tối đa, tiếng đại bác từ các căn cứ thi nhau rót vào mục tiêu, còn Mông Cổ nhà ta ( anh em đùa vui Nhảy Dù dũng mãnh như quân Mông Cổ) thì đứng dọc theo chiến hào quan sát như là một chuyện thường tình (tiếng đạn pháo nổ tới tấp). Dứt loạt đạn tôi hỏi xem mình có lục soát không, Thiếu Tá Mễ nói để Trinh Sát làm chuyện này. Ðến trưa thì một loạt đạn pháo binh của địch từ dẩy đồi hướng tây đối diện và chỉ cách khoảng hơn một cây số với Ðại đội 112 bắn qua, tiếng depart cũng giống như đã bắn hôm qua, vậy là tụi nó đưa 75 ly nhắm qua thằng 312 để trả lể rồi, tiếp loạt đạn này là những trái đạn 105 ly rồi hỏa tiển 122 ly thi nhau rót xuống Charlie mở đầu cho trận chiến khốc liệt nhất tại Quân khu 2 từ trước đến nay, và từ đó Charlie không một phút nào bình yên.
Trừ 75 ly không giật bắn thẳng trúng mục tiêu thì những loạt đạn khác rơi đâu đó ngoài căn cứ Charlie, như vậy là tụi nó không có đề lô, anh em đề lô chúng tôi thay nhau đo hướng và phản pháo, khi chúng tôi phản pháo thì địch im tiếng súng, dứt loạt pháo là bọn chúng trả lễ. Các cuộc đấu pháo diễn ra như cơm bửa, và là lần lần thì những loạt pháo binh tầm xa của địch rơi trúng căn cứ, đến ngày 29/4/1972 thì chúng đã điều chỉnh pháo binh được toàn bộ Charlie mà nặng nhất là vào C2. Chúng tôi biết đề lô của địch đã áp sát được căn cứ và điều chỉnh được mục tiêu. Tôi nói với Trung úy Cho:
– Tôi nghỉ mấy ngày đầu tụi nó pháo thăm dò khả năng mình, sau đó mới kéo 130 ly đến gần để bắn chính xác hơn và cũng ngoài tầm phản pháo của ta ( đại bác 130 ly của địch bắn xa 32 cây số, còn 155 của ta thì 15 cây số, và 105 ly của ta thì chỉ gần 11 cây số mà thôi ), chổ mình dể lên hơn cả, thế nào tụi nó cũng đánh hướng mình.
Sau đó tôi cũng chia xẻ mối âu lo này cho Trung úy Ðúng:
– Tụi nó chắc chắn sẻ tapi tôi sau màn pháo kích dữ dội, những yếu tố tác xạ tôi đã điều chỉnh xin 310 gọi bắn phụ nếu tôi bắn không kịp. Trung Úy Ðúng nói
– Tôi cũng nghỉ như vậy, chổ của 314 dể lên lắm.
– Tôi thấy khói xịt từ ngọn đồi ngay trước mặt thằng 312 bắn qua, có lẻ 75 ly hoặc 57 của tụi nó trực xạ rớt qua luôn bên tôi sao không thấy thằng 312 gáy ( xin bắn).
-314 quan sát được bắn luôn đi, khỏi nhờ 312. Hết.
Dứt chử “hết” tôi hiểu ngay Chuẩn Úy Sơn đề lô Ðại đội 112 bị pháo kích đã tử trận. Tôi vẽ thêm tuyến pháo binh cận phòng trùm lên thêm hướng Tây Nam để bắn che cho Ðại đội 112. Lợi dụng pháo binh tầm xa pháo kích, 75 ly của địch bắn thẳng từng vị trí của ta mà không sợ phản pháo vì chúng tôi phải chui vào hầm tránh pháo. Dứt loạt pháo tôi chạy vội ra tuyến điều chỉnh pháo binh bắn cấm chỉ ( tức là bắn rời rạc thỉnh thoảng từng quả không cho địch hoạt động) vào vị trí pháo trực xạ của địch, nhưng không hề hấn gì, chắc tụi nó khoét hầm trong núi, mổi lần pháo tầm xa pháo kích thì chúng kéo súng ra bắn theo để khỏi lộ vị trí. Tôi gọi 310 xin mổi lần tôi bị xơi pháo thì cứ gọi Phở bò (pháo binh) nào của ta rảnh thì bắn cấm chỉ không cho tụi nó kéo pháo ra trực xạ.
Từ ngày này trở về sau, toàn bộ Charlie bị pháo kích thật nặng, mổi ngày cở ngàn quả mà nhiều nhất là 130 ly, rồi đến đại bác 122 ly, và cả hỏa tiển 122 ly mà tôi nghe được tiếng hú. 310 báo lên Thiếu Tá Lạc tụi tôi bị ăn 130 ly, ngoài tầm không phản pháo được, chẳng lẽ phải nằm đây lãnh pháo? Lúc này Ðại Tá Trần Quốc Lịch, Lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn II Dù ở Căn cứ Võ Ðịnh cũng đã trình lên cấp trên xin cho 11 Dù rút ra ngoài căn cứ, Nhảy Dù mà nằm đưa đầu ra lãnh pháo như thế này thì phản chiến thuật quá, nhưng Trung Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Ðoàn II vẫn lặng thinh, và Cố Vấn John Paul Van chẳng biết mẹ gì chiến thuật và pháo binh, vẫn kiên trì áp lực…tử thủ, chắc là định dùng 11 Dù nhử cho địch lên tapi như Ðại Ðội 2 Trinh Sát Dù tử thủ ở Ðồi C1 dứt gần hết cả Tiểu đoàn cộng quân nằm phơi xác ở đồi C1, vì trận này mà cộng sản đã lên án tử hình Ðại úy Trương Văn Út, Ðại đội trưởng Trinh Sát 2 Dù và thề tiêu diệt đại đội này. Quân đoàn II còn lệnh cho 11 Dù ra hố pháo tìm chứng tích của đầu nổ130 ly mới cho B52 dập. Quân đoàn cũng chẳng màng gần một phần ba quân số 11 Dù bị loại ra ngoài vòng chiến vì đạn pháo và chưa đươc di tản. Cái hào quang chiến thắng của thượng cấp ngoài binh chủng đo bằng máu của Dù thật quá đắt, và quả thật nếu không bị pháo kích từng phút một, chúng tôi có thể ra hố đạn đo hướng bắn và bới tìm đầu nổ, nhưng làm sao gửi ra cho các bộ óc đặc sệt chỉ thị đây. Hằng trăm thương binh, mấy chục binh sỉ tử thương vì pháo còn chưa di tản được nằm đầy các giao thông hào, không có chiếc trực thăng tản thương nào vào được cách C2 500 mét thì nói gì đáp xuống tãi thương hoặc tiếp tế. Chỉ có một pass B52 đánh về hướng Nam gần Charlie thì nhằm nhò gì, pháo của chúng đặt về hướng Tây và Tây Bắc cách Charlie ít nhất 15 đến 20 cây số thì không dập. Mổi lần bị pháo kích xong, phi cơ lên vùng, pháo địch im, phi cơ bay ra khỏi vùng, lại bị pháo tiếp, tôi chỉ còn biết ước lượng vị trí pháo địch gửi về các pháo đội tùy nghi phản pháo nếu có thể. Tình hình hết sức khẩn trương, nếu không có lệnh rút, chắn chết hết vì pháo.
Sáng sớm ngày 01/4/72, đúng như chúng tôi dự đoán, sau màn điểm tâm đại pháo các loại, địch bắt đầu tấn công từ hướng Nam Charlie trực diện Ðại đội 114. Ðịch đông như kiến bám theo các thân cây cổ thụ dùng đủ các loại súng bắn thẳng vào vị trí Dù, trong lúc đó, đề lô địch cũng chuyển xạ vào các vị trí pháo binh của ta để cấm chỉ không cho yễm trợ. Lúc này đã lộ rỏ ý định của địch, mấy hôm nay, chúng chỉ pháo kích Charlie chứ không pháo vị trí pháo binh của ta, để ta lầm tưởng chúng chỉ pháo kích Tiểu đoàn 11 chứ không đánh, rồi ta chỉ lo phản pháo mà quên đi bộ binh của chúng đang im lặng tiếp cận ta. Như vậy có thể Charlie bị bao vây rồi. Cũng may việc giương đông kích tây này mà các pháo đội của ta không bị pháo binh địch điều chỉnh chính xác, cho nên còn rảnh tay yễm trợ được cho tôi. Trước mặt chúng tôi tôi là đơn vị tinh nhuệ nhất của cộng sản Bắc Việt, Sư đoàn 320 có một Trung đoàn có biệt danh là quả đấm thép đang dàn hàng ngang trước mặt chúng tôi ồ ạt xông lên bất kể phi pháo, Ðại đội 114 anh dũng bắn trả, Ðại đội 112 cũng tiếp ứng, những người lính Dù thiện chiến nhất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa đứng thẳng từ các chiến hào đan một lưới lửa ra ngoài phòng tuyến, và tất cả hệ thống tác xạ pháo binh đều chuyển qua hết tần số của tôi, sẳn sàng gom bi.
-415, 416, 417 đây 314 xin tác xạ, địch tấn công, trường ca L1, L2, L3 (các hỏa tập pháo binh làm thành những tuyến cản). Một quả. Bắn khi sẳn sàng. Hết.
Không cần tôi xin tác xạ. Các pháo đội đạn đã lên nòng khi biết tôi bị tấn công, nên khi nghe được tiếng tôi gọi bắn thì đã nghe tiếng depart, những tiếng hú rợn người lướt qua đầu, đất tung mù mịt trước mắt.
– Các trường ca. 5 tràng. Bắn hiệu quả. Hết.
Ðạn túa túa hú gọi mục tiêu, những cây cổ thụ bật gốc ngoài phòng tuyến, bụi tung mù mịt, cứ hể dứt loạt đạn pháo của ta thì địch cũng nhỏm dậy bắn vào, chúng đã đào các hố núp ngoài vị trí nên liều lỉnh bắn che cho tốp khác từ hướng tây nam tiến lên, bất kể đạn pháo, những con thiêu thân dàn hàng xung phong lên đồi. Lúc này thì phi cơ đã lên vùng sẳn sàng thả bom, Trung úy Cho nói với tôi:
-Nếu tụi nó vượt được hàng rào thì bắn ngay sát tuyến của mình. Tôi trả lời :
-Trung úy bảo các con đội nón sắt và mang luôn ba lô luôn che phía sau lưng, lở có trái nào lọt vào tuyến thì phải chịu, nếu chịu tôi mới dám bắn.
Trung úy Cho nói OK, và tôi gọi các vị trí bắn gần lại từng chục mét cho đến khi sát tuyến. Những loạt đạn cận phòng này rất có hiệu quả và không biết có quả nào lọt vô luôn trong phòng tuyến hay không vì đạn pháo của cả hai bên lúc này bắn dử quá. Sau mổi loạt pháo tôi lại nhỏm dậy nhìn ra ngoài, xác địch đầy ngoài tuyến nhưng chúng vẫn bám chắc không chịu rút lui. Tiếng súng lúc này đã rời rạc, có thể chúng chỉ lui lại để làm một cái gì đó. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11 bảo ngưng tác xạ để tụi Tây (tức phi cơ Mỹ) nó làm việc, những chiếc phóng pháo cơ vào vùng nảy giờ gầm thét ngang trời thả những loạt bom ngoài vòng rào, chỉ cách vị trí cở 50 mét, những núi lữa bốc lên cao sau mổi tiếng nổ. Lần đầu tiên trong đời lính, tôi thấy Nhảy Dù chịu chơi dám thả bom gần như vậy và bắn pháo binh cách mình hai ba chục mét ( hiệu quả sát hại của pháo binh 105 ly là từ 50 đến 100m, bắn cách mình cở hai ba chục mét là rất liều lĩnh và hết sức nguy hiểm). Con cháu bác và đảng cũng không ngờ những người lính Dù chịu đựng dưới mưa pháo khủng khiếp nhiều ngày, phòng tuyến bể hết mà vẫn gan dạ tử thủ như thế.
Bên tai tôi có tiếng gọi của Thiếu Tá Lạc, ông bảo tôi có cần gì thì tất cả đều sẳn sàng, và tôi trả lời nếu gà mình còn gáy ( tức pháo binh còn bắn ), thì không có tên răng đen mã tấu nào nào có thể bước qua 114 được. Sở dỉ tôi dám khẳng định như vậy là nhờ tinh thần chiến đấu dũng mảnh của anh em 114 Dù cho tôi sự an toàn trong lúc gọi pháo, nếu không thì bể tuyến lâu rồi. Còn Trung úy Ðúng thì rất tế nhị không xen vào hệ thống tác xạ, để dành hết thời gian cho tôi gọi các pháo đội bắn, 310 cũng dặn tôi cẩn thận, tụi nó tạm yên là có vấn đề mới, nhớ canh chừng thêm phía thằng 112. Vừa lúc đó thì hàng loạt tiếng depart từ trong núi vọng về, thôi rồi, lần nầy chúng tập trung tất cả các loại pháo chứ không riêng gì 130 ly rót tới tấp vào vị trí ta, ít nhất cũng 5 vị trí pháo của chúng bắn đồng thời vào C2, đây là một kiểu bắn T.O.T giống như của ta, C2 rung lên dưới những cơn địa chấn, tôi chạy vội vào hầm, tất cả các vị trí tác chiến và pháo binh của ta đều bị pháo, tiếng các pháo đội gọi báo cáo ồn hẳn lên trên hệ thống rồi im lặng vô tuyến, có vị trí trúng pháo nhưng không trúng hầm đạn nên không có tiếng nổ phụ. Tụi nó mà điều chỉnh được các vị trí pháo của mình thì bỏ bú, vừa lo sợ tôi cũng vừa tìm những ngôn từ dễ thương như thế để trấn áp nổi hồi hộp, sau loạt pháo này là chúng mày sẻ tràn biển người lên lấy thịt đè người, Nhảy Dù cố gắng, Nhảy Dù cố gắng, tôi lẩm bẩm bốn chử đơn giản này, binh chủng chúng tôi không có những khẩu hiệu đao to búa lớn, rất đơn giản như một sự cố gắng, anh em chúng tôi hết thế hệ này đến thế hệ khác cố gắng làm cho máu đồng bào bớt đổ bằng chính máu của chúng tôi. Trong tiếng pháo nổ vang trời, tôi nhấc máy gọi 310:
-310 có nghi tụi đề lô nó áp sát mình không, nghi tụi nó ở đâu thì con gà nào của mình “quởn” cho gáy đại vài tiếng dằn mặt tụi nó cho biết thế nào là lễ độ, chứ chơi như vậy hiếp quá. Nhưng 310 vẫn im lặng. Một sự im lặng rợn người vì tất cả im lặng chờ đợi.
Dứt loạt pháo bắn T.O.T này, quả nhiên địch hô xung phong, nhưng tiếng hô xung phong càng lúc càng yếu, chúng tôi đã quen thuộc kiểu này, chúng mày chém vè ai mà không biết, chắc chắn chúng mày bị thiệt hại rất nặng nếu không thì đã là nhào lên tiếp để…lãnh đạn rồi. Những tiếng pháo thưa dần tại C2 nhưng các vị trí pháo của ta vẫn còn bị cấm chỉ, tôi nhìn ta phía Yankee, những cột khói bốc lên, rồi căn cứ 5 và căn cứ 6 cũng thế, tụi nó đang điều chỉnh pháo binh. Thấy mẹ rồi.
Chiều đang xuống dần, những người lính cũng vội vã sửa lại hầm hố, đào giao thông hào cho sâu thêm, người chết và thương binh tăng thêm làm nặng thêm mối âu lo của Tiểu đoàn, tôi chạy vội ra phía hai đệ tử đang ngồi chong mắt nhìn ra ngoài tuyến, trên tay hai đứa có hai cây M16 và dây đạn từ lúc nào ( hai đệ tử pháo binh mang máy cho ông thầy thường không đem theo súng).
– Khỏi cần nấu cơm, tao ăn cơm sấy được rồi, có gì nhớ kiếm tao. Hai đệ tử nhìn tôi, lo lắng, tôi hất mặt về hướng đông căn cứ không nói, nhưng chúng cũng hiểu tôi nói gì.
Một đơn vị tổng trừ bị cơ động vào bậc nhất của quân đội bị chôn chân làm vật tế thần, đóng quân ở Charlie ngày ngày ăn pháo không khác nào con dê bị trói vào cột đợi ngày hiến tế, Việt cộng quá nóng lòng đánh gấp để lấy tiếng trên bàn Hội nghị Paris là đã tiêu diệt được một đơn vị Nhảy dù, chứ nếu chúng khôn ngoan một chút thì chỉ cần pháo thôi là cũng đủ tiêu tùng hết. Tiểu đoàn xin rút, Lử đoàn xin rút, Quân đoàn cũng không cho, có một âm mưu gì muốn chúng tôi thân bại danh liệt tại ngọn đồi vô danh này, họ muốn biến những người lính 11 Dù thành những chiến sỉ “L’enfer Des Hommes” tức là những người ra đi không về trên ngọn đồi quyết tử trong bộ phim vừa chiếu ở Saigon hay sao, nếu là những đơn vị khác thì đã rút đi lâu rồi. Thật oan nghiệt cho những người lính mang danh những đứa con của Thần Chiến Thắng Micae ( Tổng Lãnh Thiên Thần Micae là Thánh bổn mạng của binh chủng Dù Việt Nam Cộng Hòa).
Những ngày hôm sau địch tiếp tục pháo căn cứ, và sau loạt pháo là mon men đánh thăm dò tiếp Ðại đội 114. Liên tiếp trên một tuần, 114 bị tấn công nhưng mức độ chỉ vừa phải, và không lần nào địch vào được sát tuyến, sau mổi lần tấn công thất bại, đêm về là chúng bò lên lấy xác, và Ðại đội 114 cũng không buồn bò ra ngoài thu chiến lợi phẩm. Sau mổi đợt pháo kích, căn cứ càng xơ xác không còn nhìn ra hình dáng nửa, từng tấc đất bị xới lên, mùi thuốc súng nồng nặc khắp nơi, cây cối bị khói ám đen thui và bị mãnh đạn pháo chém ngang dọc ngả nghiêng, hầm hố tanh banh, tôi có cãm tưởng một con kiến cũng không sống được, những cuộn băng vết thương văng tung tóe dính trắng xóa trên các ngọn cây, địch đã điều chỉnh được toàn bộ căn cứ C2, pháo vô là trúng phóc. Những hàng dây kẽm gai cao ngang ống chân ngoài tuyến Ðại đội 114 giờ biến đâu mất dưới cả hai làn pháo của ta và địch, có thể nói là nằm lăn xuống đồi cũng không còn vướng một cộng kẽm nào. Những ngày đầu chúng chỉ bắn bằng đạn nổ, những ngày sau thì xen vào đạn delay tức là đạn chui vào lòng đất hơn một mét rồi mới nổ, không có hầm hố nào chịu nổi cả, thế mà ngoài phòng tuyến anh em Dù vẫn sống, vẫn thở, những người chết và bị thương thì vẫn nằm chung với anh em dưới chiến hào, mùi thuốc súng và đạn pháo đánh át đi mùi tử khí, nội hơn một trăm anh em bị thương không được di tản cũng là gánh nặng tâm lý đè lên tinh thần chiến đấu của người lính. Nhưng đây là Nhảy Dù, một dân chơi thứ thiệt, dám cân hồ tất cả giới giang hồ khét tiếng sinh Bắc tử Nam thì còn coi cái chết vào đâu…Là dân pháo binh nhưng tôi cũng ngán kỷ luật chiến đấu của Nhảy Dù, về Saigon chịu chơi tới đâu thì chịu, chứ ra trận thì có lệnh là phải tiến, không có lệnh lui thì…mẹ kiếp, trận này nằm đây chịu chết để vinh quang cho những tên không biết mẹ gì là chiến thuật đã trói tay chúng tôi, tận diệt.
Ngày 6/4/1972, địch tấn công căn cứ Delta của Tiểu đoàn 2 Dù ở phía Nam nhưng bị đánh bật ra để lại hằng trăm xác, không chừng Tiểu đoàn 11 Dù cũng được lệnh phải đợi địch đánh để làm giống như vậy chăng, tụi nó đánh Ðại đội 114 cả tuần rồi mà, chết quá trời mà đâu có lên được. Ðịch lại pháo kích, nằm dưới hầm nghe đạn pháo, có những trái đạn delay rơi sát hầm, nổ tung dưới lòng đất kêu ục ục, đất chuồi xuống, cái chết đang từ từ đến với tôi với tất cả nổi phẩn nộ, đúng là sinh nghề tử nghiệp, pháo nó thì chết vì nó pháo là công bằng sao, tôi đang bị trói tay mà. Sau dứt mổi loạt pháo, tôi chạy vội ra tuyến quan sát, những người lính vừa tu bổ cộng sự chiến đấu vừa đưa mắt nhìn tôi dò hỏi, như khẩn khoản tôi nói một lời gì, tôi biết họ muốn hỏi gì nên cũng chỉ biết hất mặt về hướng đông, đường ra quốc lộ 14, nếu bị địch tràn ngập. Ngay lúc đó thì có một người lính dơ tay ngoắc tôi, xong chỉ về ngọn đồi xéo về hướng đông nam, tôi cúi mình chạy đến, cách đó khoảng 500 mét đường chim bay, bóng một tên lính Bắc Việt in trên nền trời với tất cả thách thức, như vậy là cả ba hướng Ðông, Tây, và Nam đều bị địch bao vây, vậy còn hướng Bắc, gần nhất với ngọn đồi Charlie của Ðại đội 111, chưa biết thế nào, không đánh được thằng 114, tụi nó dám chơi thằng 111 sao, chỉ có phía Tây mới có thể đánh lên 111 mà lại là là dốc đứng nửa…Tôi gọi Hạnh chạy vào hầm báo cho Trung Úy Cho biết và xách máy PRC 25 gọi 415 bắn, điều chỉnh trúng mục tiêu rồi cũng chả ăn nhằm gì, dứt loạt đạn lại thấy nó đứng lên chống nạnh, như vậy là tụi nó đã khoét núi nằm sâu trong đó rồi, đâu có móc ra được. Không chừng thằng này là đề lô, tôi chỉ còn biết xin 415 bắn cấm chỉ khi có thể.
Những ngày kế tiếp, lương thực cạn dần, có dấu hiệu địch sẻ đánh Charlie vì Ðại đội 111 nằm riêng rẻ, còn thằng 113 thì nằm kế bên pháo binh khó đánh, và chúng tôi cũng không còn xuống dưới chân 111 lấy nước được. Hai Trung đoàn địch quân số gấp 8 lần, luân xa chiến, tiền pháo hậu xung gần nửa tháng cũng không chơi được Ðại đội 114, nên thế nào tụi nó cũng tìm hướng khác và mục tiêu thì chỉ có Charlie của 111. Ngày 9/4/1972, địch pháo dử dội Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11 và mưa pháo xuống Charlie xong bắt đầu tấn công 111. Ðại đội 111 chống trả quyết liệt, xác địch đầy sườn đồi. Khu trục rồi trực thăng võ trang vào vùng trút xuống hằng tấn bom đạn quanh căn cứ. Sau nhiều đợt xung phong không thành, địch lại rút lui để lại hằng trăm xác chết.
Lúc này thì địch đã công khai di chuyển quân xa ban ngày, tiếng xích sắt xe tăng, tiếng xe Molotova có thể nghe thấy sau những loạt pháo. Bằng mọi giá chúng phải nhổ cái gai Charlie dầu có hy sinh cả hai Trung đoàn này thì còn những Trung đoàn khác sẳn sàng vào trận để lấy tiếng trên bàn hội nghị. Không chơi được Song Kiếm Trấn Ải thì còn gì là danh hiệu hai Sư đoàn của chúng đây. Vừa đánh chúng vừa điều quân, phía đông tức là đường rút của11 Dù, tôi đã quan sát được vị trí bọn chúng đã đặt hai cây phòng không, một cây 12 ly 7 và một cây 37 ly. Hướng đông địch đã công khai để lộ vị trí để bắn máy bay và uy hiếp tinh thần 110. Máy bay yễm trợ cho Charlie thì phải bay từ hướng Bắc hoặc hướng Nam rồi đánh một vòng về hướng Tây để thả bom, xong phải chúc mủi về hướng Ðông ra thẳng quốc lộ 14, địch đã đặt hai cây phòng không tại đây chặn đầu khiến cho máy bay không dám xuống thấp, thỉnh thoảng chúng còn nhắm xuống Charlie trực xạ. Mổi lần máy bay vào vùng là tiếng phòng không từ các hướng nổ đầy trời, và ít nhất cũng cả chục cây phòng không giờ đây đã dàn trận. Pháo binh của ta thì gần như bị tê liệt vì bị pháo cấm chỉ của địch, cả Tiểu đoàn 11 cũng thấy được nhiều chiếc Chinook từ Phi trường Phượng Hoàng tải đạn pháo binh vừa đến Yankee thì bị pháo và phòng không từ hướng đông bắn qua phải trở lui, ngưng tiếng pháo thì lại bay vào rồi lại bị bắn không đáp xuống được, cứ như vậy cả ngày. Tôi đã gọi các vị trí pháo bắn hai cây phòng không này hoài mà cũng chẳng ăn thua gì. Cả nửa tháng nay chúng đã đào hầm trong núi đợi giờ quyết tử dứt điểm 11 Dù, dầu có bắn trúng cây này thì chúng cũng sẻ điều cây khác đến. Mấy chiếc khu trục đã trúng đạn phòng không, còn trực thăng võ trang của ta hay Cobra của Mỹ là miếng mồi dể lãnh đạn phòng không nhất nên khó có thể vào vùng.
