Những ngày này, dư luận rất ngạc nhiên v́ Tổ chức  Bảo tồn động thực vật  hoang dă quốc tế thông báo rằng phát hiện loài  chuột đá được cho là đă  tuyệt chủng cách nay 11 triệu năm ngay tại Vườn  quốc gia Phong Nha -  Kẻ Bàng, Việt Nam.
  Theo  sự kiện này, chúng tôi đă có chuyến thị sát về đồng bào Rục ở xă  miền  núi Thượng Hoá và rất bất ngờ khi biết rằng loài chuột này đă  sống ở đây  từ rất lâu, càng thú vị hơn khi người dân ở đây thường bẫy  được chúng  về ăn và làm... đồ nhậu.
  
 “Th́ ra là con kà nệ khụng”
  
 Vượt qua hơn trăm cây  số, chúng tôi t́m vào bản Ón (xă Thượng Hoá,  Minh Hoá, Quảng B́nh) - nơi  có đồng bào dân tộc Rục sinh sống. Khu rừng  mà người dân phát hiện  chuột đá là một phần trong hơn 20.000ha rừng mở  rộng cho di sản thiên  nhiên thế giới Phong Nha - Kẻ Bàng. Nơi đây chưa  có cuộc điều tra sinh  học nào đáng kể.
  
 Khi biết chúng tôi có ư  định t́m hiểu về loài chuột trong báo cáo của  tổ chức quốc tế là đă  tuyệt chủng 11 triệu năm trước, ông Trần Xuân Tư -  trưởng bản - tỏ vẻ  ngạc nhiên: “Cái con mà họ nói tuyệt chủng chi đó,  th́ ra là con kà nệ  khụng, xưa nay dân bản không biết hắn quư như răng  nhưng vẫn thường bắt  được và làm thịt ăn”. Cách đây mấy ngày, dân bản  Ón rất lấy làm lạ v́  các nhà khoa học t́m về và nghiên cứu loài thú  này.
  
 Họ nói đây là một loài  thú quư hiếm đă tuyệt chủng. Hiện đang có nhiều  trai bản dẫn các nhà  nghiên cứu vào rừng t́m bẫy kà nệ khụng. 
  
 Theo lời của ông Tư,  người Rục trước đây sống ở trong các hang đá  thuộc dăy núi đá vôi trong  vườn quốc gia. Ở đó, thức ăn chính của họ là  một loại lá cây phơi khô  rồi chà nhuyễn nấu lên. C̣n thịt, chủ yếu là  các loại chuột lồ ô, chuột  kà nệ đang, kà nệ coọng và thỉnh thoảng c̣n  bắt được cả kà nệ khụng. 
  
 Khi được đề nghị miêu  tả lại h́nh dáng, đặc điểm của loài thú này ông  Tư nhanh nhảu: “Người  hắn đen tuyền, lông mượt rất đẹp như lông khỉ,  đuôi dài không đến hai  gang tay, tai nó to bằng bề ngang ngón tay nhưng  chiều dài dài hơn đốt  tay, móng chân của nó phát triển như móng chân  mèo quanh có lông mọc  dày”. Rồi ông vội nói mấy người trong bản đi gọi  ngay anh Cao Xuân Chài -  cạnh nhà, người hay đi bẫy chuột ở bản ra để  tiếp chuyện.
  
 

Anh Cao Xuân Chài đặt bẫy kà nệ khụng. Ảnh: L.Đ.Dũng
 Anh Chài sinh năm 1974,  sinh ra và lớn lên trong hang đá nên chuyện  bẫy, bắt chuột rành lắm.  Anh cho biết, loài kà nệ khụng này có lông  mượt, không nhanh nhẹn như  chuột thường nên chỉ sống và t́m thức ăn  quanh hang của ḿnh. Chúng xuất  hiện nhiều vào mùa mưa dông (khoảng  tháng 6 đến tháng 9) và chỉ xuất  hiện vào buổi đêm. 
  
 Ông Cao Xuân Yên là một  trong số những người lớn tuổi trong bản c̣n  chịu khó đi bẫy chuột. Mỗi  ngày ông Yên đặt khoảng gần 100 bẫy treo,  bẫy kẹp. Theo ông, bẫy thú gặm  nhấm rất dễ, nhưng riêng với kà nệ khụng  th́ khó v́ loài này rất khôn.  Nếu để chúng đánh hơi thấy có con người  là coi như hết bẫy, thậm chí  chúng chuyển lên vùng cao hơn ở để tránh  người. “Trước đây th́ có con  nào cả nhà đều dùng để ăn, nhưng giờ có  con sống th́ cũng bán được nên  tui dùng bẫy treo là chủ yếu v́ sợ dùng  bẫy kẹp thú chết ngạt hết” - ông  Yên cho biết. 
  
 Bắt đầu từ buổi sáng,  ông Yên đă lục tục leo lên những lèn đá cao t́m  thu chiến lợi phẩm, sắp  đặt xong xuôi rồi chiều tối về chờ sáng mai lên  lại. Chuột bắt nhiều nên  càng ngày càng ít, có ngày ông chỉ bắt được  dăm ba con, kà nệ khụng th́  ít gặp hơn nhưng thỉnh thoảng vẫn có. “Đi  lèn nhiều nên tui bắt được kà  nệ khụng nhiều lắm, nhưng tui ít ăn v́  thịt nó mềm, đi bẫy về thường  cho trẻ con nướng ăn thôi” - ông Yên kể.
   
