Nếu bảo tiền không mua được hạnh phúc cũng không hoàn toàn đúng. Có thể mua được, có điều cần phải biết mua nó ở đâu và mua với giá bao nhiêu.
Một sự mua bán như thế này phải mang lại cho chúng ta thứ tài sản để chúng ta sử dụng lâu dài , chẳng hạnh như để xây dựng cho mình một vị trí trong xã hội.
Tập thể các nhà tâm lý học, nhân chúng học và các chuyên gia nghiên cứu về sự sống của con người trên trái đất cũng như các nhà sử học hiện nay chưa đạt được thành công trong việc tìm ra một nền văn hóa trong đó các thành viên của nó hy sinh những tâm trạng tốt vì một tâm trạng xấu, đặt bất hạnh lên trên hạnh phúc. Tập thể các nhà tâm lý học và thần kinh học cho đến nay cũng chưa thành công trong việc tìm ra trong trí óc và trong bộ não trung tâm điều hành các xúc cảm, suy nghĩ và thái độ của con người. Mặc dù mỗi người chúng ta đều có cảm giác rằng một trung tâm như thế này tồn tại và nhờ sự trung gian của nó chúng ta điều khiển cuộc sống của mình, mà thực sự cuộc sống được điều khiển thông qua các quá trình của bộ não mà bản thân chúng ta không trực tiếp tiếp cận được. Cảm giác hạnh phúc chính là sản phẩm của các quá trình trí óc mà chúng ta không vươn tới được ấy.
Chúng ta thích được là người hạnh phúc, sung sướng. Còn khi chúng ta phải chịu cảm giác bất hạnh, chúng ta bổ đi tìm sự giúp đỡ, hỗ trợ. Hạnh phúc là một trạng thái rất có giá trị, nhưng bỏ ra cả một cuộc đời để tìm kiếm hạnh phúc có lẽ là một trong những thứ ngốc nghếch nhất mà con người có thể làm. Tướng Pháp Charles de Gaulle, khi được một nhà báo hỏi về việc ông có vươn tới hạnh phúc không, ông đã trả lời không do dự: „Ông định coi tôi là thằng ngu hay sao?”. Cảm giác hạnh phúc là một cái gì đó kiểu như kim chỉ hướng mang tính nội tại được phần lý trí của nó đưa ra một cách vô thức, chỉ cho ta thấy là chúng ta đang đi đúng hướng. Đang đi đúng hướng cuộc đời. Mặc dù chúng ta không biết cái trí tuệ vô thức hoạt động thế nào trong những bối cảnh cụ thể, chúng ta vẫn biết tương đối rõ cái gì nó coi là tốt.
Cảm giác hạnh phúc, nói chung, đó là ý thức rằng ta đang có đầy đủ mọi phương tiện để hiện thực hóa những nhu cầu và mục đích quan trọng của mình, đồng thời có đủ khả năng để vươn tới chúng. Trong một tương lai xa những người quả thật bất hạnh là những người không được đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất của cuộc sống: một mái nhà che đầu và một ít lương thực trong nồi. Những người vô gia cư và những người đói bụng chắc chắn không phải là những người hạnh phúc, tất cả những người còn lại là những người hạnh phúc, ở mức độ khác nhau. Cảm giác hạnh phúc trọn vẹn gắn với trạng thái được đáp ứng hoàn toàn về các nhu cầu: vị trí xã hội, tự đánh giá tốt về bản thân mình, có ảnh hưởng đến môi trường xung quanh về mặt lý học và kiểm soát bản thân, hiểu được những người xung quanh, tin tưởng vào những người gần gũi nhất và hài lòng về quan hệ tình dục. Sự sung sướng còn tiếp thêm cho chúng ta cảm giác mình đang tiến gần đến việc hiện thực hóa những mục tiêu và kế hoạch của mình.
