Theo chính sử Trung  Hoa, trong suốt 22 thế kỷ, từ các đời Tần, Hán đến sau Thế chiến thứ  II, không thấy tài liệu nào, hay nói rơ hơn, không có câu chữ nào ghi  rằng Biển Đông (Trung Quốc gọi là Biển Nam Trung Hoa) với hai quần đảo  Hoàng Sa và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa) thuộc chủ  quyền của Trung Quốc.
      
Trong  khi đó, không ít thư tịch cổ Trung Hoa, do chính người Trung Hoa ghi  lại trong lịch sử đă thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của  Việt Nam.
Một  tài liệu đáng tin cậy về chính sử Trung Hoa là cuốn "Lịch sử Trung Quốc  thời trung cổ” do Hàn Lâm Viện Trung Quốc xuất bản tại Đài Bắc năm  1978, học giả Hsieh Chiao-Min trong bài "Nghiên cứu về lịch sử và địa  lư” nhận định về cuộc thám hiểm của Trung Hoa tại đại dương như sau:  "Suốt chiều dài lịch sử, về sự phát triển văn hóa và khoa học, dân tộc  Trung Hoa không tha thiết với đại dương”. Theo các tài liệu lịch sử  chính thống "thảng hoặc triều đ́nh Trung Hoa cũng gửi những đoàn thám  hiểm đến Nhật Bản trong các thế kỷ thứ III và thứ II (TCN) và tại Đông  Nam Á, Ấn Độ, Ba Tư và Phi Châu trong thế kỷ XV. Điểm rơ nét nhất là tại  Thái B́nh Dương có rất ít, nếu không nói là không có, những vụ xâm nhập  quy mô của Trung Hoa” suốt chiều dài lịch sử (từ đời nhà Tần thế kỷ thứ  III TCN đến nhà Thanh từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX).
Dưới đời  nhà Minh, Minh Thành Tổ cử Đô đốc Thái Giám Trịnh Ḥa chỉ huy những đoàn  thám hiểm đến Ấn Độ Dương và Biển Ả Rập nhằm thiết lập bang giao với  trên 30 quốc gia duyên hải, triển khai Con đường Tơ Lụa tại Ấn Độ, Phi  Châu và Trung Đông. Những chuyến hải hành của phái bộ Trịnh Ḥa không  phải để chinh phục Biển Đông nơi có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.  Trên thực tế đoàn thuyền chỉ đi ngang qua Biển Đông nhằm khai phá Ấn Độ  Dương. Trạm trú chân duy nhất của đoàn trong khu vực này là Đồ Bàn  (Chaban) thủ phủ Chiêm Thành bấy giờ. Sau khi Minh Thành Tổ mất, triều  đ́nh nhà Minh đă phê phán những cuộc hải tŕnh nặng phần tŕnh diễn của  Trịnh Ḥa đă góp phần làm suy yếu nền kinh tế quốc gia.
 
