Không biết bắt   đầu từ thưở nào có một quy-luật hình thành là ở một   thể-chế chính-trị, đều thành lập một lực-lượng để bảo-vệ   mình, lực-lượng đó được gọi là quân-đội.

          Quân-đội sinh ra   từ chế-độ và nó cũng vẽ nên những chân-dung của chế-độ.     Chế-độ tốt sẽ xây-dựng nên một quân-đội tốt. Quân-đội   tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu.  Từ hơn hai nghìn   năm về trước, người lính Việt-Nam với chiếc áo trấn-thủ, mang   gươm giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm vụ giết   thù diệt loạn, bảo quốc an dân, giữ gìn cơ-nghiệp của tiền-nhân.     Trải qua bao thăng trầm của đất nước, hình ảnh của người   lính thay đổi qua bao thời-thế, nhưng trách nhiệm không hề thay đổi.

 Người thanh niên   tuổi trẻ Việt-Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ   đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời   tuyên-thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã trở thành   người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương..

Người   lính với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng in   rõ bóng trên nền trời xanh lơ.  Anh đã bước ra, tay ôm súng   và chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa vòng đất nước đi canh   giữ cho quê hương.           Bắt đầu từ   thập niên 60, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với   những chủ-thuyết ngoại lai, với những xích cồng nô-lệ, đã toan   tính nhuộm đỏ quê-hương. Thì từ đó, người lính đã hiện diện   trong tuyến đầu lửa đạn.  Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô   nặng cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam




           Từ Ấp Bắc,   Đồng Xoài, Bình-Giã...cho tới Tống Lê Chân, An-Lộc, Bình Long,   người lính đã căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời Miền Nam   được yên ấm tự do. Nối gót tiền-nhân, người lính, mỗi người   lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng   đồng, đã đem mỗi một 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm   nẻo đường quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do   được tồn tại.  Để cho người dân quốc gia được sống no ấm   ở hậu phương.
          Những người   dân quốc gia, những người dân quốc gia không hề muốn trở thành   dân Cộng Sản, những người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi   Cộng-Sản tới và núp bóng người lính để được sống an nhàn   ở chốn hậu-phương.  Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ   quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm   của người làm nghề lính, như thể không liên quan gì tới họ.     Và họ tự trấn an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ   buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng.  Vì thế, họ   luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền và tranh đua   đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của người lính.
          Và ở hậu   phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời   gian khổ, và tương lai người lính đếm được trên  từng ngón   tay. Thế nên, người lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc   lỏng.  Bỗng hình như anh cảm thấy mình như người Thượng về   Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người lính và yêu người   lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí   và truyền hình.
          Người lính bị   bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy,   vào văn chương để tự phản bội chính mình, để thoả mãn cho   những kẻ trông con bò để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để   diễn tả chiến trường đỏ lửa.  Người lính trên trang giấy   ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và   ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy   say, và càng say càng đập phá.  Người lính xuất hiện trên sân   khấu thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn.  Anh mặc   đồ trận mới toanh còn nguyên nếp gấp,  ngọt ngào chót lưỡi   đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái tình.  Và người yêu của anh   lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy,   thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi.  Như vậy thì quá   mỉa mai cho cái gọi là Anh trai tiền tuyến, Em gái hậu phương. Trong khi   đó, ở ngoài đời những người vợ lính là những người chống   giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương.
          Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội,   hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước.     Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để   lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu   trằn trọc.  Đó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn   vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô. Trong   nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn   gắng vượt qua để cho người  chồng an tâm cầm súng.   Để   anh, người lính, anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đãi phủ   phàng, anh vẫn đi và vẫn  sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa   muôn ngàn thù địch.
          Ở chiến   trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác, ở hậu phương anh bị   ghét bỏ khinh khi, trên đầu anh có lãnh đạo tồi, sẵn sàng dẫm   xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để cầu   lợi an thân.  Những người dân của anh, những người anh hy   sinh để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm   nhiên để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân.  Những người   dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở hậu   phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền sống, trong đó   không bao gồm quyền sống của anh.  Những kẻ để trái tim rung   động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước   sự ngã xuống của anh.  A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại   quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định, mù quáng   trong định kiến.  Tất cả vây quanh anh để tặng cho anh những đòn   chí tử.   Người lính bi hùng và bi thảm.  Anh chống địch   mười phương, tận lòng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ   tới hơi thở cuối cùng.
          Ngày Hoà Bình, 28   tháng Giêng năm 1973 hiệp-định Paris được ký kết. Hoà Bình thật   đến trên trang giấy, đến với thế giới tự do. Thế nên, thế   giới tự do nâng ly để chúc mừng cho hoà bình của họ và nhận   giải Nobel.  Nhưng hoà bình đến ở Việt-Nam tanh hôi mùi máu, đen   ngòm như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn trong cái hoà bình   bi thảm.
          Người lính vẫn   tiếp tục ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành luỹ để ngăn   bước quân thù.   Từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ   ngàn xưa và cho tới ngàn sau, có một quân đội nào mang số phận bi   thương và oai hùng như người lính?  Những người lính chịu uống   nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng Sát   suốt 30 ngày không thấy ánh mặt trời.  Những người lính đi   hành quân mà không người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn   muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải hư mục   ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy   da.  Người lính, người ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn   trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở   An-Lộc, Bình Long. Và thủ-đô, vòm trời thân yêu mà anh mơ ước   để tang truy điệu cho anh chỉ có ba ngày.  Ba ngày cho sinh mạng của   năm ngàn người ở lại.  Người ta lại tiếp tục vui chơi và   quên đi bất hạnh.  Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh   của riêng anh.
      
