Dịch vụ ít, hạ tầng kém nên khách hàng vẫn chủ yếu rút tiền  từ ATM để tiêu dùng chứ chưa mặn mà với việc sử dụng thẻ để thanh toán.  Có lẽ, trước khi đ̣i thu phí rút tiền ATM, ngân hàng nên tính chuyện đa  dạng hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ. 		 
                                    
 Lấn dần
  Các ngân hàng thông qua Hội Thẻ ngân hàng Việt Nam lại một lần nữa đề  xuất thu phí giao dịch ATM nội mạng và tăng phí ngoại mạng của các  khách hàng lên. Đây là lần thứ tư Hội Thẻ đưa ra đề xuất này và ngay lập tức bị phản đối như những lần trước.
  Dường như đă lường trước được phản ứng của khách hàng nhưng các ngân  hàng vẫn đề xuất như một chiến thuật "nói lâu thành quen" để thử thái độ  và để người dân chuẩn bị dần tâm lư, làm quen với việc thu phí ngân  hàng như một tất yếu sẽ xảy ra.
  Không những thế, dù chưa thể đạt mục đích thu phí nội mạng nhưng các  ngân hàng cũng đă t́m mọi cách để thu các loại phí khác như một cách  "lấn dần" tiến tới việc thu phí toàn bộ mọi giao dịch qua thẻ.
  Thực tế cho thấy, các ngân hàng đang thành công dần với cách làm này,  ít nhất là họ đang dần gieo vào khách hàng của ḿnh "nhận thức" là việc  thu phí trước hay sau ǵ cũng là không thể tránh khỏi. Có thể nhận thấy  điều này qua phản ứng của thị trường và các cơ quan chức năng qua mỗi  lần đề xuất thu phí của Hội Thẻ.
  Lần đầu tiên, đề xuất này bị phản ứng rất mạnh và cơ quan quản lư lập  tức có ư kiến yêu cầu chưa được thu phí. Hai lần sau đó, cũng chỉ với  các lư do cũ, dù khách hàng c̣n phản đối nhưng đă có không ít ư kiến cho  rằng, thu phí không có ǵ sai.
  
  Thậm chí, cơ quan quản lư, thay v́ cấm, ngay lập tức đă có buổi làm  việc với ngân hàng về chuyện thu phí. Tất nhiên, Nhà nước chưa đồng ư  thu phí nhưng các ngân hàng đă đạt được một bước tiến quan trọng là cơ  quan quản lư cũng đồng ư rằng, việc thu phí là cần thiết nhưng phải có  lộ tŕnh.
  Như vậy, qua những lần đề xuất trước, các ngân hàng đă dần đạt được  mục đích gạt bỏ ư nghĩ dùng thẻ miễn phí trong khách hàng và có được sự  đồng thuận ít nhất về mặt nguyên tắc của cơ quan quản lư. Cụ thể, dù  chưa thể thu phí trên mỗi lần thu tiền của khách hàng nhưng các loại phí  liên quan đến thanh toán thẻ đă dần mở ra như: phí rút tiền ngoại mạng,  thu in sao kê, truy vấn số dư tài khoản...
  Với đề xuất lần thứ 4, dù có phản ứng nhưng sự phản ứng đă giảm dần,  và có lẽ như thị trường đă quen với điệp khúc thu phí của các ngân hàng.  Cơ quan quản lư cũng không vội vàng phản ứng trước các đề xuất này...  và xem ra các ngân hàng đă đi "đúng hướng": cấm cứ cấm, đề xuất vẫn đề  xuất, không thu kiểu này th́ thu kiểu khác.
  Biết chắc là chưa thể thu phí giao dịch nội mạng nhưng chưa khi nào  Hội thẻ và các ngân hàng để khách hàng quên điều này và họ cũng liên tục  "thử" phản ứng cơ quan quản lư và khách hàng. V́ thế, dù chưa có một lộ  tŕnh cụ thể cho việc thu phí nhưng bằng cách "lấn dần", ngân hàng đang  rút ngắn lộ tŕnh đi đến mục tiêu: thu tiền giao dịch ATM.
  
Đến kỳ gặt hái?