Sử gia  Triệu Nhữ Quát đời nhà Tống trong cuốn Chư Phiên Chí đă xác nhận nhiều  sự kiện lịch sử quan trọng từ thời nhà Hán. Theo đó, năm 111 TCN, sau  khi thôn tính Nam Việt "Hán Vũ Đế sai quân vượt biển sang chiếm đất của  địch quân (Nam Việt) và đặt ra 2 quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ (đảo Hải  Nam). Trong thế kỷ thứ I TCN, Hán Nguyên Đế đă rút quân khỏi đảo Hải  Nam. Măi tới đời nhà Lương và nhà Tùy (cuối thế kỷ thứ VI đầu thế kỷ thứ  VII) mới đặt lại quyền cai trị”. Triệu Nhữ Quát cũng cho biết vùng quần  đảo Hoàng Sa (Vạn Lư Trường Sa) là nơi nguy hiểm, tàu thuyền Trung Hoa  không nên đến gần v́ chỉ đi sai một tí là có thể ch́m đắm. Nhan đề sách  là Chư Phiên Chí, có nghĩa là chép chuyện các phiên quốc, nước ngoài.  Vạn Lư Trường Sa nằm ở phiên quốc, có nghĩa là không thuộc về Trung Hoa  mà thuộc về phiên quốc Nam Việt. Như vậy, biên giới trên Biển Đông của  Trung Hoa vào đời nhà Hán chỉ tới đảo Hải Nam. 
Một  trang trong cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự (1695) của Thích Đại Sán, một nhà sư  Trung Quốc đời Khang Hy, thuật lại chuyến du hành tới xứ Đàng Trong,  thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Đại Việt.
Đời  nhà Đường có sách Đường Thư Nghệ Văn Chí đề cập tới cuốn Giao Châu Dị  Vật Chí của Dương Phu chép những chuyện kỳ dị và những nơi kỳ dị tại  Giao Châu (Việt Nam). Sách này chép, tại Thất Châu Dương (nhóm An Vĩnh,  quần đảo Hoàng Sa) là nơi có nhiều đá nam châm khiến các thuyền ngoại  dương có đóng chốt sắt đi qua không được. Điều này đă khẳng định quần  đảo Hoàng Sa thuộc về Giao Châu xưa (nay là Việt Nam). Trong đời Nam  Tống, cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Châu Khứ Phi cũng xác nhận: "Vạn Lư  Trường Sa (Hoàng Sa) tọa lạc tại Giao Chỉ Dương”. Chư Phiên Đồ đời Tống  cũng xác định giới hạn lănh thổ của Trung Quốc với các nước khác ở Giao  Dương (tức Giao Chỉ Dương). Giao Chỉ Dương hay Biển Giao Chỉ là Vịnh Bắc  Bộ ngày nay, trong khi Hoàng Sa và Trường Sa lại cách xa Vịnh Bắc Bộ  hàng trăm dặm về phía nam. Như vậy, các thư tịch cổ Trung Hoa từ đời nhà  Tống đă cho thấy Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc về Trung Quốc mà  thuộc về nước khác mà Trung Quốc gọi là phiên quốc hay Giao Châu, Giao  Chỉ.
 
Vào đời nhà Nguyên, quân và dân Đại Việt đă 3 lần đánh tan  quân Nguyên – Mông xâm lược và góp phần phá tan kế hoạch Đông Tiến (đánh  Nhật Bản) của đoàn quân Mông Cổ nổi danh là bách chiến bách thắng từ  đời Thành Cát Tư Hăn. Sau 3 phen thất bại, nhà Nguyên không c̣n ḍm ngó  Đại Việt cả trên lục địa đến các hải đảo. Trong suốt các thế kỷ XIII và  XIV, theo chính sử Trung Hoa, quân Mông Cổ không hề có ư định xâm chiếm  hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong Dư Địa Đồ đời Nguyên của Chu  Tư Bản được vẽ thu nhỏ lại trong sách Quảng Dư Đồ của La Hồng Tiên thực  hiện năm 1561 phần cực nam lănh thổ Trung Hoa là đảo Hải Nam.
 
Đời  nhà Minh, Thiên Hạ Thống Nhất Chi Đồ trong Đại Minh Nhất Thống Chí  (1461), Hoàng Minh Đại Thống Nhất Tổng Đồ trong Hoàng Minh Chức Phương  Địa Đồ (1635) đă vẽ phần cực nam Trung Hoa là đảo Hải Nam. Trong khi  cuốn Vũ Bị Chí của Mao Nguyên Nghi gọi Biển Đông là Giao Chỉ Dương. Trên  các bản đồ Trịnh Hoà Hạ Tây Dương, Trịnh Ḥa Hàng Hải Đồ cũng không  thấy ghi chép các danh xưng Hoàng Sa, Trường Sa (hay theo cách gọi của  Trung Hoa là Tây Sa, Nam Sa, Tuyên Đức, Vĩnh Lạc) trong các lộ tŕnh và  hải đạo của Trịnh Ḥa sau 7 lần đi qua Biển Đông để khai phá Ấn Độ Dương  (Tây Dương). Nhiều tài liệu chính sử nhà Minh cho biết, từ thế kỷ XV,  các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nguyên là địa bàn ngư nghiệp của  Chiêm Thành đă trở thành lănh thổ của Đại Việt. Lưu ư rằng từ năm 1427  Lê Lợi đă đánh thắng quân Minh để giành lại chủ quyền cho Đại Việt bị  Minh Thành Tổ chiếm đoạt từ 20 năm trước (1407). 
  Đại Thanh Nhất Thống Toàn Đồ, đảo nhỏ ở phía dưới là Hải Nam, gần đó bên trái là Giao Chỉ, đảo lớn hơn bên phải là Đài Loan
 