 Khi c̣n ở hang đá đă thấy
  
 Anh Chài sinh ra và lớn  lên trong hang đá, cách đây khoảng gần 10 năm,  theo lời kêu gọi của cán  bộ, anh và gia đ́nh mới ra thung lũng an cư  lạc nghiệp. Kinh tế gia  đ́nh chưa ổn định nhiều nên thường ngày anh vẫn  chọn bẫy chuột là nghề  chính. “Tui nỏ (không) biết họ gọi răng, nhưng  khi ở trong hang bọn tui  đă thấy và gọi là con kà nệ khụng, người hắn  mềm, có mùi như mùi con  voọc nên ăn không được ngon cho lắm” - người  đàn ông c̣n vương chút  hoang sơ của bộ lạc sống trong hang sót lại kể.  Rồi anh tiếp: “Thường  một con kà nệ khụng làm ra được 1 đĩa, người làng  thường nấu với ruốc,  riềng, sả (giả cầy) và uống rượu đoác, uống cũng  hợp!”. Theo lời trưởng  bản Tư, khắp vùng núi đá vôi của Phong Nha - Kẻ  Bàng, chỉ mới thấy ở  vùng bản Ón có con kà nệ khụng. Những nơi khác, v́  người ta không sống  trong hang hoặc không để ư khi gặp nên chưa thấy  nói có.
  
 Đặc điểm của loài  chuột này là sạch sẽ, ưa sống nơi yên tĩnh, thường  là trên các lèn đá  cao ít người qua lại. Nó chậm hơn so với loài chuột  thường, lại hiền hơn  và tỏ ra khôn hơn chuột, thịt lại có mùi của khỉ  nên bà con vẫn nghi  ngờ nó là một loài của khỉ. “Nh́n xa th́ giống  chuột, nhưng nh́n kỹ thấy  hắn giống khỉ lắm” - anh Chài phán đoán theo  kinh nghiệm đi bẫy rừng  của ḿnh.
  
 
 Chuột đá kà nệ khụng bắt được tại bản Ón. Ảnh: FFI
  
 Rồi không để phải nghĩ  lâu, anh dẫn chúng tôi leo vào một ngọn núi đá  vôi, nơi anh đặt các bẫy  treo trước cửa hang chuột kà nệ khụng. Chiếc  bẫy được làm rất đơn giản  đặt ngay trước cửa hang gồm một cần dài cắm  thẳng xuống đất, đầu cần cột  một sợi dây và néo vào cánh gạt đặt ở cửa  hang. V́ mới đặt nên khi  chúng tôi lên vẫn chưa có con chuột nào dính  bẫy.
  
 Hầu như khắp bản Ón,  những ai đă đi rừng bẫy chuột đều đă gặp kà nệ  khụng. Khi được kể là nó  được các nhà khoa học cho là tuyệt chủng cách  đây nhiều triệu năm th́ họ  vẫn ngây ngô v́ bao đời nay, người làng vẫn  thấy chúng, bắt chúng và ăn  thịt chúng. Ông Tư cho biết: “Trước giờ,  người dân vẫn bẫy bắt và ăn  thịt chuột như một món quen thuộc, nay nếu  cán bộ nhà nước có tuyên  truyền bảo vệ v́ thấy có lợi ích khoa học nào  đó th́ dân bản sẽ gắng làm  theo, bởi chúng cũng là một loài chuột trên  lèn thôi!”.
  
 Phát hiện của khoa học
  
 Trước đây, các nhà khoa  học thuộc Bảo tàng Tự nhiên khoa học Mỹ từng  phát hiện mẫu hoá thạch  của một loài thú rất lạ có h́nh dạng giống loài  chuột tại một vùng rừng  núi ở Trung Quốc. Qua nghiên cứu, phân tích  khoa học như đo xương, răng,  xác định ADN..., các nhà khoa học xác định  được đây là mẫu hoá thạch  của giai đoạn 11 triệu năm về trước. 
  
 Theo Bách khoa toàn thư  mở Wikipedia: “Chuột núi Lào hoặc kha-nyou  (tên khoa học: Laonastes  aenigmamus, tức là “chuột đá Lào”) là loài gặm  nhấm sống ở miền  Khammouan của Lào. Loài này được miêu tả lần đầu tiên  năm 2005 trong một  bài báo của Paulina Jenkins và một số người khác,  họ nghĩ rằng động vật  này có tính chất khác biệt với các loài gặm nhấm  đang sống đến độ cần  phải đặt nó vào một họ mới, gọi là Laonastidae.
  
 Vào năm 2006, cách phân  loại của loài chuột này bị Mary Dawson và một  số người khác bác bỏ. Họ  cho rằng nó thuộc về họ hoá thạch cổ,  Diatomyidae, trước đây tưởng bị  tuyệt chủng 11 triệu năm trước. Do đó,  loài này tiêu biểu cho đơn vị  phân loại Lazarus. Con này giống với con  chuột lớn có lông đen và đuôi  dày rậm lông. Nó có sọ rất lạ với đặc  điểm khác với các thú vật khác  đang sống”.
  
 Đối chiếu h́nh dáng bên  ngoài của con vật này và hoá thạch được phát  hiện tại Trung Quốc trước  đó, các nhà khoa học khẳng định loài chuột đá  ở Lào thuộc cùng nhóm với  loài thú thuộc họ gặm nhấm trong mẫu hoá  thạch. Ở bản Ón, loài này được  gọi là kà nệ khụng. Đầu tháng 9.2011, Tổ  chức Bảo tồn động thực vật  hoang dă quốc tế (FFI) và nhóm chuyên gia  điều tra đa dạng sinh học của  VN ở Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng  tuyên bố là đă phát hiện loài  này.
  
 
Theo Lê Đ́nh Dũng.Lao động