Khi sự tích cực của cái đầu óc mang nặng chất lý trí không áp đặt bộ óc mang tính máy móc những mục tiêu và kế hoạch của mình, cảm giác hạnh phúc có thể chỉ là điều đơn giản: ta đang đến với những đứa cháu đáng yêu, ta đã giảm được lớp mỡ dưới bụng (trong trường hợp những người đàn ông) hoặc ở hông (trong trường hợp người phụ nữ), đang đi đến một nhóm những người thiện chí hoặc những người chúng ta dễ dàng sai khiến. Nhưng phần lý trí của bộ não chúng ta nói chung có thể muốn hầu như tất cả: dân chủ và hòa bình trên thế giới, thay đổi chính phủ, thậm chí hạnh phúc vĩnh cửu cho tất cả mọi người. Khi xuất hiện những mong muốn loại này, chúng trở thành tiêu chí bình đẳng để đánh giá mức độ hạnh phúc đã đạt được thông qua phần trí óc vô thức. Quả thật người ta có thể trở nên bất hạnh vì những bất hạnh của người khác và cảm thấy phấn chấn tột bậc vì lý do ở Nam Phi nạn phân biệt chủng tộc đã bị loại bỏ khỏi đời sống đất nước. Và niềm hạnh phúc đó cũng lớn lao chẳng khác gì niềm vui từ sự tốt đẹp của đời sống vợ chồng, niềm vui từ sự thăng tiến trong nghề nghiệp hay từ cuộc gặp mặt vui vẻ với bạn bè. Hạnh phúc duy nhất mà chúng ta không thể thụ hưởng đó là hạnh phúc có được vì lý do ta là người hạnh phúc.

Hạnh phúc, hạnh phúc là trên hết
Tại một trường học ở Anh, người ta đưa vào chương trình giảng dạy môn học về hạnh phúc. Học sinh được học về chuyện làm thế nào để làm chủ xúc cảm, quan tâm đến sự lành mạnh về tâm sinh lý, xây dựng các mối quan hệ tốt, thế nào là có chính kiến và thể hiện thẳng thắn ý kiến của mình, làm thế nào để học được và tận dụng những điều này, v.v...
Những bài học về hạnh phúc có những ưu điểm của nó – làm tăng năng lực tự điều chỉnh bản thân và năng lực xã hội của sinh viên, nhưng chúng cũng có thể có những hậu quả tiêu cực, bởi vì ngay bản thân chuyện gọi tên chúng là môn học về hạnh phúc cũng là cách gợi ý rằng vươn tới hạnh phúc là mục tiêu của cuộc đời và hành động của con người. Mà biến hạnh phúc thành mục đích của cuộc đời là điều có thể thật sự chứa đựng nguy cơ. Thứ nhất, trong cuộc chạy theo hạnh phúc một cách vô vọng, chúng ta coi những người xung quanh là công cụ, là phương tiện phục vụ chúng ta trên con đường vươn tới hạnh phúc của mình. Mục đích bắt đầu lý giải phương tiện. Chúng ta huy động chúng một cách không thương tiếc chỉ nhằm mục đích có được cảm giác hài lòng thoảng qua. Thứ hai, chúng ta có thể phụ thuộc một cách nặng nề vào mong muốn vươn tới hạnh phúc. Trong các phòng thí nghiệm hóa học trên khắp thế giới, hàng ngàn nhà nghiên cứu đang làm việc say sưa nhằm tìm ra một loại thuốc viên đem lại hạnh phúc khi uống. Cũng trong thời gian đó, tại những nhà máy hoạt động hợp pháp có và hoạt động bất hợp pháp có, hàng triệu liều thuốc dùng hóa chất được sản xuất ra cũng với hy vọng cải thiện tâm trạng con người. Hàng triệu người Mỹ và càng ngày càng có nhiều người Ba Lan ngày ngày sử dụng thuốc chống chán chường, chống histamin, thuốc trợ tim và thuốc chống sự nhậy cảm quá mức, mặc dù họ chẳng hề mắc một căn bệnh nào trong số những căn bệnh kể trên. Họ uống thuốc chỉ vì họ muốn tâm trạng mình tốt hơn, tất cả các loại thuốc trên đây đều là thuốc hợp pháp, một số loại bán không cần kê đơn. Các loại ma túy cũng cho kết quả tương tự, chỉ có điều là chúng hiệu quả hơn. Tất nhiên ma túy có những phản ứng phụ đe dọa đến tính mạng con người, nhưng dược phẩm hợp pháp cũng không phải không mang dáng dấp tử thần. Về mặt lâu dài, những phản ứng phụ sẽ gây cản trở cho khả năng vươn tới hạnh phúc một cách tự nhiên, chẳng hạn như các loại thuốc kích thích hoạt động tình dục sẽ làm mất chức năng tình dục và ham muốn ân ái ở con người. Vậy thì hạnh phúc thật sự nên tìm ở đâu? Cái gì có thể đem lại hạnh phúc?