  Đă hơn 10 năm đầu tư và phát triển dịch vụ thẻ, các ngân hàng đă  thiết lập được một hệ thống kinh doanh thẻ khá đầy đủ. Đến nay, hầu hết  các ngân hàng đều tham gia kinh doanh thẻ. Tới cuối 2010, các ngân hàng  đă phát hành tổng cộng 32 triệu thẻ, trong đó hơn 93% là thẻ ghi nợ nội  địa, đối tượng chính sử dụng ATM hiện nay. Lượng ATM lắp đặt trên cả  nước đạt gần 11.700 máy, bên cạnh gần 54.000 POS (
Point of Sale - máy tính tiền chấp nhận thẻ).
  Bên cạnh đó, vấn đề khó khăn nhất là kết nối thanh toán thẻ toàn hệ  thống ngân hàng cũng đă được giải quyết khi có những trung tâm chuyển  mạch quốc gia và các công ty chuyển mạch với sự tham gia của hầu hết các  ngân hàng, liên thông các ngân hàng, từng bước mở rộng và kết nối các  dịch vụ thanh toán. Đặc biệt, bằng nhiều cách khác nhau, trong đó có cả  việc hưởng lợi từ yêu cầu trả lương qua thẻ của các cơ quan nhà nước,  các ngân hàng sớm có được một lượng khách hàng đủ lớn.
  Đă hơn 10 năm các ngân hàng Việt Nam đầu tư mạnh cho dịch vụ thẻ. Từ  một vài ngân hàng lớn đi đầu nay tất cả các ngân hàng đều phát hành và  kinh doanh thẻ. Lượng người dùng cũng đă lên đến hàng chục triệu người.  Dịch vụ thẻ đang trở thành một mảng quan trọng của các ngân hàng và tiếp  tục được đầu tư để phát triển thành một mũi nhọn của các ngân hàng kinh  doanh bán lẻ.
  Ngay từ ngày đầu đầu cho dịch vụ bán lẻ, các ngân hàng đều xác định  đây là đầu tư cho dài hạn và hướng tới thu lợi trong tương lai. V́ thế,  dù khá tốn kém nhưng các ngân hàng đều mạnh tay đầu tư và không ai muốn  chậm chân trong thị trường thẻ. Thậm chí, đầu tư cho thẻ c̣n được xem  như là một thế mạnh, một cách làm thương hiệu của các ngân hàng trong  thời gian qua.
  Thực tế, để khách hàng có thể sở hữu và sử dụng được thẻ, các ngân  hàng đă đầu tư lớn cho hạ tầng từ máy móc, công nghệ, đường truyền; nhân  lực và thậm chí cả tiền mặt hàng trăm tỷ đồng tồn dư trong các máy ATM  mỗi ngày, chi phí để duy tŕ hoạt động... V́ vậy, dù đă thu được không  ít khoản phí như phí phát hành, phí duy tŕ tài khoản, rút tiền ngoại  mạng, in sao kê, nhưng hầu hết các ngân hàng đều thua lỗ về dịch vụ này.
  Đầu tư lớn và khi đă có đủ hạ tầng, có dịch vụ và nhất là có khách  hàng ổn định, tất yếu các ngân hàng phải tính đến chuyện khai thác. Điều  đó càng trở nên cấp thiết khi các ngân hàng đang mong muốn và t́m mọi  cách để gia tăng nguồn thu ngoài tín dụng. Thu phí, nhất là phí từ dịch  vụ thẻ, là tiềm năng và có vẻ như dễ dàng nhất.
 

Các ngân hàng cho hay sẽ tạm ngừng lắp thêm máy ATM theo hướng dẫn của NHNN (ảnh VCCI)
Đừng để khách hàng "ngán" thẻ  Về mặt nguyên tắc, các quy định pháp lư và quan điểm của cơ quan quản  lư th́ đều có lợi cho việc thu phí. Và thực tế, chính khách hàng cũng  hiểu rằng, đă là dịch vụ th́ tất yếu phải chịu chi phí. Họ đă không ngại  khi chi tiền để sử dụng các dịch vụ thẻ quốc tế, và sẽ không có ǵ phải  nói nêu dịch vụ thẻ trong nước đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
  Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi cho phép các ngân hàng được tự ấn  định và niêm yết công khai các mức phí của ḿnh. Trong trường hợp hoạt  động ngân hàng có diễn biến bất thường, Ngân hàng Nhà nước sẽ đứng ra  quy định cơ chế xác định phí, lăi suất trong hoạt động kinh doanh của tổ  chức tín dụng.