    
          Và đồng minh của   anh, người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy   ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nhìn   anh đi những bước cuối cuộc đời.  Phải chăng nhân loại đang   trút những hơi thở cuối cùng nên lương tâm con người đang yên   nghỉ? Cho nên, cả thế giới lặng câm để nhìn anh chết.  Không   chỉ cái chết riêng cho mỗi mình anh, vì bởi dưới đuờng đạn   xuyên qua, xác thân anh ngã xuống thì đau thương đã vụt đứng lên.     Cái bi thương có  nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt   ngang tầm trí nhớ.  Và người lính, anh vẫn kỳ vĩ và chịu   đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa cầu, người lính đã mang   vác và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân trên đường triệt   thoái.
          Trên những con   đường từ Cao Nguyên không thiếu những người lính gồng gánh cho   những người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt mẹ già   chạy trong cơn mưa pháo.  Và anh đã làm dù, làm khiên đỡ   đạn, cho nên thân xác anh đã căng cứng mấy đường cây số, hay   xác làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên lộng gió và   đếm những bước cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.  Bởi   lãnh đạo đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham   nhở mình trần, anh vẫn chưa tin đời đã đổi thay. Có thật   không? Hai mươi năm chiến tranh kết thúc?  Giã từ những hy   sinh và gian khổ của hôm qua? Có thật không? Ngày buông rơi   vũ khí, anh mơ được về để an phận kẻ thường dân? Và có thật   không? Anh được đi, được sống giữa một quê hương rối loạn   tràn ngập bóng quân thù?
          Anh đã khóc   nhiều lần cho quê hương chinh chiến và đã khóc nhiều lần cho những   xác bơ vơ. Lính khổ lính cười, dân khổ để người lính khóc.   Và có ai,  từng có ai trong chúng ta đã khóc thương cho đời   lính? Thương cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu.     Bởi trái tim anh đã hơn một lần để lại dưới chân Cổ Thành   Quảng Trị, ở một mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống   Lê Chân hay ở trong cái nồi treo lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung   phong để tiến vào An Lộc?  Người lính thật sự trái tim anh tan   vỡ từ lâu.
          Lịch sử đã sang   trang, và loài người đã bắt đầu đi những bước cuối cùng trên   trái đất?  Thế nên thời trang nhân loại là thứ phấn hương   tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son vô tình.  Cả thế giới   đồng thanh công nhận và gửi điện văn chúc mừng sự thống nhất   ở Việt Nam.  Và người ta uống chén rượu mừng để truy điệu   Việt-Nam đi vào cõi chết, chúc mừng Việt-Nam có thêm 25 triệu nô   lệ mới nhập tên.  Hoà bình đã nở hoa trong cộng đồng thế   giới, trong đời người Cộng Sản, nhưng hoà bình không thật đến   ở Việt-Nam.
          Người Cộng Sản   chân chính có truyền thống là những người không hề biết hoà   bình, không sống được trong hoà bình thật sự. Như con giun, con   dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên họ dẫn dắt toàn dân đi   xây dựng văn minh thời thượng.