"Có tiền mua tiên cũng được"
Nói một cách chung nhất, nguồn gốc hạnh phúc là một cuộc sống tốt đẹp. Song chúng ta đừng quên rằng sự tốt đẹp của cuộc sống là ngọn đuốc soi sáng mức độ thỏa mãn các nhu và hiện thực hóa kế hoạch. Tiền khi đó là phương tiện thanh toán tổng hợp, có thể „mua tiên cũng được”, nhưng cách nói phổ biến và được coi là „lời hay ý đẹp” từ trước đến nay lại là: tiền không mang lại hạnh phúc. Sự thật không phải vậy, ngược lại hạnh phúc có thể mua được bằng tiền, có điều ta nên biết là mua cái gì để có hạnh phúc và mua ở đâu.
Các công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của mức thu nhập đến cảm giác hạnh phúc đã bộc lộ một sự ngược đời đáng ngạc nhiên. Một mặt các nhà tâm lý học, xã hội học và kinh tế học đã thu thập được những số liệu mang tính thuyết phục cao về vấn đề mặc dù nói chung con người ta càng ngày càng trở nên giàu có nhưng họ lại không cảm thấy hạnh phúc. Bằng chứng hùng hồn của điều ngược đời này là nước Nhật, quốc gia trong những năm 60 của thế kỷ XX được coi là nước rất nghèo, vậy mà trong thập kỷ 80 đã trở nên giàu có – trong vòng 20 năm thu nhập quốc dân tính trên đầu người tăng bốn lần, nhưng mức độ hạnh phúc trung bình của người dân Nhật thì lại không hề thay đổi. Với những gì diễn ra ở Ba Lan, chúng ta cũng gặp hiện tượng tương tự. So với những năm cuối của thời kỳ nhà nước Cộng hòa nhân dân, thu nhập quốc dân tính trên đầu người của Ba Lanhiện nay tăng trên dưới 50 phần trăm, nhưng người Ba Lan nói chung không hạnh phúc hơn cách đây 20 năm. Mặt khác trong các công trình nghiên cứu chi tiết, chẳng hạn mức độ hạnh phúc được đo bằng cái gọi là thang điểm Cantril (trong đó những người tham gia nghiên cứu xác định chất lượng cuộc sống hiện tại của mình thông qua việc sử dụng cách tính điểm 11 bậc hình cái thang, bậc dưới được coi là „cuộc sống tồi tệ nhất mà tôi chờ đợi”) liên quan tương đối chặt chẽ với mức thu nhập. Và trong các công trinh mà các nhà nghiên cứu Ba Lan là Wieslaw Baryla và Bogdan Wojciszke tiến hành bằng phương pháp lựa chọn điển hình vào năm 2004, thành viên của 20 phần trăm số hộ gia đình có thu nhập tính trên đầu người cao nhất, đánh giá cuộc sống của mình cao hơn 2 điểm (tức là 40 phần trăm) so với các thành viên của 20 phần trăm các hộ gia đình có thu nhập tính trên đầu người thấp hơn, điểm đánh giá trung bình là: 6,9 so với 4,9, có tính đến trình độ văn hóa, tuổi, giới tính và nơi cư trú của những người tham gia theo thống kê chung.
Như vậy người giàu có hơn là những người hạnh phúc, nhưng nói chung sự giàu có lên của xã hội không dẫn đến sự gia tăng mức độ hạnh phúc chung. Rõ ràng mức độ gia tăng sự khá giả kéo theo việc xuất hiện trong các gia đình tivi, máy giặt, tủ lạnh, đầu video, máy rửa bát và xe hơi các loại. Tất cả những tài sản này nói một cách khách quan đều góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống, giải phóng con người khỏi những công việc nặng nhọc, gây ức chế, tăng thời gian cho vui chơi giải trí, tăng mức độ ổn định và tăng khả năng tự chủ. Vậy thì tại sao trong những đánh giá chủ quan sự gia tăng chất lượng cuộc sống này lại không góp phần làm tăng cảm giác hạnh phúc chung?
