Những chiếc Môtôlôva chạy theo từng nhóm trên những con đường sống trâu và ổ gà, uốn khúc theo các khu rừng già trên miền biên giới Việt Nam - Campuchia thuộc tỉnh Tây Ninh.
Chiếc Môtôlôva đầu tiên rời trại tù Kà tum từ sáng sớm và tới chiều tối thì từng chiếc lần lượt tới đậu trong bãi đất trống, nơi đoàn tù chúng tôi được chuyển tới.
Bụng đói cồn cào, tôi đoán chừng đã hơn 7 giờ chiều. Thời tiết đầu mùa Xuân hơi giá lạnh.
Tối hôm trước, tôi chỉ ăn khúc khoai mì và một chén cơm nhỏ có mọt và mốc, phần còn lại tôi để ăn “lót bụng” buổi sáng trước khi đi lao động. Nhưng, sau tiếng còi gọi tập họp bất thường lúc trời tờ mờ sáng theo lệnh của viên quản giáo, chúng tôi phải vội vã ra sân bóng chuyền để tập họp.
Nét mặt viên quản giáo còn ngái ngủ, lấy ngón trỏ của bàn tay phải dụi và cậy ghèn mắt, rồi ông nói :
- “ Mọi người lo thu dọn quân trang chuyển trại, các anh có 30 phút, xong, tập họp, xếp hàng điểm danh, khẩn trương lên”.
Vì vậy, tôi đành nhịn đói suốt ngày. Đã ba lần chuyển trại, ngày giờ cũng như địa điểm là những điều bí mật .
Đoàn xe thường khởi hành vào sáng sớm hoặc trong đêm khuya.
Lần đầu, từ trại tập trung Don Bosco Gò Vấp đến trại tù Trảng Lớn - Tây Ninh, lần thứ hai từ trại Trảng Lớn chuyển tới trại tù Kà Tum nằm sát biên giới Campuchia.
Và lần này cũng như lần trước, lệnh tập họp chuyển trại được thông báo bất ngờ vào buổi sáng tinh sương, anh em tù không biết sẽ bị di chuyển về đâu, không biết chuyến đi lành hay dữ.
Trời chiều đã nhá nhem tối, bầu trời miền biên giới tỉnh Tây Ninh và Campuchia xám ngắt với những cơn mưa phùn, những hạt mưa lấm tấm rơi, nhẹ như hạt bụi.
Những cụm mây xám đang trôi lơ lửng trên đỉnh ngọn núi Bà Đen như báo tin cho người tù biết những ngày tháng u buồn ảm đạm vẫn đang giăng mắc trong cuộc đời mỗi người.
Tôi chưa đến núi Bà bao giờ, nhưng qua báo chí tôi được biết núi Bà rất cao, đột khởi giữa đồng bằng Nam bộ với ngôi thánh thất nguy nga và tràn ngập thiện nam tín nữ Cao Đài trong những ngày lễ hội trước năm 1975.
Những người tù chúng tôi đã bị giải giao qua lại ba trại tù khác nhau giữa vùng rừng già biên giới Việt Campuchia từ sau ngày đất nước rơi vào tay đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1975.
Nhưng dù ở bất cứ trại tù nào, chúng tôi vẫn nhìn thấy núi Bà với những cụm mây xám chì lãng đãng trôi trên đỉnh.
Trên đường di chuyển người tù, như để đánh lạc hướng, đoàn xe chạy loanh quanh trên các đường rừng rồi ngừng lại dọc đường một vài lần cho đến khi tới địa điểm mới thì ngày đã đi vào tối.
Đằng sau cái cổng lớn của trại khoảng hơn nửa cây số là một khu đất trống, các xe lần lượt rẽ vào và từng chiếc tuần tự đậu sát bên nhau.
Trời đã sập tối mà mới có năm bảy chiếc tới bãi đất trống với những cán binh Cộng sản súng cầm tay trong tư thế sẵn sàng tác chiến, đứng gác.
Đêm núi rừng như buông xuống lẹ hơn ở miền đồng bằng.