                Khởi đầu là việc cày nát nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà và hạ   tượng Người Lính Việt Nam Cộng Hoà.  Người Lính rơi xuống   vỡ tan trong lòng đường phố, nhưng từ đó anh mới thực sự   đứng lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước trong trái tim của   người dân Việt Miền Nam.  Bởi từ khi những người bộ đội   Cộng Sản bước chân vào thành phố, thì người dân Quốc Gia mới   thật sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm lẫn và   hối hận hôm nay hình như luôn theo nhau đi vào lịch sử. Vậy thì, khi   ta chết trên con đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi Tiên Sa, ta   vùi thân nơi vùng kinh tế mới, hay ta chìm dưới đáy biển Đông,   không phải vì khẩu súng rơi trên tay người lính, mà ta chết bởi   viên đạn ích kỷ, viên đạn lãnh đạm và thờ ơ xuất phát từ   trái tim bắn ngược lại chính ta. Bởi sự thật về người Cộng   Sản đã đi quá tầm tưởng tượng và sự hy sinh của người lính   vượt quá nỗi bi thương.
          Hai mươi năm   chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương   binh đã để lại hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những   phần cơ thể để lại trên chiến trường khốc liệt.  Để cho   chúng ta có một bầu trời để thở, có một khoảng không gian đi   đứng tự do, để cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve,   lượm giấy, không phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều   dối gạt chính mình.  Để cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn   nhơ thuỷ lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi chôn ở những gốc   mì.  Để cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước miếng trầu   xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn chẩy.
          Nhưng lịch sử   đã sang trang, những trang hồng tươi màu máu cho người Cộng Sản và   cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử của   dân tộc Việt-Nam.
          Anh, người lính   trong thời chiến thành người tù của thời bình.  Người lính   chịu số phận bi thương của chiến tranh và cũng chịu luôn số phận   tàn nhẫn trong thời bình. Anh người lưu vong trong lòng dân tộc, và   lưu đày ở chính quê hương anh. Bởi Cộng Sản Việt-Nam đã bắt   đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống đáy trầm   luân.  Cũng chính từ chiến trường Tù Ngục này mà Cộng Sản   đã chứng minh được Chúng và Anh không là đồng loại.  Chúng,   là lũ Cộng Sản cuồng tín, và tàn bạo nhất giữa thế giới Cộng   Sản và vô nhân.  Chúng lập nên một vương quốc mới mang tên   là Lừa Dối, và mở ra một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới,   giết người bằng những mỹ từ đẹp đẻ, bằng lao động vinh quang,   bằng thời gian không thể đếm.  Người lính bước vào trận   chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo, và anh người tù   nhân không có án.  Ở đây anh không có lãnh đạo, không có   đồng đội, không có hậu phương.  Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt   sức lực anh trong rừng thẳm.  Đày đọa sỉ nhục anh dưới hố   xí tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn ở những   vòng khoai vớ vẩn. Đặt hy vọng của anh máng vào những mốc thời   gian.  Người lính đã trở thành vật thụ nạn thời bình.     Anh chết đói bên những vòng xanh nở rộ do chính tay anh cày xới vun   trồng.  Anh chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm tã.   Giữa   những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn Anh vượt qua   sự chết để đem về nghĩa sống.  Anh đi xiếc qua những ranh giới   tử sinh để chứng minh được phẩm giá con người.  Đôi mắt   anh cao ngạo và chân đạp chữ đầu hàng. Từ trong tăm tối hận   thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người.  Anh đã chiến   đấu, để từ trong cõi chết anh bước ra mà sống.  Để anh trở   về từ địa ngục trần gian.  Bao đồng đội bất hạnh đã ngã   xuống trong rừng thẳm, cuối cùng anh đã trở về:
   Ta về cúi mái đầu sương điểm,
   Nghe nặng từ tâm lượng Đất Trời. 
   Cám ơn hoa đã vì ta nở,
   Thế giới vui từ mỗi lẻ loi.
   (Tô thuỳ Yên)
   