  Thực tế, trong những lần phải có ư kiến về việc thu phí của các ngân  hàng, cơ quan quản lư cũng đă cho rằng, việc thu phí để bù đắp chi phí  là không sai. Vấn đề c̣n lại là cần cân nhắc thời điểm và có lộ tŕnh  cho việc này.
  Thậm chí, trong một dự thảo, Ngân hàng Nhà nước đă đề ra nguyên tắc  thu, trả và chia sẻ phí đối với các giao dịch thẻ nội địa tại máy giao  dịch tự động (ATM), thiết bị chấp nhận thẻ (POS), trong đó yêu cầu áp  mức phí bằng 0 với các giao dịch nội mạng.
  C̣n với giao dịch ngoại mạng, các ngân hàng không được thu phí truy  vấn tài khoản, và phải miễn phí 3 giao dịch đầu tiên trong tháng của các  khách hàng sử dụng thẻ để nhận lương từ ngân sách nhà nước, lương hưu,  trợ cấp từ bảo hiểm xă hội... Dù chưa ban hành đề chính thức hóa việc  thu phí nhưng có vẻ như việc này trước sau ǵ rồi cũng xảy ra.
  Tuy nhiên, nh́n lại dịch vụ thẻ của các ngân hàng Việt Nam có thể  thấy, ngoài việc có gắng kêu gọi được nhiều khách hàng mở tài khoản và  phát hành thẻ th́ các ngân hàng chưa có nhiều dịch vụ thanh toán đáp ứng  các nhu cầu cơ bản của người dùng.
  Các dịch vụ của ngân hàng hiện nay rất ít, đơn điệu và khá giống nhau  như: trả lương, chuyển tiền, nạp tiền điện thoại, thanh toán vé máy  bay, taxi, trội hơn th́ có thanh toán tiền điện và mua bán xăng dầu  nhưng phát triển rất khó khăn. Một số lĩnh vực khác như du lịch, tiêu  dùng và mua sắm cao cấp lại không phổ biến với đa số khách hàng...
  Phần c̣n lại, hầu hết các nhu cầu mua sắm, chi trả cơ bản và thường  xuyên của người dân đều chưa thể sử dụng thẻ. Thậm chí, tại nhiều siêu  thị lớn, các trung tâm mua sắm dù có trưng biển thanh toán thẻ nhưng hầu  hết không khả thi và khách hàng và người bán đều cho biết rất rắc rối  và ưa dùng tiền mặt.
  Trong khi các dịch vụ của đa dạng th́ hạ tầng của các ngân hàng đáp  ứng cho phát triển dịch vụ thẻ lại thể hiện sự yếu kém và quá tải. Hai  năm lại đây, dù có sự tăng trưởng lớn về khách hàng nhưng các cây ATM và  đặc biệt các máy chấp nhận thanh toán POS gần như không tăng tăng lên  đă gây khó khăn cho người sử dụng và hạn chế họ đến với các dịch vụ.
  32 triệu khách hàng với 11.700 máy ATM và khoảng 54.000 POS th́ bản  thân điều đó cũng cho thấy dù có muốn khách hàng cũng không thể sử dụng  các dịch vụ thẻ khi hạ tầng quá yếu và không đầy đủ. Đấy là chưa kể  những trục trặc thường xuyên trong hệ thống thanh toán cũng gây ra không  ít phiền ḷng. Dịch vụ ít, hạ tầng kém nên không có ǵ lạ khi khách  hàng vẫn chủ yếu rút tiền từ ATM để tiêu dùng.
  V́ thế, thay v́ tính chuyện thu phí qua các giao dịch thanh toán, các  ngân hàng đang hướng đến việc đầu tiên là thu phí rút tiền mặt. Có lẽ  chính các ngân hàng cũng hiểu rằng dù mỗi thanh toán qua thẻ đều có phí  nhưng do dịch vụ quá kém nên khoản phí thu được không đáng kể và cách  tốt nhất là thu phí rút tiền.
  Với thực tế này, th́ các ngân hàng có thể rồi sẽ đạt mục tiêu thu phí  rút tiền nhưng họ sẽ gánh chịu những phản ứng khi khách hàng ngán thẻ.  Khi thẻ không mang lại nhưng lợi ích mà chỉ thêm tốn kém và phiền toái.  Có lẽ, trước khi đ̣i thu phí rút tiền ATM, ngân hàng nên tính chuyện đa  dạng hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ.
Vef