Sau khi chiếc xe tắt máy khoảng mười phút, anh em tù được lệnh xuống xe thì cảnh vật khu rừng già miền biên giới đang đi vào bóng đêm, cách khoảng năm sáu bước chân không nhìn rõ mặt người đối diện.
Mỗi người tù với một hai túi xách hành lý, và soong nồi nấu ăn để bên cạnh chỗ đứng, một số anh em vươn tay làm vài động tác cho dãn gân cốt sau một ngày ngồi bó gối như nêm cối, san sát bên nhau trên sàn xe, chân tay tê cứng.
Tôi thầm nghĩ, tất cả anh em có lẽ cũng đang đói như tôi. Bầu trời đen kịt, tiếng còi rít lên hai ba lần, tia sáng từ chiếc đèn pin của người bộ đội đứng trước đám tù quét qua quét lại trên bãi đất trống. Sau một chuỗi ho khan, anh nói lớn tiếng :
- “ Trong khi chờ đợi các xe đến đủ, các anh xếp hàng dọc, mỗi hàng mười một người, mỗi hàng cách nhau ba bước. Người đứng đầu là tổ trưởng, cuối hàng là tổ phó”.
Đội hình hàng dọc, hàng ngang là những động tác quen thuộc của mỗi người lính. Những người tù quen nhau, thân nhau tự động đứng xếp hàng bên nhau, và trong vài ba phút, tất cả những người tù đã xếp hàng xong theo đội hình mà người bộ đội yêu cầu.
Tay cầm sấp giấy, đi tới đi lui, có lẽ anh là cán bộ quản giáo có nhiệm vụ ký nhận anh em tù, anh nói lớn :
- “ Tất cả ngồi xuống ”.
Giọng nói khàn, cộc lốc của anh giống như người bị thiếu hơi vì bịnh suyễn.
Bầu trời đen như đêm ba mươi. Những làn mưa phùn như bụi sương rơi vẫn kéo dài từ xế chiều khi trời chưa tối hẳn làm những người tù co ro trong ướt lạnh, cảnh vật thật u uất.
Lúc chiếc xe Môtôlôva rẽ vào chiếc cổng lớn có lá cờ đỏ sao vàng cắm ở giữa rũ xuống trong nước mưa đã khiến tôi nhớ đến câu thơ của Trần Dần, một thi sĩ đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam mà tôi đã đọc trong một tạp chí văn học trước năm 1975, với chủ đề Vụ Án Nhân Văn Giai Phẩm...Tôi lẩm bẩm câu thơ trong miệng:
“Tôi bước đi không thấy phố thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ”.
Bụng đói, đầu óc mệt mỏi, tay chân rã rời, tôi cảm thấy cuộc đời tù đày thật thống khổ, nhục nhằn, căm hận, nước mắt muốn trào ra.
Chúng tôi ngồi trên sân cỏ chừng một tiếng đồng hồ thì đoàn xe từng chiếc một đã tới nơi. Các anh em tù tới sau cũng được lệnh xếp thành hàng như chúng tôi.
Bầu trời tối đen như mực, mưa đã tạnh hẳn. Với giọng chân quê miền Nam, tiếng người cán bộ lùn và ốm nói thật lớn theo ánh sáng của chiếc đèn pin dọi tới dọi lui, quét ngang quét dọc với sấp giấy cầm trên tay.
- “Các anh im lặng, nghe tôi đọc tên, khi nghe tên mình thì nói có mặt. Đây là trại Cây Cày A thuộc tỉnh đội Tây Ninh.
Hơn mười giờ tối rồi, tranh thủ, ta làm xong sớm còn về lán nghỉ, ngày mai ổn định chỗ ăn ở. Các anh nghe rõ không ?
– Rõ
– Tiếng anh em tù đáp lại.
Đứng, ngồi, chờ đợi cả ngày, có lẽ vệ binh cũng như cán bộ cũng muốn làm cho xong việc để về ngủ.