Ðến giờ phút này thì đả rỏ thế nào bọn chúng cũng dứt điểm Charlie, sáng ngày hôm sau, Ðại đội 111 bị pháo thật nặng nề, dứt dợt pháo, bộ binh địch tràn lên, pháo binh của ta cũng bị cấm chỉ không yễm trợ được, định mệnh đã dành sẳn cho 111, bị tràn ngập nhưng thiệt hại vừa phải, 111 phải rút về nhập chung Bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Ðộ nửa tiếng sau, Trung Úy Thinh Ðại đội trưởng 111 chạy vào hầm chúng tôi, Trung úy Cho hỏi, Thinh kể lại :
-Việt cộng tràn lên là lo kiếm mấy cái ba lô của ta, chúng chụp được ba lô của tôi, tôi buông ba lô chạy, tụi nó không đuổi theo, có lẻ tụi nó đói lắm nên lên được là lo kiếm ăn, chúng lục ba lô của ta, khui đồ hộp ra ăn tại cho (thường là khi rút lui, ta mang theo ba lô trên lưng đề phòng bị bắn phía sau). Ngay lúc đó thì Trung Úy Khánh cũng chạy vào hầm, tôi hỏi thì Khánh cũng nói bị y như tình trạng của Thinh. Tôi hỏi tiếp vậy súng của mày đâu. Khánh kéo cái địa bàn M1 đeo nơi cổ ra nói tao chỉ còn có cái này. Tôi ôm bụng cười ngặt nghẻo làm mọi người cũng cười theo. Nửa tháng nay, tôi không thể nở nổi một nụ cười, giờ này ôm bụng cười ra nước mắt về cái chuyện tiếu lâm có thực này thật thoải mái. Việt cộng ngoài việc bị bỏ đói phải liều lĩnh hy sinh tính mạng kiếm từng lon đồ hộp của ta, chúng còn bị ép uống thuốc “Hùng Tâm” tức là một loại thuốc kích thích uống vào là hăng máu lên xung phong chẳng coi việc sống chết ra sao cả, chiến thuật biển người của chúng thường kèm với liệu pháp hùng tâm này. Cứ xem ảnh xác Việt cộng bị xích trên xe tank thì mới biết cấp chỉ huy của chúng dã man như thế nào.Sáng ngày 11/4/1972, Ðại đội 112 được điều xuống chiếm lại Charlie đem theo cả Ðại bác 90 ly trang bị riêng cho Nhảy Dù để bắn xe tank hoặc phá hầm, máy bay Mỹ lại vào vùng thả bom, bay thấp thì sợ phòng không, nhưng bay cao quá khó trúng mục tiêu, nên những phi đội sau, Tiểu đoàn 11 xin thả bom napalm, còn pháo binh vị trí nào của ta không bị cấm chỉ thì pháo xuống phụ họa sau khi các phi tuần bay ra, hết đợt này đến đợt khác, từng phi tuần của không quân Việt Nam vào vùng trải những thảm lửa xuống Charlie, thả bom napalm phải bay thật thấp nên rất chính xác, từng trái bom rơi trúng mục tiêu, nhưng Việt cộng quyết cắt đôi 11 Dù nên cố thủ trong các hầm hố của ta bỏ lại. Bất kể phòng không, một chiếc phi cơ nóng lòng bay thật thấp xuống mục tiêu, thả một quả bom napalm, lúc ngóc đầu bay lên thì cánh bên phải vướng vào ngọn cây trên ngọn đồi phía đông kế bên chổ hai cây phòng không, bị gảy cánh rồi rớt xuống đồi nổ tung, viên đại úy phi công Việt Nam đã oanh liệt hy sinh. Chiếc còn lại bay vòng vòng tìm đồng đội, sau khi xác định được vị trí , bèn quay trở lại Charlie, giận dử trút xuống những trái bom lửa còn lại . Lửa thiêu cháy Charlie, thiêu luôn cả những con thiêu thân đợi ngày giải thoát.
Ngày 12/4/72, để trả thù cho đồng bọn bị lửa bom đốt sạch tại Charlie, địch tăng cường pháo kích thật mạnh lên đồi C2, từng tấc đất bị cầy lên như địa ngục có thật, tôi ngồi trong hầm lại nghe cái chết đến từ từ, ước lượng có đến cở gần 10,000 quả đạn đại bác các loại rơi xuống C2 kể từ ngày tử chiến, ngoài hầm bê tông cốt sắt ra chứ hầm hố như thế này thì làm sao chịu nổi, bất cứ đơn vị nào mà trấn thủ nơi đây chắc là phải tự động rút từ lâu rồi, tôi không dám nghỉ đến một điều xấu nhất dành cho mình, không biết nhà tôi và đứa con đầu lòng đang mang trong người giờ này ra sao, mổi lần tôi đi trận, nhà tôi đều dặn cầu nguyện Ðức Mẹ che chở, giờ tôi đang làm điều này…Chợt thấy Trung úy Cho nhổm dậy cầm lấy máy nghe rồi lo lắng, tôi cũng qua tần số Trung úy Ðúng hỏi, Trung Tá Bảo, Tiểu Ðoàn Trưởng Song Kiếm Trấn Ải đã gẩy cánh thiên thần sau loạt pháo kích vừa rồi, một quả 130 ly trúng hầm, Trung tá Bảo hy sinh còn Thiếu Tá Duffy và Thiếu Tá Mễ ở hầm khác chỉ bị thương nhẹ. Thiếu Tá Mễ lên thay. Suốt ngày hôm đó, địch tiếp tục pháo kích C2 và bắn cấm chỉ các vị trí pháo binh của ta. Một bịch gạo xấy cả tuần nay tôi nuốt không hết, miệng thật đắng còn nước uống thì đo bằng từng nắp bi đông, riêng việc vệ sinh thì giải quyết ngay ngoài miệng hầm. Pháo dử quá nên tôi cũng giới hạn bớt chạy ta ngoài tuyến quan sát. Trên tấm bản đồ, tôi ghi chi chít những vị trí nghi ngờ pháo của địch báo cho Trung úy Ðúng và Trung úy Ðúng cũng chẳng làm được gì khác hơn, gần tối địch ngưng pháo kích, tôi thiếp đi lúc nào không biết cho đến khi Hạnh chạy vào lay chân tôi dậy hỏi cần gì không, tôi lắc đầu.
Sáng ngày 13/4/1972, Ðại đội 113 được lệnh đi lên phía Bắc tìm bải đáp, còn Ðại đội 111 lên ngọn đồi phía Ðông xem có chổ nào tải thương được không. Khi Khánh chui vào hầm tôi, tôi thấy mặt có vẽ nghiêm trọng, không còn cái giọng Nha Trang đơ đớ Quãng Ngãi nửa, không thấy có vẽ đùa cợt hàng ngày như lúc còn ở hậu cứ, tôi bảo Khánh chạy theo tôi ra ngoài tuyến và chỉ về ngọn đồi mục tiêu trước mặt, theo hướng tôi chỉ, bóng tên Việt cộng đứng gác vẫn còn đó, tôi lại chỉ Khánh chổ vị trí hai cây phòng không cách đó không xa và nói:
– Tụi nó đầy ở trên đó, tao bắn hoài cũng chả ăn thua gì, mày hết sức cẩn thận, nếu muốn bắn mở đường tao bắn cho, khi lên coi chừng phòng không tụi nó trực xạ. Khánh trở lại 111 bàn với Trung Úy Thinh và cũng không thấy xin bắn mở đường, chắc là muốn giử im lặng.
Ðộ nửa tiếng sau, súng nổ vang dội từ triền đồi bên kia, 111 lên được gần đến đỉnh đồi thì địch khai hỏa, bằng luôn cả phòng không trực xạ. Không thấy Khánh xin tác xạ, tôi muốn bắn phụ lắm, nhưng giờ này không biết nó ở chổ nào. Súng vẫn nổ, một chốc tôi nghe tiếng Khánh trong máy, Trung Úy Thinh, Ðại đội trưởng 111 đã tử trận, Khánh lên thay. Rồi một chốc lại nghe tin Trung sĩ Lung gọi máy, tôi biết Khánh cũng đã nằm xuống…cánh dù lộng gió muôn phương – vào lòng đất mẹ, máu xương ngậm ngùi. Ðại đội 111 thêm lần nửa tan hàng. Một số còn lại rút về được căn cứ. Cả ngày đó địch vẫn tiếp tục giử mức độ pháo kích khủng khiếp, lương thực và đạn dược lại cạn dần, lại thêm người chết và bị thương. Ðêm dần xuống, tôi nằm trong hầm buồn lắm, Trung Tá Bảo ra đi hôm qua, Chuẩn Úy Sơn đề lô ra đi trong loạt pháo đầu tiên, Khánh vừa đi sáng nay, Lạc bị thương nặng chưa biết ra sao, còn những người khác thì nằm đầy ngoài chiến hào, bao giờ thì rút đây, không phải tôi bi quan, mà tức vì cái lệnh tử thủ quái ác từ đâu đâu, chết như vậy thật uổng mạng.
Ngày 14/4/1972, Tiểu đoàn 11 Dù tự quyết định rút lui vào ban đêm, nhưng vào buổi trưa sau những đợt pháo kích dử dội, địch xung phong lên từ phía Ðại đội 114 đồng thời pháo luôn các vị trí pháo của ta, tôi gọi mãi mà không con gà nào chịu gáy, ngoài tuyến, không còn sợ pháo binh ta bắn cản, địch nhào lên đông như kiến cỏ, Ðại đội 114 chống cự không lại phải rút về dàn hàng ngang với Bộ chỉ huy Tiểu đoàn, máy bay cũng đã lên vùng bỏ bom ngay trên tuyến 114, hai bên giành nhau từng hầm hố, từng giao thông hào. Pháo binh ta coi như bị tê liệt, tôi đứng dưới giao thông hào sát với Thiếu Tá Mễ, và Thiếu Tá Ðoàn Phương Hải Trưởng ban 3 giờ kiêm Tiểu đoàn phó, Trung Úy Ðúng đứng kế bên, cạnh đấy là Bác sĩ Tô Phạm Liệu, một Bác sĩ Nhảy Dù mê đánh trận còn hơn cầm ống chích, lưng đeo khẩu Colt 45, tay cầm súng M 16 giơ lên, miệng hét binh sĩ ráng giử vững vị trí, tôi nghỉ thầm trong bụng nói cha nội này đi quân y uổng quá, phải cầm quân đánh nhau mới đúng. Thỉnh thoảng tôi lại gọi máy, khản cổ họng nhưng pháo binh của ta im lặng vô tuyến vì vẫn còn bị pháo kích. Lúc này mặc dù chiếm được gần một nửa C2 nhưng địch vẫn chưa dám nhào tới cận chiến nên phòng tuyến thứ hai của ta vẫn giử được. Chổ tôi đứng, xác một binh sĩ Dù nằm trên chiến hào ngay trước mặt, chết đã nhiều ngày, xác trương lên nhưng không thấy mùi hôi vì đầy thuốc súng, còn trên mình mang thêm nhiều mãnh đạn pháo sau đó, có lẽ chết hai ba lần. Bổng Hạ sỉ Hạnh chạy tới chổ tôi nói:
– Em kiếm Trung úy nảy giờ, Thằng Nhỏ bị thương muốn gặp Trung Úy.
Tôi cúi đầu xuống chạy dọc ra ngoài tuyến, gặp Nhỏ đang nằm dưới giao thông hào, bụng bị mảnh pháo phá nát, ruột đổ ra ngoài dính đầy bụi đất. Tôi cúi xuống, Nhỏ thì thào bên tai:
– Em khát nước quá, Trung úy đái cho em uống.
Giửa tiếng đạn bay, tôi muốn khóc mà không rơi được giọt lệ, đệ tử tôi đến giờ phút hấp hối còn nghỉ đến ông thầy. Tôi nghẹn ngào nói với Nhỏ:
– Em còn điều gì muốn nói thì nói cho Hạnh biết, anh còn phải coi xem còn bắn được hay không.
Nói xong tôi đưa bi đông nước còn lại một chút cho Hạnh để cho Nhỏ uống rồi gạt nước mắt định chạy về chổ Thiếu Tá Mễ. Ngay lúc đó có nhiều tiếng đạn AK bắn xéo trên đầu tôi, khói súng mù mịt không thấy rỏ phía triền đồi, tôi rút quả lựu đạn M26 ném xuống dưới chân đồi. Ðây là quả lựu đạn đầu tiên trong đời lính tôi sử dụng để ngăn địch. Không cần quan sát hiệu quả lưu đạn vừa rồi, tôi chạy lại phía Thiếu Tá Mễ. Giờ phút này địch đã lên được hơn nửa đồi C2 và từ hướng Nam cùng với hướng Tây đánh lên, cả Tiểu đoàn 11 chuẩn bị một màn cận chiến, bổng một viên đạn AK bắn trúng bình khói cay E8 của ta đặt trước mặt Thiếu Tá Mễ cở chục mét. Tôi thấy rỏ gió thổi ngược khiến cho khói cay màu vàng bay ngược về hướng Tiểu đoàn, những người lính la lên địch pháo khói cay rồi rút về phía Tiểu đoàn, và Tiểu đoàn 11 chính thức rời bỏ Charlie vào lúc này, nếu không bị bình khói cay thì không biết thế nào, đây có lẽ trời khiến cho 11 Dù không bị tràn ngập trên đồi C2.Cũng may địch sợ ta dùng chiến thuật “đồng ư quy tận” tức là gọi pháo binh bắn ngay trên đầu cùng chết với địch nên không dám duổi theo, nhờ vậy chúng tôi xuống đến chân đồi không có phát súng nào bắn theo. Trời hơi tối, địch cũng không dám pháo kích nửa sợ lộ vị trí, vã lại chúng đã lên đầy trên C2 và giờ đây có lẽ đang lục hầm kiếm thức ăn, nên pháo binh của ta hoạt động lại được bắn chận không cho địch truy kích. Rút theo hướng đông nam độ vài trăm mét thì nghe nhiều tiếng rít xé trời, bom B52 rơi xuống Charlie cày nát thành bình địa. Ðại đội 113 ở hướng Bắc hầu như còn nguyên vẹn từ ngày đầu đến giờ không bị đánh cũng như không thiệt hại vì pháo kích, nên được lệnh đi ngược xuống Yankee tìm đường ra PZ (tức bải bốc, tiếng Anh là Picking Zone), trên bản đồ cách Charlie khoảng gần 4 cây số. Trời tối, đồi cao, rất khó đi, máy bay lên vùng thả hỏa châu soi sáng, những dây đạn M 79 từ phi cơ OV10 rót đều phía sau chận hậu, nổ tụp tụp bum bum nghe như một điệp khúc buồn nản của chiến tranh. Binh sĩ còn khỏe dìu những người bị thương nhẹ, thật không thể tưởng tượng được có người bị thương ở chân phải đi bằng cả hai tay ở những đoạn dốc khó đi không thể dìu được, bản năng sinh tồn của con người nhất là của người lính chiến thì không có gì có thể diễn tả ra hết được. Cạn hết lương thực, đạn dược, thuốc men, và dưới những cơn mưa pháo khủng khiếp nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, hơn một trăm con người còn lại này chia đều mổi người đã lãnh cở gần 100 trái đại bác, thử hỏi còn có ai chịu đựng được như thế không. Tôi chợt nhớ đã đọc đâu đó một câu nói của danh tướng My,õ Mac Authur ” Tôi thương những người lính bộ binh hằng ngày 24 giờ phải đối diện cái chết trên chiến trường, lại còn phải gánh chịu những bất công của thượng cấp”. Nghỉ lại hoàn cảnh của 11 Dù còn tệ hại hơn thế nửa, bị trói tay để đánh.
Ðến gần sáng thì ra đến bải bốc giống như một cái thung lũng cạnh một con suối, đây là một khoảng trống đầy lau sậy, Tiểu đoàn 11 kiểm tra lại quân số và chia khu vực phòng thủ đợi trực thăng bốc về Võ Ðịnh. Tôi và đệ tử Hạnh được cắt lên slick trực thăng sau cùng của Ðại đội 114. Thông thường khi đi hành quân trực thăng vận, đề lô phải nhảy theo toán đầu tiên và khi rút thì đi sau hết, để có thể gọi pháo binh bắn bất cứ lúc nào.
Ngày 15/4/1972, trời sáng dần, khi ánh nắng mặt trời đầu tiên trong ngày vừa sáng hẳn lên từ phương đông thì có tiếng trực thăng bay đến, dẫn đầu là hai chiếc Cobra và phía sau là một đoàn Trực thăng UH1B của Mỹ, hai chiếc Cobra có trang bị rocket bay một vòng quanh bải bốc quan sát, một trái khói màu vàng được thả ra đánh dấu chổ trực thăng đáp xuống, chiếc UH1B thứ nhất vừa xà xà xuống mặt đất thì có tiếng đạn cối rơi xuống nổ ngay chóc bải đáp rồi hằng chục tiếng pháo cối 82 ly tiếp tục rơi xuống, những chiếc trực thăng vội vàng bay thẳng lên không bốc được toán nào. Dứt loạt cối, Việt cộng từ hai bên triền đồi xuất hiện như mọi da đỏ dàn hàng ngang xung phong y hệt trong phim cao bồi viễn tây, vì đồi lau sậy thưa thớt nên rất dể thấy chúng không thổi kèn xung phong mà vừa chạy, vừa bắn, vừa hô “hàng sống chống chết” vang trời. Tiểu đoàn 11 Dù đang bị nguyên một Trung đoàn Việt cộng phục kích, Trung đoàn này được lệnh đi đánh phi trường Phượng Hoàng đêm trước, khi Tiểu đoàn 11 Dù rút lui khỏi Charlie, chỉ huy của chúng đoán được ta sẻ bốc quân tại đây nên cho lệnh Trung đoàn này lui trở lại để phục kích định hốt gọn 11 Dù, bọn chúng tưởng khi pháo ở giửa tất nhiên ta sẻ bung chạy tản ra chung quanh, bọn chúng đã phục kích sẳn sẻ hốt gọn, nhưng không ngờ khi chúng tràn xuống, thì Nhảy dù cũng bung ra chống lại mãnh liệt. Trận chiến lúc này như một cái nia đựng đậu đen và đậu trắng sàng qua sàng lại lẫn lộn như đang đánh xáp lá cà, chổ nào cũng có tiếng AK47 và M16 nổ lẫn lộn còn hơn pháo Tết, coi như cả Tiểu đoàn 11 trừ cùng bắn nhau một lúc với một Trung đoàn Việt cộng, hai bên chạy qua chạy lại thấy đâu bắn đó như xinê, làm Cobra bay trên đầu cũng không biết bắn vào đâu, một chiếc trực thăng liều chết đáp xuống đất, tôi thấy một số người chạy tới leo lên, những chiếc sau vừa xà xuống thì Việt Cộng cũng rượt gần đến nơi, xạ thủ đại liên Nguyễn Tấn Vinh (hiện ở Houston) dừng lại ôm Ðại liên 60 ria hết luôn một dây đạn còn lại, Việt cộng ngả rạp xuống đồi rụng như sung, viên đạn đại liên cuối cùng vừa ra khỏi nòng là mấy cây AK đã chỉa vô đầu Vinh, có lẽ vì cãm phục tinh thần anh dũng của người lính Nhảy Dù này mà chúng không giết để trả thù cho đồng bọn, chỉ bắt sống. Nhờ lòng quả cãm của người xạ thủ đại liên này mà một slick duy nhất 4 chiếc trực thăng đã bốc được Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn 11, Sĩ quan liên lạc pháo binh, và cố vấn Duffy, nhưng Thiếu Tá Ðoàn Phương Hải Trưởng ban 3 (hiện ở San Jose) thì bị một viên đạn AK bắn xuyên bàn chân từ dưới đất lên, rớt xuống máy bay, may nhờ Thiếu Tá Duffy gan dạ quay trực thăng trở lại kéo lên.
Ðạn hai bên vẫn nổ tới tấp, thêm một cặp Cobra và một slick trực thăng khác vào vùng bay vòng vòng trên trời. Việt cộng chỉ bất ngờ đi phục kích nên không đem theo phòng không cho nên trực thăng của Mỷ mới hoạt động được nhưng chỉ bốc chứ không dám bắn vì sợ trúng quân bạn. Chiến trường lần lần bớt đi tiếng súng, nhưng tiếng kêu hàng vẫn còn nghe văng vẳng, tiếng trực thăng vẫn còn nghe vần vũ trên đầu. Lúc này tôi đang sát dưới bờ suối với ba bốn người lính nhìn lên khá rỏ nên bảo họ chạy theo tôi ra bãi may ra trực thăng thấy được rỏ đồ rằn ri so với đồ vàng bụi đất của Việt cộng mà bốc chúng tôi lên. Những người lính nghe theo tôi chạy lên triền đồi, đang chạy, tôi thấy một chiếc Cobra bay phía bên trái ngược hướng tôi chạy lên, chừng quay lại phía sau thấy nó vòng lại nghiêng cánh, kinh nghiệm chiến trường đã cứu tôi thoát chết, Cobra mà nghiêng cánh về phía nào là nó bắn rocket về phía ấy, chắc là trực thăng nó thấy Việt cộng rượt theo chúng tôi nên bắn, tôi chỉ kịp hô:
– Dạt ra một bên, trực thắng bắn.
Tôi vừa nhào đại qua một bên thì một tiếng rocket nổ như trời giáng cách tôi cở vài mét không còn nhớ rỏ phía bên nào, tôi thấy mình văng lên rồi rớt lăn trở xuống triền đồi, cây súng colt 45 cầm trtên tay văng đâu mất, cái địa bàn đeo trên cổ và tấm bản đồ nhờ bỏ trong áo nên còn lại, may mắn tôi chỉ bị chấn động nhẹ, nhưng không hiểu những người kia có sao không. Tôi đứng dậy chạy ngược xuống bờ suối thì gặp một tốp Dù, trong đó có Chuẩn úy Linh đang chạy theo bên bờ suối về hướng Bắc, thấy tôi họ mừng lắm, cả tôi cũng thế, chưa kịp hỏi thì tiếng súng đuổi theo cũng nghe kế bên, lẫn tiếng kêu đầu hàng, tôi chỉ hướng chạy qua bên kia bờ suối, vừa vượt qua bờ suối thì một người chạy sau bị bắn rớt xuống suối, tôi thúc anh em chạy tiếp, chạy khoảng 50 mét không nghe tiếng rượt theo, chúng tôi dừng lại để thở. Tôi nói vội với anh em:
– Tuyệt đối không đầu hàng, đi theo tôi, nếu người nào bị bắn mà bị thương, kể cả tôi, thì phải bỏ lại, chạy thoát thân, chứ không được đầu hàng. Mọi người tuân lệnh. Vừa đi tôi vừa xem bản đồ. Võ Ðịnh cách khoảng 8 cây số, chỉ băng theo hướng đông bắc là đến nhưng thế nào cũng gặp Việt cộng, tụi nó dứt Charlie rồi tất phải đánh phi trường Phượng Hoàng, vô đó là lãnh đủ (về sau đúng như vậy vì bọn chúng đang diều quân đánh căn cứ Võ Ðịnh). Cho nên tôi quyết định đi thẳng lên hướng bắc khoảng một cây số đánh lạc hướng địch rồi vòng lại hướng đông nam ra Diên Bình, cách đó khoảng mười mấy cây số. Vừa đói, vừa mệt, 10 người mà chỉ còn có 3 cây M16, mổi cây chỉ có một băng đạn, không biết lúc đụng trận nửa thì thế nào, tôi lại nhớ đến Hạnh, người đệ tử nhỏ con nhưng rất tháo vát, lên hạ sĩ thường được ở lại pháo đội học bắn, nhưng không hiểu khoái tôi cái nổi gì đòi theo tôi đi đề lô cho khổ tấm thân, bây giờ không biết ra sao. Ði gần nửa ngày, đồi cao cả ngàn mét, đói lã người, nửa tháng nay không đêm nào ngủ được vài tiếng. Bổng người đi đầu giơ tay ra hiệu dừng lại, khu rừng tre trước mặt có tiếng động, quan sát một hồi thấy được một toán Dù thất lạc, chúng tôi ra thủ hiệu nhận diện rồi nhập chung, tới chiều thì gặp thêm một toán nửa, thêm hai Chuẩn úy và mấy Hạ sĩ quan. Quân số bây giờ là 26 người với 10 cây M16, có vài người bị thương nhẹ nơi chân và tay, mọi người đều đói quá, không ai còn miếng gạo sấy nào, chỉ còn một lon thịt ba lát, anh em khui ra đưa cho tôi, tôi cắn một miếng rồi trả lại nói mặn quá, cả tuần nay chẳng nuốt gì được để từ từ rồi ăn. Biết được Chuẩn Úy Linh lớn tuổi và thâm niên hơn hai Chuẩn úy kia nên tôi kêu Linh riêng ra và nói:
– Lính của anh, anh dể chỉ huy hơn, còn tôi thì dẫn đường ra thôi.
Chuẫn Úy Linh trả lời:
– Trung Úy lớn nhất ở đây, chỉ huy, dẫn đi dâu chúng tôi theo lệnh Trung úy.
Tôi trở lại nói với anh em:
– Như vậy tôi ra lệnh, nếu gặp địch đông thì bỏ chạy, nếu địch ít thì đánh, ai bị thương kể cả tôi cũng phải bỏ lại, tuyệt đối không được đầu hàng, tôi có niềm tin tôn giáo, Ðức Mẹ sẻ che chở chúng ta. Mọi người tuân lệnh. Tôi cho tất cả mọi người còn vũ khí đi đầu, ba Chuẩn úy chia ra xen kẻ, còn lại không có vũ khí thì đi sau. Tôi cũng dặn dò kỷ hướng ra Quốc lộ 14, trên đường sẻ gặp những gì trên bản đồ. Nếu có thất lạc vì đụng trận thì theo hướng đó mà ra. Không phải tôi sợ anh em đụng trận, tôi chỉ muốn làm tròn bổn phận người anh, lở tôi có bề gì thì biết đường ra cho sớm, trể một ngày là có thể chết vì đói.
