![](http://123123up.com/images/84664916329874906880.jpg)
Ảnh minh họa. (Nguồn Internet)
Tổ chức thi quốc gia tuyển sinh đại học 3 chung chỉ là đặc thù của giáo dục Việt Nam hiện tại mà bấy lâu nay một số người vẫn coi đó là đặc sắc Việt Nam chưa muốn từ bỏ.
Sau 12 năm học kể từ lớp 1 tiểu học, học sinh Đức thi rồi nhận bằng Abitur để vào Đại học. Cũng sau 12 năm học kể từ lớp 1, học sinh Việt Nam thi để lấy bằng tốt nghiệp THPT. Nhưng muốn đăng kư vào học năm thứ nhất đại học Đức th́ học sinh Việt Nam phải thành công ở kỳ thi đánh giá tŕnh độ tương đương với học sinh Đức, gọi là kỳ thi Feststellung Sprufung, có nghĩa là bằng THPT của Việt Nam không được coi ngang hàng với bằng Abitur của Đức. Sinh viên Việt Nam sang học đại học ở Đức không phải trả học phí như học ở Mỹ, Anh, Úc. Người Đức cần kỳ thi này để bảo đảm rằng tiền đóng thuế của dân họ dùng viện trợ không hoàn lại cho những người chưa đủ năng lực theo học. Một sự thật đáng buồn!
Trong xă hội học có câu chuyện “Cái tôi trong gương”. Chỉ khi nào ta nh́n thấy rơ ḿnh như soi trong gương th́ ta mới thực sự biết ḿnh xấu hay đẹp, đang hạnh phúc hay đang đau khổ.
Tổ chức thi quốc gia tuyển sinh đại học 3 chung chỉ là đặc thù của giáo dục Việt Nam hiện tại mà bấy lâu nay một số người vẫn coi đó là đặc sắc Việt Nam chưa muốn từ bỏ.
Tại sao vậy? Ngày nay, bất kỳ 1 hệ thống giáo dục của 1 quốc gia phát triển nào cũng bao gồm 3 bậc: Giáo dục tiểu học, giáo dục trung học và giáo dục bậc cao, kể từ đại học trở lên. Giáo dục tiểu học chuẩn bị cho giáo dục trung học. Giáo dục trung học là bước chuẩn bị cho giáo dục bậc cao. Ở các quốc gia phát triển như Phần Lan, Đan Mạch, sau trung học giai đoạn 1 (tương tự THCS của Việt Nam) , học sinh nào không đủ năng lực học tiếp th́ sau kỳ thi trung học giai đoạn 1 đă rẽ sang con đường hướng nghiệp. Số c̣n lại học tiếp trung học giai đoạn 2 (tương tự THPT của Việt Nam) là để chuẩn bị vào đại học.
Nếu chất lượng giáo dục trung học của nước ta được như Phần Lan, ở đó khoảng cách tŕnh độ giữa học sinh được coi là giỏi nhất với học sinh bị coi là yếu nhất không quá 4% (bốn phần trăm) th́ chắc hẳn sau khi đă có kỳ thi tốt nghiệp THPT, không cần đến 1 kỳ thi quốc gia hàng năm tuyển sinh vào đại học 3 chung căng thẳng và tốn kém như hiện nay.
Nhưng ở nước chúng ta th́ ngược lại. Hầu như mọi học sinh đều dàn hàng ngang hành tiến từ lớp 1 lên lớp 12, cùng thi tốt nghiệp THPT, cùng nhận văn bằng tốt nghiệp THPT (đến 99%), để cùng hy vọng vào đại học. C̣n về chất lượng giáo dục trung học phổ thông, nếu dự thi PISA do OCDE tổ chức, chắc học sinh trung học nước ta không thể xếp trên thứ hạng 75 v́ dự thi PISA không thể cầu may, mỗi nước tham gia phải có 5.000 học sinh dự thi mà ngay học sinh Thủ đô đến nay vẫn c̣n nói ngọng.