Và sau khoảng hơn nửa tiếng điểm danh, giao tù tại hàng, chúng tôi được lệnh đi theo hàng một, người nọ để tay phải lên vai người kia cho khỏi lạc.
Trời tối đen như thân phận những người tù, mọi người lầm lũi, im lặng bước theo sau người quản giáo dùng đèn Pin soi đường, dẫn về lán trại với những vệ binh vác súng đi kèm đằng trước và phía sau đoàn người tù.
Từ bãi đất trống về lán ở cũng không xa lắm, khoảng chừng hơn nửa cây số, mỗi tổ ở một nhà, không có cửa trước và cửa sau, ở giữa nóc nhà có một ngọn điện, ánh sáng vàng vọt yếu ớt đủ để nhìn thấy mặt người, chiếu thẳng xuống cái bàn gỗ dài.
Những ngày tháng sau khi nhập trại, chúng tôi ngồi trên hai băng ghế của cái bàn dài này để họp tổ mỗi tối.
Chung quanh các căn nhà là những khóm chuối do những anh em tù đã ở đây trồng trước khi chúng tôi di chuyển tới. Các anh đã bị chuyển đi trại khác và chúng tôi đến ở những căn nhà trống đã được các anh đốn cây trong rừng về làm trước đây.
Có lẽ những căn nhà này bỏ hoang đã lâu, nên bốc lên mùi hôi ẩm mốc, bốn bề yên lặng với tiếng côn trùng vo ve trong đêm tối.
Điện trại tù tắt, báo hiệu đã 11 giờ đêm.
Ngọn đèn dầu trên bàn giữa nhà le lói ánh sáng mờ, một số anh em mệt qúa đã ngủ thiếp đi, một vài anh còn dọn dẹp, sắp xếp đồ của mình trên đầu sạp tre và dưới gầm cho gọn.
Tôi ngồi trên sạp tre, thõng chân xuống đất - chỗ dành cho tôi để ngủ. Tôi cảm thấy mệt nhưng không buồn ngủ, sau khi đã ăn chút cơm và củ khoai mì còn lại của buổi sáng ở Kà Tum.
Không gian về đêm thật yên lặng trong ánh sáng mờ mờ của cây đèn dầu. Hai người cao dong dỏng, mặc áo lính cũ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một người mặc quần dài, một người mặc quần đùi từ cửa trước tiến đến chỗ tôi ngồi.
– “ Xin lỗi, anh Võ Bị hay Thủ Đức ? Đã ăn gì chưa ?” Người thanh niên hỏi tôi, giọng thật nhỏ, vừa đủ cho tôi nghe.
- Dạ, tôi Thủ Đức. Tôi vừa ăn chút cơm và miếng khoai mì rồi. Cám ơn anh.
- “ Trong tổ này có anh em Võ Bị nào không ?” – một trong hai anh hỏi.
Tôi chỉ tay về hướng hai anh tù trẻ tuổi, mới độ chừng hai ba hai bốn, trước đây ở Trảng Lớn cùng khối, cùng đội với tôi, đang nằm ngủ thiếp đi ở cuối phòng, xéo góc với chỗ tôi đang ngồi, rồi tôi nói :
Hai anh đó là dân Võ Bị.
Hai anh nói cám ơn, rồi bước qua chỗ hai anh Võ Bị đang ngủ, lay chân, đánh thức hai anh dậy. Một trong hai anh hỏi nhỏ, chỉ đủ nghe.
- “ Võ Bị khóa mấy ?
– Dạ, 28 ”
- “ Niên trưởng 26 đây. Đã ăn uống gì chưa ?”
– “ Thưa niên trưởng, chưa ”. Một trong hai người khóa đàn em trả lời.
- “Có mấy Võ Bị về đây đêm nay ?” Một niên trưởng hỏi.
- “ Chỉ có hai ở đội này”.