Tối đó, tôi dặn Chuẩn Úy Linh cắt gác xong chia nhau đi ngủ. Sau một đêm nghỉ thật ngon kể từ nửa tháng nay, tôi đánh thức mọi người dậy thật sớm để leo núi đở mệt hơn. Ðến trưa, theo bản đồ chúng tôi đến một làng Thượng đã bỏ hoang, không có gì để ăn, chỉ có một cây xoài thật cao toàn trái xanh, đói gần chết mà chơi thứ này vô còn tịch sớm hơn nửa. Một người lính bổng thấy một cây điều rừng trong bụi cây trước mặt, có rất ít trái nhỏ màu vàng cở ngón tay, tôi nói để tôi thử coi, bứt một trái không dám đưa hẳn vào trong miệng để nhai, tôi nhây nhây ngoài răng cửa, hơi có vị ngọt chát, tới chừng nuốt vô vừa đến cuống họng thì nghe thật rát, tôi vội vàng nhổ ra, nguyên cổ họng tôi bị ngứa tàn bạo, và một chốc sau thì đôi môi bị sưng lên, tránh võ dưa gặp vỏ dừa, may mà không nuốt vô, nếu không dám toi mạng lắm. Chúng tôi tiếp tục đi một lúc thì lên một ngọn đồi dài mà đỉnh của nó thật bằng phẳng như ai đã san bằng. Ngọn đồi rất đẹp, cây cối rậm rạp, chúng tôi dừng lại ngồi nghỉ thì nghe tiếng trực thăng bay từng đoàn về hướng Nam, có lẽ trực thăng đổ quân, tôi cho anh em rút xuống triền đồi bên này, sợ trực thăng dọn bải hay pháo binh bắn ghép bải lở trúng thì xui tận mạng. Thật đúng như phép lạ, trực thăng dọn bải phía bên kia đồi, đạn bạn vút qua trên đỉnh mà chúng tôi vừa rút xuống. Hú hồn. Sau đó nghe tiếng trực thăng đáp xuống. Ðúng là đổ quân nhưng không biết đơn vị nào đây (sau này tôi biết được Tiểu đoàn 9 Dù đổ quân). Sợ ngộ nhận, tôi quyết định đi tiếp, đến gần chiều thì dừng quân nghỉ đêm. Ðôi môi tôi giờ này sưng vù lên và thâm đen phía ngoài, còn trong cổ thì ngứa vô cùng, chỉ muốn đưa cả nguyên bàn tay vào miệng mà cào cho đã ngứa, không biết tôi có ra kịp quốc lộ không, nếu bỏ mạng lãng xẹt như thế này vì ăn bậy thì đau quá. Trong lúc dừng quân, chúng tôi kiếm được đâu đó ít rau tàu bay, luộc lên với nước suối cầm hơi. Ðêm đó nhìn lên bản đồ, tôi còn cách sông PoKo độ 2 cây số nửa, qua sông này được thì chiều tối đến xã Diên Bình. Nhưng con sông rộng và nước chảy thật xiết như thế và người nào cũng đuối sức hết thì làm sao mà qua đây. Trưa hôm sau, chúng tôi đến sông PoKo đúng y tọa độ. Tôi cho mọi người ngồi nghỉ trong các lùm cây trên bờ. Ngay lúc đó, một chiến trực thăng từ hướng quốc lộ 14 bay thẳng vô núi, chúng tôi chạy ra bờ sông cởi áo giơ tay vẩy vẩy. Từ xa trực thăng thấy được nhưng không dám bay lại gần, nó chỉ bay vòng vòng quan sát chúng tôi một hồi rồi xong cũng giơ tay vẫy vẫy rồi bay luôn. Tôi nghỉ trong bụng, chắc là trực thăng đi kiếm chúng tôi, thấy chúng tôi gần ra đến nơi rồi nên bay vào tìm những người còn kẹt lại trong sâu hơn, nhưng thế nào cũng báo về Lữ đoàn để báo cho đồn Ðiạ phương quân biết đừng bắn lầm. Tôi xem lại bản đồ, đây là đầu một cái ấp, thế nào họ cũng có ghe để qua sông, tôi cho người đi dọc bờ sông khoảng một trăm mét thì thấy có một cái ghe nhỏ và một người đã tình nguyện bơi qua bên kia bờ lấy ghe, rồi lần lượt đưa chúng tôi qua sông. Có lẽ bề trên đã an bài, một cái ấp bỏ hoang như thế này lại có một chiếc ghe của ai đó bỏ lại để đưa chúng tôi qua sông, như một phép lạ. Mọi người đều kiệt sức nên tôi quyết định cho anh em đi ngang qua rẩy dân và cố tình nói chuyện lớn tiếng, để nếu có lính nghỉa quân ở đây thì nhận ra giọng miền Nam chứ không phải giọng Bắc con cháu giặc hồ mà không bắn lầm, đồng thời cũng vớt vát chút đỉnh củ khoai trái bắp gì đó trên đường đi. Ðây là một quyết định có lẽ lạ đời nhất và phản chiến thuật nhất của một sĩ quan. Cứ như vậy mà đi, có lúc những người lính còn ca lên mấy câu vọng cổ hoặc mấy bài hát của miền Nam nửa, chẳng có gì ăn trên đường qua rẩy vì rẩy cũng bị bỏ hoang lâu rồi, thì lót lòng bằng tiếng ca ngọt ngào hương lúa miền Nam quê hương vậy.
Chúng tôi từ địa ngục trở về đâu có còn ngán cái địa ngục nào nửa đâu, ba cái thằng du kích xã dám xuất hiện ngăn chúng tôi sao? Tôi lấy cái lý của kẻ lỳ cho anh em tự do ca hát nói chuyện cho đến khi gần đến Xã Diên Bình thì dừng lại. Sợ mò vào ban đêm bị vướng mìn tự động hay lựu đạn gài nên tôi cho dàn quân lại phòng thủ ngủ đến sáng mới vô, và dặn dò hết sức cẩn thận, không chết dưới chục ngàn quả đạn pháo mà chết vì đạp mìn địa phương quân thì lảng xẹt. Tôi vừa đi một vòng kiểm soát lại mọi người thì Chuẩn Úy Linh tiến lại nói có hai thằng mò vào liên lạc được bên trong rồi, họ mở cổng cho mình vào. Tôi nói tào thiệt, sau đó tôi đi vào đồn chào vị Ðại úy Tiểu đoàn Trưởng Ðịa phương quân và trình bày lý do, viên Ðại úy nói hồi chiều tôi đã được biết trước anh em sẻ về đúng nơi đây đêm nay, nên đã chuẩn bị các thứ để giúp anh em Nhảy dù. Tôi mượn máy liên lạc với Tiểu đoàn 1 Pháo binh Dù và nhờ chuyển qua báo cho Tiểu đoàn 11 biết chúng tôi đã ra đến nơi, xong nói tôi có một số người bị thương, xin Ðại úy săn sóc dùm, viên Ðại úy cho người dẩn anh em bị thương lại một tu viện gần đó, tôi đi theo. Những vết thương được các seour rửa ráy hết sức cẫn thận, dòi con nào con nấy to bằng đầu đủa bò ra từ trong tủy xương tay mà anh em không cãm thấy đau đớn chi cả, có những nổi đau còn lớn hơn trong lòng mọi người và không ai dám nói ra vào lúc này vì nói ra chúng tôi sẻ khóc. Giọt lệ anh hùng phải rơi đúng lúc và đúng chổ. Các soeur cũng cho tôi vài viên thuốc gì đó uống cho khỏi làm độc, tôi cám ơn rồi về gọi Chuẩn Úy Linh đến để giao lại nhiệm vụ chỉ huy anh em. Viên Ðại Úy hỏi tôi muốn ăn gì, tôi chỉ xin một tô cháo, và một chổ nằm.
Trong lúc chờ đợi, tôi bước ra khỏi hầm, bước lên cầu Diên Bình nhìn về dẩy Trường Sơn âm u phía Tây, ánh hỏa châu lung linh trong đêm tối như canh giấc nghìn thu cho đồng đội tôi đời đời an nghỉ, hay còn tiếp tục đâu đó cuộc chơi tốn nhiều xương máu vì hai chử tự do, những người đi không về đêm nay, có Hạnh, có Sơn, có Khánh hình như đang bay theo những đốm lửa nổ bộp trên không, rồi tan vở từ từ thành hình một cánh dù trên đồi máu, tôi thấy mình nắm lấy hai dây thượng thăng, chạy băng xuống đồi, cánh dù từ từ lộng gió lên cao, bên tai tôi còn nghe tiếng kêu khát nước của Cho, tiếng đạn hú rợn người trên non, và tôi đi vào cơn mơ lúc nào không biết…
Tiểu đoàn 11 Dù, Song Kiếm Trấn Ải Charlie đã để lại nơi đây người anh cả Nguyễn Ðình Bảo cùng ba trăm đồng đội , và Tiểu đoàn về được tới Võ Ðịnh trước sau chỉ có mấy chục người, chưa được một Ðại đội. Sau Hiệp định Paris, Ðại Úy Hùng mập, Ðại đội trưởng 113 được trao trả. Xạ thủ đại liên Nguyễn Tấn Vinh dọc đường dẫn ra Bắc, nhiều lần bọn cán binh Việt cộng đòi giết để trả thù cho đồng bọn nhưng cấp chỉ huy của chúng không cho vì nhu cầu trao trả, anh hiện ở tại Houston. Người đệ tử tôi, Hạ sĩ Hạnh và nhiều anh em khác thì nằm lại tại một trại tù binh nào đó tại vùng Thượng du Bắc Việt vì bị sốt rét và đói khát. Trung úy Lạc giải ngủ sau trận này, không chết, nhưng vết thương trên đầu khi thở ra hít vào thì da đầu cũng phập phồng theo, trông rất ghê, nên lúc nào cũng phải đội nón bảo hộ. Ðại Úy Hùng móm và Chuẩn Úy Trưng đề lô bị bắt sống nhưng đã trốn thoát được sau đó, và chỉ vài tháng sau thì Ðại Úy Hùng móm đã nằm xuống trên đường tái chiếm Cổ Thành Quãng Trị, chỉ cách ngôi nhà củ của mình có 100 mét. Sau trận Charlie, tôi được Thiếu Tá Mễ chạy cho một cái Nhành dương liễu, đợi mãi không thấy, hỏi lại thì được biết Bộ Tổng Tham Mưu cúp hết huy chương của Quân Khu 2 sau trận này.Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù đã đánh hai trận lẫy lừng nhất trong quân sử Việt Nam Cộng Hòa, Trận Charlie lãnh cở 10,000 quã đạn đại bác đủ loại trên một căn cứ nhỏ xíu, chưa có trận nào mà một đơn vị của quân đội ta bị pháo khủng khiếp đến như thế. Tiểu đoàn 11 Dù bị mất hơn 4 đại đội, nhưng đã tiêu diệt được ít nhất cũng một Trung đoàn cộng quân của Sư đoàn 320 quả đấm thép, một đổi bốn. Sau chỉ một tháng bổ xung quân số rồi ra tái chiếm Quãng Trị, chỉ trong một đêm đến sáng của một ngày tháng 6 năm 1972, Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù và đề lô pháo binh đã bắn cháy 26 xe tăng địch gần bờ sông Mỹ Chánh, có lẽ quân sử thế giới cũng chưa có một đơn vị nào lập được một kỳ công như thế trong không đầy 12 tiếng đồng hồ, và cũng chính nhờ Tiểu đoàn 11 đã dùng hỏa tiển TOW bắn cháy một xe tăng T54 của địch định khóa đuôi Ðại đội 1 Trinh Sát Dù của Thiếu Tá Dũng, Ðại đội trưởng, mà tôi đã thoát chết được khi đi đề lô cho Ðại đội này ngay sát bờ Nam sông Mỹ Chánh, Hải Lăng, Quãng Trị cuối tháng 6 năm 1972.
Nguyễn Văn Lập
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Lời nói đầu: Khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) non trẻ của Miền Nam Việt Nam bị sụp đổ bởi sự phản bội của nước bạn đồng minh. Quân cộng miền Bắc tiến chiếm Miền Nam, trên thế giới đã có một nhận định cho rằng: sẽ có cuộc tắm máu xảy ra.Nhưng không, rút kinh nghiệm của các nước cộng sản anh em và của chính Cộng Sản Việt Nam (CSVN) qua những lần tắm máu, sau khi cướp được chính quyền, bị thế giới lên án nặng nề. Lần này, sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, CSVN không áp dụng thủ đoạn tắm máu mà thi hành chính sách KHÔ MÁU! Đối với Quân Dân Cán Chính VNCH.Bài viết sau đây, tôi kể lại một chuyện thật, không hư cấu, một trong trăm ngàn sự thật về chính sách đối xử tàn độc của chế độ CSVN với nhân dân Miền Nam Việt Nam! Đề tài khô khan, mong người đọc thông cảm.
Phản Kháng Của Tù Cải Tạo Trong Đêm Noel 1978
Sau ba năm lao động khổ sai trên vùng rừng núi cao nguyên Lambiang (Lâm Viên) cuối dãy Trường Sơn. Những sĩ quan QLVNCH, người tù chính trị không án, được ngụy trang dưới mỹ từ “cải tạo”, do các đơn vị bộ đội quản lý từ sau ngày 30 tháng Tư năm 1975. Nay vì nhu cầu cuộc chiến xâm chiếm nước láng giềng Cambodia vào cuối năm 1978, bộ đội đã chuyễn chúng tôi trở về trại Suối Máu, Biên Hòa, giao qua ngành công an quản lý.
Tùy tình thân giữa bạn tù với nhau, trong các ngày lễ lớn của bất cứ tôn giáo nào, hay những ngày lễ Quốc Gia, ngày tết Dương Lịch, tết Nguyên Đán, chúng tôi từng nhóm tụ năm tụ bảy hàn huyên tâm sự. Chiều hôm 24 tháng 12 năm 1978, từng nhóm bạn gom góp mỗi người một ít đường, gạo nếp, đốt lửa đó đây dọc theo hè nhà, nấu chè lạc để có bửa ăn chung đón mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Trên vọng gác, công an trông thấy dấu hiệu lạ trong các khu giam tù từ K1, đên các khu K2, K3. Khoảng 7 giờ tối, từng toán công an võ trang vào bên trong tuần tra, hỏi chúng tôi chuyện gì mà tụ tập, chúng tôi giải thích. Toán tuần tra rão quanh một vòng rồi trở ra ngoài.
Đến 8 giờ tối, hầu hết các K vang lên tiếng cười cùng tiếng vỗ tay. Khu K1 nơi giam tù sĩ quan cấp Thiếu và Trung úy, tuổi chừng 20 đến 30 rất trẻ, còn tràn đầy sinh khí, ồn ào náo động nhất, họ hát Thánh ca, tình ca với những chiếc đàn guitar tự chế.
Các toán công an võ trang trở vào, ra lệnh “cải tạo viên “ giải tán vào bên trong láng (nhà). Chưa đến 10 giờ đêm, giờ ngủ theo quy định của trại, họ cưỡng lệnh không chịu vào. Có tiếng súng nổ, công an võ trang bắt đi ba người tù đem ra ngoài khu giam.
Lập tức, toàn thể tù nhân khu K1 gọi nhau tập trung ở sân trước đối diện với cửa ra vào Ban giám thị trại. Họ dùng tay làm loa che miệng, đồng thanh kêu gọi Giám thị trại thả người trở vào, cũng hướng về các khu K2 giam tù cấp Tá, khu K3 cấp Đại úy để thông báo tình hình và xin tiếp tay yểm trợ, bằng cách tất cả tù nhân ra khỏi láng, làm theo những gì bạn tù K1 yêu cầu với Giám thị trại.
Bên ngoài, Giám thị trại vẫn im lìm, bên trong âm thanh hò reo của tù nhân vang dội toàn khu trại tù Suối Máu. Ngay lúc này, tại K2 các bạn tù cấp Tá, nhanh chóng thành lập Ủy Ban Hành Động (UBHĐ). Thiếu tá Không Quân Lê Thanh Hồng Vân vóc người to cao, làm Trưởng UBHĐ (hiện nay anh đang định cư tại Florida). Thiếu tá Pháo binh Lê Văn Sanh làm Phó Trưởng Ban (nay anh định cư tại Texas) và nhiều thành viên cho từng bộ phận, như bộ phận Hành Động, bộ phận An Ninh, bộ phận Kế Hoạch. Một số thành viên trong UBHĐ chui hàng rào kẻm gai, sang K1 hổ trợ và bàn kế hoạch. Hàng rào kẽm gai ngăn giữa các K trước đấy rất kiên cố, nhưng sau ba năm do bộ đội quản lý, cán binh bộ đội nhổ bớt cọc sắt ấp chiến lược và tháo lấy kẽm gai để làm việc riêng tư, nên nay hàng rào thưa trống, người chui qua lại rất dễ dàng.
Đã giữa khuya, Giám thị trại vẫn không động tỉnh. Bước đầu UBHĐ kêu gọi nhau hát các bản Thánh ca, trong đó bản HANG BELEM :
Ðêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đờiChúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa.Trong hang bê-lem ánh sáng tỏa lan tưng bừng . . .
là bản nhạc dễ hát nhất, hầu như ai cũng hát được, không phân biệt tôn giáo, các bạn tù Ki Tô Hữu hát lớn mọi người cùng hát theo, lặp đi lặp lại liên hồi, chen lẫn với tiếng vổ tay, tiếng kêu gọi thả tù. Trời về khuya tỉnh mịch, âm thanh vang dội đến tận vùng dân cư nhà thờ Hố Nai, Biên Hòa.
Có tiếng động cộc cạch từ những loa phóng thanh đặt sẳn trong các K giam tù, để Giám thị trại thông báo chỉ thị, mở đài (radio) phát thanh Hà Nội, đài Saigòn giải phóng cho tù nhân nghe tin tức vào mỗi sáng sớm và chiều tối. Giám thị trại lên tiếng:
“Yêu cầu tất cả “trại viên cải tạo” trong các K giải tán trở vào láng để ngủ, sau đó Ban giám thị sẽ cho ba trại viên trở vào.”
Không ai bảo ai mọi người đồng loạt trả lời:
“ Phải thả người vào trước đã”.
Hai bên, lời qua tiếng lại giằng co mãi, lồng trong tiếng hát Thánh ca mỗi lúc một vang dội hơn, mặc dù đêm đông giá lạnh nhưng mọi người vẫn kiên trì ngồi dưới sương khuya.
Từ xa vọng lại tiếng động cơ nổ rầm rì, rồi dần dần nghe rõ tiếng xích sắt của xe tăng nghiền trên mặt đường nhựa, từ hướng nhà thờ Hố Nai tiến về trại tù Suối Máu. Bọn cai tù lượng định tình thế, kéo dài thời gian xin chỉ thị cấp trên, điều động xe tăng đến mặt trước của trại tù để thị oai. Không nao núng, UBHĐ đưa ra quyết định, gọi lớn ra bên ngoài:
” Nếu ban giám thị trại không thả người vào, đêm nay tất cả trại viên cải tạo sẽ không vào ngủ”.
Tiếng gầm gừ của máy nổ, tiếng xích sắt của tăng nghiền trên mặt đường mỗi lúc nghe ác liệt hơn, rồi từng loạt đại liên trên tăng thay nhau nổ dòn, đạn hú xé không gian, xẹt ánh lửa vèo vèo ngang qua các nóc nhà trại giam.
Trước tình huống đã cởi lưng cọp không thể lùi, UBHĐ họp bàn quyết định, thông báo cho Giám thị trại:
”Ngày mai toàn thể trại viên cải tạo sẽ TUYỆT THỰC nếu trại không thả người vào”.
Đồng thời loan báo đến các K:
“Yêu cầu tất cả các toán anh nuôi, sáng ngày mai KHÔNG ĐƯỢC RA BỘ CHỈ HUY LÃNH GẠO VÀ THỰC PHẨM, cho đến khi Ban giám thị trại thả người vào.”
Tiếng hát Thánh ca tiếng vỗ tay, tiếng gọi thả tù vẫn tiếp tục vang vang trong đêm khuya. UBHĐ kêu gọi các bạn tù lớn tuổi vào láng để nghĩ trước, nhưng không một ai chịu rời chỗ. Biện pháp TUYỆT THỰC của tù nhân là sự việc bất ngờ đối với Giám thị trại. Phần chủ động của quyết định này thuộc về phía tù nhân. Không một toán anh nuôi nào có thể cưỡng lại, không chấp hành, nếu họ muốn sống còn.
Thấy tình thế không thuyết phục được đám tù nhân nếu không thả tù. Giám thị trại Bằng lên tiếng yêu cầu toàn thể trại viên cải tạo giải tán vào ngủ. Ba trại viên sẽ trở vào khi làm xong kiểm điểm trong một thời gian ngắn.
Cùng lúc ấy tiếng máy nổ của xe tăng xa dần khu trại tù Suối Máu.
Khuya lắm rồi, tù nhân vẫn ngồi hát Thánh ca. Bổng có tiếng dây xích sắt lỏn còn va chạm vào trụ cổng K1, cửa mở ba bạn tù bước vào bên trong. Tiêng hoan hô, reo hò gọi tên ba bạn tù. UBHĐ thông báo đến mọi người trở vào láng và bỏ lệnh tuyệt thực, để ngày mai các toán anh nuôi tiếp tục làm nhiệm vụ cơm nước.
ĐƯỜNG VÀO ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN
Noel, 24 tháng 12 năm 1978, đã là ngày 25 tháng 11 năm Mậu Ngọ, chỉ còn đúng một tháng đến tết Kỷ Mùi 1979. Thời gian này, nước lớn đàn anh Trung Cộng dạy cho bọn đàn em CSVN một bài học ở địa đầu giới tuyến. Không khí trong trại tù sôi sục về thời sự nghe được qua loa phóng thanh của trại.
Sau đêm tù cải tạo phản kháng, chúng tôi nghĩ sẽ có sự trừng phạt đến với một số người. Nhưng không, Giám thị trại, những con cáo già không biểu lộ một thái độ hằn học nào. Ngược lại cục trại giam đưa cán bộ tuyên huấn đến trại nói chuyện về tình hình biên giới Việt Trung, tuyên truyền, đề cao bộ đội cộng sản ở tuyến đầu chống trả quân bành trướng Trung Quốc v.v…
Giám thị trưởng trại tỏ ra thân thiện vui vẽ, liên tiếp vào trại tập họp “trại viên cải tạo” nói chuyện về chánh sách cải tạo khoan hồng của đảng, nhà nước và nhân dân . . . Ngoài ra, giám thị trại bàn đến ngày tết truyền thống, tết Kỷ Mùi, đề ra kế hoạch thi đua, mừng đón Xuân. Mục đích đánh lạc hướng kế hoạch đòn thù mà chúng sẽ áp dụng.
Sau những ngày tết Kỷ Mùi, đầu tháng 2-1979, bửa cơm chiều vừa xong, tù nhân cấp Tá ở K2 chúng tôi, có lệnh tập trung lên hội trường làm việc. Lệnh tập họp bất thường vào chiều tối, mọi người đã đoán có điều bất thường sẽ đến. Quanh hội trường công an võ trang canh gác. Trên bục, giám thị trưởng đọc “lệnh chuyễn trại”.
Trong đời người tù cải tạo, chuyễn trại là cả một cực hình, một nỗi kinh hoàng không kể xiết. Danh sách đen, hơn 350 tù cấp Thiếu, Trung và Đại tá chúng tôi, lần lược được gọi tên, tách riêng, ra sân xếp thành từng đội 30 người. Lệnh cho chúng tôi trở về láng thu xếp tù trang rồi đi ngủ.
Khi có lệnh tất cả tập họp lên sân trại. Chúng tôi được phát một khúc bánh mì bột bo bo kẹp chút thịt heo mỡ. Đúng 4 giờ sáng tiếng ì ầm của đoàn xe Molotova tiến vào trước cổng trại.
Đoàn xe tù lên đường còn trong đếm tối, mãi đến lúc bình minh ló dạng, chúng tôi mới biết đoàn xe đang chạy trên Quốc lộ I, đi về hướng Bắc. Mỗi xe tù có một công an võ trang đi theo, nhưng họ ngôi cùng tài xế ở trước xe, do vậy ở phía sau chúng tôi bàn tán với nhau, đoán già đoán non đủ thứ. Đến trưa đoàn xe tù vào thành phố Phan Rang, đoàn xe ngừng lại ở đầu thành phố. Tài xế vào phố ăn trưa, mỗi chúng tôi cầm khúc bánh mì bo bo ngao ngán.
Người bán hàng rong trong phố, thấy có đoàn xe vừa dừng ở bên ngoài, họ kéo nhau chạy ra, phụ nữ già trẻ có, các cháu nam nữ tuổi rất nhỏ, quần áo bạc màu, rạn rách. Trên tay mỗi người một cái mẹt, một chiếc rổ rá đựng ít củ khoai lang, củ mì (sắn) luộc, mớ trái cây, các loại bánh gói lá chuối. Ra đến nơi, ban đầu họ không biết xe chở khách gì, họ chạy ùa đến rao bán mớ hàng trên tay. Có sự đồng ý của công an võ trang, một số anh em tù chúng tôi đứng lên trong xe, chìa tiền mua thức ăn. Bất chợt một phụ nữ lớn tuổi trong nhóm, nhìn thấy chữ CẢI TẠO thật to, dấu đóng trên lưng áo, trên quần tù nhân. Bà ta la lớn lên gần như gào thét:
“Các chú CẢI TẠO tụi bay ơi, các chú cải tạo tụi bay ơi, đưa lên cho các chú đi đừng lấy tiền của các chú, đưa lẹ lên ”.
Cả nhóm nghe theo lời bà. Chúng tôi cầm tiền, cúi gập người xuống năn nĩ các cháu nhỏ lấy tiền, nhưng chúng lắt đầu lia lịa, chúng chia nhau chạy khắp đoàn xe tù, ném đồ ăn lên xe. Một vài cháu lớn tuổi khỏe hơn, chạy thật nhanh vào trong phố gọi thêm các bạn mang hàng ra cho, ra đến nơi đoàn xe tù đã nổ máy chuyễn đi, họ ném theo lên xe tù những gì họ có trên rổ rá và đứng nhìn theo cho đến khi đoàn xe khuất xa – Mắt tôi cay cay nhỏ lệ, không phải chỉ lúc đó mà chính lúc này, tôi đang kể lại ký ức khó quên trong đời tù cải tạo, sau 30 tháng Tư-1975 – Xin nói rõ, trong giai đoạn đầu vào trại tù, bộ đội quản lý, không thu giữ tiền bạc và đồng hồ, nhẩn vàng.
Đoàn xe tù tiếp tục lăn bánh về hướng bắc Quốc lộ I, chúng tôi không đoán được sẽ đi về đâu. Khoảng 4 giờ chiều đoàn xe qua cầu đập Đồng Cam, rồi qua khỏi thị xã Tuy Hòa, Phú Yên đến quận Tuy An, đoàn xe rẽ trái, băng qua thiết lộ hỏa xa, dẫn vào quận Đồng Xuân. Lúc này tôi nhận ra địa danh vì tôi đã từng hành quân trên Khu 22 Chiến Thuật này gồm ba tỉnh: Bình Định, Phú Yên và Phú Bổn.
Trồi lên hụp xuống trên một độc đạo tung bụi đỏ mịt mù, đoàn xe mang chúng tôi vào một thung lũng rọ heo xa hun hút, dưới khí trời vàng vàng mờ ảo trong ánh nắng chiều. Đoàn xe dừng lại trước cổng một trại giam, tứ bề vòng rào lưới B40 và kẽm gai kiên cố. Trại cải tạo XUÂN PHƯỚC quận Đồng Xuân tỉnh Phú Yên, trại tù mang bí số A20. Những trại tù có mang bí số, trực thuộc Cục Quản Lý Trại Giam Trung Ương điều hành, là những trại tù nổi tiếng khắc nghiệt đối với tù nhân
CẢNH ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN
Trước khi vào đến trại giam A20, đoàn xe vượt qua một đoạn đường, bên phải là sườn đồi đất đỏ sỏi đá, bên trái là một cánh đông đất sét với những thửa rộng lúa cháy vàng bởi nắng hạn. Một cảnh tượng hải hung, thoạt đầu chúng tôi không ai hiểu nổi là hình ảnh gì, mặc dù chúng tôi cũng trong thân phận người tù!
