Trong một bài viết về sự lớn mạnh của Hải quân Trung Quốc, Nhóm Đối tác v́ an ninh Mỹ (PSA) đưa ra những đối sách mà Mỹ cần áp dụng.
Tàu sân bay thể hiện sự lớn mạnh của Hải quân Trung Quốc.
Theo PSA, hai thập kỷ qua đă chứng kiến sự chuyển đổi của cán cân quyền lực thế giới và Tổng thống Mỹ Obama buộc phải t́m cách tái cân bằng lực lượng và tập trung vào Vành đai Thái B́nh Dương.
Sự tăng trưởng nhanh chóng to lớn về kinh tế và vị thế nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới đă giúp Trung Quốc có thể phát triển những năng lực quân sự mới và tiên tiến. Năng lực quân sự mới của Trung Quốc sẽ giúp nước này có thêm nhiều sự lựa chọn để giải quyết các cuộc tranh chấp theo hướng có lợi cho ḿnh, khiến mối quan hệ Trung Quốc-Mỹ trở nên phức tạp hơn và có tính ganh đua hơn bao giờ hết.
Mục tiêu ban đầu là Đài Loan
Trước đây Trung Quốc chỉ tập trung sức mạnh quân sự cho các lợi ích trước mắt về lănh thổ, đáng chú ư nhất là Đài Loan. Tuy nhiên, vào thời điểm hiện nay, Trung Quốc đang tăng cường sức mạnh hải quân để phục vụ những lợi ích ở tầm rộng lớn hơn và vươn xa ra bên ngoài lănh thổ của ḿnh.
Trong khi một số nội dung trong phát triển năng lực hải quân của Trung Quốc là có lợi cho Mỹ như các hoạt động ǵn giữ ḥa b́nh quốc tế, chống cướp biển và hoạt động cứu trợ nhân đạo… th́ một số danh mục đầu tư khác của Trung Quốc lại khiến cho Mỹ và các đồng minh khó tiếp cận các vùng biển trong khu vực hơn.
Đến nay, hiện vẫn c̣n chưa rơ Trung Quốc sẽ sử dụng năng lực ngày càng lớn mạnh của ḿnh như thế nào? Liệu hải quân Trung Quốc lớn mạnh là v́ vấn đề Đài Loan, Biển Đông hay v́ các vấn đề cấm phổ biến vũ khí hạt nhân?
Trong vài thập kỷ qua, khúc mắc lớn nhất trong quan hệ Mỹ-Trung là Đài Loan, ḥn đảo mà Trung Quốc tuyên bố thuộc về chủ quyền lănh thổ của ḿnh.
Tuy nhiên, kể từ năm 2008, đă có hai diễn tiến quan trọng trong vấn đề này: cuộc bầu cử của Tổng thống Mă Anh Cửu, người ngày càng thân mật với Trung Quốc hơn và bài phát biểu của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào kêu gọi nh́n nhận một cách linh hoạt về vị thế quốc tế của Đài Loan. Kết quả là Đài Loan được gia nhập vào Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) với tư cách quan sát viên, theo sự chấp thuận của Trung Quốc.
Tuy nhiên, do tăng cường sức mạnh hải quân, nên Trung Quốc ngày càng dễ dàng sử dụng các hệ thống chống tiếp cận mới tiên tiến (area denial) hoặc là để chống lại Đài Loan hoặc là để pḥng ngừa Mỹ trợ giúp Đài Loan trong trường hợp xảy ra xung đột quân sự. T́nh h́nh đó khiến mối quan hệ Đài Loan, Trung Quốc và Mỹ trở nên phức tạp hơn.
Thêm vào đó, Trung Quốc đă bố trí hơn 1.000 tên lửa nhắm vào Đài Loan, thể hiện quyết tâm kiểm soát ḥn đảo này và đây có thể trở thành điểm nóng xung đột giữa Mỹ và Trung Quốc trong tương lai.
Tham vọng ngày càng lớn của Trung Quốc
Chỉ trong một thập kỷ qua, ngân sách quốc pḥng chính thức của Trung Quốc đă tăng hơn 339%. Trong khi đó ngân sách quốc pḥng của Mỹ chỉ tăng 70%.
Sự xuất hiện của các tên lửa đạn đạo chống tàu và tàu ngầm mới, việc các tàu cũ được hiện đại hóa cùng sự cải thiện lớn về chất lượng nhân sự, các cuộc diễn tập và vận tải quân sự cho thấy Trung Quốc đang theo đuổi những tham vọng chủ quyền lớn hơn.
