Nhiều lần bị kẻ trộm lặng lẽ khuân đi nhưng cứ đến ranh  giới xã là chiếc chuông bỗng trở nên nặng cả ngàn cân khiến những tên  trộm sợ hãi vứt chuông mà chạy. Câu chuyện về “báu vật không thể bị mất  cắp” của người dân xã Tân Phong (Hòa Bình) là chuyện thật mà cứ ngỡ như  bịa...
 
 “Báu vật không thể mất cắp”
  Anh Bùi Văn Nui, Trưởng công an xã Tân   Phong, huyện Cao Phong dẫn chúng tôi vào thăm chiếc chuông là “tang vật”   của những vụ trộm giờ đang nằm lặng im trong một góc trang trọng của   trụ sở làm việc. “Báu vật” của địa phương này được đúc bằng đồng, có   chiều cao khoảng 1m, rộng khoảng 0,5m, phần quai chuông là một con rồng   chạm khắc cầu kỳ, trên thân chuông là những hình chạm khắc tinh xảo   khác. Sau những lần bị “đạo tặc” ăn trộm bất thành, chiếc chuông vì chưa   có một nơi chính thức trang trọng để đặt nên công an xã quyết định cho   “ngự” tại trụ sở làm việc.
  Cụ Bùi Văn Ểu, một trong những cao niên   nhất xã Tân Phong biết, ngày xưa chuông được đặt tại một ngôi chùa lớn   nhất vùng có tên Khai An. Chùa được xây dựng từ thế kỷ 17, nổi tiếng   linh thiêng, là nơi các Phật tử thường đổ về vãn cảnh, cứ ngày rằm, mồng   một là sân chùa chật ních người. Những năm 1950 của thế kỷ trước, một   số quan lang đạo tay sai của thực dân Pháp đã dỡ bỏ ngôi chùa bất chấp   sự phản đối của người dân trong vùng. Gạch đá của chùa được sử dụng vào   việc khác, chỉ có duy nhất chiếc chuông được giao cho người dân, có lẽ   vì chúng sợ chiếc chuông linh thiêng nên không dám mang đi.
  
                            |  | 
                      | Chiếc chuông bí ẩn đang được lưu giữ tại công an xã Tân Phong. | 
      
  Miền Bắc được giải phóng khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp, chiếc  chuông  được giao cho Hợp tác xã quản lý. Ngày xưa, con rồng trên quai  chuông  còn có ngậm một hòn đá quý lấp lánh bằng viên bi ve. Nhiều người  bảo  viên đó bằng vàng, có người bảo đó là bằng ngọc quý, cứ càng lau  sạch  thì viên bi đó càng lấp lánh. Khi đưa về Hợp tác xã, chiếc chuông  được  sử dụng thay kẻng báo giờ cho mọi người biết giờ giấc đi làm và  thời  gian nghỉ làm. Mỗi lần chuông được đánh, âm của nó vang vọng khắp  vùng.  “Hồi chuông cuối cùng dứt còn vọng vào không gian, hơn 10 phút  sau mới  ngừng hẳn”, cụ Ểu thuật lại.
  Bao thế hệ của người dân trong xã coi   tiếng chuông thân quen như một phần cuộc sống của mình, mỗi khi đi xa   trở về, người nào cũng nhắc đến việc: “Chuông chùa ngày xưa ra sao?”.
 
  Sáng một ngày cuối mùa đông năm 1976,   trời rét căm căm chẳng ai muốn ra khỏi nhà. Khi người đánh kẻng thức   dậy, định đánh chuông báo giờ làm thì giật mình phát hiện “báu vật của   làng” đã “không cánh mà bay”. Người ta nghĩ ngay đến chuyện chuông bị   những kẻ trộm khuân đi bán đồ cổ. Cả xã phân công nhau đi tìm, rồi báo   công an huyện. Sau hai ngày đi tìm, mọi người vẫn không phát hiện dấu   tích của chiếc chuông. Dân làng buồn rầu nghĩ: “Chiếc chuông bị mất thật   rồi”.
  Ít ngày sau đó, đám trẻ chăn trâu phát   hiện một đống cỏ, lá cây che đậy cẩn thận ở giao thông hào giáp với đất   của nông trường Cao Phong, cũng là ranh giới của xã với xã khác. Con  hào  này vốn được đào sâu hơn 1m để ngăn trâu, bò của xã không vượt sang   được vườn cam của nông trường kề bên.
  Anh Bùi Văn Lý (ngụ xóm Quyền, ngày đó   là cậu bé chăn trâu phát hiện ra chiếc chuông) kể lại: “Lúc lấy chuông   thì nhiều người phát hiện xung quanh khu vực có nhiều vết chân in sâu   vào trong đất, nhiều vết đổ rạp của cây cỏ xung quanh như dấu tích một   cuộc vật lộn giằng co quyết liệt. Vậy nhưng khi dân làng mang chuông về   thì chỉ cần hai người vác mà cứ đi băng băng, có người mang cân thử thì   thấy chính xác là nặng 80kg. Vậy mà chẳng hiểu sao nhóm trộm lại không   mang đi được?”.
  Khi mang chuồng về nơi cũ, mọi người để ý   mới biết viên ngọc mà con rồng ngậm đã bị trộm đập lấy đi. Chiếc  chuông  lại được treo về chỗ cũ làm kẻng báo thức. Dân làng nghĩ rằng  chiếc  chuông đã mất “trang sức quý” là viên ngọc con rồng ngậm thì chắc  không  còn nhiều giá trị, chắc kẻ trộm sẽ không còn nhòm ngó.
 