                Nước mắt anh không rơi trong ngục tù Cộng Sản, nước mắt anh rơi   khi anh được trả tự do. Anh bước về, anh đi giữa lòng quê   hương.  Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng.  Có thật   chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù   đày,  để anh có được một đất nước thanh bình điêu tàn   hơn thời chiến?  Và tuổi trẻ, những mầm non đất nước hôm   nay xa lạ như người không cùng chung dòng giống.  Anh đi trên   đường phố xưa,  đường đã đổi tên.  Anh tìm bạn bè   cũ, đứa còn đứa mất.  Quê hương này không có chỗ cho anh?
              Hai mươi   năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để   rồi anh phải tha hương biệt xứ.  Người lính, mười bốn năm   lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá vài đô la,   và mái đầu sương điểm để anh bước vào đời lần nữa. Anh   không có quyền bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng   đời nghiệt ngã.  Người lính cũ ngồi bán nước đá bào cho   học trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính lưu vong   ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven-Eleven trên   đường phố Mỹ.  Ba mươi năm vết thương cũ hầu như chưa lần   khép kín.  Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b, c, đ   dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên   những bi hùng anh đã đạt.  Và cần phải thêm vào bao nhiêu   chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương anh.
              Chúng ta   đã quá may mắn, quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm những   anh hùng như người lính Việt Nam Cộng Hoà, những anh hùng vô danh   và sống đời thầm lặng, những anh hùng bình thường mà ta chưa có   dịp vinh danh.  Nhưng cho tới nay, ta đã làm gì để tri ân người   lính Quốc Gia?  Chúng ta những người dân Quốc Gia đi chung con   thuyền Miền Nam do các  anh chèo chống, đưa qua những con sóng dữ   Việt-Nam.  Những người quốc gia đã sang thuyền trong cơn quốc   nạn, và đã để mặc anh chìm trong cơn Hồng Thuỷ của Việt-Nam.     Chúng ta, những người quốc gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu   xương người lính, và chưa lần đóng góp nào cho chính nghĩa quốc   gia.  Có phải giờ đây, chúng ta tiếc thương người lính bằng   đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức nở kêu gào, hay chúng   ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ vẩn?  Và có ai,   có ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh diện vì   ta nói tiếng Anh trôi chẩy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.
              Ngày nay,   Người Cộng-Sản ở quê hương với đôi tay đẫm máu của thuở   nào cũng nói lời phản tỉnh.  Vậy còn ta, bao nhiêu người Quốc   Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và nhiệm màu của Người   Lính chúng ta.  Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những bữa   tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé   vào cửa của đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để   quyên góp, xây lại tượng Người Lính ở thủ đô đã ngã xuống   hôm nào.  Để một mai, khi quê hương không còn giống Cộng Sản,   ta đem anh về trở lại quê hương.  Để anh được đứng lên   chính nơi anh ngã xuống như cùng thời với đất nước lúc hồi sinh.
 

              Bao nhiêu   chuyên gia nhóm họp nhan đề "Xây dựng lại đất nước trong   thời hậu Cộng Sản".  Vậy có ai đã đặt kế hoạch tri ân   cho  người lính?  Bởi, một ngày nào mà ta chưa biết tri ân   người lính và đặt họ ở một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ   họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có thể xây dựng được một   xã hội đáng gọi là nhân bản.
              Hãy vinh   danh người lính Việt Nam Cộng Hoà.  Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh   thần Vị Quốc Vong Thân của họ như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong   lòng dân tộc, thì dân tộc ta mới mong có được những truyền   nhân xứng đáng với thế hệ tương lai.
theo bcdlldb