Do vậy mà số thí sinh dự thi tuyển sinh 3 chung vào đại học năm nào cũng bị loại ngót ngét 70%. Điều này có nghĩa là giáo dục trung học giai đoạn 2 (THPT) của nước ta chưa làm nổi vai tṛ chiếc cầu vững chắc nối với bậc đại học, mặc dầu cả xă hội đă phải tốn kém rất nhiều cho 12 năm học của con em ḿnh.
Có người nói kỳ thi này vẫn là cần thiết để sau khi đă tổ chức thi tốt nghiệp THPT, phải tổng kiểm tra lần cuối chất lượng bậc học THPT, loại bỏ sự lọt lưới những hiện tượng đáng xấu hổ như hiện tượng Đồi Ngô. Quả thật, kỳ thi 3 chung như thế vẫn cần và chỉ cần cho nền giáo dục của Việt Nam hiện tại, c̣n các nước Nhật, Úc, Pháp, Đức, Phần Lan và cả Đan Mạch là quốc gia đang trao đổi kinh nghiệm giáo dục với Việt Nam, không nước nào có kỳ thi như vậy.
Ở các nước đó, bất kỳ ai đă có bằng tốt nghiệp THPT (chẳng hạn bằng Abitur, A- Level ,Baccalauréat...) đều có quyền đăng kư vào học trường đại học tổng hợp (University). Rơ ràng tổ chức kỳ thi tuyển sinh đại học 3 chung của nước ta không phải là một giải pháp sáng tạo đáng tự hào để tiếp tục duy tŕ.
So sánh với các quốc gia có nền giáo dục tiến bộ hơn ta, coi đó là chiếc gương để soi ḿnh, ta mới thấy rơ sự thật này. Đừng trách người Đức khắt khe với học sinh Việt Nam muốn du học Đức. Vậy bao giờ mới bỏ kỳ thi quốc gia tuyển sinh đại học 3 chung căng thẳng, tốn kém như thế? Câu trả lời dứt khoát ra sao c̣n đang chờ ở những người có trọng trách đối với cuộc đổi mới toàn diện và căn bản hệ thống giáo dục quốc gia, trong đó có đổi mới giáo dục trung học, làm sao nâng cao được chất lượng giáo dục trung học, sánh được với các quốc gia phát triển trên thế giới.
Xưng “tôi” gọi “anh/chị”: Thầy e dè, tṛ “ngượng miệng”
Có giảng viên “mạnh dạn” xưng "tôi" gọi "anh/chị" với sinh viên th́ bị phán xét thầy khó tính, lên mặt hoặc tṛ không dám nhận. Việc xưng hô “tôi - anh/chị” thể hiện sự b́nh đẳng, dân chủ ở trường đại học vẫn đang gặp không ít rào cản.
SV “ngượng miệng” xưng “tôi”
Nguyễn Thanh Nh., sinh viên (SV) Trường ĐH Ngân hàng TPHCM cho biết do từng đi thực tập ở công ty từ năm thứ nhất, thứ hai nên Nh. nhận thấy cách xưng hô theo ngôi thứ nhất rất thuận lợi và tạo cho ḿnh sự tin khi trao đổi. Nhưng khi Nh. áp dụng cách xưng hô này ở giảng đường với giảng viên th́ kết quả trái ngược với mong muốn.
![](http://data.vietinfo.eu/News//2012/12/25/181719/1356436801.4455.jpg)
Sinh viên c̣n “ngại miệng” xưng tôi với giảng viên.
Nh. kể: “Khi tôi xưng “tôi” với giảng viên hơn 50 tuổi trong tiết học, các bạn trong lớp đều sững sờ rồi im phăng phắc như thể tôi đang gây ra ǵ vậy. Giảng viên cũng “sựng” lại trong chốc lát, cảm giác không hài ḷng nên không khí trong lớp rất nặng nề. Sau lần đó thấy không ổn nên tôi dùng lại cách gọi thầy xưng em”.
Theo Nh., cách xưng hô này tuy “trôi miệng” nhưng thể hiện sự bị động trong việc tiếp nhận kiến thức của SV, hạn chế sự tương tác nên việc học ở giảng đường vẫn nặng kiểu thầy nói ǵ tṛ biết nấy như bậc phổ thông.