Người tù khóa đàn em trả lời, rồi hai bên kể tên một vài cựu sinh viên võ bị đã gặp ở những trại tù trước đây. Sau những lời thăm hỏi ngắn gọn, một niên trưởng nói:
- “ Tắm sơ một chút cho đỡ mệt, nhưng khuya quá rồi. Thôi, lát nữa niên trưởng đem chút đồ ăn đến, ăn tạm cho đỡ đói ”.
- “ Dạ, cám ơn hai niên trưởng ”
– một người khóa đàn em nói.
Hai người thanh niên vội quay bước ra đi, và khoảng năm bảy phút sau, một trong hai anh trở lại với cái túi nhỏ – loại túi bằng vải nhám, bền chắc, dùng để đựng đất hay cát che chắn cho các công sự phòng thủ của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975.
- “ Đây là cơm, chao, mấy củ mì và muối đậu phộng, ăn đỡ. Nhớ giữ sức khoẻ. Đường còn dài ”.
- “ Dạ. Cám ơn niên trưởng ”.
- “ Thôi niên trưởng về, mai mốt gặp lại ”.
– “ Dạ, chào niên trưởng ”. Giọng người đàn em nói nhỏ nhẹ vì xúc động trước sự săn sóc của hai người niên trưởng.
Người niên trưởng mất hút trong bóng đêm. Tôi ngỡ ngàng trước tình huynh đệ trong đêm đen của người chiến binh, của người niên trưởng và đàn em đã sa cơ thất thế với những gian khổ đang bủa vây chập chùng.
Nghe và chứng kiến tình người trong vài giây phút ngắn ngủi đã làm tôi quên đi những mệt mỏi sau một ngày dài chuyển trại, và hình ảnh Đà lạt cùng những kỷ niêm của những năm tháng đi công tác trên xứ hoa đào sống lại trong ký ức tôi.
Niềm vui trong đêm đen đến với tôi thật bất ngờ, dù rằng hai niên trưởng không phải là niên trưởng hay huynh trưởng của tôi.
Trải qua những lần thanh lọc và chuyển trại, nổi trôi theo mệnh nước, mỗi người một phương.
Nhưng mỗi khi đọc những bài viết với những hình ảnh liên hệ tới những năm tháng thăng trầm của dân tộc và những người lính Việt Nam Cộng Hòa, tôi vẫn cảm thấy bàng bạc đâu đây hình ảnh người chiến binh quả cảm, yêu tự do và tràn đầy tình tự dân tộc năm xưa.
QUA CƠN MÊ ( HAY VĂN NGHỆ TẾT TRONG TRẠI TÙ YÊN BÁI )
Tôi vừa nhận thư từ Seattle, Mỹ gửi sang. Không phải những người bạn thân quen của tôi mà nhìn tên người gửi thấy đề T. Nguyen lạ hoắc.
Sang xứ sở văn minh thực dụng này, tên tuổi lộn đầu lộn đuôi mà chữ viết cũng ít khi dùng đến nên tôi cầm lá thư mà chưa nhớ ra ai.
Mỗi người sinh ra trên trái đất này đều có một nhân dáng riêng, cũng như có một nét chữ riêng, có ai giống ai đâu ?
Bây giờ bỏ cái riêng tư ấy đi, dùng toàn chữ in sẵn trong computer – tiện lợi thì có tiện lợi thật nhưng cầm cái thư tôi thấy nó lạnh lùng, khô khốc…
Bề ngoài bao thơ không cho tôi một tín hiệu tình cảm nào, tôi hờ hững mở thư. Nhưng vừa đọc, tôi đã vô vàn cảm xúc :
- “ Anh P. ơi, chắc anh không nhớ được em đâu, nhưng em nhớ anh hoài, em nhớ “ông già chăn ngựa”. Em là : “La Sơn Phu Tử” đây.”
Những cụm từ “ông già chăn ngựa ” và “La Sơn Phu Tử” đã như chiếc chìa khóa mở ra một quãng đời tù tưởng đã nhạt nhòa trong ký ức…
Dạo ấy là cuối năm 1977, chúng tôi vừa từ giã trại tù quân quản Liên trại 2 để đến một nhà tù chính thức Yên Hạ – Sơn La thuộc Công an – Bộ Nội vụ.