Trên những thửa ruộng khô, đất đai nứt nẻ, lố nhố những toán người không áo không mũ nón, vỏn vẹn chỉ chiếc quần cụt, để lộ đôi ống xương chân khẳng khiu, thân hình da bọc xương với chiếc đầu lâu sậm màu! Hình ảnh ma quái này, ngày nay nếu sống ở Mỹ chúng ta có thể tưởng tượng được. Vào dịp lễ Halloween 31 tháng 10 mỗi năm, trong các của tiệm bán đồ trang trí lễ ma, chưng bày những bộ xương người, đầu lâu trắng hếu, trông ghê rợn, thì cảnh tượng trên cánh đồng khô, người tù đang lao động giống y chang như vậy.
Ở đây những bộ xương ma quái kia biết cử động, đôi tay xương xẩu, nặng nề mệt nhọc nâng cây cuốc đưa lên thả xuống, đang đào xới thửa ruộng đất khô cằn chai cứng!
Trước cổng trại, chúng tôi được lùa xuống sắp hàng trên một sân gạch rộng lớn. Trời đã chiều, từ nhiều hướng các đội tù lao động lần lượt kéo về, sắp hàng chờ khám xét nhập trại. Chúng tôi sửng sờ, tận mắt nhìn rõ những bộ áo quần tù, xám tro bạc màu, rách tả tơi, bay phất phơ trên những bộ xương với có chiếc đầu lâu mà chúng tôi đã nhìn thấy trên cánh đồng trước đó. Những người tù đã cởi bỏ áo quần để không cho thấm ướt mồ hôi, hầu giữ ấm được thân thể khi về trại.
Thành phần tù gì? Họ là ai? Họ là tù hình sự. Phần lớn là con cháu của quân nhân, công chức VNCH. Tuổi chừng 15 đến 30, vào tù cải tạo vì không chịu thi hành nghĩa vụ quân sự, không muốn đem thân bỏ mạng nơi chiến trường Cambodia. Không thi hành nghĩa vụ lao động, theo chính sách cưỡng bức lao động cá nhân, hay buộc phải đi lao động thay thế cho thân nhân già yếu trong gia đình. Công tác lao động thường là công trình thủy lợi, đào kênh dẫn nước, vào núi chẻ đá, khuân vác đất đá, đốn gỗ, xây đập ngăn nước. Một thành phần nữa, là con cháu các gia đình “ngụy quân, ngụy quyền và ngụy dân” bị chính quyền địa phương đẩy đi vùng “kinh tế mới”, cuộc sống thiếu thốn quá khổ, bỏ trốn về các thành phố, mua lén bán chui, kiếm sống, giúp đỡ mẹ, anh em, trong khi ông, cha đang trong tù cải tạo! Chỉ có dưới chế độ cộng sản, mới có chuyện ba thế hệ gặp nhau trong nhà TÙ!
Chúng tôi tù chính trị, được nhốt chung với tù hình sự trong trại giam Xuân Phước, nhưng ở riêng một khu, cách nhau một sân rộng và nhà hội trường. Trại cấm chúng tôi “liên hệ” với tù hình sự, nhưng rồi đó đây chúng tôi cũng tiếp xúc được.
Dãy nhà tôi ở mang số 8, gọi là láng 8, dài chừng 50 met, nơi tôi ở, sát cạnh một “trạm xá”, ngôi nhà nhỏ diện tích độ 10 x 5 mét, mái tranh vách đất, chỉ một cửa nhỏ ra vào . Nói là trạm xá nhưng nhiều ngày, chẳng thấy y tá hay y sĩ vãng lai, cũng không thấy khám bệnh. Thì ra nơi đó, các cháu bị bệnh lao phổi đến thời kỳ quá nặng, cán bộ trại đưa vào cách ly, nằm chờ chết. Tiếng ho sùng sục bên trong liên hồi vọng ra.
Những cháu còn chút sức, lê thân ra ngoài hóng nắng, mở nút áo để lộ thân hình da bọc xương, đầu trọc không còn chút tóc, người co quắp, thở hỗn hễn, đứt đoạn từng hơi! Dãy nhà 8 nằm cuối cùng, sát hàng rào trại, nên họ ngăn một đoạn ngay đầu nhà, chừng 5 met làm thành một phòng nhỏ, phòng xác! Do vậy, bọn tù ở láng 8 chúng tôi, nhìn qua khe cửa, mỗi ngày chứng kiến ít nhất có từ 2 đến 3 xác chết, quấn bằng manh chiếu hay mền. Trên đầu chiếc giường tre, ngọn đèn dầu leo lắc, một chén cơm có cắm đôi đủa. Họ đưa xác vào đó ban đêm sau 7 giờ tối, khi chúng tôi đã vào bên trong láng ngủ và cửa khóa chặt. Ngày hôm sau, lúc chúng tôi xuất trại đi lao động bên ngoài, cán bộ trại cho đội tù hình sự, có tên Đội Tự Giác, dùng xe cải tiến, loại xe thùng có 2 bánh sắt, chở xác chết ra chôn ở một ven rừng đất đỏ, nghĩa địa của trại.
Những lần đi lao động ngang qua đây, chúng tôi đã thấy nhiều nấm mộ lắm rồi.
Tù cải tạo thuộc diện tù chính trị như chúng tôi, thời kỳ do bộ đội quản lý, mặc dù lao động khổ sai trong vùng rừng núi Trường Sơn, nhưng khi làm lao động có thể đi lại đó đây, tìm kiếm rau lá, bẩy chuột, bắt rắn cóc nhái . . . cải thiện bửa ăn, phụ thêm mớ thực phẫm, do vợ con thân nhân, cực khổ gồng gánh, vượt vạn dặm thăm nuôi. Thân xác chúng tôi cũng đã kiệt quệ, nhưng chưa đến nổi nào.
Đến lúc vào tay ngành công an quản lý, tại trại tù A20 này, quy chế đời sống chúng tôi không khác gì so với các cháu tù hình sự. Phần ăn mỗi bửa đều giống nhau. Nấu bếp làm cơm do tù hình sự phụ trách. Bửa ăn sáng trước giờ đi đồng lao động, mỗi phần ăn độ 4, 5 lát “sâm”. gọi là sâm cho vui, cũng để đánh lừa cái miệng, thực ra nó là những lát mì (củ sắn).
Mì do tù nhân trồng trọt, đến mùa thu hoach (bới lấy củ), cán bộ trại bắt tù nhân ngồi giữa đồi trọc, mỗi người một khúc gỗ, một con dao lớn, chặt củ sắn thành nhiều lát, có bề dày bằng nữa đầu lóng tay, những lát mì tung ra phơi nắng ngay tại chỗ, trên nền đất cát đỏ, qua nhiều ngày đêm, bất kể nắng mưa sương gió, cát bụi bám đầy. Đến lúc lát mì khô đã đổi sang màu sậm, được đưa vào các kho chứa, bao bọc bởi những mành tre thưa mỏng, không đủ sức che mưa gió. Những lát mì đóng lại thành cục, lên men trắng, men vàng rồi men đỏ, lát mì không còn lên men được nữa, trở thành những lát Sâm Cao Ly màu đen lánh!
Phần cơm trưa và cơm chiều giống nhau. Chén cơm chỉ là một chén sâm, cỏng lưa thưa một vài hạt cơm! Thức ăn là tô canh rau xanh, rau do tù trồng, được bón loại phân XANH, tức phân người trộn với lá cây xanh, phân lấy từ cầu tiêu nổi có thùng chứa. Những lúc trời nắng hạn, không sản xuất đủ rau xanh, thay canh bằng lưng nửa chén mắm thối!. Cai tù thầu mua tất cả các loại cá do ngư dân đánh bắt, không đủ phương tiện ướp lạnh, không đủ muối ướp mặn, đã ươn sình, thối rữa. Lâu lâu, xe tải chở cá vào trại, đã nghe mùi hôi tanh. Chúng đổ cá vào hồ làm mắm, hồ xây bằng xi măng rất lớn, tường cao 2 mét, chia thành bốn ngăn khoản 3×2 mét, mặt trên bịt kín, chừa một nắp đậy vuông.
Cá không ăn muối cá ươn, ở đây cá đã ươn sình, đưa vào hồ làm mắn, đổ thêm nước lã, lại không bỏ đủ muối, cá lên men mục nát rất nhanh, trở thành nước mắn. Màu nước mắm đen ngồm, tựa nước ống cống chợ cầu ông Lãnh, Saigon! Những khi toán anh nuôi mở nắp hầm lấy mắm, mùi thối xông lên nồng nặc, tỏa đi khắp khu trại giam, đến nín thở. Cầm chén mắm, không cách nào tôi đưa chén mắm lên miệng được, cho dù dùng mấy ngón tay cố bóp kín lỗ mũi.
Tôi không ăn được mắm thối, nhưng cũng không đổ bỏ đi. Đại tá bác sĩ Nguyễn Văn Khái cựu Chỉ huy trưởng Tổng Y Viện Cộng Hòa Saigon, khuyên tôi:
“Anh không ăn được anh cho người khác, tuy mắm thối nhưng nó có chất đạm, rất cần cho cơ thể hiện nay”.
Tôi đã đưa mắm cho người bạn, Đại tá Nguyễn Văn Luật, cùng đội lao động với tôi.
Người tù chính trị trong ngục tù cải tạo, có được sự sống còn, phải nhắc đến công lao vô bờ bến của những người vợ. Mãi mãi tôi ghi nhớ công ơn vợ tôi. Nhờ vợ, hơn một năm tôi thoát khỏi cảnh ăn mắm thối. Trước tết Kỹ Mùi-1979, từ Đà Nẵng vợ tôi lặn lội vào trại tù Suối Máu, Biên Hòa thăm nuôi. Khi ngang qua vùng Nha Trang, vợ tôi mua được 12 con mực khô lớn, loại xuất khẩu, họ đem bán chui.
Ngày đầu mới chuyễn đến trại tù A20 này, công an cán bộ khám xét tù trang, tất cả thức ăn do gia đình tiếp tế đều bị tịch thu, tiền bạc đồng hồ, nhẫn vàng bị thu giữ. May mắn cho tôi, tên công an cán bộ lo xốc xáo quần áo, chăm chú lục tìm những thứ mà chúng có thể bỏ túi luôn được.
Chiếc bao cát tôi đựng mấy con mực và gói muối bột, rơi ra một bên nằm cạnh chân tôi. Lẹ chân tôi hất nhẹ vào đống đồ đã khám xong, nhờ vậy tôi giữ được bao thức ăn vợ tôi vừa tiếp tế. Hàng tuần, trại cho tù xuống bếp hâm đồ ăn một lần vào buổi trưa. Tôi cắt một đoạn mực, chừng một lóng tay, xé thật nhỏ cho vào lon ghi-gô thêm chút muối bột, đun sôi làm thành nước mắm, ăn tằn tiện thoát nổi khổ húp mắn thối mỗi bửa!
CHẾT TẬP THỂ TRONG TRẠI TÙ CẢI TẠO
Từ môi trường sống đó, ngoài bệnh lao như đã kể trên, hầu hết là ở các cháu tù hình sự. Nhiều thứ bệnh khác thi nhau hoành hành trên thân xác người tù, nhất là bệnh kiết lỵ, loại bệnh dễ lây lan, nguy hiễm, tử vong cao.
Người bệnh, bụng đau nhói ruột co thắt, hậu môn luôn bị thúc dục đi tiêu liên tục, nhưng rất khó khăn, chỉ tiêu ra chút ít đờm giãi lẫn lộn máu tươi. Không thuốc men chửa trị, nhiều bệnh nhân kiệt sức không lê ra được khỏi nơi nằm, tiểu tiện tại chỗ, mùi hôi tanh xông lên, từng đàn ruồi nhặng vù vù bay lượn, trông phát khiếp!
Địa ngục trần gian, đại học máu, những ngôn từ dành để chỉ “ Trại Cải Tạo” dưới chế độ cộng sản, không sai chút nào! Cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm được Miền Nam, chia người dân Miền Nam ra ba thành phần: Ngụy quân, ngụy quyền và ngụy dân, điều tôi không bịa đặt, mà lời nói ra từ cửa miệng bọn cán bộ tuyên huấn, trong những lần tiếp xúc với tù nhân.
Một trong những đòn phép tàn độc cộng sản Hà Nội dùng để trả thù nhân dân Miền Nam là: chính sách Bao Tử. Dùng bao tử để hành hạ thân xác con người, bỏ ĐÓI con người, làm cho con người mất hết lý trí, tiêu tan ý chí kháng cự. Nhưng chúng đã lầm!
Nói đến đói trong trại tù cải tạo, thú thật, tôi viết lên điều này, xin người đọc đừng cho tôi chê trách ai đó. Nếu ai chưa chịu đựng qua cái đói trong ngục tù cải tạo, khi nghe nói đến đói, không thể có cảm nhận như người tù cải tạo đã ĐÓI! họ đơn thuần thấy cái bao tử thiếu thiếu vì lỡ một bửa cơm, hay một vài ngày phải nhịn ăn để trị bệnh. Đói trong trại cải tạo là một đòn thù ác nghiệt, có tính toán của cộng sản.
Bao tử người tù cải tạo, lúc nào cũng trống trơn, cơ trắng bao tử chà xát vào nhau, một cảm giác đau đớn không biết diễn tả thế nào cho đúng. Ăn rồi cũng như chưa ăn!, khổ cho cái bao tử cứ bị đánh lừa triền miên. Sau bửa cơm, tôi buồn tình dùng đũa, gõ vào miệng chén, ngâm nga:
Mình ngỡ những chưa ăn, ai ngờ đã ăn rồi.
Mình ngỡ những chưa ăn,ai ngờ đã ăn xong! Ôi tấm thân tù tội …
Khi viết bài này tôi mới biết, vô tình tôi đã đổi lời một đoạn ngắn trong bản nhạc của một nhạc sĩ ăn cơm Quốc Gia thờ ma cộng sản, nhạc sĩ Trịnh CS, bài “ Tình Nhớ “ (Tình ngỡ đã quên đi, như lòng cố lạnh lùng…). Lời tôi đổi, nói lên được tính dã man của con người cộng sản, mà Trịnh CS là một.
Các cháu tù hình sự, không còn lối thoát với cơn đói hoành hành thân xác. Trong những giờ làm lao động bên ngoài, các cháu vớ được bất cứ con trùng gì, như dế, châu chấu, cào cào, bọ ngựa hay cả con trùn, các cháu chỉ cần ngắt chân, lặt cánh, phủi phủi rồi đưa vào miệng ăn sống ngon lành! Gặp bửa, có cháu bắt được nhiều mồi hơn ăn tại chỗ không hết, dấu cán bộ, nhắt vào lai ống quần, tay áo, đem về trại đến đêm lén lút ăn tiếp. Ăn để mà sống qua ngày, đa số ngả bịnh, chết lai rai mỗi ngày.
Trại có một đội lao động gọi là Đội tự giác, nhân số khoảng 40, tất cả đều là các cháu tù hình sự. Được tuyển chọn từ những cháu học tập cải tạo “có tiến bộ”, sinh hoạt “có thành tích”!
Đội tự giác xử dụng khoảng 20 chiếc xe cải tiến, xe thùng có hai bánh niềng sắt. Nhận công việc làm từ cán bộ trại và được tự do ra vào trại để thi hành công tác, có công an Quản giáo giám thị, nhưng không có công an võ trang theo canh giữ. Sức khỏe các cháu Đội tự giác có phần khá hơn, nhờ những lúc chuyên chở thực phẩm từ Bộ chỉ huy trại vào khu giam tù, các cháu có cơ hội bòn tỉa được vài chút thức ăn, tuy vậy cũng không thấm đủ vào đâu, đói vẫn hoàn đói!
Những ngày không có công tác chuyên chở, đội tự giác cũng phải lao động cuốc đất trên các ruộng rẫy, nhưng các cháu Đội tự giác được đi lại dễ dãi hơn. Từ đó các cháu cử hai người đi tìm các loại rau cỏ có thể ăn được, dùng chiếc thùng lớn nấu nước để uống trong lúc làm lao động. Gần cuối giờ, cho rau vào thùng nấu chín, mang về trại chia nhau ăn, phụ thêm cho bửa cơm tù chẳng đủ vào đâu!
Mùa hè, miền rừng núi nắng cháy, rau cỏ dại không còn. Lâu lâu, gặp một vài cơn mưa giông, các vườn trồng cây mì (sắn) được bón phân xanh, gặp mưa rào đâm chồi nhanh hơn loại cây cỏ khác. Các cháu Đội tự giác vào vườn mì, hái đọt mì cho vào thùng nấu làm canh. Khoảng giữa tháng 5 năm 1981, đêm khuya đang ngủ, cửa nhà giam số 8 của chúng tôi có tiếng động mở khóa, cán bộ trực trại rọi đèn pin, bước vào gọi lớn:
“Anh Khái, anh Nhu, mau theo tôi “ (tức đại tá bác sĩ Nguyễn Văn Khái và đại tá bác sĩ Phạm Văn Nhu)
Cán bộ trực trại dẫn 2 bác sĩ qua khu tù hình sự. Chừng 15 phút sau, hai vị bác sĩ quay trở về nhà giam số 8, vào trong cửa nói lớn:
“Các cháu Đội tự giác ăn canh đọt mì, trúng độc tình trạng rất nguy kịch, xin các bạn ai còn đường, còn đậu xanh, vui lòng nhín cho một ít để chúng tôi cấp tốc cứu các cháu”
Gom góp được một ít đường đậu, hai bác sĩ vội vã quay nhanh trở lại khu giam tù hình sự. Hơn một tiếng đồng hồ sau, hai bác sĩ trở về láng, trầm buồn nói nho nhỏ:
“Cả đội tự giác chết hết rồi ! cháu Sơn ( đội trưởng) to khỏe như vậy cũng đã chết ngay, may ra còn sống được hai em, nhờ đương bị bịnh, ăn ít hơn!”
Đây đó có tiếng sụt sùi vì qúa xúc động, cảm thương cho các cháu! Tôi thực sự lại khóc khi viết đến đây.
Thật vô nhân, tàn ác, giam tù bỏ đói, bệnh hoạn không thuốc men. Gặp lúc nguy ngập như vầy, không phương tiện cứu chữa. Bác sĩ “ngụy quân” đem giam tù đã 6 năm, hai bàn tay trắng, tài nào cứu được mạng người sắp chết. Vậy mà bọn chúng cũng trơ mặt, há mồm lên tiếng kêu, cứu người.
Xế chiều ngày hôm sau, đội tù chúng tôi đang cuốc đất trên thửa ruộng cạnh ven rừng. Xa xa về hướng trại giam, chúng tôi thấy một đoàn xe cải tiến chừng hơn 15 chiếc, các cháu tù hình sự, một đứa kéo, hai đứa đẩy phía sau xe, hì hục kéo qua con đường đất đỏ dưới chân đồi. Chúng tôi đoán biết đó là đoàn xe chở thi hài 37 cháu trong Đội tự giác đã chết tối hôm qua,
Khi đoàn xe gần đến sau lưng chúng tôi, không ai bảo ai, chúng tôi tự động quay mặt về đoàn xe chở xác, bỏ cuốc xẽm xuống đất, tay dở nón mũ áp vào ngực, đứng cúi đầu. Hai công an võ trang canh gác, đứng trên bờ ruộng, ngạc nhiên hét lớn:
– Các anh làm gì vậy, làm gì vậy, tất cả làm việc đi, làm việc đi.
Mặc cho tên công an võ trang quát tháo, chúng tôi cứ tiếp tục đứng im, chờ cho đoàn xe đưa ma qua hết, chúng tôi mới trở lại làm việc. Không có lấy một chiếc quan tài, thi hài của các cháu được bó trong những chiếc chiếu, chăn mền mà các cháu đã dùng để ngủ! Hai ba thi hài chất lên một xe, đưa ra chôn ở một triền đồi, nơi đã có nhiều mộ của các cháu tù hình sự chết lai rai trước đó, tù nhân chính trị chúng tôi cũng đã có người vĩnh viễn nằm đó.
Đến nay, nghĩa địa này đã nằm sâu dưới đáy đập nước thủy điện Xuân Phước, Phú Yên!
Viết để Tưởng Niệm các bạn tù chính trị, các cháu tù hình sự đã bỏ mình trong ngục tù Xuân Phước. Chắc các bạn, các cháu đã siêu thoát về một thế giới Vĩnh Hằng.
Cầu xin các bạn, các cháu hộ trì lại cho Đất Nước Việt, Dân Tộc Việt sớm thoát khỏi chế độ cộng sản tàn bạo, vô nhân!
Chế Văn Thức
@ Trúc-Lâm Yên-Tử
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
TRẢ LẠI SỰ THẬT CHO LỊCH SỬ VỀ VIỆC SƯ ĐOÀN 3 BỘ BINH
Đây là huy hiệu cũ của Sư Đoàn 3 Bộ Binh được thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1971 tại Quảng Trị nên trên huy hiệu có chữ Bến Hải do cựu Tướng Vũ Văn Giai chỉ huy và đã tan hàng vào ngày 2 tháng 4 năm 1972 sau 6 tháng thành lập
Ngày 9 tháng 6 năm 1972, đơn vị được đưa về tái phối trí tại Quảng Nam, nhận bàn giao lại căn cứ Hòa Khánh và do cựu Tướng Nguyễn Duy Hinh làm tư lệnh. Sư đoàn 3 Bộ Binh mang huy hiệu mới
Tưởng cũng phải nói ngay rằng: Khi cuộc lui quân để tái phối trí này xảy ra, tôi đang làm việc tại Ban Nghiên Cứu và Kế hoạch Đặc Biệt, dưới quyền Tr/Tá Phạm Đức Lợi (1) thuộc Phân Khối Không Ảnh/ Phòng 2/ Bộ Tổng Tham Mưu . Nhiệm vụ của chúng tôi là ghi nhận tất cả mọi diễn biến, mọi đổi thay trên toàn lãnh thổ Miền Bắc và các hoạt động địch trên Đường Mòn HCM . Trung bình mỗi tuần, chúng tôi có 2 hoặc 3 nhiệm ảnh do Hoa Kỳ cung cấp . Chúng tôi khẳng định là TT Thiệu, Thủ tướng Khiêm và Đại Tướng Viên nắm rất rõ tình hình và biết chắc rằng VC sẽ tấn công qua vùng Phi quân sự . Ba vị lãnh đạo cao nhất đã được chúng tôi đệ trình những tấm Slides được phóng lớn với đầy đủ chi tiết từ cuối năm 1971 cho đến ngày xảy ra trận chiến vào cuối tháng 3/72 vì từ mùa thu 1971, VC đã ráo riết đưa hàng ngàn xe ủi đất và dân công để làm một lộ trình mới từ đường mòn HCM đi về hướng đông nam đến tận vùng Phi Quân Sự .Con đường này đã được hoàn tất vào khoảng tháng 1/72 . Những tin tức tình báo kỹ thuật cũng xác sự kiện đó . VC còn thiết lập các vị trí hỏa tiễn SAM, pháo 130 ly và hỏa tiễn 122 ly ngay cạnh vùng Bắc PQS . Điều đó có nghĩa là các căn cứ hỏa lực của ta tại vùng Nam Bến Hải đều nằm trong tầm pháo của VC . Mỗi chiều thứ sáu, Đại tá Phạm Ngọc Thiệp, Trưởng P2/TTM đều thuyết trình trước ba vị lãnh đạo quân sự cao nhất của VNCH về tình hình QS tại tòa nhà chính Bộ TTM, nhưng những hoạt động địch tại phía Bắc vùng PQS vẫn tiếp tục . Hơn thế nữa, khi VC làm tiếp đoạn đường này xuyên qua sông Bến Hải vào tận vùng Phi Quân Sự mà vẫn không thấy bên ta động tĩnh gì, mặc dù nhiều lần chúng tôi đã xin Không Quân HK oanh kích . Sự bỏ ngõ và thái độ khó hiểu của các giới chức Việt / Mỹ lúc đó đã làm cho chúng tôi hết sức kinh ngạc
I/ Mạn đàm với Chuẩn tướng Vũ văn Giai, Cựu Tư Lệnh SĐ3BB
Cuộc chuyện trò với các chiến hữu SĐ3 khiến tôi nghĩ đến việc tìm hiểu thêm để viết về những điều đã khiến tôi bận tâm và băn khoăn từ mấy chục năm qua . Bởi vậy, tôi ngỏ ý muốn gặp Tướng Giai để hiểu biết thêm về những điều mà tôi nghĩ rằng chỉ có ông mới trả lời chính xác được . Bốn ngày sau, vào trung tuần tháng 7/2010, tôi đến gặp Tướng Giai tại tư gia của ông cũng ở Nam California . Đi cùng với tôi là Tr/tá Nguyễn Tri Tấn, cựu Tr/đoàn phó Trung đoàn 2/SĐ3 . Khi VC tấn công qua sông Bến Hải, ông Tấn là Tiểu đoàn trưởng TĐ3/2/SĐ3 . Ông là người rất gần gũi với Tướng Giai vì đã cùng tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào trước đây
Vì làm việc chung với Mỹ nên chúng tôi thường sử dụng các tên ngoại quốc mà người Mỹ đã đặt cho các căn cứ hỏa lực tại vùng nam vĩ tuyến 17 . Do đó, chúng tôi muốn biết là khi VC tấn công, các căn cứ này do Hoa Kỳ hay VN trấn giữ thì Tướng Giai cho hay là hoàn toàn do VNCH trách nhiệm .
Về việc VC sửa soạn tấn công, Tướng Giai tiết lộ rằng ông đã được cố vấn Mỹ báo trước, nhưng trong cương vị của mình, ông không thể làm gì hơn được . Khi cuộc chiến xảy ra, các cố vấn Mỹ khuyên ông lui quân để phòng thủ ở tuyến sau, vì theo họ, lực lượng trú phòng của ta không thể đương cự được . Được hỏi về dư luận cho rằng Tướng Hoàng Xuân Lãm ra khẩu lệnh cho ông rút quân, nhưng sau đó Tướng Lãm đã phủ nhận để tránh trách nhiệm; Tướng Giai trả lời rằng điều đó không đúng . Ngược lại, ông Lãm muốn SĐ3B giữ nguyên vị trí, dù áp lực và các trận địa pháo của địch đã phá vỡ nhiều phòng tuyến khiến các đơn vị phòng thủ hoang mang và vô cùng hoảng hốt .