Ví dụ như, nếu xảy ra một cuộc xung đột với Đài Loan th́ tàu sân bay có thể có tác dụng, nhưng do Đài Loan ở gần đại lục nên Trung Quốc chỉ cần điều máy bay trực tiếp từ đất liền. Do đó, tàu sân bay có giá trị hơn nếu thực hiện các dự án giúp mở rộng quyền lực Trung Quốc ra xa hơn Đài Loan.
Trung Quốc cũng đă mua các tàu khu trục loại Sovremenny và triển khai các tàu khu trục cũng như tàu chiến kiểu mới. Không chỉ có vậy, Trung Quốc c̣n tập trung vào nâng cao năng lực tự chế tạo. Tàu chiến của Trung Quốc có các hệ thống tương tự với các hệ thống Aegis đời đầu và các tàu khu trục loại Luyang-II có tên lửa dẫn đường có thể phô diễn sức mạnh khủng khiếp của ḿnh trước các nước láng giềng.
Thêm vào đó, Bộ quốc pḥng Mỹ tin rằng Trung Quốc đă có một thiết kế tên lửa đạn đạo chống hạm khá tốt có thể hủy hoại tàu sân bay của Mỹ và nước này cũng đang chế tạo các phương tiện không người lái dưới nước.
Rơ ràng là chỉ cần nh́n lướt qua cũng đủ thấy các chương tŕnh hiện đại hóa và nâng cao năng lực quân sự, đặc biệt là hải quân, của Trung Quốc trở thành mối lo ngại của Mỹ và các nước láng giềng.
Trên thực tế, cuộc đối đầu vừa qua giữa Trung Quốc và Philippines là ví dụ mới nhất cho thấy sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc về các tuyên bố chủ quyền trên biển. Trong hội nghị thượng định ASEAN vừa qua, Trung Quốc cũng t́m cách để vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông không được đưa ra bàn bạc chính thức.
Việc Trung Quốc thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa” trên Biển Đông, điều 3 tàu đến vùng biển tranh chấp trên biển Hoa Đông bất chấp sự phản đối của Nhật Bản và hơn 20 vụ việc nghiêm trọng khác ở Biển Đông trong 3 năm qua đă cho dư luận nhận ra những tham vọng của Trung Quốc cũng như nguy cơ xảy ra xung đột trong khu vực.
Mỹ cần có chiến lược đáp trả thế nào?
Với t́nh h́nh năng lực quân sự của Trung Quốc vươn lên tầm cao mới và những nỗ lực vừa qua của nước này nhằm củng cố các tuyên bố chủ quyền của ḿnh, an ninh hàng hải sẽ khó có thể được đảm bảo nếu Mỹ không có một chiến lược dài hạn rơ ràng.
Bất kỳ chính sách dài hạn nào về chiến lược hải quân của Mỹ nhắm đến Trung Quốc đều nên tập trung vào 4 yếu tố then chốt: dùng sức mạnh để giữ ḥa b́nh, đảm bảo và mở rộng quan hệ đồng minh trong khu vực, củng cố cấu trúc của khu vực và tăng cường quan hệ Mỹ-Trung.
Xét về yếu tố “dùng sức mạnh để ǵn giữ ḥa b́nh”, điều quan trọng là chính quyền Obama và chính quyền tương lai phải tiếp tục áp dụng các biện pháp mạnh mẽ để bảo vệ và cùng cố năng lực của Hải quân Mỹ, ngay cả trong thời ḱ “thắt lưng, buộc bụng”.
Các kế hoạch phát triển tàu chiến phải tập trung vào chế tạo những con tàu có thể thực thi chiến lược hải - không chiến.
Thứ nhất, chiến lược hải- không chiến là ư niệm tập trung vào “tấn công có chiều sâu, theo mạng lưới và tích hợp để chặn đứt, phá hủy và đánh bại mối đe dọa chống tiếp cận/phong tỏa AD/A2”. Điều cần thiết thực hiện ư niệm này là các lực lượng như không quân và các công cụ khác như chiến tranh mạng cần phải được coi trọng trong thời kỳ nguồn lực hạn chế như hiện nay.