Cùng là đi cải tạo nhưng bên trong có chia ra nhiều loại.
Loại cải tạo trong Nam tương đối nhẹ nhàng hơn, ngắn hạn hơn.
Tù nặng, tù lâu là ra Bắc. Những năm đầu ra Bắc, tù đặt dưới quyền quân quản, tức là do bộ đội quản lý.
Sau chừng từ 2 đến 3 năm tù được chuyển dần từ trại “trâu xanh” (bộ đội) sang trại “bò vàng” (công an).
Ở trại tù chính thức của Bộ Nội vụ như trại Yên Hạ này chúng tôi được gặp những bạn tù anh em ta bị bắt từ hồi Mậu Thân (1968) cũng như một số anh em khác, tù binh từ trận Hạ Lào (1971) .
Những trại tù này thường là trại hỗn hợp vừa có tù chính trị (như tụi tôi) vừa có tù hình sự.
Bên hình sự có thiếu gì những người tù bị hình án nặng nề từ 20 năm đến chung thân ở đây.
Đến trại Yên Hạ này, tôi được gặp Trung tá Kh., dân Tiếp vận bị bắt hồi Mậu Thân khi về Huế ăn Tết thăm gia đình.
Anh còn sống sót không nằm trong nấm mồ tập thể mấy nghìn người, kể ra cũng phải tạ ơn Trời Phật. Cho đến lúc này thì Kh. đã có thâm niên 9 năm tù, kinh nghíệm hơn tụi tôi nhiều lắm (mới có trên 2 năm).
Khi được hỏi về sự khác nhau, giống nhau giữa 2 trại trâu xanh và bò vàng Kh nói :
- “Một bên là dao găm, một bên là thuốc độc, không biết bên nào êm ái hơn bên nào”.
Ngừng một lát Kh. Nói tiếp :
“Tuy nhiên, qua các trại miền Bắc tôi thấy cuộc sống tù đày tùy thuộc khá nhiều vào trại trưởng. Mới chuyển sang trại bò vàng Công an mà các bạn được về đây là khá đấy. Ông cụ Việt, trại trưởng trại này là một biệt lệ trong các cai tù… Rồi các bạn sẽ thấy”.
Chúng tôi nhận ra biệt lệ này ngay trong lần đầu tiên lên hội trường nghe “huấn thị” .
Trại trưởng trại Yên Hạ, cấp bậc Trung tá Công an, thường được gọi thân mật là cụ Việt, là một ông già tóc bạc, tuổi trên dưới 60, dáng vẻ trầm tư, phát ngôn mực thước. ông nói :
- “ Chúng tôi được trên giao nhiệm vụ quản lý các ông, cải tạo viên chính trị. Phạm nhân chính trị có quy chế riêng. Trại sẽ áp dụng đúng quy chế ấy đối với các ông. Tôi mong các ông chấp hành nội qui nghiêm chỉnh để trại chúng tôi thực hiện tốt mục đích trên giao mà các ông cũng tạo được kết quả bước đầu trong học tập cải tạo”.
Khác với cán bộ CS thường thay, trại trưởng Yên Hạ nói ngay vào vấn đề, ngắn gọn, cụ thể – không lèm bèm chửi mắng mà cũng không lý thuyết chính trị rẻ tiền.
Nhưng điều đặc biệt là tù nhân chúng tôi chưa bao giờ nghe thấy ở đâu là ông cụ Việt này gọi chúng tôi là “các ông”.
Sau tháng 4 đen 75, chúng tôi tự biết mình đang đi xuống nấc thang thứ bét của xã hội, thuộc vào giai cấp bị triệt tiêu, chưa bị hành hạ, bắn giết lúc nào là may lúc ấy.
Có bao giờ chúng tôi nghĩ rằng mình lại được gọi là “các ông” như thế.
Tìm hiểu về người trại trưởng, tôi lại phải hỏi Kh. , người tù thâm niên ở đây. Được tiếp xúc với trại trưởng nhiều lần, nên Kh. dường như hiểu biết khá rõ về ông cụ Việt.