Tất cả đều có thể quen
"Lỗi" lớn nhất thuộc về khả năng vô hạn của con người trong việc thích nghi với những điều kiện không ngừng thay đổi. Cũng như hầu hết các cơ chế tâm lý học, cơ chế thích nghi tỏ ra hữu hiệu khi chúng ta phải đối mặt với một tình huống khó khăn. Khi ta hỏi mọi người xem họ thích gì hơn: chết trong một tai nạn ô tô hay bị chấn thương dẫn đến liệt toàn thân – đại đa số không do dự chọn hả năng thứ nhất. Bị liệt là trạng thái gây lo sợ. Chúng ta không thể hình dung được là chúng ta có thể trở nên hạnh phúc khi chúng ta nằm liệt giường hoặc bị cột chặt vào chiếc xe lăn suốt đời. Nhưng điều đó lại hoàn toàn có thể xảy ra. Chúng ta không đánh giá đúng khả năng vô hạn của mình trong việc hợp lý hóa và thích nghi với tất cả mọi điều. Tất nhiên những người bị liệt toàn thân lúc đầu bao giờ cũng rơi vào trạng thái chán chường tột bậc. Nhưng rồi sau một vài tháng họ lấy lại được ý chí và niềm vui cuộc sống giống như những người hoàn toàn khỏe mạnh.
Nhà vật lý học người Anh Stephen Hawking năm hai mươi tuổi được biết mình bị căn bệnh quái ác là dây thần kinh đi qua các thớ thịt cứ teo dần – mới đầu ở tứ chi, sau đến hệ hô hấp và thực quản. Vậy mà người bệnh này vẫn giữ được sự tỉnh táo hoàn toàn của bộ óc. Stephen Hawking từ nhiều năm nay sống nhờ một thiết bị có tên tiếng Anh là respirator. Ông giao tiếp với môi trường xung quanh nhờ cái máy tính phân tích lời nói. Có thời ông đã nói rằng từ năm 21 tuổi ông không chờ đợi điều gì tốt đẹp cho tương lai của mình. Tất cả những gì sẽ gặp trong tương lai ông đều coi là một loại phần thưởng. Vậy mà ông đã kịp trở nên nổi tiếng với việc tạo nên bước ngoặt vĩ đại trong ngành vũ trụ học và đã viết cuốn sách phổ biến khoa học được nhiều người tìm đọc nhất mọi thời đại, cuốn „Lược sử thời gian. Từ vụ nổ lớn đến những hố đen”.
Chúng ta biết xoay xở với những sự kiện tiêu cực trong đời sống của mình một cách dễ dàng đáng khâm phục, còn với những sự kiện tích cực thì chúng ta quen còn dễ dàng và nhanh chóng hơn nhiều, chẳng hạn như việc trúng xổ số với giá trị lớn về lâu về dài thường gây cho chúng ta điều bất hạnh nhiều hơn là may mắn. Khả năng thích nghi đặc biệt của chúng ta với điều kiện sống giải thích tại sao mức gia tăng tương đối sự khá giả không ảnh hưởng đến mức độ hạnh phúc, nhưng không lý giải tại sao ở một thời điểm và thời gian nhất định những người giàu có là những người hạnh phúc hơn những người nghèo. Điều này được quan điểm cho rằng sự hài lòng về tài sản vật chất phụ thuộc vào cái khung xã hội của điểm xuất phát do nhà kinh tế học Robert Frank thuộc Đại học Cornell đề xuất. Cơ chế ông Fran dự báo sẽ tồn tại làm người ta liên tưởng đến cái cơ chế đang chỉ đạo lĩnh vực vũ trang thế giới. Theo ông Frank, mức độ hạnh phúc chung không gia tăng tỷ lệ với mức độ giàu có của các xã hội, bởi vì những người giàu lên đem lợi nhuận của mình đầu tư cho việc cải thiện địa vị xã hội của mình. Việc làm đó không thể làm gia tăng mức độ hạnh phúc chung, bởi vì cuộc chơi nhằm cải tiến địa vị xã hội là cuộc chơi có tổng số bằng không. Có nghĩa là nếu có người ăn mừng vì giành được đỉnh cao trong tầng bậc xã hội thì điều không thể tránh khỏi là anh ta phải đẩy ai đó xuống hố sâu. Người bị đẩy xuống hố cố gắng tìm mọi cách duy trì địa vị của mình. Kết quả là những khoản chi tiêu lớn chỉ phục vụ mỗi một chuyện là làm sao để không có gì thay đổi. Khi chiến đấu để giành lấy địa vị xã hội