Một SV trường ĐH Mở TPHCM cho biết, cậu từng bị bạn bè đánh giá là “tự tin một cách quá trớn” khi xưng “tôi” với giảng viên. “Cũng v́ cách xưng hô đó, tôi thấy ḿnh cách biệt và không thân thiện với thầy cô so với các SV khác”, cậu SV này cho hay.
Không ít SV bày tỏ, chủ yếu chỉ với môn tiếng Anh, họ sử dụng đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất để trao đổi với giáo viên. C̣n hầu hết ở các môn học khác, SV vẫn xưng “em” thầy, việc xưng “tôi” với thầy cô là rất hiếm. Họ mang nặng tâm lư người nghe (mà ở đây là giảng viên) sẽ khó chịu và phản cảm với cách xưng hô quá ngang hàng của học tṛ.
Ngay cả trong thuyết tŕnh được khuyến khích xưng “tôi” th́ nhiều SV vẫn… “em” v́ họ rất ngại phải mở miệng xưng “tôi”, không riêng ǵ với thầy mà với cả những người lớn tuổi.
“Khi đi làm dù biết rằng ḿnh nên xưng “tôi” để thể hiện bản thân ḿnh nhưng em vẫn không làm nổi v́… ngượng miệng. Cách xưng em tuy nhẹ nhàng nhưng không phù hợp trong môi trường chuyên nghiệp và tương tác cao”, Nguyễn Thùy Anh, cựu SV Trường ĐH KHXH&NV TPHCM cho hay.
Thầy dạn, tṛ lại ngại
Khuyến khích xưng “tôi” với thầy cô, Trường ĐH Hoa Sen đă tổ chức nhiều buổi tọa đàm về xưng hô trong trường học để tiếp thêm sự tự tin trong giao tiếp cho SV. Thậm chí, trường này không sử dụng bục giảng trong lớp học để thu hẹp khoảng cách và tạo sự b́nh đẳng, dân chủ giữa chủ thể dạy và học.
TS Bùi Trân Phượng - hiệu trưởng Trường ĐH Hoa Sen cho hay, cách xưng hô ở trường ĐH hiện nay vẫn thể hiện một quyền lực hay nhiều quyền lực đan xen lẫn nhau lẫn nhau của người dạy.
“Tôi luôn ủng hộ cách xưng hô ở trường ĐH phải có tôn ti, trên dưới nhưng không đè bẹp sức bật của SV. Theo tôi SV nên xưng “tôi” với thầy cô để khẳng định ḿnh trong việc trao đổi kiến thức”, bà Phượng nói.
![](http://data.vietinfo.eu/News//2012/12/25/181719/1356436803.1632.jpg)
Nhiều người cho rằng, việc xưng hô “thầy - em” ở giảng đường chưa thể hiện được vai tṛ, trách nhiệm của chủ thể học tập là SV.
Theo bà Phượng, một rào cản hiện nay trong việc giáo dục kiến thức và nhân cách cho SV ở bậc ĐH là liệu người thầy đă thật sự xem như SV như một đối tượng trưởng thành và thật sự tôn trọng những quyền trưởng thành của SV chưa? Cụ thể trong cách xưng hô, thầy cô đă thật sự chấp nhận với việc xưng “tôi” của SV.
Thực tế, không ít giảng viên “khó chịu” và không bằng ḷng khi thấy SV “xưng” tôi với ḿnh chủ yếu do cách xưng hô truyền thống “thầy - em” từ lâu mà họ trải qua, họ khó chấp nhận được cách gọi "ngang hàng" của SV đối với ḿnh.
“Cách xưng hô “em” với người lớn tuổi hơn của chúng ta có từ lâu đời, trong mọi mối quan hệ như là một nét văn hóa. Nên tôi nghĩ việc việc tṛ xưng "tôi" với thầy rất khó khăn cho cho cả học tṛ và giảng viên”, một giảng viên Trường ĐH Ngân hàng TPHCM bày tỏ.