Kh. nói :
- "Ông ta là người có văn hóa, nói tiếng Pháp khá hay, nguyên là trưởng xa (chef train) của Sở Hỏa xa thời Pháp. ông ta hình như có tham gia hội kín, hội hở trước 1940 và sau mới chuyển theo Cách mạng.
Vì “quá trình” như thế nên bây giờ gần tuổi về hưu rồi mà cấp bậc vẫn lẹt đẹt trung tá.
Xem như tên trại phó Đặng U. dân răng đen mã tấu chính tông mới chưa đến 40 mà đã thiếu tá Công an rồi. Nó bóp còi qua mặt ông ta mấy hồi…”
Đây là trại tù chính thức của Công an miền Bắc , và tôi nhận ra rằng những trại tù sau này mà tôi sẽ đi qua đều có một kiến trúc tương tự.
Tường đá bao quanh cao chừng 4m (ở đây Sơn La “lưới núi” nên xây tường bằng đá hộc) , ở trên có chăng thêm 3 tầng dây thép gai chằng chịt.
4 góc có 4 chòi canh, công an bò vàng gác suốt ngày đêm, đầu giờ, cuối giờ kẻng đánh lia chia, gắt gỏng.
Ngay bên cạnh cổng giữa đi vào là văn phòng trực trại, nhìn vào một cái sân rộng gọi là sân “tập kết” nơi tù các đội tập họp đợi giờ xuất trại đi làm.
Cuối sân tập kết là Nhà Văn Hóa hay Hội trường, vừa là nơi hội họp, học tập toàn trại vừa là nơi trình diễn văn nghệ.
Dọc hai bên sân tập kết là 2 khu nhà . Gọi là khu A và khu B.
Mỗi khu lại chia ra nhiều lô nhỏ có tường bao quanh.
Mỗi lô có một nhà tù dài chia ra làm 2 lán.
Mỗi lán chứa 2 đội tù, từ 70 đến 100 người, tùy theo nhân số lúc vắng lúc đông.
Chúng tôi đến trại Yên Hạ này đầu mùa rét tháng 11 năm 1977 lúc tù rầm rộ kéo về mỗi người tù chỉ có được chừng 50cm vừa ăn vừa nằm chật cứng.
Khu A là khu dành cho chúng tôi, tù chính trị, khu B đối diện là khu hình sự.
Theo quy định nhà tù, lô này không được sang lô kia, nếu không có phép của trực trại, và khu này với khu kia thì tuyệt đối cấm không được lai vãng.
Một buổi trưa, chúng tôi vừa tạm thu xếp chỗ nằm xong chợt có tiếng la giật giọng từ bên khu B đối diện vọng sang :
- “ Chết tôi rồi, cứu tôi với. ôi cụ Việt ơi !”
Từ một lô nhà khu hình sự một người tù đang cố sức chạy ra sân tập kết. Nhưng anh ta chạy không được vì một cán bộ Công an bò vàng đang nắm tóc người tù kéo giật xuống mà lên gối.
Tiếng kêu cứu của người tù tắc nghẽn giữa những tiếng hự hự liên tiếp. Người cán bộ này ra đòn rất gọn rõ ra có nghề . Người tù rũ xuống như một đống giẻ rách mà cán bộ chưa tha.
Còn “sút” thêm mấy quả vào lưng vào bụng.
Chợt có tiếng ông cụ Việt từ một căn nhà gác ở bên ngoài cổng trại (ở dưới là văn phòng trại trưởng, ở trên là nơi ở) nói vọng vào :
- “ Cái gì thế ?”
Có tiếng trại trưởng là cán bộ mới từ từ bỏ đi…
Tù bên khu B mới ra cõng người tù hình sự vào nhà, hình như đã ngất đi, trào máu họng.
Vừa mới sang nhà tù Công an mà chúng tôi đã được “dàn chào” như vậy nên rét quá. Lại phải đi hỏi Kh. bạn tù thâm niên.