  
Trả giá cho tội trộm chuông chùa
  Vậy nhưng mọi người đã nhầm. Không hiểu   chiếc chuông có giá trị gì mà hai năm sau, sáng một ngày đầu năm 1978   chiếc chuông lại bị những kẻ xấu rắp tâm trộm cắp. Cả xã nháo nhác đi   tìm, rồi thăm dò những người chuyên buôn đồ cổ ở trong vùng và cả thị xã   Hoà Bình nhưng tuyệt nhiên không ai có tin tức gì. Lần này nhiều người  nghĩ chắc chuông mất thật rồi, nhóm trộm đã quyết tâm lấy đi thì khó mà  có thể tìm lại được.
  3 ngày sau đó, một sự thần kỳ lại lặp   lại, vẫn là những trẻ trâu tình cờ tìm thấy chiếc chuông bị đánh cắp.   Lần này chiếc chuông cũng được giấu kín trong bụi cây dưới hào, cách khu   vực 2 năm về trước khoảng 100m. Cũng như lần trước, người ta thấy lạ   khi chiều sâu của giao thông hào không quá sâu nhưng những kẻ trộm không   thể khuân chuông đưa sang bờ hào bên kia, cũng là phần đất của xã  khác.
  Và cũng như lần trước, xung quanh chiếc   chuông có nhiều nốt chân in sâu vào đất, những vết rạp của cỏ cây,  chiếc  chuông thì lún hẳn xuống đất tựa như có vật nặng ngàn cân đè lên.  Công  an nhận định kẻ trộm đã rất vất vả khi định khiêng chuông đi  nhưng không  thể di chuyển được nên đành giấu lại. Người dân xôn xao:  “Đó là bảo vật  của chùa, của vùng đất này thì chẳng ai có thể mang nó  đi đâu được”.
 
  Một số dấu vết, vật chứng để lại hiện   trường khiến công an xác định ra 3 nghi phạm trộm chuông là những người ở   xã bên, cách xã Tân Phong khoảng 10km. Tuy nhiên, các cụ trong thôn   trước sự việc này thì đã họp bàn và quyết định đề nghị cơ quan chức năng   thôi không điều tra tiếp.
  “Chuông không mất, kẻ trộm chắc đã sợ 
mất mật   nên mọi người cũng không muốn làm lớn chuyện mà dễ gây hằn thù”, cụ Ểu   cho hay. Sau nhưng trong 3 năm sau đó, người ta thấy những chuyện lạ  xảy  ra với họ khi lần lượt từng người đều theo nhau chết “bất đắc kỳ  tử”.
  Người đầu tiên vào trong rừng chặt   củi thì bị một con rắn hổ mang chì cắn chết ngay tại chỗ. Người thứ hai   leo lên núi lấy sa nhân thì trượt chân ngã chết. Rồi người thứ 3 đi ăn   trộm thì bị chủ nhà đánh đến chết. “Chuyện những người đó có chính là   những người trộm chuông hay không thì không có chứng cứ, nhưng câu   chuyện chết thảm của họ thì là bài học cho những người cả gan dám xâm   phạm đến những điều thiêng liêng của cha ông để lại, của dân làng”, cụ   Ểu nói.
 
  
Bí ẩn chờ “giải mã”
  Vị Trưởng công an xã vừa nâng niu những   dòng chữ trên chuông, vừa luôn miệng tiếc nuối: “Tiếc quá các anh ạ!”.   Chuyện là vào khoảng những năm 1986, có một trận mưa to ập đến trút  nước  khiến đập giữ nước của xã bị vỡ. Thấy tình hình nguy cấp, người ta  vác…  búa tạ ra gõ chuông để mong tiếng kêu to hơn báo động cho người  dân ra  ứng cứu. Chuông không hề hấn sứt mẻ gì, nhưng nhờ tiếng chuông  chùa báo  động mà dân làng tránh được thảm họa và sau lần đó, tiếng  chuông nghe  không còn được vang như trước.
  Chuông đã hoàn thành trách nhiệm cất   tiếng vui buồn với người dân, nay được gìn giữ như một báu vật của làng.   Ông Bùi Văn Yển, Bí thư đảng uỷ xã Tân Phong cho biết: “Trong danh  sách  xây dựng cơ bản của huyện Cao Phong trong năm 2012 tới đã có danh  sách  khôi phục lại ngôi chùa và chiếc chuông sẽ được đặt xứng đáng với  vị trí  của nó”.
 
  Vị thạc sĩ Trung văn đi cùng đoàn công   tác chúng tôi sau một hồi quỳ bên chiếc chuông chăm chú đánh vần từng   chữ cổ đã đứng dậy lắc đầu: “Chữ cổ nên giờ ít người biết, chỉ nhận ra   những dòng như tên chuông là Minh Trung Đình của chùa Nhất Huyền Trang,   được đúc vào ngày 26 tháng 3 năm Cảnh Thịnh thứ 8 (khoảng những năm   1790), cạnh đó có ghi một số triết lý nhà Phật, bí quyết đúc chuông để   tiếng chuông có thể vang xa và còn có dòng chữ đại ý chuông này là sự   hòa hợp giữa thần và lòng người”.
  Vậy là những bí ẩn về chiếc chuông đặc   biệt này vẫn còn chờ những nhà nghiên cứu văn hóa tới “giải mã” để người   nay có thể hiểu thêm về những nét văn hóa dân tộc của cha ông ta ngày   xa xưa.