Tướng Giai cũng cho chúng tôi biết thêm là ngay từ đầu, HK đã chống lại việc thành lập SĐ3 vì họ đã chuẩn bị cho việc rút quân Mỹ ra khỏi VN và không chấp nhận việc tăng quân viện cho VNCH . SĐ3/BB ra đời hoàn toàn do quyết định của Bộ TTM/QLVNCH . Do đó, Mỹ hầu như bỏ mặc cho phía VN xoay trở với những khó khăn tại vùng địa đầu giới tuyến do SĐ này đảm trách . Sự kiện trên khiến tôi liên tưởng tới cái chết của Đại Tá Lê Đức Đạt, TL/SĐ23 vì ông này không được cảm tình của John Paul Vaunn, người Cố vấn Mỹ ” rất đặc biệt ” tại Quân Đoàn 2 lúc đó
Trả lời câu hỏi là trước khi VC mở cuộc tấn công và với tình hình sôi động như vậy, SĐ3 có được tăng cường đặc biệt bằng các đơn vị tổng trừ bị hay không; Tướng Giai xác nhận là các đơn vị TQLC và BĐQ thì đã được tăng phái cho SĐ3 từ khá lâu . Riêng trong những ngày trước khi cuộc đánh đẫm máu xảy ra thì không có thêm lực lượng nào khác .
Ngoài ra, Cựu TL/SĐ3 còn cho chúng tôi hay rằng: Trước đó một tháng, Tướng Lavelle, Tư Lệnh Không Quân Mỹ tại Thái Bình Dương vì ra lệnh cho KQ Mỹ bắn cháy một số xe tăng của VC nên ông ta đã bị Mỹ cách chức, lột lon và truy tố !
Cũng trong cuộc mạn đàm này, chúng tôi được biết thêm là song song với những biến chuyển của tình hình Quảng Trị, Mỹ và VC vẫn tiếp tục gặp gỡ nhau trên bàn Hội Nghị Paris và từ trước năm 1971, hai bên đã thỏa thuận về việc cấm mọi hoạt động của các phi cơ quân sự Việt – Mỹ tại vùng Bắc sông Bến Hải . Sự kiện này khiến chúng tôi hiểu tại sao những bản ” Đề nghị mục tiêu oanh kích ” mà chúng tôi gửi cho BTL/MACV của Mỹ ở Saigon, vào thời điểm đó, đã không được thực hiện . Đấy cũng là lý do khiến KQ/VNCH từ Đà Nẵng không được phép tấn công và phá hủy ngay từ khi VC bắt đầu mở lộ trình mới từ đường mòn HCM dẫn đến vùng Bến Hải hầu tiếp cận các căn cứ hỏa lực và các đơn vị phòng thủ của VNCH tại phía nam của vùng PQS . Rõ ràng là HK đã dọn đường và dành mọi điều kiện thuận lợi cho VC tấn công VNCH mà trước đó họ vẫn ca tụng là ” Tiền đồn chống Cộng ” của Thế Giới Tự Do . Tổng thống Thiệu, Đ.T. Viên dư biết các sự kiện đó, nhưng tại sao các ông không tìm một biện pháp nào tương xứng để phòng bị hoặc đối phó ? Phải chăng VNCH đã được lãnh đạo bởi những người không đủ đảm lược và tầm vóc ?
Tướng Giai còn cho chúng tôi hay rằng cũng vào thời điểm này, TT Thiệu tuyên bố ngụ ý rằng đây sẽ là mồ chôn của VC .
Chúng tôi hỏi là: Về tương quan lực lượng giữa ta và địch trước khi VC tấn công vào vùng hỏa tuyến, niên trưởng có nghĩ rằng việc sử dụng một sư đoàn tân lập với một quân số phức tạp như SĐ3BB để đương đầu với một lực lượng VC có một quân số nhiều lần lớn hơn và được tăng, pháo yểm trợ mạnh mẽ là một sai lầm nghiêm trọng của Bộ TTM ở Saigon hay không ?
Tướng Giai không trả lời, ông mỉm cười, một nụ cười héo hon, chua xót khiến chúng tôi chạnh lòng và xúc động . Những thắc mắc của chúng tôi hầu như đã được giải tỏa . Hơn nữa, chúng tôi không muốn khơi lại vết thương lòng của một vị tướng vừa được vinh thăng tại mặt trận, nhưng chỉ ít lâu sau đó bị tước đoạt binh quyền và khi VC chiếm được miền Nam, ông lại bị Cộng sản đọa đầy thêm 13 năm nữa . Ông hiện sống âm thầm, ẩn dật và khép kín trong một chung cư dành cho người già cùng người vợ yếu đau và chính ông, sức khỏe cũng không được khả quan lắm
Có lẽ vì định mệnh, khi BTL/SĐ3BB di chuyển về căn cứ Hòa Khánh tại phía nam đèo Hải Vân, gần Ngã Ba Huế; tôi được thuyên chuyển từ Saigon ra tăng cường cho P2/SĐ3 . Ngay sau khi trình diện Ch/Tướng Hinh TL/SĐ3, tôi được gửi ra BTL Tiền phương đóng tại Hương An và đi bay với các toán trực thăng Mỹ trong các cuộc hành quân ” lấn đất giành dân ” trước khi bản Hiệp Định Paris được ký kết vào ngày 27/1/1973 . Trong gần 3 năm, tôi đã chứng kiến điều kiện chiến đấu khó khăn của các đơn vị tiền đồn và tôi hiểu rằng Miền Nam sẽ mất vào bất cứ lúc nào .
Tiếp liệu và đạn dược bị hạn chế tối đa . Một viên đạn bắn đi là kho đạn trung ương hao đi một ít vì không được bổ sung . Nguyên tắc ” một đổi một ” được quy định trong HĐ Paris không được phía HK thực hiện . Điều đó có nghĩa là : VNCH là một con bệnh mắc chứng nan y nằm chờ chết ! Chiến đấu trong hoàn cảnh đó là chiến đấu trong nỗi tuyệt vọng . Ai chịu trách nhiệm về việc này ?
Tại Ngã Ba Huế, tôi chứng kiến cảnh dân quân VNCH từ Huế vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng trong những ngày 21 & 22/3/75 . Đúng một tuần lễ sau, lúc 00 giờ 20 ngày 29/3/75, tôi cũng là một trong những người sau cùng rời căn cứ Hòa Khánh bằng đường bộ sau khi Tướng Hinh và một số sĩ quan cao cấp nhất có mặt tại BTL/SĐ3 lên trực thăng bay ra tàu Mỹ đậu ngoài khơi gần Đà Nẵng . Hai mươi mốt ngày sau, tôi tìm về được với gia đình và người thân ở Saigon đúng 10 ngày trước khi thủ đô của VNCH rơi vào tay CS
II/ Phân tích và nhận định về cuộc lui quân để tái phối trí của SĐ3BB khỏi Quảng Trị năm 1972:
Chúng tôi không nhắc lại chi tiết của các trận đánh vì trong suốt mấy chục năm qua, nhiều tác giả tham dự trong biến cố này đã viết khá đầy đủ . Hơn nữa, đó cũng không phải là chủ đích của bài viết này .
Theo quan niệm của chúng tôi thì sự thành công hay thất bại, dù huy hoàng hay chua xót tới đâu, chúng ta cũng có thể phân tích và nhận định một cách khách quan để từ đấy rút ra những kinh nghiệm hữu ích cho các thế hệ tương lai, nhất là những thất bại, để con cháu chúng ta không rơi vào vết xe đau thương và bẽ bàng của ông cha chúng .
Để nhìn vấn đề một cách trung thực và chính xác hơn, chúng ta phải nhìn từ ” góc cạnh chính trị ” của cuộc chiến VN vào thời điểm đó . Tuy nhiên, trên bình diện thuần túy quân sự, qua việc thất bại ấy, chúng ta ghi nhận những khuyết điểm sau :
1. Thành phần :
Thành phần chủ lực của SĐ3 là Tr/đoàn 2 lấy ra từ SĐ1 . Đặc biệt, Tr/đoàn này có tới 5 tiểu đoàn . Khi được chuyển qua SĐ3 thì 3 tiểu đoàn ở lại với Tr/Đ2 . Đây là một đơn vị dạn dày tác chiến và nổi danh từ lâu tại vùng giới tuyến . Nhưng hai trung đoàn 56 và 57 thì mỗi Trung đoàn có một tiểu đoàn còn lại của Tr/ Đ2 trước kia và một tiểu đoàn lấy ra từ SĐ2BBB; số còn lại là các tân binh quân dịch, địa phương quân, nghĩa quân và lao công đào binh chưa có kinh nghiệm chiến trường mà đột nhiên phải đối mặt với một trận đánh bốc lửa có cả tăng, pháo và các loại vũ khí nặng của VC đánh phủ đầu thì việc thất trận không làm ai ngạc nhiên . Vả lại, chúng ta đừng quên rằng SĐ3 và các đơn vị tăng phái đã phải đối đầu với một lực lượng địch đông gấp 3 lần về quân số và chiến trường đã được VC sửa soạn kỹ từ nhiều tháng trước
2. Tinh thần và khả năng chiến đấu:
Chỉ 3 ngày sau khi VC mở trận đánh, căn cứ Holcomb của TĐ8/TQLC đã bị VC tràn ngập . Ngay sau đó, việc đầu hàng của Tr/tá Đính, Tr/đoàn trưởng Tr/đoàn 56 tại căn cứ Tân Lâm cùng 1500 binh sĩ dưới quyền đã làm chấn động tinh thần quân nhân các cấp khiến nó trở thành một phản ứng dây chuyền trong những tuần lễ tiếp theo đối với các đơn vị khác . Hiện tượng này đã được lập lại trong cuộc di tản ồ ạt vào cuối tháng 3 và đầu tháng 4/75 tại Miền Trung trước khi mất nước .
Tóm lại, với một tương quan lực lượng như thế và với tình hình phức tạp từ trung ương đến địa phương như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể kết luận rằng bất cứ một tướng lãnh nào, dù tài giỏi đến mấy, cũng khó có thể thay đổi được tình thế bởi nó đã vượt ngoài tầm kiểm soát của các cấp chỉ huy . Các đơn vị tăng phái nhiều khi nhận lệnh theo hệ thống hàng dọc từ đơn vị mình chứ không hoàn toàn nằm dưới sự điều động của Tướng Giai . Với quân số như thế, cuộc hành quân này trở thành một cuộc hành quân cấp quân đoàn, vượt khỏi khả năng của Tướng Giai vừa được vinh thăng Chuẩn tướng sau cuộc hành quân Hạ Lào 1971, nhất là nó lại xảy ra đúng vào lúc mà tinh thần quân nhân các cấp đang bị hoang mang, giao động hết mức .
3. Các yếu tố chính trị liên quan đến chiến cuộc tại Miền Nam:
Trước tình hình hết sức xáo trộn tại Miền Nam sau ngay QĐ đảo chính lật đổ chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa, người Mỹ đến VN gọi là để giúp VNCH trong cuộc chiến đấu chống Cộng và họ hy vọng rằng chiến tranh sẽ chấm dứt trong một thời gian ngắn bởi họ tin tưởng hầu như tuyệt đối vào hiệu năng của võ khí . QĐ Mỹ đã chiến thắng hai cuộc Đại Chiến Thế Giới và đã thắng trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, đè bẹp đạo quân Trung Cộng và Bắc Hàn năm 1953 nên người Mỹ nghĩ rằng sẽ dễ dàng giải quyết cuộc chiến tại VN . Những người làm sách lược và chỉ huy QĐ Hoa Kỳ không hiểu được bản chất và sách lược của cuộc chiến tranh du kích là kéo dài thời gian làm cho đối phương mất kiên nhẫn, mệt mỏi, chán nản và căng thẳng thần kinh khiến đối thủ phải bỏ cuộc . Với phương thức đánh lén, đánh trộm, họ có thể tấn công đối thủ vào những lúc bất ngờ và thuận lợi nhất nên dễ đạt được kết quả mà chỉ cần rất ít người tham chiến . Giả dụ, nếu thua họ sẽ dễ dàng trà trộn vào đám đông, quần chúng hay trốn vào rừng hoặc chạy qua biên giới các nước bên cạnh . Qua hình thái chiến tranh ấy, VC đã làm cho người Mỹ chán nản vì bị thiệt hại khá nhiều về sinh mạng cũng như về ngân sách mà kết quả đạt được không như dự tính
Bản chất của người Mỹ là mau chán, tiết kiệm thời gian . Làm việc gì họ cũng đặt nặng vấn đề thời gian và năng suất, bởi vậy cuối nặm 1964 họ đổ quân vào VN và cuối năm 1967 họ đã nghĩ đến việc rút quân . Việc QĐ Hoa Kỳ án binh bất động khi VC tấn công QL/VNCH trong những ngày đầu của Tết Mậu Thân 1968 đã một phần chứng minh điều đó . Cá nhân chúng tôi không tin rằng các cơ quan tình báo Mỹ không biết gì về cuộc Tổng công kích này trước khi nó xảy ra . Là một nước cổ súy cho tự do và dân chủ, nhưng những người lãnh đạo Hoa Kỳ ít quan tâm đến tâm lý, lịch sử, truyền thống và văn hóa của người bản xứ . Người Mỹ cũng không muốn hiểu rằng sự có mặt của QĐ Mỹ ở VN đã tạo cơ hội cho khối CSQT mở rộng mặt trận tuyên truyền lừa gạt dư luận thế giới rằng VC đánh VNCH và Mỹ là để giải phóng Miền Nam; dù thực chất đó là cuộc xâm lăng nhằm mở rộng Khối CSQT vì cuộc chiến VN đã bắt đầu 7 năm trước khi QĐ Mỹ đến VN . Mỗi năm CSQT đã chi ra hàng trăm triệu Mỹ kim về lãnh vực đó và kết quả là dư luận thế giới nghiêng về phía VC . Các cuộc biểu tình chống Mỹ xảy ra tại khắp nơi trên thế giới và ngay tại nước Mỹ do các thành phần phản chiến và thiên tả Mỹ chủ trương . Điều đó mặc nhiên bất lợi cho cả Mỹ lẫn VNCH .
Nước Mỹ mỗi tháng tiếp nhận hàng trăm quan tài, hàng ngàn thương binh trở về từ một nước xa xôi, không liên hệ gì đến đời sống hàng ngày của họ trong khi chi phí quốc phòng mỗi năm một tăng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân . Đã thế, họ còn bị cả thế giới lên án thì việc chống chiến tranh cũng là một phản ứng dễ hiểu và tự nhiên . Hơn nữa, phe đối lập tại Thượng và Hạ viện Mỹ đả kích chính phủ để kiểm phiếu trong các mùa bầu cử cũng là một yếu tố khiến Mỹ muốn rút khỏi VN . Được sự viện trợ và thúc đẩy của CSQT, VC ngày càng mở những trận đánh quy mô hơn và tổn thất của mỗi bên ngày một lớn . Sinh mạng con người đối với CS chẳng nghĩa lý gì, nhưng sinh mạng người lính Mỹ khiến gia đình họ phải lo lắng nên họ đòi chính phủ HK phải chấm dứt chiến tranh bằng mọi giá để chồng con của họ được lành lặn trở về trước khi trở thành quá trễ
4. Mục tiêu của chính phủ HK khi tham chiến tại VN:
Là một quốc gia giàu mạnh với tất cả các cơ cấu hạ tầng vĩ đại và tối tân, do đó không bao giờ HK muốn chiến tranh xảy ra ngay trên lãnh thổ của mình vì sự thiệt hại về tài sản cũng như về nhân mạng sẽ vô cùng to lớn . Đó là lý do khiến HK tham dự vào 2 cuộc chiến ở phía bên kia bán cầu và ở Cao Ly .
Sau Thế chiến thứ 2, khối CSQT lớn mạnh và chủ trương phát động cuộc chiến tranh xâm lấn khiến HK phải áp dụng sách lược bao vây để chận đứng . Với cương vị đứng đầu phe tư bản và thế giới tự do, Mỹ viện trợ cho các nước có chiến tranh bằng chính ngân sách của mình để phe thân Mỹ thắng hoặc nắm được ưu thế, chứ không nhằm biến các nước này thành thuộc địa như Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đã làm từ cuối thế kỷ 19 . Riêng tại VN, trong cuộc chiến vừa qua, HK muốn dùng VNCH như một bức tường để ngăn chận CSQT bành trướng về phía ĐNA vì theo quan điểm của Mỹ lúc ấy, họ cho rằng nếu VNCH sụp đổ thì các nước lân bang của VN sẽ dần dần rơi vào quỹ đạo của CS . VNCH không còn một lựa chọn nào khác . Tuy nhiên, việc HK gửi quân sang VN là một điều thất sách như đã được nói đến ở trên .
5. Lý do khiến Mỹ muốn rút quân ra khỏi VN:
Ngoài nguyên nhân là phản ứng bất lợi của quần chúng, chính phủ Mỹ còn nghĩ rằng nếu dùng ưu thế về võ khí để thắng trong cuộc chiến VN thì Mỹ lại phải đương đầu trực tiếp với Trung Cộng . Lúc ấy điểm nóng của chiến tranh sẽ là vùng biên giới Việt – Trung . Điều đó nhất định không phải là điều HK mong muốn . Hơn nữa, hơn ai hết, bằng những hình ảnh chụp bằng phi cơ U2 bay trên thượng tầng khí quyển và không ảnh chụp từ vệ tinh, HK biết rất rõ ràng tại biên giới giữa Liên bang Xô Viết và Trung Cộng, mỗi bên đều dàn hơn 20 sư đoàn sẵn sàng tác chiến vì sự xung đột về ý thức hệ và vì cả hai đều muốn cầm đầu khối CSQT . Đấy cũng là động lực thúc đẩy Mỹ làm thân với TC và mượn tay TC ngăn chận Nga mở rộng ảnh hưởng về phía nam vì vào thời điểm ấy, tiềm lực quân sự của TC chưa thể là đối thủ và là mối bận tâm hàng đầu của Mỹ . Qua chiến lược đó, VNCH bắt buộc trở thành vật hy sinh để tế thần, cùng chung số phận với Đài Loan bị đẩy ra khỏi các tổ chức Quốc tế . Đó là kết quả của chính sách ” ngoại giao bóng bàn ” của Henry Kissenger va Richard Nixon . Tình nghĩa đồng minh với VNCH và Đài Loan chấm dứt ! VNCH bị bức tử .
Hai mươi năm sau, Liên Bang Xô Viết và khối CS Đông Âu sụp đổ . Trung Cộng mỗi ngày một lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự và qua những biến cố về Biển Đông từ hơn 10 năm qua, trở thành mối lo hàng đầu của Mỹ . Trong bối cảnh ấy, HK lại tìm cách để làm thân với VC để tìm một chỗ đứng tại vùng Đông Nam Á châu, hầu cân bằng thế lực tại khu vực này của thế giới
III/ Kết luận:
Nhiều người trách Mỹ phản bội VNCH . Họ có thể đúng nếu trên lãnh vực bang giao QT buộc tất cả các nước trên thế giới hành sử theo nguyên tắc: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín . Tiếc rằng, điều đó sẽ không bao giờ trở thành sự thật như một quy ước bắt mọi người phải tôn trọng, nên mỗi quốc gia đều làm những gì có lợi nhất cho mình . Hơn ai hết, HK đã từ lâu theo đuổi chủ trương ấy . Tôi không nhớ tên một nhà lãnh đạo nào đó của HK đã thẳng thắn xác định ngụ ý rằng HK không có Bạn, cũng không có Thù, chỉ có quyền lợi của HK là trên hết . Cuộc chiến VN đã kết thúc một cách đau thương, đầy nước mắt và cuộc lui quân của SĐ3BB tại Vùng Hỏa Tuyến năm 1972 là bước khởi đầu cho nỗi đắng cay và đọa đầy chung của cả dân tộc
Khi chính trị chen vào bất cứ lãnh vực nào thì mọi lý lẽ và đạo đức phải đội nón ra đi !
Xin một phút mặc niệm cho tất cả những người đã nằm xuống vì LÝ TƯỞNG TỰ DO và chúng tôi nghiêng mình trước nỗi thống khổ của những chiến hữu đã bị đọa đầy, khổ nhục sau cuộc chiến đấu ” oan khiên nhưng hào hùng và gian khổ ” để bảo vệ Đất Nước
THẾ HUY
Ghi chú:
(1) Trung tá Phạm Đức Lợi tức nhà thơ Mạc Ly Châu trong Hội Văn Nghệ QĐ đã tự sát tại nhà riêng ngày 30/4/75 khi VNCH rơi vào tay CS
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Tài khập khễnh trên chiếc nạng gỗ hối hả về nhà. Đã từ hơn mười năm nay, ngày nào cũng vậy, dù đắt hay ế, cứ ngoài 5 giờ chiều là chàng lo ba chân bốn cẳng chạy về. Chẳng phải vì có người yêu hay vợ con chờ đợi mà vì chàng còn một Mẹ già đã ngoài bẩy mươi, bị liệt đôi chân đã mười năm nay. Mỗi sáng trước khi cầm xấp vé số đi bán, chàng đều cẩn thận đặt bên cạnh mẹ tô cơm và ít đồ ăn mà chàng đã dậy từ lúc gà gáy sáng để nấu, rồi chàng cũng đánh một bụng cho no, để đi bán cho tới chiều. Từ ngày chị chàng cùng người chồng đi vượt biên vào đầu năm 80 mất tin tức, nhà chỉ còn có hai mẹ con. Trước đây khi bà còn khỏe mạnh đi lại được thì chàng cũng đỡ vất vả, nhưng từ ngày mẹ yếu chàng phải đảm đương mọi việc kể cả việc chăm sóc vệ sinh cho mẹ. Công việc đối với một người bình thường khỏe khoắn lành lặn cũng đã là khá vất vả, huống chi là đối với chàng một thương binh nặng, quả là cực kỳ khó khăn, nhưng chẳng bao giờ chàng có một lời than vãn. Mẹ chàng nhiều khi thấy con quá khổ không cầm được nước mắt, đã mấy lần bà nói với chàng :
– Tài à, con tàn tật lo cho thân con còn chưa xong, bây giờ lại thêm mẹ nữa, con làm sao kham nổi. Hay là con để cho mẹ chết có phải hay hơn không. Mẹ cũng đã già, đau khổ cũng nhiều rồi, mẹ có chết đi đó cũng là giải thoát cho cả hai mẹ con mình.
Nghe mẹ nói thế chàng chỉ ôn tồn nói với bà :
– Con có thấy gì là vất vả đâu. Sao lúc con bị thương mang thân xác tàn tật trở về con muốn chết đi thì mẹ lại bảo đừng có dại dột, dầu sao thì cũng còn có mẹ. Thôi mẹ đừng có suy nghĩ lung tung.
0-0-0-0-0
Ngày đó, vào khoảng gần cuối năm 1974, lúc vừa tròn 18 tuổi, chàng đã lén mẹ để tình nguyện đăng lính Biệt Động Quân. Sau ba tháng thụ huấn tại Trung Tâm Dục Mỹ, chàng được đưa về Tiểu Đoàn 86 thuộc LĐ 8 BĐQ, đang được thành lập tại Dục Mỹ. Rồi ngày 30 tháng 4, trong trận đánh cuối cùng của đơn vị tại Bà Hom chàng bị thương nặng. Sau đó được dân chúng bỏ lên xe lam chở vào bệnh viện Triều Châu. Khi tỉnh dậy chàng mới hay rằng chàng đã mất một con mắt và cụt một chân trên đầu gối. Ít ngày sau, dù vết thương còn đang chẩy máu, nhưng sợ bị làm khó dễ, chàng đã lén lút xuất viện rồi nhờ sự giúp đỡ của một số người hảo tâm, chàng đã tìm về được với gia đình ở tận phường Thanh Bình Đà Nẵng. Gặp lại mẹ và chị, chàng vui mừng khôn xiết, chàng xin lỗi mẹ vì chàng đã lén đi lính để ra nông nỗi như bây giờ. Nhưng mẹ chàng tuy có xót xa vì tấm thân tàn phế của con, nhưng bà không trách chàng lấy một tiếng, mà ngược lại còn an ủi khiến cho chàng cũng nguôi ngoai:
– Mẹ nghĩ con đã làm đúng. Nếu bố con còn sống ông cũng hài lòng về việc làm của con. Thôi thì tuy rằng nước đã mất, nhưng con cũng đã làm tròn bổn phận con dân nước Việt.
Đà Nẵng bị thất thủ sớm, nên ngay từ những ngày đầu tháng tư, cả thành phố như phủ một màu đen tang tóc. Dân chúng đi lại thưa thớt, bất đắc dĩ phải ra đường thì đi thật hối hả, mặt cúi gầm xuống như sợ người khác nhận diện, gặp người quen cũng không dám đứng lại hỏi chuyện, người người nhìn nhau bằng con mắt nghi kỵ. Nỗi ám ảnh của một Mậu Thân ngoài Huế vẫn còn in sâu trong tâm trí người dân Đà Nẵng. Nhiều gia đình vì sợ sẽ bị tố là tư sản nên đồ đạc quý giá trong nhà đem ra bán tống bán tháo. Hầu hết kẻ mua lúc bấy giờ là đám Việt cộng miền Bắc. Thậm chí có người mang chiếc xe honda còn khá mới để đổi lấy chiếc xe đạp vì sợ không có xăng để chạy. Những chiếc áo dài tha thướt đã đột nhiên biến mất ngay ngày đầu tiên khi giặc Cộng vào chiếm thành phố. Cũng không hiểu từ đâu mà những bộ quần áo xám, xanh, đen, được may bằng nhưng loại vải thô cứng đã xuất hiện như một mốt thời trang nhan nhản trên đường phố. Nhiều người còn tỏ ra là mình đã giác ngộ cách mạng một cách triệt để bằng cách đeo những miếng vải đỏ tham gia đội ngũ đám cách mạng 30 đi chỉ điểm nhà của những công chức cao cấp hay sĩ quan cho bọn ủy ban quân quản – Trong đám cách mạng 30 này, không ít những thằng du thủ du thực, đầu trộm đuôi cướp.