Tuy nhiên, không ít giảng viên mạnh dạn xưng “tôi” và gọi SV là “anh/chị” khi lên lớp để thể hiện sự b́nh đẳng thầy tṛ lại gặp cản trở từ chính học tṛ.
Thầy Vơ Văn Dân (Trường CĐ Sư phạm B́nh Phước) cho hay trong giao tiếp với SV, thầy đều xưng “tôi” và gọi “anh/chị”. Thời gian đầu nhiều SV phản ứng không dám nhận v́… “thầy làm vậy bọn em tổn thọ”. Có SV c̣n cho rằng thầy khó tính, khó gần hoặc đang hạch sách SV. Chỉ khi thầy giải thích cho SV hiểu lợi ích của việc xưng hô như vậy, SV mới bớt… ngại.
“Tôi ủng hộ tṛ xưng “tôi” với giảng viên v́ khác với bậc phổ thông, chúng ta bước vào giảng đường là để t́m kiếm tri thức chứ không phải để chờ đợi sự che chở. Nhiều người nói cách xưng hô không quan trọng nhưng khi xưng “tôi” cho các em thấy ḿnh có vị thế, trách nhiệm trong mọi việc chứ không phụ thuộc hoàn toàn vào giảng viên. Việc xưng “em” hạ vai tṛ của SV đi rất nhiều”, ông Dân chia sẻ.
“Cách xưng hô thầy - em phổ biến trong trường học ở Việt Namthể hiện người thầy có trách nhiệm về tri thức, về nhân cách của học tṛ. Sự hiểm ngầm về mối quan hệ ấy của người Việt sản sinh ra những cụm từ “thầy nào tṛ ấy, thầy sao tṛ vậy”. Tuy nhiên ở bậc ĐH, sinh viên là chủ thể nghiên cứu nên cách dùng đại từ các bạn hay anh/chị sẽ làm cho thầy và tṛ gần gũi hơn, phát huy được tính chủ động của người học, dễ dàng tiếp cận kiến thức khoa học.
Nhưng có lẽ chúng ta nên linh hoạt chứ không nên quá cứng nhắc trong xưng hô v́ ngôn ngữ Việt Nam rất phong phú. Trong giờ dạy có thể gọi học tṛ là “anh/chị” nhưng khi thầy tṛ trao đổi trực tiếp có thể xưng em để thân thiện hơn” - ThS Lê Hoàng Giang (Trường ĐH Sư phạm TPHCM).
“Chúng ta bàn nhiều đến cách xưng hô ở trường ĐH và ai cũng thấy mặt lợi của việc sử dụng đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất góp phần thể hiện sự dân chủ, tự tin ở trường ĐH. Tuy nhiên hiện nay thầy và tṛ đều ngại xưng “tôi” là do sức “đè” văn hóa, hai bên chưa vượt qua được. Tṛ sợ ḿnh gọi như vậy là hỗn, là thiếu tôn trọng thầy c̣n người thầy cũng sợ ḿnh khác người, sợ SV nghĩ không hay về ḿnh. Theo tôi phải có sự đồng thuận giữa hai bên, giữa các trường để giảng viên và SV hiểu rằng cách xưng hôi “tôi” “anh/chị” là hoàn toàn b́nh thường” - Ông Vơ Văn Dân (Trường CĐ Sư phạm B́nh Phước.
"Cách xưng hô quá nhiều phân cấp văn hóa của Việt Nam đôi khi trở thành rào cản cho môi trường chuyên nghiệp, hợp tác trong công việc như hiện nay. Khoan đă nói đến SV, ngay nhiều bạn đi làm để thể hiện khả năng của ḿnh mà phải đặt nặng vấn đề “gọi” như thế nào cho phù hợp. Theo tôi, cả bên nghe và bên nói phải thật sư cởi mở với nhau và chấp nhận cách gọi “anh - tôi”, kể cả cách biệt tuổi tác. Ở trường ĐH, SV cần phải được làm quen với cách xưng hô “thầy - tôi” để khi đi làm các bạn tự tin hơn” - Phó giám đốc một ngân hàng ở TPHCM.
Nguồn: GDVN/ Dantri