cao, con người ta chi ra những khoản tiền khổng lồ cho việc tiêu dùng mang tính phô trương thanh thế. Một chiếc xe thể thao loại sang trọng có thể có giá 100 ngàn đô la, một chiếc đồng hồ đeo tay xịn giá 20 ngàn đôla, còn một đêm ăn ở trong căn hộ khép kín tại khách sạn phải trả tới 2 ngàn đô la. Chỉ với giá bằng một phần mười (trong trường hợp chiếc đồng hồ chỉ cần 500 đô la), ta có thể mua được những vật dụng hay dịch vụ có chức năng và giá trị sử dụng gần như giống hệt. Nếu tất cả mọi người, nhưng phải đúng là tất cả mọi người, bảo nhau chi tiêu ít hơn, và chi tiêu ít hơn thật, thì số tiền dôi ra sẽ vô cùng lớn và chúng có thể được dành cho việc chi tiêu vào những mục đích khác. Trong trường hợp tiền dành cho trang bị vũ khí, chúng có thể được dùng vào việc giúp đỡ những người nghèo khổ nhất thế giới. Trong trường hợp tiền dành cho chi tiêu vào các mặt hàng xa xỉ, những người lẽ ra chi tiêu chúng, có thể làm việc nhằm mục đích kiếm tiền ít hơn, và thời gian đó họ dành riêng cho gia đình và cho bạn bè. Vấn đề là ở chỗ khi tất cả mọi người đều hạn chế chi tiêu thì mỗi một đất nước đơn lẻ hay mỗi một cá nhân đơn lẻ vẫn muốn tăng số tiền mình có để bằng cách đó chiếm ưu thế vượt trội so với người khác. Kết quả là chẳng ai giảm được chi tiêu, thậm chí ngược lại – chi tiêu tăng lên.
Sự giàu có giống như cái đuôi con công
Tại sao mọi người cứ phải chạy đua để giành vị trí cao trong các bảng xếp hạng và cố gắng tạo dựng cho mình một địa vị xã hội thông qua việc chi tiêu mang tính khoe khoang? Trả lời phần đầu của câu hỏi này là lý thuyết về ưu thế do bà Denise Cummins, nhà tâm lý học tiến hóa người Mỹ, xây dựng. Đề xuất của bà dựa trên hai giả thiết cơ bản. Thứ nhất, con người ta, với tư cách động vật mang tính xã hội, tạo nên các nhóm có cơ cấu tầng bậc. Trong các nhóm ấy, những người có địa vị cao thường được hưởng nhiều lợi ích hơn so với những người ở địa vị thấp hơn: được phần nhiều hơn trong các nguồn dự trữ vật chất (chẳng hạn thức ăn) và lợi ích tâm lý (chẳng hạn khả năng góp phần hình thành thực tế và xây dựng cuộc sống riêng của mình), là cái tạo điều kiện tốt cho khả năng tồn tại và thành công trong việc sinh sôi. Thứ hai, bộ não con người được trang bị những môđun chuyên dụng cho phép hành chức một cách thuần thục trong các nhóm đã được phân cấp. Các môđun này xoay xở tốt trong việc nắm vững những quy định cho phép (chẳng hạn ai được phép vào ngôi nhà chung dùng để tụ họp), quy định trách nhiệm (chẳng hạn ai có nhiệm vụ giúp đỡ ai trong tình hình nảy sinh mâu thuẫn) và quy định về cấm đoán (chẳng hạn ai không được phép sờ tay vào đồ ăn). Kết quả một số công trình nghiên cứu đã cung cấp thêm thông tin để khẳng định tính đúng đắn của lý thuyết về ưu thế, chẳng hạn các công trình nghiên cứu chỉ ra rằng những đứa trẻ lên ba đã có thể hiểu rõ các vấn đề liên quan đến sự hành chức của phân cấp xã hội và các công trình nghiên cứu chỉ ra rằng con người ta có xu hướng tự nhiên là nhớ mặt những kẻ lừa đảo thuộc vị trí xã hội thấp kém tốt hơn, còn khi được yêu cầu tưởng tượng ra bản thân mình ở những vị trí cao trong nhóm và được đặt trước nhiệm vụ phải tìm ra tội phạm thì họ đi tìm chúng trước tiên trong số những người thuộc địa vị xã hội thấp trong bảng xếp hạng. Nói chung dưới ánh sáng của lý thuyết ưu thế và của các công trình nghiên cứu có xu hướng ủng hộ nó, có địa vị xã hội cao bao giờ cũng tốt hơn bị đặt ở vị trí xã hội thấp.