Mấy ngày đầu khi mới trở về vì vết thương còn quá đau nhức, nên Tài còn nằm nhà. Ít tuần sau khi sức khỏe khả quan hơn, chàng thử lết một vòng quanh phường xem tình hình thế nào, để còn phải tính chuyện làm ăn. Một vài người quen nhận ra chàng, nhưng ai cũng chỉ hỏi thăm vài câu tỏ vẻ ái ngại cho chàng rồi họ tìm cách lảng tránh. Tài cũng biết không phải vì họ hờ hững mà vì họ sợ, nói chung là họ sợ đủ thứ, sợ bất cứ cái gì liên quan đến chế độ mà chỉ ít ngày trước đây họ đã tận lực phục vụ. Những ông sĩ quan và các công chức cũng đang lục tục đi trình diện “học tập cải tạo”. Trong khi đó thì đám cán bộ Việt Cộng từ Bắc vào cũng đang chia nhau đi “tịch thu chiến lợi phẩm của bọn Mỹ Ngụy ác ôn để lại”. Chúng ngang nhiên chiếm cứ những căn nhà mà chủ nhà đã đi nước ngoài hay di tản vào sâu trong các tỉnh Miền Nam chưa kịp trở về.
Trong những ngày này, trên con đường Quốc lộ 1 từ Nam ra Bắc, người ta thấy từng đoàn xe vận tải Kama3 phủ bạt nối đuôi nhau liên tục ngày đêm chở “chiến lợi phẩm”, hay nói đúng hơn là tài sản của chế độ Việt Nam Cộng Hòa cũng như của dân chúng bị Việt Cộng cướp giữa ban ngày, theo chủ trương cào bằng để Miền Nam phải nghèo bằng hoặc phải nghèo hơn miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa. Những năm tháng đầu, mẹ con chàng cũng đi phát nương làm rẫy trồng khoai sắn, quá cực nhọc mà cũng không đủ ăn, dù chỉ là ăn độn. Được vài năm thì Tài xin được một việc phụ lưới đánh bắt dọc theo ven biển, còn mẹ chàng thì nhận vá lưới cho các ghe cào, nên cũng tạm đắp đỗi qua ngày. Cho đến đầu những năm 80, lúc đó phong trào xổ số nổi lên khắp nơi, không tỉnh thành nào là không có công ty phát hành vé số, người dân qua hai đợt đổi tiền và đợt đánh tư sản mại bản đã trở nên cùng kiệt, họ đổ xô vào đánh bạc với nhà nước cũng như với số đề, để hy vọng thoát khỏi kiếp nghèo.
Cũng như nhiều người khác, Tài chuyển sang đi bán vé số dạo, tuy cũng chẳng khá hơn, nhưng đỡ nguy hiểm. Lúc này cũng đã có một số sĩ quan đi tù về, họ làm đủ thứ nghề như đạp xích lô, chạy xe ba gác chở hàng mướn, bán kem, bán vé số dạo v..v.. Trong số này có ông đại úy Bảy, Tài không biết trước ông ta ở đơn vị nào, nhưng sau khi ở tù về được hơn tháng thì thấy ông ta ra một sạp bán vé số có ghi số đề, lại có thêm thùng thuốc lá để bên trên. Ngoài ra ông còn đặt thêm cục gạch để bán xăng lậu, quả thật đây là một cơ ngơi buôn bán có tầm cỡ vào lúc bấy giờ mà đám anh em tù cải tạo về nằm mơ cũng chẳng có. Nhiều anh em đi ngang nhìn vào tỏ ý thèm thuồng. Lúc đầu ông còn nhìn anh em với ánh mắt thân thiện, nhưng rồi chỉ ít ngày sau nó đã bắt đầu vênh váo. Chẳng qua là vì việc ghi số đề lén và bán xăng lậu của ông đã được chiếc ô dù là tên công an khu vực bao che, không những thế mà đám công an và đám ủy ban phường cũng thường ghé đổ xăng cũng như mua thuốc lá. Đôi khi ông còn được ngồi uống cà phê với bọn họ nói cười có vẻ tâm đắc lắm. Tên công an khu vực cũng lui tới nhà ông thường hơn. Nó dắt vợ ông đi bắt mánh làm ăn.
Trước kia chị vợ còn ra trông hàng phụ ông, nhưng những ngày sau này thì chị chỉ mang cơm cho ông vào những buổi trưa rồi lấy cớ bận lo chuyện làm ăn mánh mung riêng. Hàng xóm đã biết chuyện chị vợ cặp kè với tên công an khu vực từ ngày ông còn ở tù, nhưng không ai muốn bị vạ miệng. Hơn nữa thấy thái độ vênh váo của ông Bảy, nên cũng chẳng ai dỗi hơi bắn tiếng cho ông biết. Chuyện gì chứ cái chuyện vợ đi ngủ với trai thì chỉ có những thằng đàn ông đần độn ngu không còn để ai ngu hơn mới không biết. Huống hồ là chị ta có cần ăn vụng đâu mà phải chùi mép. Chúng nó ngồi bàn ăn uống phủ phê là đằng khác. Nên một hôm khi tên công an chở chị vợ mang cơm ra thì ông Bảy bắt đầu nói xa nói gần
– Dạo này tôi thấy em hơi khang khác. Bộ cái anh công an khu vực không phải đi làm sao mà tôi thấy ảnh đi với mình hoài. Không phải tôi ghen tuông đâu, nhưng dù gì mình cũng đã từng là…….
Không để cho anh chồng hết lời , chị vợ tươm tướp cướp lời, chị vừa nói vừa xỉa cái bàn tay với những cái móng đỏ chót vào mặt ông Bảy :
– Này đừng có mà ghen bóng ghen gió. Tôi đi với người ta là vì công chuyện làm ăn. Cái quầy vé số ông có đây cũng là nhờ người ta cả đấy. Ông thấy có thằng tù nào về mà được như ông không. Sáng nào cũng cà phê cà pháo, hút thuốc có cán lại còn được ngồi với các anh trong ủy ban phường. Ông tưởng ông là ai mà ông bảo dù gì mình cũng từng là….là cái gì? Mà tôi cũng chẳng cần dấu ông làm gì,,, Ừ thì tôi ngủ với nó đấy. Hóa ra bây giờ ông mới biết à!
Dứt lời chị vơ ngúng ngoa ngúng nguẩy thót lên cái yên sau chiếc xe honda 67 của thằng công an từ nãy đến giờ vẫn nổ máy đậu phía bên kia đường dọt đi mất dạng. Vài người hiếu kỳ từ nãy đến giờ chứng kiến cái cảnh trên cũng ái ngại cho ông chồng. Nhưng cũng có người vì đã chứng kiến thái độ của ông chồng khi ngồi chung với đám việt cộng nên cũng chẳng ngại gì mà không buông ra vài câu xa gần cho bõ ghét:
– Đù mẹ cho đáng đời thằng chả. Cái thứ ngọn cỏ đuôi chồn đó bị vợ cặm sừng là đáng lắm rồi. Còn con mụ vợ lúc nó thót lên cái yên xe trông xốn con mắt. Thứ này phải để cho ngựa mới đã, thật đúng là đồ đĩ ngựa.
Thế rồi câu chuyện đó cũng chẵng còn ai nhắc đến, vì ai nấy cũng còn quá nhiều điều phải lo. Cuộc sống cứ ì ạch trôi, còn con người thì có kẻ mánh mung chụp giựt, quơ quào về cho mình bất chấp đạo lý luân thường. Nhưng cũng có người sống như lục bình trôi, như sống trong một hành tinh xa la, bởi lẽ sống của họ đã mất từ sau ngày 30 tháng 4. Cuộc sống của hai mẹ con Tài ngày một khó khăn hơn, cũng như đất nước mỗi ngày một suy xụp. Để cứu đảng, họ bắt đầu phải “hé cửa” ra với thế giới bên ngoài. Đã bắt đầu có “Việt Kiều” về thăm quê. Rồi đến đầu năm 90, những người đi tù cải tạo lần lượt đi Mỹ. Vợ chồng ông Bảy cũng lũ lượt theo đoàn người xuất cảnh. Nhưng bà cũng không quên hứa hẹn với tên công an là sau khi ổn định bà sẽ lại về thăm quê hương, hay nói đúng ra là về để nối tiếp dan díu cho thỏa mãn sự dâm dật của bà.
Vào giữa năm 1995, Mẹ Tài sau một cơn bạo bệnh nằm liệt giường mất mấy tháng, từ đó đôi chân của bà đi lại rất khó khăn và dần dần bị liệt. Đã hơn một lần Tài ao ước có một người vợ để có người chăm sóc cho mẹ. Nhưng nghĩ đến cảnh vợ chồng ông Bảy khiến chàng ngao ngán, vả lại cũng khó tìm người nào có đủ can đảm để làm vợ một người đui mù què cụt như chàng. Từ đó không bao giờ chàng còn có ý tưởng đó nữa. Kể từ ngày “hé cửa”, thành phố cũng có phần thay da đổi thịt. Bọn cán bộ lại càng có cơ hội vơ vét, tham nhũng nhiều hơn. Chúng xây những biệt thự nguy nga tráng lệ, đi những loại xe hơi mắc tiền. Con cái bọn chúng các “cô chiêu cậu ấm” thì xe gắn máy phân khối lớn, thuốc lắc nhẩy đầm từ tối đến sáng, vung tiền qua cửa sổ hàng đêm vài trăm đô là thừơng. Nhiều gia đình có thân nhân ở nước ngoài cũng đã bắt đầu sửa chữa nhà cửa cho khang trang để đón “Việt Kiêù”. Người khá hơn thì xây nhà mới ba hoặc bốn tấm (ba hay bốn tầng lầu đúc). Nhà cửa và điều kiện cuộc sống đi lên thì đạo đức luân thường lại đi xuống. Các quán cà phê ôm, bia ôm, hớt tóc ôm v..v, mọc lên như nấm. Thậm chí còn có cả một số chị em ta bán vé số ôm. Các loại dịch vụ ôm này đã cuốn hút hàng ngàn thiếu nữ trong các vùng nông thôn nghèo đổ dồn về thành phố hoạt động. Nếu ngày xưa trong chiến tranh, bọn VC vẫn thường rêu rao là chế độ Miền Nam xấu xa, đã có gần một trăm ngàn gái điếm (không biết bọn chúng thống kê bằng cách nào), thì ngày hôm nay trong những năm đầu của thiên niên kỷ thứ ba, chỉ riêng Đà Nẵng đã gần đuổi kịp con số một trăm ngàn chị em hành nghề không vốn. Anh em thương phế binh bán vé số bị giới vé số ôm này cạnh tranh, nên cũng đã nhiều anh em phải bất đắc dĩ chuyển sang nghề hành khất, đàn hát tại các bến xe, các chợ búa hay nơi đông người qua lại.
Những năm gần đây trong đám “việt kiều yêu nuớc, khúc ruột thừa ngàn dặm” về thăm quê hay về quê ăn tết đã thấy xuất hiện nhiều ông HO “áo gấm về làng”. Có những ông gần đất xa trời gom góp dành dụm ít tiền già cũng ráng về quê để hưởng thú”trâu già gặm cỏ non” với những cô gái tuổi chỉ đáng cháu nội cũng anh anh em em không biết nguợng mồm. Cũng có ông vợ bỏ hoặc bỏ vợ già về quê lấy vợ tuổi chưa bằng đứa con gái út. Bọn này khi trở về Mỹ khoe toáng lên nào là Việt Nam bây giờ đổi mới rồi, nhà hàng khách sạn năm sao mọc lên như nấm, các tụ điểm ăn chơi không góc phố nào là không có. Không biết có ăn phải bả Việt cộng không mà có ông còn nổ hơn tạc đạn, nào là ở Việt Nam ngay cả chị bán xôi, anh phu xích lô cũng xử dụng “còm píu tờ”, rồi nào là về VN chơi đã lắm, đủ loại đủ kiểu v..v và v..v Một hôm vào buổi chiều, cầm xấp vé số còn quá nhiều trên tay, Tài vừa đi vừa cầu xin cho gặp được nguời khách xộp mua hết cho vì đã sắp đến giờ phải trả lại cho đại lý số vé còn lại. Mấy hôm nay chàng trả lại hơi nhiều nên họ đã dọa không giao vé cho chàng bán nữa, đang lo âu thì có tiếng gọi mua vé số từ trong một quán bia ôm khiến Tài giật mình, vì chưa bao giờ chàng bán được lấy một tấm trong các hàng quán lọai này. Một lần chàng còn bị một tên công an đang ngồi trong quán dọa xé hết vé và quăng ra ngoài, nên từ đó không bao giờ chàng mời những ông khách loại này mua vé số nữa. Tài đứng lại nhìn vào thì thấy một ông tuổi chừng 60, trắng da, dài tóc ra dáng Việt kiều đang ôm một cô tuổi chừng ngoài hai mươi ngồi trên đùi giơ tay ngoắc Tài :
-Ê vô đây cho người đẹp lựa ít tấm coi.
Tài khập khiễng bước vào chìa xấp vé số cho cô gái lựa, bỗng chàng nhận ra người đàn ông không ai xa lạ chính là ông đại úy Bảy. Chàng chợt nhớ ra mấy năm trước người ta đồn là sau khi sang Mỹ không được bao lâu thì bà vợ ông ngựa quen đường cũ, khi đang đi làm rửa chén cho một nhà hàng bà đã chài mồi thằng cha chủ đê mê đến nỗi cả hai đứa cùng hẹn nhau ra tòa, gã ly dị vợ ả đá đít chồng rồi cả hai cùng sáp lại với nhau. Mụ trở thành bà chủ một nhà hàng lớn. Tiền bạc dư dả mụ bắt đầu lấy lý do về thăm mẹ ở Việt Nam hàng năm, để đú đởn với thằng kép công an trẻ. Còn ông Bảy thì sau khi bị vợ đá đít, ông giả điên giả khùng rồi chạy chọt với đám nhân viên sở xã hội người Việt để hưởng tiền an sinh xã hội với lý do ở tù cộng sản lâu nên bị hội chứng thần kinh thương nhớ. Sau đó, ông còn sống già nhân ngãi non vợ chồng với một bà hơn ông chừng sáu tuổi đã hưởng trợ cấp tiền già. Bà này dành dụm được đồng nào đều bị ông ngon ngọt dụ dỗ lấy hết sạch. Mấy năm nay, năm nào ông cũng về VN ăn chơi xả láng một hai tháng.
Nhìn cái mặt khả ố mày trơ trán bóng của ông Bảy đang ngồi đú đởn với cô gái tiếp viên bia ôm trước mặt, chàng giận tím mặt giật phắt những tấm vé số trên tay cô gái rồi chỉ tay thẳng vào mặt ông Bảy lắp bắp chửi :
– Đù mẹ, không có bán buôn gì hết. Chỉ vì có những sĩ quan hèn hạ như ông nên mới mất nước, đồ phản bội.
Dứt lời chàng rời khỏi quán, vì sợ nấn ná thêm không dằn được chàng dám cho ông một nạng. Từ khi có chương trình cho các ông sĩ quan ở tù về được đi Mỹ, chàng luôn đặt niềm tin rằng họ sang Mỹ sẽ có điều kiện để tiếp tục đấu tranh giành lại quê hương, cũng như ngày xưa chàng đã đặt trọn niềm tin vào các cấp chỉ huy trực tiếp, tin vào lý tưởng chiến đấu Bảo Quốc An Dân của người lính VNCH, chàng đã hăng say lao vào lửa đạn, đã hy sinh gần nửa phần thân thể không một chút tiếc nuối, đã bị kẻ thù lăng nhục vùi dập đến đáy địa ngục nhưng chàng vẫn cao ngạo ngẩng cao đầu. Đang chống nạng rảo bước, Tài nghe có tiếng gọi của nguời con gái chen lẫn với tiếng chân dồn dập phía sau nên dừng lại.
– Chú ơi ! Con có chuyện muốn nói với chú……. Chú làm con nhớ ba con quá. Ba con mất mấy năm rồi. Con nghe má con nói ngày xưa ba con là lính nhẩy dù, ổng xông pha khắp các mặt trận bị thương thẹo cùng mình. Những năm sau này mỗi khi có vài ly rượu ông lại mang cái nón đỏ ông vẫn giữ ra mân mê trên tay miệng thì lẩm bẩm những chữ gì như U Minh, Đambe, Đức Cơ, Đồng Xoài, Bình Giả v…v . Con nghe mà hổng biết ổng nói gì. Sau má cho con biết là ba đang nhớ về dĩ vãng, đang nhớ lại những nơi đã từng hành quân qua. Đôi lúc con thấy nước mắt ba chảy xuống chắc là ba đang nhớ đến những bạn bè đã chết. Hồi nãy nghe chú xì nẹc cái ông già đó con thấy ổng hèn quá con quăng cái tờ 100 đô lại vào mặt ổng. Ổng muốn con đi ngủ với ổng đêm nay nhưng nhìn vào mặt ổng lúc đó sao con muốn ói quá. Từ ngày mai, mỗi ngày chú đi ngang con sẽ mua giúp chú ít vé. Biết đâu Trời ngó xuống cho mình trúng một cái để thoát cái kiếp sống nhơ nhớp này ?????????. Nói đoạn cô gái dúi vào tay Tài một nắm giấy bạc rồi liến thoắng tiếp:
– Hôm nay con mua nhưng tặng lại cho chú. Nếu trúng nhớ đến con, mai con chờ chú đó. Không để cho Tài kịp trả lại tiền, nàng thoăn thoắt đi trở lại quán. Tài không có phản ứng gì, một giọt nước mắt từ trong cái hốc của con mắt đã bị múc đi hơn 30 mươi năm đang lăn dài xuống má. Chàng mặc cho nó cứ tiếp tục rỉ ra. Đã từ lâu chàng vẫn nghĩ rằng chàng sẽ không bao giờ còn nước mắt để khóc. Cuộc đời cay đắng đã vắt chàng cạn kiệt từ tâm hồn đến thể xác. Chàng hằng cầu xin Trời Phật hãy giữ lại cho chàng một giọt để dành cho ngày mẹ nằm xuống.
Thời gian càng làm cho cô gái tên Mỹ và Tài thêm thân thiện như người trong gia đình. Những ngày nghỉ nàng thường ghé thăm và giúp đỡ dọn dẹp, vệ sinh cho mẹ Tài mà nàng gọi là bà nội. Nàng cảm thương cho số phận của Tài, đôi khi nàng muốn giúp anh một ít tiền nhưng đều bị anh từ chối.
– Chú tàn nhưng không phế đâu con. Con hãy dành dụm gởi về giúp má con và mấy anh chị. Con cũng còn phải lo cho con nữa chứ. Liệu sớm thoát cái cuộc sống đó đi con à. Con giúp chú và bà nội như vậy là quá nhiều rồi. Mấy hôm nay đài phát thanh đưa tin cơn bão Shansheng số 6 sắp sửa đổ vào Đà Nẵng. Phường ra lệnh cho mọi gia đình phải di tản sâu về phía trong núi để tránh bão. Vì thân tàn tật chàng lên phường xin giúp di tản mẹ, nhưng họ trả lời là họ đang còn phải lo cho các gia đình chính sách,. Đang loay hoay không biết xoay sở thế nào thì Mỹ đến bằng một chiếc xe du lịch. Nàng hối hả dục Tài nhặt nhạnh ít đồ dùng cần thiết rồi cùng người tài xế khiêng bà cụ ra xe. Sau khi đã đến được nơi tuơng đối an toàn nàng bảo người tài xế mang xe về không quên gởi lời cám ơn đến tên thủ trưởng của anh ta, rồi nàng quay sang Tài cười ngặt ngẽo:
– Chú biết không, mấy thằng cán bộ lớn chỉ giỏi hách dịch với dân, nhưng khi trốn vợ đi cải thiện linh tinh là bị tụi con quay như quay dế. Hồi nãy con dọa nó không đưa xe cho con mượn thì con sẽ đến nhà nó để tránh bão. Con còn nhá cho nó thấy mấy tấm hình đã được chụp lén. Lão sợ quá vội lệnh cho tài xế chở con đi liền. Thủ đoạn này con học ở bọn chúng nó đó chú. Con dùng mấy tấm hình này như cái vòng kim cô để bắt chúng phải ngoan ngoãn chi đẹp. Con cũng biết rất nguy hiểm vì bọn chúng rất tàn ác. Nhưng đã leo lên lưng cọp rồi, cùi đâu sợ lở nữa chú.
Đêm hôm đó mây đen vần vũ, gió rít lên từng cơn, sấm sét đầy trời. Những mảnh vụn gạch đá bị gió cuốn bay đi đến tận chỗ đoàn người lánh nạn. Cũng may ba bà cháu cùng một số người nằm trú dưới hiên của một căn nhà lầu đúc kiên cố, nên an toàn, nhưng cái lạnh làm mọi người run lên lập cập. Mẹ chàng nói là cả đời bà sống ở Đà nẵng nhưng chưa bao giờ có một trận bão mạnh như lần này. Mãi đến trưa ngày hôm sau khi bão đã hết chỉ còn mưa nặng hột kéo dài, chàng dặn Mỹ canh chừng bà nội để chàng về qua nhà xem sao. Một cảnh tượng hoang tàn đổ nát không thể nào tưởng tượng nổi. Hầu hết các ngôi nhà đều bị xập hoặc trốc mái. Chỉ có những căn nhà lầu đúc là còn đứng vững chỉ bị bể cửa kiếng vì bị gạch đá văng vào. Những nhà này hầu hết là của đám cán bộ hay những gia đình có thân nhân ở nuớc ngoài. Đứng nhìn ngôi nhà mẹ con chàng chui rúc mấy chục năm nay chỉ còn là đống gạch vụn, chiếc chân còn lại như muốn khụy xuống may nhờ còn cặp nạng chống cho người chàng không đổ xuống. Cái tủ dùng làm bàn thờ cha và cái giường duy nhất để mẹ nằm đã gãy nát. Rồi đây biết ăn vào đâu biết ở vào đâu. Cả buổi chiều chàng cứ thẫn thờ hết đứng lại ngồi giữa đống gạch vụn. Sự đau khổ đã đến tột cùng của sức chịu đựng,. Thân xác chàng như tê cứng. Hai tay bưng lấy mặt chàng muốn gào lên thật to “Chúa ơi! Phật ơi! Mẹ con con có làm chi nên tội mà các Ngài nỡ đày đọa mẹ con con đến nỗi này.” Trời đã xụp tối và đã thấm lạnh vì nước mưa thấm qua chiếc áo tơi, Tài quay về nơi tạm trú không hé một lời. Thấy nét mặt nặng trĩu của Tài, Mỹ cũng đoán được, nên nàng cũng không hỏi vì sợ bà nội biết sẽ có ảnh hưởng xấu cho sức khỏe.
Ngày hôm sau mọi người dân chạy tránh bão lại lục tục kéo nhau về. Tài cũng gọi một chiếc xích lô để mẹ ngồi còn mình và Mỹ thì lội bộ theo sau. Về đến nhà sau khi dọn dẹp lấy một khoảnh trống để trải được chiếc chiếu cho mẹ có chỗ ngả lưng, bấy giờ bà cụ mới gọi Tài và Mỹ lại gần rồi bà lần vào cái ruột tượng quấn ngang lưng lôi ra hai cái nhẫn vàng đưa cho Tài:
– Mẹ giữ cặp nhẫn cưới của bố mẹ định để khi nào mẹ chết thì con dùng nó để lo liệu cho mẹ, nhưng bây giờ thì con hãy dùng nó để mua cái gì dựng tạm chỗ che mưa nắng rồi sau này định liệu sau.
– Mẹ cứ cất đi, khi nào cần con sẽ xin mẹ, con cũng có ít tiền của bà con ở nước ngoài gởi về giúp hai lần được một trăm đô, con còn dành đó để khi nào ngặt lắm mới sài. Nhưng Tài đã ngăn lại
Quả thật khi nhận được số tiền này chàng vô cùng mừng rỡ. Mối lo lớn nhất của chàng là khi mẹ nằm xuống biết lo liệu làm sao, nên khi có số tiền này chàng đã luôn cất kỹ bên mình và cũng hứa với lòng là chỉ dùng nó cho việc hậu sự của mẹ. Tài dặn Mỹ ở nhà với bà rồi tất tuởi đi. Đầu tiên chàng đi gặp vài ba nguời hàng xóm để thăm hỏi và xin họ giúp dựng cái lều, ai nấy cũng đều sẵn lòng. Chàng đi tìm mua được một miếng bạt vừa đủ chỗ che mưa nắng cho hai mẹ con. Chàng mua thêm được mấy miếng ván kê lên làm chỗ ngả lưng cho mẹ.
Từ hôm bão đến nay đã hơn mười ngày chàng cũng chưa đi bán vé số lại, cũng chẳng trông chờ gì vào sự giúp đỡ của chính quyền này được. Hôm qua họ thông báo lên phường lãnh gạo. Sau khi sắp hàng ngồi chờ hơn hai tiếng đồng hồ thì xe gạo mới đến, nhưng rồi tên trưởng đồn công an yêu cầu “ngụy quân ngụy quyền” đứng riêng sang một bên để ưu tiên cho các gia đình cán bộ, gia đình chính sách, nhân dân …. Trước thái độ phân biệt đối xử, nhiều anh em bất mãn buông tiếng chửi thề bỏ ra về. Tài cũng uể oải đứng dậy theo anh em. Chàng ngẫm nghĩ, chúng nó kêu gọi nguời Việt hải ngoại hòa hợp hòa giải, xóa bỏ quá khứ để mang tiền về làm giàu cho chúng chứ nó có hòa hợp vói ai, vậy mà cũng có nhiều thằng ngu đem tiền về làm ăn rồi bị nó lột sạch. Ba muơi mốt năm nay tuy là tầng lớp thống trị nhưng chúng nó có bao giờ xóa bỏ hận thù với những người không còn một tấc sắt trong tay, thậm chí cả với những thương phế binh như chàng. Mấy hôm nay chính quyền trung ương tuyên bố sẽ trợ giúp một triệu đồng cho các nhà bị tốc mái và năm triệu cho các nhà bị xập hoàn toàn. Nhưng chẳng mấy ai tin tưởng vì đã bao năm nay, mỗi lần có thiên tai thì y rằng sau đó nhiều ngôi nhà ba bốn tấm lộng lẫy lại mọc lên, nhưng chủ của nó không còn là những người cũ, vì họ không có tiền dựng lại nên đành phải bán đất lại cho đám cán bộ có chức có quyền, chúng chia nhau lấy tiền trợ cấp đó để làm nhà. Chúng còn dùng thủ đoạn “quy hoạch, giải tỏa, khoanh vùng” đuổi dân đi, nhưng bồi thường không tuơng xứng, để trắng trợn cướp nhà cướp đất của đồng bào, hành động bất nhân này đang xảy ra trên phạm vi cả nước, tiếng dân oan khiếu kiện đã thấu trời xanh???.