Thứ hai, các nhà làm chính sách cũng cần phải cam kết duy tŕ qui mô hiện nay của hạm đội hải quân Mỹ đồng thời củng cố thêm năng lực của hạm đội. Để thực hiện điều đó, cần phải tiếp tục triển khai 11 tàu sân bay, hỗ trợ cho việc xây dựng và chế tạo tàu ngầm tấn công, các tên lửa hành tŕnh mới và đa năng hơn có thể phóng từ nhiều loại bệ khác nhau và chế tạo các tàu khu trục có trang bị hệ thống ra đa Aegis.
Chiến lược "dùng sức mạnh ǵn giữ ḥa b́nh" cũng có thể đ̣i hỏi phải hành động vượt ra ngoài khía cạnh hải quân thông thường và thực hiện bằng cách phân bổ các lực lượng ở Tây Thái B́nh Dương ở qui mô rộng hơn và linh hoạt hơn. Các ví dụ cụ thể của chiến lược này có thể thấy ở thỏa thuận vừa qua với Australia về việc triển khai 2.500 lính thủy đánh bộ Mỹ ở gần Darwin, đồn trú luân phiên ở Singapore và tăng cường hoạt động huấn luyện và hợp tác quân sự với Philippines.
Một chính sách đúng đắn để đối phó với sự vươn lên của Hải quân Trung Quốc không thể chỉ dựa vào chạy đua vũ trang.
Khu vực châu Á-Thái B́nh Dương là khu vực mà Mỹ có tới 5 đồng minh quân sự gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines, Thái Lan và Australia. Điều đó giúp Mỹ có sẵn nền tảng để củng cố năng lực của ḿnh. Các quốc gia này đều ngày càng lo sợ sự hiếu chiến ngày càng tăng của Trung Quốc và đều hoan nghênh chiến lược lấy châu Á làm trọng tâm của Mỹ.
Thêm vào đó, trong những năm gần đây Mỹ đă thiết lập quan hệ đối tác về ngoại giao và chiến lược với một số nước trong khu vực gồm Việt Nam, Indonesia, Singapore và Ấn Độ. Các hoạt động hợp tác như hỗ trợ an ninh, tập trận chung, trao đổi và đào tạo nhân sự cần phải được tăng cường.
Mỹ cũng có thể giúp cung cấp các hệ thống vũ khí quốc pḥng, như hệ thống ra đa tiên tiến, các tên lửa chống máy bay và chống tàu hiện đại và các hệ thống chỉ huy giúp các nước nhỏ có thể thực hiện chiến lược ngăn chặn tiếp cận/phong tỏa hiệu quả hơn để đối phó với Trung Quốc.
Mỹ cũng cần phải thể hiện vai tṛ tích cực hơn, và nếu cần thiết phải lớn hơn nữa, trong việc thúc đẩy sự lớn mạnh của các diễn đàn đa phương trong phu vực như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS) cũng như xây dựng các mối quan hệ kinh tế song phương và đa phương. Khi đó, Mỹ sẽ giúp xây dựng một cấu trúc cho khu vực, theo đó mỗi quốc gia kể cả Trung Quốc, sẽ được khuyến khích làm theo các luật lệ chứ không t́m cách giải quyết bất kỳ vấn đề ǵ bằng biện pháp quân sự.
Điều quan trọng là các vấn đề hiện nay: từ an ninh hàng hải, cấm phổ biến vũ khí cho tới tự do hóa thương mại và đầu tư trong khu vực… phải được giải quyết ở cấp đa phương.
Các nhà làm chính sách và ngoại giao Mỹ cũng phải có quan hệ trực tiếp hơn với Trung Quốc và đảm bảo với Bắc Kinh rằng lợi ích của Mỹ trong khu vực ngày càng gia tăng không nên được Trung Quốc nh́n nhận với thái độ thù địch.
Xét đến cùng, Mỹ và khu vực châu Á-Thái B́nh Dương sẽ cần phải t́m ra một vị trí lớn trong cấu trúc khu vực dành cho Trung Quốc.
PSA cho rằng tuy nhiên, Mỹ không thể dựa vào ḷng nhân từ của Trung Quốc để mở một con đường ḥa b́nh đến an ninh và thịnh vượng. Các nhà làm chính sách Mỹ phải tiếp tục chiến lược trọng tâm của ḿnh, củng cố năng lực của các đồng minh, tăng cường hỗ trợ hải quân cùng các cơ sở hậu cần để Mỹ có thể hành động quân sự trong trường hợp cần thiết./.
Theo infonet