Đời  nhà Thanh, từ thế kỷ thứ XVII đến XX, theo bản đồ Hoàng Thanh Nhất  Thống Dư Địa Bản Đồ do triều đ́nh nhà Thanh ấn hành năm 1894 th́ đến  cuối thế kỷ XIX "lănh thổ của Trung Quốc chỉ chạy đến đảo Hải Nam là  hết”. Qua thế kỷ XX, sự kiện này c̣n được xác nhận trong cuốn Trung Quốc  Địa Lư Học Giáo Khoa Thư xuất bản năm 1906 với đoạn như sau: "Điểm cực  nam của Trung Quốc là bờ biển Châu Nhai thuộc quận Quỳnh Châu (Hải Nam)  tại vĩ tuyến 18”. Các quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ thuộc đảo Hải Nam kéo  dài từ vĩ tuyến 20 (ngang Thanh Hoá) đến vĩ tuyến 18 (ngang Nghệ An – Hà  Tĩnh). Trong khi quần đảo Hoàng Sa tọa lạc về phía nam, từ vĩ tuyến 17  đến vĩ tuyến 15 (Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngăi) và quần  đảo Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến 12 đến vĩ tuyến 8 (Cam Ranh – Cà  Mau). Bản đồ Đại Thanh Đế Quốc do triều đ́nh nhà Thanh ấn hành cũng  không thấy vẽ các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (cũng không thấy ghi  theo cách gọi của Trung Quốc là Tây Sa, Nam Sa, Vịnh Lạc, Tuyên Đức...).  Hơn nữa, trong bộ Hải Quốc Đồ Kư, cuốn Hải Lục của Vương Bỉnh Nam  (1820-1842) chép: "Vạn Lư Trường Sa (Hoàng Sa) là dải cát dài ngoài biển  được dùng làm phên dậu che chắn mặt ngoài bờ cơi nước An Nam”. Như vậy,  tư liệu này của Trung Quốc đă thừa nhận quần đảo Hoàng Sa là lănh thổ  trên biển của Việt Nam. Trong bộ sách địa lư Đại Thanh Nhất Thống Chí do  Quốc Sử Quán nhà Thanh biên soạn năm 1842 với lời tựa của hoàng đế  Thanh Tuyên Tông, không có chỗ nào ghi Thiên Lư Trường Sa hay Vạn Lư  Trường Sa (quần đảo Hoàng Sa). Trong cuốn Hải Quốc Văn Kiến Lục của Trần  Luân Quưnh (1744), vùng biển của Việt Nam tại Biển Đông được ghi bằng  các danh xưng Việt Hải và Việt Dương. Trong vụ ngư dân đảo Hải Nam cướp  tàu chở đồng bị đắm tại quần đảo Hoàng Sa những năm 1895-1896, để trả  lời văn thư phản kháng của Chính phủ Anh, Tổng đốc Lưỡng Quảng Trung Hoa  đă phủ nhận trách nhiệm với lư do: "Hoàng Sa không liên hệ ǵ tới Trung  Quốc”. Ngoài ra cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự (1695) của Thích Đại Sán một nhà  sư thời Khang Hy đă đến đất Thuận Hóa của chúa Nguyễn ngày 29 tháng  giêng năm Ất Hợi (13-3-1695) thuật lại chuyến hải hành này và ghi nhận  chủ quyền của Đại Việt trong việc chiếm hữu, kiểm soát và khai thác vùng  Biển Đông nơi tọa lạc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ít nhất là từ  thế kỷ thứ XVII.
Các tài liệu cổ của Trung Hoa rơ ràng cho thấy  hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam  Sa) đă được người Việt Nam phát hiện, sử dụng trong nhiều thế kỷ một  cách hoà b́nh và liên tục không có sự phản đối của bất cứ quốc gia nào  kể cả của Trung Quốc. Điều đó được minh chứng từ tư liệu chính sử của  nhiều triều đại Trung Quốc trong đó đă mặc nhiên thừa nhận chủ quyền của  người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong suốt hơn  22 thế kỷ từ thời Tần, Hán cho đến đầu thế kỷ XX.
      Theo Báo Đất Việt