………….. Thưa anh cuộc sống của anh em thương phế binh chúng em như vậy đó. Chúng em vẫn chiến đấu dù kẻ thù dùng mọi thủ đoạn để đày đọa nhục mạ chúng em. Chúng em vẫn kiên quyết ngẩng cao đầu. Điều làm chúng em ghê tởm nhất là sự phản bội của đồng đội, của các cấp chỉ huy. Sự phản bội của ông Kỳ đã làm vết thương của chúng em mưng mủ trở lại. Nhưng điều đó không làm chúng em nhụt chí, lời thề Biệt Động Quân Vì Dân Quyết Chiến dưới chân bức tượng đồng đen chúng em vẫn hằng ghi nhớ. Em vẫn tin tưởng và trông chờ nơi các anh không phải là số tiền các anh gởi cho, mà là sự đấu tranh của các anh cùng toàn thể đồng bào trong và ngoài nước, để sớm có một ngày quang vinh cho toàn dân tộc, để mọi người dân được huởng quyền tự do căn bản, để chị em phụ nữ không còn phải đi làm dâu hay bán thân cho Đài Loan, Hàn Quốc, để thanh niên không còn phải đi lao động nô lệ xứ người, và để chúng em một lần nữa được nói với mọi người rằng: “Chúng tôi rất hãnh diện đã hy sinh một phần thân thể, đã đóng góp máu xương bảo vệ tự do và dân chủ cho mảnh đất quê hương yêu quý này”. Đó chính là đoạn kết chuyện buồn của những thương phế binh vẫn còn nặng lòng với quê hương đất nước, vẫn kiên trì đấu tranh để mong có ngày đất nước hồi sinh . . . . . .
Thương Phế Binh Biệt Động Quân Phan Thanh Tài
Đọc xong lá thơ của Tài, Trung vô cùng xúc động trước nỗi bất hạnh dồn dập xẩy đến với Tài. Hình hài của mẹ cha ban cho đã bị bom đạn cướp mất một phần từ năm mười chín tuổi. Ở cái tuổi mà nhiều người còn đang cắp sách đến trường, đang mộng mị yêu đương, để rồi từ ngày ấy Tài đã phải chôn kín những ước vọng chính đáng nhất của một con nguời, đó là yêu và được người yêu. Cái đáng quý của anh em TPB là dù bị xã hội bỏ rơi, chính quyền Việt cộng chà đạp, nhưng anh em vẫn kiên quyết vươn lên. Lòng trung kiên gắn bó với chế độ VNCH mà anh em đã phục vụ được thể hiện ở chỗ hầu hết các anh em vẫn giữ và trân quý những giấy tờ cá nhân mà đối với chính quyền Việt cộng thì nó có thể còn mang tai họa đến cho bản thân và gia đình. Còn chúng ta có bao nhiêu sĩ quan đang sống ở hải ngoại còn giữ được cái bằng tốt nghiệp hay cái quyết định thăng thưởng – Có bao nhiêu người còn ý chí đấu tranh giành lại quê hương một cách tích cực hay không, hay đã cho rằng được sang Mỹ sống có nhà to, có xe đẹp là mãn nguyện rồi, là quên đi trách nhiệm, là quên mất lời thề, thậm chí có kẻ còn mỉa mai những anh em đang tranh đấu là”bọn ăn cơm nhà vác ngà voi”, “những kẻ chống cộng về chiều”. Đối với đám phản bội này thì Trung đã khinh bỉ bọn chúng từ lâu.
Thật may mắn, lá thơ của Tài đến thật đúng lúc, Trung vừa tổ chức bữa cơm gây quỹ cứu trợ Thương Phế Binh nạn lụt miền Trung tại thành phố nhỏ này. Số tiền thu được vừa đủ giúp cho sáu mươi anh em, đang điền phiếu gởi tiền thì lại có tin cơn bão số 7 sắp sửa đổ vào các tỉnh miền Trung. Chẳng lẽ cứ “phước bất trùng lai họa vô đơn chí” giáng xuống đầu dân lành vô tội mãi sao… “Trời cao có mắt, xin Ngài hãy xuống tay đối với đám cộng đảng chóp bu để dân tộc con thoát khỏi cảnh lầm than, sống không đặng mà chết cũng chẳng xong”.
Mũ Nâu Đoàn Trọng Hiếu
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Thêm một câu chuyện về Thiếu Sinh Quân VNCH Vũng Tàu Hà Việt Hùng Khóa sinh trường Thiếu Sinh Quân VNCH
Xế trưa ngày 29 tháng Tư, 1975, theo lệnh Chỉ Huy Trưởng, toàn thể Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam[1] di chuyển ra bến tàu, gần trung tâm huấn luyện Cảnh Sát Quốc Gia ở Cát Lở, cách ngã tư Bến Đình khoảng một cây số để lên tàu di tản. Từ Trường, tôi đi bộ qua đường Lê Lợi, về nhà ở trại Cô Giang, Phường Thắng Tam. Tôi chỉ kịp trao đổi với mẹ tôi vài lời. Năm đó mẹ tôi đã 55 tuổi, người ốm yếu, còn tôi là SQ trẻ, chưa lập gia đình. Sau khi bị thương lần thứ hai tại Trà Ôn, tôi nhận giấy thuyên chuyển về Trường TSQVN. Tại đây, tôi tạm thời được sắp xếp dạy Anh Văn, khi vết thương ở chân trái chưa lành.
- Mẹ chuẩn bị nhanh lên. Mình phải đi ngay bây giờ.
- Đi đâu? Mẹ tôi hỏi.
- Mình theo Trường ra tầu, đi Phú Quốc hay Guam, rồi sau qua Mỹ.
- Qua Mỹ lạnh lắm. Mẹ không chịu nổi đâu.
Nghe mẹ hỏi, tôi trả lời đại như vậy. Sự thực đầu óc tôi đang khô đặc, quýnh quáng, đợi Chỉ Huy Trưởng quyết định, chứ còn biết đi đâu. Đó là mẩu đối thoại ngắn gọn giữa hai mẹ con tôi. Sau khi mẹ tôi xếp vội vài bộ quần áo bỏ vào vali, tôi cột chặt vào sau chiếc Honda Dame. Xong, tôi lấy cây Carbin trong tủ, đeo vào vai, đội nón sắt, dắt xe ra khỏi nhà sau khi đã khóa cửa cẩn thận, rồi chở mẹ tôi nhập vào đoàn người chạy ra bến tàu.
Bên ngoài, dọc theo con đường dẫn ra bến tàu, khoảng gần 400 em TSQ[2] di chuyển chỉnh tề, cộng với các gia đình binh sĩ, hạ sĩ quan và sĩ quan nối đuôi nhau. Một số nhà dân ở hai bên đường, thấy chúng tôi di chuyển, đã hiếu kỳ ra đứng nhìn theo. Chỉ Huy Trưởng ngồi trên xe díp có tài xế lái, dẫn đầu “đoàn quân”. Có vài người đi xe gắn máy. Còn lại đều đi bộ. Chỉ Huy Trưởng lúc bấy giờ là Trung Tá Ngô Văn Dzoanh, người đã thay thế Đại Tá Hồ Nhựt Quan (Cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 9) cách đó hơn một năm.
Tôi chở mẹ tôi chạy chậm, khoảng gần cuối đoàn người. Không ai nói với ai một lời. Tôi để ý, không thấy một vị Sĩ quan quen biết nào ở Ban Văn Hóa cả. Lúc đó, tôi không nhớ đầu óc mình đã suy nghĩ gì. Khi đến gần Rạnh Dừa, bỗng nhiên đoàn người dừng lại, nhốn nháo. Tôi không thấy Trung Tá Ngô Văn Dzoanh đâu. Nghe nói ông đang nói chuyện với các sĩ quan chỉ huy một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến đang chiếm giữ bến tàu.
Đến khi có lệnh tất cả mọi người phải quay về Trường, tôi cũng về theo. Có người cho là tình trạng bến tàu lúc bấy giờ có thể không được an ninh. Nếu Trường TSQ lên tàu, sẽ tạo ra một tình trạng hết sức lộn xộn, chậm trễ. Việt Cộng từ phiá Bà Rịa có thể pháo kích lên tàu bất cứ lúc nào. Tôi kể lại chuyện này với tất cả sự dè dặt, vì sự thực, tôi không được nghe nội dung câu chuyện giữa các sĩ quan TQLC và Trung Tá Ngô văn Dzoanh. Ngoài ra, vì đi gần cuối, tôi không hề thấy một người lính hay Sĩ quan TQLC nào, cũng chưa thấy chiếc tàu của Hải Quân đâu cả, và cũng không biết nó mang tên gì.
Thế là đoàn người quay đầu lại, di chuyển về Trường trong nỗi thất vọng.
Về đến nhà, thấy cửa nẻo vẫn được khóa kỹ lưỡng. Tôi dắt xe vào nhà với cái vali đằng sau, nói mẹ tôi chờ, rồi đi bộ qua Trường.
Ngay trước cột cờ, khoảng gần 400 em TSQ mặc đồ vàng, đã nghiêm chỉnh xếp hàng đôi từ nhỏ đến lớn, lặng lẽ chờ đợi.
Tôi đứng cạnh Phòng Sĩ Quan Trực gần cổng ngoài cùng với một số người khác. Thấy loáng thoáng có Thiếu tá Nguyễn Văn Thương, Trưởng Khối Quân Huấn; Đại Úy Hoàng, Liên Đoàn Trưởng LĐ /TSQ; Đại Úy Lê Viết Đắc, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ Hùng Vương; Trung Úy Lê Văn (?) Tuất, An Ninh; Chuẩn Úy Hà Văn Cúc, An Ninh; Chuẩn Úy Lâm A Mạ, Chuẩn Úy Khôi… Nếu tôi không lầm, các Sĩ quan này đều là Cựu TSQ (AET). Xin mở một dấu ngoặc ở đây. Khoảng tháng 1, 1975 Trung Úy Tuất là Đại Đội Trưởng Đ Đ Tác Chiến của trường TSQ. Tôi là Trung Đội Trưởng TĐ 1, Chuẩn Úy Mạ là TĐT/TĐ 2, và một C/U (quên tên) là TĐT/TĐ3. Cứ cách 3 đêm, các TĐ thay phiên nhau lên ngọn núi phía sau trường TSQ, gần đài vi ba, nằm trực chiến.
Lúc bấy giờ Trung Tá Ngô Văn Dzoanh không ngồi trong văn phòng của ông. Ông đứng phía trước Phòng Sĩ Quan Trực. Tôi được biết Trường có kế hoạch di tản ra hạm đội, và đang chờ trực thăng đáp xuống.
Tôi nghĩ đến mẹ tôi đang chờ ở Trại Cô Giang, nhưng tôi đã tự trấn an mình ngay. Nhà tôi ở trong Trại Cô Giang, căn số 2, dãy thứ nhất, đối diện với Trường, chỉ cách bề ngang đường Lê Lợi. Nếu gần đến lượt, tôi chạy về đưa mẹ tôi qua Trường, cũng vẫn còn kịp lên trực thăng.
Khoảng một tiếng sau, một chiếc trực thăng đáp xuống sân Trường. Sáu hay bảy em TSQ nhỏ đứng đầu bước lên. Sau đó, tôi thấy có một người đàn ông Mỹ. Trước đó tôi đã gặp ông này vài lần, nhưng không nhớ ở đâu. Hình như ông ta là Kỹ Sư Cố Vấn. Ông ta leo lên cùng với cô vợ người Việt Nam và đứa con gái nhỏ. Tôi còn thấy hai ông Trung Sĩ Chỉnh và Ngộ (con trai bà giáo Thảo sản xuất và bán mắm ruốc nổi tiếng ở VT) nữa. Hai người này là Hạ Sĩ Quan An Ninh, không biết họ từ đâu chạy ra chỗ trực thăng đang đậu, rồi leo lên. Tôi thấy tất cả đều im lặng. Lúc đó, tôi không nhận thấy mình ngây thơ, khờ khạo. Thử làm một bài tính đơn giản. Mỗi chuyến trực thăng có thể chở được 20 người ngồi cả trên sàn. Cộng chung các em TSQ với các cán bộ nhà Trường và gia đình họ, tối thiểu khoảng 7-8 trăm người. Nếu chỉ có một chiếc trực thăng, để chở hết, phải mất 40 chuyến. Không ai biết tàu đang đậu ở đâu ngoài khơi, nhưng thử ước lượng mỗi chuyến mất độ 30 phút cho thời gian bay đi, bay về, lên, xuống. Vậy là, phải mất 20 tiếng! Một chuyện không thể nào thực hiện được khi Cộng quân đã tới Bà Rịa.
Ngay sau đó trực thăng bay đi. Chúng tôi im lặng chờ chuyến thứ hai đáp xuống.
Chúng tôi cứ đứng chờ như thế đến 2-3 tiếng. Sau cùng, Trung Tá Ngô Văn Dzoanh xuất hiện. Ông buồn bã xem đồng hồ, rồi nói với những người đang đứng trước Phòng Sĩ Quan Trực:
- Đến giờ phút này moi hoàn toàn thất vọng rồi. Trực thăng không xuống nữa đâu. Thôi, các toi hãy về nhà tự lo cho gia đình.
Ông chỉ nói có bấy nhiêu. Vì đứng gần ông nên tôi nghe rất rõ. Dường như tiếng nói của ông bị đứt đoạn, uất ức, nghẹn ngào. Có vài em TSQ đứng gần đấy, thấy chúng tôi tan hàng, đã khóc theo. Tình cảnh này có thể ví như một đàn gà. Đàn gà con đang đi theo mẹ, nhởn nhơ bắt sâu, bỗng từ trên trời xuất hiện một bầy diều hâu hung ác. Đàn gà con chạy vội núp vào cánh mẹ. Bầy diều hâu bay xà xuống. Đàn gà náo loạn, tan tác.
Tôi về nhà. Trại Cô Giang vắng ngắt. Nhà bà y tá bên phải và nhà Thiếu Úy Hòa bên trái đóng chặt cửa. Không biết họ có ở trong nhà không. Một lúc sau tôi thấy Đại Úy Trần Đình Ân, Trưởng Ban Văn Hóa[3], mặc quân phục, đội mũ bê rê màu xanh đậm, chở vợ bằng xe Suzuki chạy ra đường cái, ngang qua nhà tôi. Vợ chồng Đ/U Ân thấy tôi đang đứng trước cửa nhà, không nói gì, chỉ có ánh mắt, nhưng khi ấy tôi lại không hiểu được. Tôi biết họ đang vội.
Gần như Trại Cô Giang không còn ai. Tôi bàn với mẹ tôi chạy tới tá túc nhà anh An ở khu chợ mới, Phường Thắng Nhì. Bà cô ruột của anh An là bạn thân của mẹ tôi khi còn đi học ngày nhỏ. Bỗng nhiên, Thiếu Úy Từ Hữu Mỹ[4] bước qua nhà tôi. Th/U Mỹ ở cách nhà tôi vài căn. Gia đình của Th/U Mỹ ở Chương Thiện, mới lấy vợ được vài tháng. Quê vợ ở Bình Dương. Hai người bị kẹt lại Vũng Tàu. Th/U Mỹ ngỏ ý “xin” đi theo tôi vì không biết đi đâu cả. Có thể ngày mai Việt Cộng sẽ tới đây.
Một lần nữa, tôi lại khóa cửa nhà. Tôi chở mẹ tôi bằng xe Honda Dame, Th/U Mỹ chở vợ bằng xe đạp mini chạy bên cạnh. Cả hai chúng tôi vẫn mặc bộ đồ trận và “lon lá” đầy đủ. Ra đến đường, một em TSQ chặn tôi lại. Em đưa cho tôi trái lựu đạn M26.
- Thầy giữ “cái này” xài.
Có thể em là TSQ lớp 11 hay 12. Vì thời giờ gấp rút, tôi không kịp hỏi tên em, chỉ nhớ là đã cám ơn. Tôi biết khi chúng tôi đi rồi, em lại quay về Trường, vì còn biết đi đâu.
Lúc đó chúng tôi được trang bị gần như đầy đủ: quân phục tác chiến, nón sắt, súng carbin, băng đạn, thẻ bài. Riêng tôi còn có thêm trái lựu đạn trước ngực.
Chúng tôi chạy xe dọc theo con đường phía bên ngoài, song song với Trường TSQ. Trường nằm bên phải, buồn bã, lạnh lùng. Ngang khu Liên Đoàn, tôi còn thấy vài ba bộ đồ vàng lảng vảng ở ngoài hành lang, hay dưới cột cờ. Không biết các em đang làm gì. Thôi nhé, vĩnh biệt các em. Vì vận nước đổi thay, thầy trò chúng ta phải chia tay nhau. Chúng tôi đã làm bổn phận, mặc dù chưa xong, của những người thầy đối với các em, nhưng chúng tôi đã không chu tất bổn phận của những người mẹ. Chúng tôi biết, những thứ các em thực sự cần có lúc bấy giờ là mái ấm gia đình, ở đó tràn ngập tình thương yêu của những người mẹ, người cha hay người anh, người chị.
Khu Văn Hoá vắng ngắt. Kiến trúc có hai cầu thang bằng đá và xi măng ở hai bên. Có những lớp học ở tầng dưới và ở trên lầu. Có những giáo sư đã cùng dạy học với tôi ở đó. Đại Úy Nguyễn Văn Thi (về từ Võ Bị Đàlạt, dậy Toán), Trung Úy Trần Trị Chi, Trung Úy Nguyễn Văn Minh, Trung Úy Lê Văn (?) Thiện (dậy Vạn Vật), Trung Úy Lâm Quang Đạt (dậy Pháp Văn), Thiếu Úy Phạm Quang Tuyên (dậy Anh Văn), Thiếu Úy Phạm Việt Hùng (dậy Văn), Thiếu Úy La Hoa Hùng (dậy Toán), Thiếu Úy Trần Quang (?) Huy (dậy Triết), và một vài người nữa mới thuyên chuyển về tôi không kịp biết tên. Ở trường TSQ, chúng tôi quen gọi các Sĩ Quan Văn Hoá là Giáo Sư, phần lớn những người này đều tốt nghiệp Đại học, và có nhiều người dậy cả ở trường tư Vùng Tầu.
Đối diện với Trường TSQ, có một dãy tường dài màu trắng. Ở đó, bây giờ tôi còn thấy viết một câu nói nổi tiếng của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng tin những gì Cộng Sản nói. Hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm.” Vào giờ phút ấy, tôi vẫn còn thấy câu nói đó rất đúng; nó như một thách đố, nhưng lại nghẹn ngào, uất hận.
Trên đường, chúng tôi thấy mọi nhà đều đóng cửa. Phố xá vắng lặng như chiều 30 Tết. Không một người qua lại.
Chúng tôi rẽ trái để tới nhà anh An ở khu chợ mới, Phường Thắng Nhì, vào khoảng 4 giờ chiều. Cửa đóng kín. Tôi gõ cửa. Bất ngờ thấy chúng tôi tới, anh An lo sợ ra mặt. Chắc anh không muốn có chuyện gì phiền phức đến gia đình mình. Nhưng chị An không nói gì.
Nhìn thấy chúng tôi đùm đề súng đạn, anh An cuống lên:
- Trời ơi, đến giờ này mà các chú còn súng đạn như thế này. “Chúng nó” tới sát bên rồi.
Rồi quay qua thằng cháu, anh giục:
- Khánh. Mày mang những thứ này vứt qua hàng rào. Nhanh lên.
Khánh là lính Nhảy Dù từ Vùng 1, Vùng 2 mới di tản về.
Chúng tôi lặng lẽ cởi bỏ súng đạn, kể cả thẻ bài, đưa cho Khánh. Khánh đi ra phía sau, vứt những thứ đó qua bên kia hàng rào. Chúng tôi vào nhà, lột được cái áo, nhưng chưa kịp thay. Hai đứa còn mặc quần lính trận. Lúc đó Việt Cộng đã tới sát bên. Chúng tràn ngập khu nghĩa địa cách nhà anh An chỉ vài trăm thước. Không có tiếng súng nào.
Chúng tôi ngồi trong nhà, chờ xem động tĩnh. Đêm đó, đầu óc tôi căng thẳng, không sao ngủ được. Mãi gần sáng tôi mới thiếp đi.
Sáng sớm hôm sau, 30 tháng Tư, tôi choàng tỉnh dậy vì có những tiếng động ở bên ngoài. Từ trong nhà, tôi nhìn qua lỗ khóa. Khoảng một tiểu đội Việt Cộng đang đứng lố nhố trước cửa nhà anh An, chỉ cách tôi 4-5 thước, qua một cánh cửa gỗ. Chúng đang xì xào bàn tán những gì tôi nghe không rõ. Tôi nhìn thấy những chiếc nón cối bạc màu, những đôi dép râu bao quanh những đôi chân cáu bẩn, và những đôi giầy vải màu nâu bạc phếch. Nào là vũ khí, máy truyền tin. Cạnh chỗ chúng đang đứng, có một miếng gỗ đóng xơ xài trên cái cột, với hàng chữ nguệch ngoạc “TÙ HÀNG BINH ĐI LỐI NÀY”, và ở dưới có một hình mũi tên chỉ về hướng đài vi ba, Phường Thắng Tam. Ngoài ra, còn có một tấm bảng khác với hàng chữ “HÀNG SỐNG, CHỐNG CHẾT” được đóng ngay đó.
Đến khoảng 8 giờ sáng, tôi lại nhìn qua lỗ khóa một lần nữa. Rõ mồn một. Bọn Việt Cộng vẫn còn đứng lố nhố trước cửa nhà anh An. Vài phút sau, tôi không còn tin vào mắt mình được nữa. Tay Nhiều[5], Nghị viên (NV) Thành phố Vũng Tàu được một tên đệ tử còn trẻ chở tới bằng xe Honda 67 màu đen. Cả hai đều mặc áo trắng. Tên trẻ tuổi đeo băng đỏ ở cánh tay. Chiếc xe dừng lại, được chống càng nghiêng qua một bên, NV Nhiều bước xuống, nét mặt nghiêm trọng, nói chuyện với tên Việt Cộng đeo K.54, hình như là cấp chỉ huy. NV Nhiều nói gì với tên Việt Cộng, tôi nghe không rõ, chỉ thấy tên Việt Cộng nhìn NV Nhiều, thỉnh thoảng lại gật gù. Tôi đoán họ đã gặp và “thông tin” với nhau vài lần rồi, vì khi tôi thấy, hai người có vẻ biết nhau từ trước.
Tôi bàng hoàng, tự nhiên cảm thấy lạnh người. Tôi ngoắc Th/U Từ Hữu Mỹ lại, nói nhỏ:
- Thằng cha Nhiều là Việt Cộng Nằm Vùng. Vậy mà lâu nay tụi mình không biết.
- Đâu, tôi coi?
Th/U Mỹ nhìn qua lỗ khoá một chập, rồi quay qua tôi:
- Đ.M. Anh tính sao?
Th/U Mỹ chửi thề nho nhỏ, không nói gì thêm. Tôi cũng im lặng. Thực ra, ngay lúc đó tôi không cảm thấy sợ hãi chút nào. Tôi chỉ thấy hoang mang. Sự việc xảy ra quá sức bất ngờ, ngoài sự tưởng tượng của mình. Tại sao giờ này thằng cha Nhiều còn đứng kia? Anh ta là NV Thành Phố cơ mà? Tại sao anh ta không di tản? Anh ta không muốn đi, hay không đi được? Anh ta định làm gì? Chuyện gì đã xảy ra cho Đại Tá Thị Trưởng Vũ Duy Tạo? Nếu NV Nhiều biết có Th/U Mỹ và tôi đang đứng phiá sau cánh cửa này, quan sát anh ta qua lỗ khóa, không biết anh ta sẽ phản ứng ra sao, anh ta có “báo cáo cán bộ” có hai tên “Sĩ quan ngụy” đang ở sau cánh cửa, và không biết chuyện gì sẽ xảy ra cho hai chúng tôi. Hàng trăm câu hỏi cứ xoáy trong đầu tôi lúc bấy giờ.
Khi tôi mới thuyên chuyển về Trường TSQ, NV Nhiều còn là Trung Úy, dạy Toán. Tôi chưa có dịp nào nói chuyện trực tiếp với anh ta, ngoài trừ vài lần gặp anh ta trên đường dẫn vào khu Văn Hoá, cả hai cười cười, gật đầu. Anh ta thân với Đại Úy Hồ Công Tâm[6], Cựu Trưởng Ban Văn Hoá. Về sau, anh ta ra ứng cử chức vụ NV Thành Phố. Đ/U Tâm nhờ nhóm Sĩ Quan trẻ chúng tôi vận động cho anh ta. Chính tôi đã cầm cả trăm cái business cards của anh ta, đi giới thiệu với mọi người quen biết, nào là ở tư gia, ở quán cà phê, ở tiệm cơm…những nơi bọn chúng tôi hay la cà, tán gẫu. Kết quả, anh ta đắc cử một cách vẻ vang. Hình như anh ta có số phiếu cao thứ nhì. Sau vụ này, chúng tôi vẫn không có được một lời cám ơn, một cái bắt tay, hay một ly cà phê. Mấy tháng sau, anh ta xin giải ngũ. Cuộc sống huy hoàng, thảnh thơi và quyền lực của một Nghị viên Thành phố bắt đầu. Mấy gia đình giầu và tai mắt ở Vũng Tàu, có con gái lớn, vồn vã anh ta ra mặt. Anh ta dựa dẫm Đại Tá Vũ Duy Tạo. Có lần anh ta theo Đại Tá Tạo đi “tham quan” Trường TSQ, không quên dắt theo mấy cô ả mặc áo dài. Tội nghiệp, lần đó cả Trường TSQ phải đứng dàn chào. Tôi biết anh ta muốn lợi dụng những dịp này để “lấy le” với chúng tôi. Chỉ có vậy thôi.
Vậy mà bây giờ anh ta đứng kia, áo sơ mi trắng, bộ điệu khúm núm, xum xoe, không đúng phong độ hay tư cách của một Nghị viên tí nào.
Tôi chán ngán quay vào. Tôi nói với anh An là tôi và Th/U Mỹ thấy NV Nhiều đứng ngoài đường, đang “báo cáo” với tên chỉ huy VC. Anh An có vẻ ngao ngán.
Trưa hôm đó, tôi chở mẹ tôi về lại Trại Cô Giang. Cửa đằng trước vẫn có ổ khoá nằm đấy, nhưng cửa sau đã bị ai đó phá hỏng và bên trong bị xáo trộn, một ít đồ bị mất. Nhưng không có gì quan trọng cả. Những ngày tháng sắp tới, nào biết cuộc đời sẽ trôi giạt về đâu, vậy thì, có gì để tiếc nuối đâu. Tôi chỉ thấy chán ngán và chấp nhận.
Tôi nhìn qua Trường TSQ, tất cả đều vắng vẻ, lạnh lùng, ngoại trừ cái cổng sắt to lớn bị hư hại. Đó là dấu tích của trái đạn B.40 do Việt Cộng bắn vào khi tấn công Trường, và đó cũng là trận chiến đơn độc, trận thử lửa đầu tiên, nhưng rất hào hùng của các em TSQ bé nhỏ, còn trong độ tuổi thơ ngây. Trận đánh này đã xảy ra từ buổi sáng đến buổi trưa ngày 30 tháng Tư khi tôi đang ở nhà anh An ở Phường Thắng Nhì[7].
Cũng trưa hôm đó, qua làn sóng Ðài Phát Thanh Saigon, Tổng Thống Dương Văn Minh ban lệnh đầu hàng. Thế là hết.
Sáng ngày 1 tháng Năm, tôi ra “trình diện” sơ khởi ở Phường Thắng Tam. Trình diện xong, tôi xách xe Honda chạy lung tung quanh Vũng Tàu như một người mất trí.
Buổi tối hôm đó, tôi lại buồn tình xách xe chạy ra bãi trước. Đang đứng nhìn ra biển, tôi gặp Đại Úy Hoàng, Cán bộ Liên Đoàn Trưởng TSQ. Hai chúng tôi nhìn nhau, chỉ nhè nhẹ lắc đầu, không nói gì với nhau cả. Có vài chiếc tàu neo ở ngoài khơi, thật xa, thật xa.
Vài ngày sau, từ Trại Cô Giang, tôi nhìn thấy những chiếc xe tải quân đội Molotova chạy vào trường TSQ, chất đầy đồ đạc và giường sắt (loại giường của quân đội Mỹ), chở về đâu không biết. Trường TSQ có khoảng 2 ngàn chiếc giường như vậy, để cho các em TSQ sử dụng. Những chiếc xe Molotova chạy ra chạy vào nhiều chuyến để chở “chiến lợi phẩm”. Lúc đó, không còn một em TSQ nào trong Trường. Chỉ cần nửa ngày, trường TSQ đã được “dọn” sạch sẽ. “Tàn dư Mỹ Ngụy” được phân tán nhanh chóng, có thể ra cả tới miền Bắc.
Mấy ngày sau, tôi gặp Chuẩn Úy Lâm A Mạ (AET) mua cuốc xẻng ở tiệm làm đồ sắt của anh An ở ngã tư Bến Đình. Ch/U Mạ đang chuẩn bị cho những ngày tháng mới và những công việc mới. Còn Chuẩn Úy Khôi (cũng là AET) đang chăm sóc cái quán Mưa Rừng với bà vợ thứ hai ở gần Trường TSQ.
Qua ngày hôm sau, có hai ba tên Việt Cộng, đội nón cối, vác AK đến nhà tôi, “ra lệnh” tôi chỉ được ở trong Trại Cô Giang vài ngày nữa, rồi phải dọn đi, trả nhà cho “Cách mạng”.
Sau khi nghe tin Cầu Cỏ May đã được sửa lại, Th/U Mỹ và vợ đã từ giã mẹ con tôi về Bình Dương, gửi lại chiếc xe đạp mini. Hai hôm sau, bà mẹ vợ đã đến lấy về.
Trại Cô Giang ngày càng vắng vẻ. Tôi chần chừ ít ngày nữa. Sau cùng, mướn một chiếc xe tải nhỏ, dọn về Sàigòn. Tôi đưa mẹ tôi về “tạm giữ” căn biệt thự nhỏ trong Cư xá Phủ Tổng Thống cạnh cầu Sàigòn. Căn biệt thự này làm chưa xong. Nền nhà chưa được lót gạch. Cửa sổ chưa có, ngay cả cửa chính cũng chưa có khoá. Sân vườn toang hoác. Chồng của bà chị họ tôi là Đ/U Nha sĩ Phủ Tổng Thống, mua đất ở đây xây biệt thự. Xây chưa xong, Việt Cộng ập tới. Trong khi tôi và mẹ tôi không có chỗ trú ngụ, nên nhận làm “quản gia” thật đúng lúc.
Căn biệt thự tôi ở gần ngã tư. Bên trái là biệt thự của một Trung Tá Nha Quân Pháp (quên tên). Đối diện có một ngôi chùa nhỏ. Khoảng một trung đội VC đóng trong ngôi chùa này. Chúng đặt trạm gác, kiểm soát người qua lại. Trong căn biệt thự “không có cửa nẻo”, tôi vội vã đốt hết mọi giấy tờ và hình ảnh. Chỉ giữ lại cái Thẻ Sinh Viên Luật Khoa năm I có hiện lực đến cuối năm. Không ngờ đó lại là bùa hộ mạng của tôi.
Từ bên chùa, sáng nào cũng có 3-4 tên qua nhà tôi chơi. Chúng cứ nghĩ tôi là sinh viên. Mấy ngày đầu tôi pha cà phê mời tụi nó uống “xã giao”. Tụi nó cứ khua tay “thôi, thôi”. Nhưng vẫn uống tì tì. Mấy ngày sau tụi nó “quen mui, thấy mùi…” qua nhà tôi hoài, nhưng tôi lại hết cà phê, hết sữa. Tụi nó quay qua hỏi muợn tôi chiếc Honda Dame chạy chơi quanh cư xá. Một hai lần sau tôi cũng kiếm cách từ chối, nói là hết xăng.
Ông anh tôi còn xây cái phòng vệ sinh đằng sau sân đậu xe. Phòng vệ sinh cũng chưa có cửa. Buổi sáng vài ba đứa nhăn nhó chạy vội qua nhà tôi, làm tùm lum. Mẹ tôi lại phải vất vả kỳ cọ, đến nỗi bà phải viết lên tường hàng chữ “người lịch sự nhớ dội nước”. Có đứa qua nhà tôi quát “Thím nói ai?”. Mẹ tôi tỉnh bơ trả lời “Nói người nào bất lịch sự đó.”
Sau 2-3 lần “tẽn tò”, đến cuối tháng Sáu, 1975, tôi từ giã mẹ tôi, lên đường “đi học”. Vì lỡ trình diện ở Vũng Tàu nên tôi phải ra đấy để đợi “đi học”, mặc dù tôi đã về Sàigòn. Thoạt đầu, tôi được đưa đến Long Thành, ở trong doanh trại của một đơn vị Công Binh cũ, cách Suối Tre khoảng một tiếng đi bộ. Tại đây, tôi lại bị kinh ngạc một lần nữa khi gặp NV Nhiều. Chắc hẳn anh ta đã bị Việt Cộng “sa thải”, không còn được tin dùng nữa. Khi trái chanh đã được vắt kiệt, bây giờ chỉ còn việc vứt vào thùng rác, không thương tiếc.
Lần đầu gặp tôi tại đây, có lẽ thấy tôi quen quen, anh ta nhe răng cười. Tôi phớt lờ. Tôi nhớ chỉ gặp anh ta 2-3 lần, vì ở hai C khác nhau. Rồi sau đó, qua những lần chuyển trại, không biết anh ta ra sao, về đâu.
Cuối năm 1993, tôi và gia đình qua Mỹ theo diện HO. Một hôm đi khám răng ở LB, ông bố cô Nha sĩ, kiếm mối cho con, đến chở gia đình tôi, sau khi biết tôi ở trường TSQ, hỏi tôi có biết NV Nhiều không. Ông nói ông là anh em cột chèo với NV Nhiều, hiện NV Nhiều cũng đang ở L.B. cùng với bà vợ Nha Sĩ (?). Tôi giật mình và quá sức ngạc nhiên. Vậy là anh ta đã sang Mỹ sớm hơn ai hết. Không biết anh ta đã bị “ở tù” bao lâu? Không biết anh ta sang Mỹ theo diện gì? (HO, ODP, vượt biên, con lai, hay bảo lãnh). Ông ta nói với NV Nhiều là tôi và gia đình mới qua, và nói là NV Nhiều sẽ ra mừng chúng tôi. Hôm sau, ông ta nói với tôi là NV Nhiều xin lỗi, vì bận việc, không đến mừng gia đình tôi được. Tôi chắc chắn không bao giờ NV Nhiều muốn (hay dám) giáp mặt bất cứ ai ở Trường TSQ cũ, vì tự nhiên cứ thấy lương tâm mình hổ thẹn, mặc dù vẫn tưởng việc làm của mình không ai biết. Nhưng anh ta phải biết là dưới gầm trời này, không có chuyện gì bí mật cả, nhất là khi mình có tội. Tôi định kể chuyện cho ông ta nghe, nhưng lại thôi.
Mấy năm sau, một lần vô tình tôi gặp NV Nhiều ở VVH. Trong khi chờ “ông thầy” massage tới, anh ta lấy sách ra đọc ngay bên cạnh tôi. Có thể anh ta không nhận ra tôi (?). Tôi hỏi anh ta có còn nhớ ai ở Trường TSQ không, còn nhớ Đ/U Hồ Công Tâm không. Anh ta lắc đầu, trả lời yếu ớt: “Tôi quên rồi”.
Đã gần 40 năm trôi qua, chúng ta vẫn không thể quên được ngày Cộng quân cướp miền Nam, không thể quên được ngày chúng ta phải chịu nhận sự trả thù cay độc của chúng ở những trại tù, trong Nam cũng như ngoài Bắc. Có những chuyện dường như mới xảy ra ngày hôm qua, ngày hôm nay, hay mới tức thời. Làm sao quên được. Bây giờ, có những đêm ngủ, chúng ta còn bị những cơn ác mộng ám ảnh, có khi vẫn thảng thốt ngồi dậy, nhìn quanh, căm phẫn, bàng hoàng.
Tuyệt nhiên tôi không có một hiềm khích hay tư thù cá nhân nào đối với NV Nhiều. Nhưng xét ra, anh ta đã bôi lọ thanh danh cao quý của người lính Việt Nam Cộng Hòa, đã “đâm sau lưng các chiến sĩ”, đã “ăn cơm Quốc Gia, thờ ma Cộng Sản”, đã cúi đầu làm tay sai chỉ điểm cho bọn Việt Cộng khi chúng xua quân cưỡng chiếm miền Nam. Có thể anh ta là Việt Cộng nằm vùng, và cũng có thể anh ta chỉ là thứ 30 tháng Tư tép riu đón gió trở cờ. Sau khi cháy nhà, đã có những con chuột xấu xí ra mặt. Những con chuột đã làm náo loạn, và gây kinh hoàng cho mọi người một thời gian lâu dài.
Những kẻ phản bội, nhất là phản bội tổ quốc, vẫn thường có nhiều thủ đoạn tráo trở, lừa bịp, luồn cúi, hèn hạ. Phải nói ra để nhận diện, tẩy chay.
Đã gần 40 năm qua, tôi định không kể chuyện này. Nhưng nếu vậy, lịch sử dân tộc sẽ mất đi sự công bằng. Trong khi bao nhiêu người con thân yêu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã hy sinh mạng sống của mình để bảo vệ chính nghĩa tự do trên từng tấc đất, có kẻ đã lợi dụng, sống ích kỷ, phè phỡn, bon chen, lúc nào cũng muốn đè đầu đè cổ người khác. Đến khi đất nước gặp nạn, những kẻ đó lại đang tâm làm ngơ, phủi tay, phản bội, và trốn chạy trước hơn ai hết. Phải nói ra để lương tâm được ngủ yên, mặc dù đã quá muộn màng. Hà Việt Hùng
The Following 3 Users Say Thank You to cha12 ba For This Useful Post:
Đi dạo 1 vòng đọc thấy vài bài đăng trên fb ,không biết là chính xác hay không ,nên post lên đây ,để mọi người nếu ai có thông tin gì khác ,thì đính chính dùm .
Nguyễn Tuấn Hoàng
11 tháng 1 lúc 17:44
Các Chiến Sĩ TĐ.1.Nhảy Dù.Đã Tử Trận Trong Ngày
Cuối Cùng Tại Vũng Tàu,Những Gì Còn Lại Sau 36 Năm
Các Anh Đã Được Trở Về Với Người Thân ,
Trong cuộc chiến vừa qua,dù rằng đã hơn 36 năm nhưng những chuyện kể về sự chiến đấu kiêu hùng của những người Lính,vẫn còn được nhắc đến qua lời kể của người Dân sở tại và đây là câu chuyện về những người Lính Nhẩy Dù đã chiến đấu đến giờ phút cuối cùng của cuộc chiến. Mời Quý Vị theo dõi…
Tìm…
Những ai đã từng sống tại Thị Xã BàRịa_Vũng Tàu hoặc có dịp đi qua con đừơng này, đối diện Nghĩa Trang Liệt Sĩ Bà Rịa_Vũng tàu, có 04 ngôi mộ (không có bia) trong vườn nhà ông Hai Lì,đã có mặt từ ngày 01-05-1975 cho đến nay…
Từ nguồn tin của người dân ở Thị Xã Bà Rịa-Vũng Tàu nói về sự linh ứng của 04 ngôi mộ này,theo họ cho biết đó là những Ông Lính bận đồ rằn ri,chiến đấu cho đến trưa ngày 01-05-1975 rồi cùng nhau tự sát… cũng vì thế để tìm hiểu thực hư,sau gợi ý của Hùng Bảy Lổ (Canada) với sự bàn thảo của Anh Lâm Viên 20,chúng tôi với sự dẫn dắt,giới thiệu của MĐ Vẽ 91 lên đường đến tận nơi 04 ngôi mộ,chúng tôi gồm có MĐ Đẹp 83(TPB cụt môt chân),MĐ Thành 31,MĐ 93 và MĐ 90.
Kìa… vườn nhà ông Hai Lì nơi có 04 ngôi mộ,theo lời MĐ Vẽ nói về ông Hai Lì rất dữ dằn,khó chịu (Dân Cách Mạng) nên chúng tôi hơi chùn lòng,sợ bị làm khó dễ. Điều linh ứng đầu tiên mà chúng tôi cảm nhận được là sau lời vái của MĐ Đẹp;”Xin vái với Các ANH sống khôn,thác thiêng hãy tạo thuận lợi cho chúng tôi là những đồng đội cũ, tìm đến để đưa Các Anh về chùa nhang khói,hy vọng những thân nhân của Các Anh sẽ sớm nhận được tin này”.
Khi bước vào vườn nhà, tức thì ông Hai Lì xuất hiện với nụ cười trên môi,niềm nở tiếp đón anh em chúng tôi(không hề có sự khó khăn nào) và hình như ông ấy đã biết rỏ ý định của chúng tôi là xin bốc 04 ngôi mộ (vì lúc đó MĐ Đẹp bận quần trận Hoa Rừng) ông Hai Lì nói: “ Tôi đã chôn cất mấy Ông này từ ngày 01-05-75, hơn 36 năm ,tôi chờ đợi thân nhân mấy Ông này nhưng không thấy,hằng năm tôi vẫn thừơng nhang khói,đắp mộ cho mấy Ông này,nay các anh là đồng đội tìm đến ,tôi rất vui và tôi hứa sẽ tạo mọi điều kiện cho các anh bốc mộ,đừng ngại gì cả”.
Được lời như mở tấm lòng,chúng tôi xin ông vui lòng kể lại sự việc,vì sao có 04 ngôi mộ này.
Theo lời Ông Hai Lì kể:”Tôi là dân Gia Đình Cách Mạng, mấy Ông Rằn Ri này gan lì lắm,mấy Ổng chống đến cùng dù có lệnh đầu hành của Tổng Thống Dương Văn Minh 30-04-1975,mấy Ổng chiến đấu cho đến trưa 01-05-1975 rồi cùng nhau tự sát và chính tôi là người chôn cất mấy Ổng,giấy tờ từng Ông tôi bỏ vào một cái hộp chôn theo các Ông”.
Ngừng một lát, ông Hai Lì kể tiếp với giọng nói pha chút thán phục:”Mấy Ổng linh lắm,nhiều năm trước thỉnh thoảng có những người đến mộ cầu xin,đều được linh ứng nên mọi người quanh đây rất kiêng nể. Có những kẻ “vô ý thức” khi đi ngang qua đây,chỉ trỏ,bi bô với giọng điệu chế nhạo “mả mấy thằng lính Ngụy’’ đều bị báo ứng như té xe, tông cột đèn,trầy tay,trẹo chân…vì thế,ngày nay có mấy anh đến thăm và di dời mấy Ổng về chùa,tôi sẽ đứng ra chịu trách nhiệm cho các anh,các anh cứ làm, đừng ngại gì cả,tôi sẽ giúp với tất cả tấm lòng.
Chúng tôi cùng lặng người khi nghe kể về Các Anh,kính phục các Anh đã TẬN TRUNG BẢO QUỐC. Những Anh Hùng vì nước quên thân,khí hùng tử Anh Hùng nào tử. Khi sống, chiến đấu hiên ngang cho đến khi khí tàn,sức kiệt chọn cái chết để bảo toàn Danh Dự và khi tử tiết đã hiển linh cho mọi người cùng thấy và chúng tôi nguyện với lòng sẽ đem các Anh về nơi yên bình ,sớm hôm nghe Kinh Phật ngõ hầu linh hồn Các Anh được siêu thoát khỏi cõi đời ô trọc này.
Xin nguyện cầu Anh Linh Các Anh dẫn lối đưa đường để những người thân yêu của Các Anh sớm tìm gặp lại Các Anh. Chúng tôi những người Đồng Đội cũ,đến đây với Các Anh với tấm chân tình,huynh đệ chi binh…ngày nay chúng ta đã mất tất cả nhưng không bao giờ mất được Tình Đồng Đội…hơn 36 năm nằm đây,các Anh là những Chiến Sỹ Vô Danh nhưng từ hôm nay các Anh sẽ được Vinh Danh trong Quân Sử,những ANH HÙng trong QLVNCH nói chung và làm rạng danh THIÊN THẦN của Binh Chủng,một tay cũng đánh,một cánh cũng bay…
Gặp Lại…
Nơi các Anh nằm xuống(trong vườn nhà của Ông Hai Lì) đối diện là Khu Nhà Đá của Pháp để lại(bây giờ là NTLS tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) cách Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp khoảng vài trăm mét, nay là Phường Long Tâm,TX Bà Rịa -Vũng Tàu có một toán lính Nhẩy Dù đã kháng cự mãnh liệt cho đến tận trưa ngày 01-05-1975 rồi cùng gục ngã bất chấp lời kêu gọi đầu hàng của TT Dương Văn Minh vào trưa 30-04-1975,chính sự chiến đấu kiêu hùng đó đã làm cho Ông Hai Lì thán phục,tinh thần Vì Nước Quên Thân và sự hy sinh cao cả của Các Anh đã xóa mờ lằn ranh thù hận và cũng chính Ông là người đã chôn cất 04 mộ phần này trong khu vườn của Ông và giữ gìn cho đến ngày hôm nay.
chúng tôi xin chân thành cám ơn Ông đã chăm sóc những Đồng Đội của chúng tôi, ông Hai Lì là một người tốt đã tạo điều kiện dễ dàng để chúng tôi tìm gặp Các Anh và thuận lợi thứ hai là khi nói chuyện với Vị Sư Trụ Trì gần đó,sau khi nghe kể rõ mọi sự tình như nói ở trên,Ngài Sư Trụ Trì hứa sẽ chấp nhận cho các Anh vào Chùa mà không đòi hỏi khoản chi phí nào và hứa khi thân nhân các Anh tìm gặp sẽ tạo mọi thuận lợi cho các thân nhân của các Anh tùy nghi đem về hoặc để lại Chùa nhang khói cũng được. Mọi việc coi như êm xuôi,chỉ còn chờ ngày tốt để đem các Anh vào Chùa.
Cuộc chiến đã trôi qua hơn 36 năm… những đắng cay, tủi nhục mà thân chiến bại từng nếm trải,vòng lao lý,kiếp gian truân,gian nan cực nhọc trên nẽo đường mưu sinh,người sống còn nhọc nhằn như thế huống gì người nằm xuống nơi chân trời, góc bể tưởng như đã bị quên lãng theo thời gian…ngày nay kiếm tìm được Đồng Đội ngã xuống nơi này là cả một công sức của những người có tâm huyết vì Đồng Đội,không một chút tư lợi, không chút lợi danh mà chỉ muốn đưa Các Anh về với gia đình ngừơi thân,hơn thế nửa Vinh Danh các Anh những ANH HÙNG trong cuộc chiến bi hùng này.
Người ngoài cuộc còn biết thán phục ,biết vị nể,còn có tấm lòng huống chi chúng ta là những người từng đội chung màu Nón Đỏ,lẽ nào làm ngơ!!! Xin hãy chung tay giúp sức cho những Đồng Đội còn ở Quê Nhà có điều kiện thăm hỏi,an ủi nhau lúc ốm đau,bệnh tật,lúc tuổi già bóng xế, những TPB còn lây lắt,mưu sinh giữa dòng đời nghiệt ngã,những người mà máu xương của họ đã tô thắm dãi đất này.
Xin thắp nén nhang, kính cẩn dâng lên các hương hồn những Chiến Sỹ đã hy sinh vì Tổ Quốc. Những Anh Hùng đã âm thầm ngã xuống cho Quê Hương,xin mãi mãi tưởng nhớ và Vinh Danh Các Anh những Chiến Binh can trường ,lẫm liệt,lấy cái chết để bảo toàn Danh Dự.
Những Anh Hùng…
Trời tờ mờ sáng(19-08-2011)chúng tôi rời Saigon trực chỉ Bà Rịa- Vũng Tàu,đến nơi Các Anh yên nghĩ trong khu vườn nhà của Ông Hai Lì thuộc Thị Xã Bà Rịa-Vũng Tàu ,tỉnh BàRịa- Vũng Tàu.Đến nơi, mọi người trong Nhóm Bốc Mộ đã hiện hiện đầy đủ, nghi thức cúng vái,cầu xin mọi việc được suông sẻ do Sư Trụ Trì Chùa đảm trách.
Công việc bốc mộ được tiến hành,tất cả mọi người cùng hồi hộp chờ đợi từ nhát cuốc đầu tiên chạm vào ngôi mộ,sau đó hé lộ dần những hình hài của Các Anh đã chôn vùi nơi đây hơn 36 năm dài đằng đẳng…không Quan Tài,mà cũng chẳng có PONCHO bọc xác,chẳng còn gì với cát bụi thời gian, ngoài những mảnh xương tàn,quần áo đã mục nát …chúng tôi cố tìm những mảnh giấy tờ đã được chôn theo Các Anh sau khi đã lượm lặt từng khúc xương còn xót lại,rồi cho vào từng hủ sành,ghi tên Các Anh,gởi vào Chùa và cầu xin cho Các Anh được siêu thoát khỏi chốn dương trần đầy khổ đau,tủi nhục này và điều mong muốn mãnh liệt nhất là thân nhân Các Anh sớm tìm gặp lại Các Anh sau bao năm dài vẳng bặt tin tức…
Trong lúc bốc mộ cũng có một số người dân đến xem tỏ ý thán phục trước tinh thần quả cảm,chiến đấu anh dũng của Các Anh nên đã tình nguyện phụ giúp lúc bốc mộ và Ông Hai Lì cũng xúc động trước tinh thần Đồng Đội của Nhóm Bốc Mộ chúng tôi, sau bao nhiêu năm vẫn còn giữ được tình cảm này,không bao giờ quên nhau,không ngại đường xá xa xôi, khi nhận được tin đã hết lòng lo cho nhau. Sự chân thành của ông làm chúng tôi cũng hãnh diện phần nào vì Các Anh,những Anh Hùng đã ngã xuống cho Quê Hương…nhưng thế Nước,vận Trời đã làm cho chúng ta ly biệt và mãi đến nay mới có cơ hội được Vinh Danh Các Anh.
Tất cả mọi người cùng ứa lệ mừng vui khi tìm được những tấm thẻ bài, giấy tờ, tên tuổi Các Anh …và đây là những vị Anh Hùng của chúng ta:
-Ngôi mộ thứ nhất: Có Thẻ Bài tên TRƯƠNG VI CỬ SQ: 75/115.815 LM:O Nón Sắt,đầu Bút Nịt.
- Ngôi Mộ thứ hai: có Thẻ Bài tên VÕ QUANG HẰNG SQ: 68/123.320 LM:B Nón Sắt, dây nịt.
- Ngôi Mộ thứ ba: (gồm có 02 người) trong đó Một Vô Danh không Thẻ Bài và có Nón Sắt.
** Người thứ hai tên là: có Thẻ Bài tên: TRẦN VĂN HÀ SQ: 67/824.827 LM:O Nón Sắt
Và Một số giấy tờ như: Chứng Chỉ Tốt Nghiệp Nhẩy Dù Khóa 298, mãn khóa ngày 21-04-1973.
02 Quyết Định Thăng Cấp của Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù/Ban 1: do Tr/tá Lê Hồng ký và Th/tá Châu ký.
01 Chứng Chỉ đã học khóa Phòng Hỏa do Trung Tâm Tiếp Vận Vùng 3 ký, cùng một số Hình Ảnh (đã phai mờ theo thời gian)nhưng cũng tạm xem được,có hình đội nón Đỏ,áo Nhẩy Dù.
Những di vật này còn tồn tại là nhờ Ông Hai Lì,đã cẩn thận bọc thêm nhiều lớp bao Nylon và nhét vào một ống nhựa khi chôn,nhờ sự chu đáo của Ông mà hôm nay chúng ta mới đọc được những dòng chử này và chứng tỏ các Anh nằm tại đây là Lính Nhẩy Dù..
The Following 4 Users Say Thank You to Đôla Trăm For This Useful Post:
Wonderful vô cùng thương tiếc các Anh.
Đọc lại chuyện ngày đó..nước mắt tôi còn rơi...
Các anh ơi...các anh mất đi, nhưng tên tuổi và sự hy sinh cao cả của các anh vẫn còn sống, tổ quốc ghi công, toàn dân Việt Nam nhớ ơn các anh và lịch sử sẽ lưu dấu son hồng những người con anh hùng của dân tộc. Cầu xin các anh sớm được siêu thoát, bây giờ chắc các anh đang mĩm cười vì đã gặp được những đồng đội thân thương cùng chiến đấu bên nhau ngày cũ...
Còn gia đình cha mẹ,vợ con và các cháu của các anh bây giờ trong lòng họ vẫn còn tê tái khôn nguôi...................Một nén nhang lòng SJ January 2019.
Last edited by wonderful; 01-15-2019 at 01:02.
The Following 2 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.