Kh. nói :
- Tù hình sự ở đây nó khiếp lắm. “Đầu gấư’ cả đấy. Hở ra là nó giết nhau ngay. Cho nên cán bộ an ninh kiêm chấp pháp chuẩn úy Trần M. mới dữ như vậy.
Nhưng trại trưởng ông cụ Việt thì ông ta không cho phép đánh tù. Có mặt ông là không được phép. Nhưng mà sau lưng ông là nó đánh ra gì. Đánh chết bỏ. Vài bữa nữa đi làm các bạn đi về phía Mường Thải, thấy có cái nghĩa địa mả cũ mả mới lô nhô, đó là chỗ tù theo nhau ra nằm ở đấy ”
– “ Tù chính trị cũng vậy à ”.
– “Cũng nằm một chỗ nhưng có khác. Mả tù chính trị thì hơn được cái bia, hoặc là bằng đá hoặc là bằng gỗ. Còn mả hình sự thì vùi nông một nấm, coi như xong.”
Sau vụ dàn chào ghê rợn, một số anh em tù cải tạo thầm thì to nhỏ với nhau rằng :
- “ Trại trưởng ông cụ Việt đóng vai ông Thiện, phó trưởng trại Đặng U. với cán bộ giáo dục (tức chính trị viên của trại) Nguyễn Hồng L., và cán bộ an ninh kiêm chấp pháp Trần M. đóng vai ông Ác. Đó là trò vừa đấm vừa xoa thường thấy.”
Nhưng ở lâu hơn, tôi thấy hai khuynh hướng này đối chọi nhau rõ rệt , không phải chỉ là sách lược đối phó nhất thời.
Đã gần hết năm, một buổi họp bàn về tổ chức vui Tết năm Ngọ (1978) được cán bộ giáo dục Nguyễn Hồng L. chủ trì. Anh cán bộ mặt gà mái này tuyên bố :
- “ Các anh sống một cuộc sống tay sai, trước là cho Pháp sau là cho Mỹ nên các anh thiếu văn hóa, hay là không có văn hóa.
Bây giờ đi cải tạo, Cách mạng phải hướng dẫn các anh, dạy dỗ các anh sống có văn hóa.
Trong dịp Tết này, trại dành cho các anh một nửa chương trình, một nửa cho khu A, một nửa cho khu B .
Các anh hãy rán theo đường lối của Cách mạng mà sửa soạn một chương trình văn nghệ, để xem các anh có mở mắt ra được chút nào không ?”
Còn ông trại trưởng ông cụ Việt, khi gặp ban Văn nghệ chúng tôi được triệu tập lo chương trình Tết thì ông cụ lại nhỏ nhẹ nói rằng :
- “ Tết là một ngày lễ truyền thống của dân tộc. Các ông là người có học. Tôi hi vọng các ông sẽ đóng góp được một chương trình văn nghệ có ý nghĩa”.
Cách ăn nói, thái độ khi tiếp xúc với chúng tôi của ông cụ Việt trại trưởng nói ôn tồn, thoải mái, không có vẻ nghiến răng căm thù như thường thấy nơi cán bộ CS.
Phải chăng nguồn gốc xuất thân của ông đã khiến ông có một niềm thông cảm tự nhiên đối với chúng tôi, những người tiểu tư sản thua quân mất đất.
Năm ấy chủ trương đấu tranh giai cấp còn rất mạnh; ở miền Nam đang vào cao điểm đánh tư sản, mại bản nên dân “Ngụy” chúng tôi từ trong tù cho đến ngoài xã hội được coi như một lũ “cùi” không ai dám đến gần.
Đúng theo quy luật, chúng tôi là giai cấp bị triệt tiêu.
Có những người bạn tù, có anh em ruột thịt làm lớn ở ngoài Bắc .
Những nhà CM ấy đã vào Nam nhận họ, nhận “hàng” , nhận tiền, nhận bạc để khi ra Bắc, nhờ mang một số quà đi thăm người thân cải tạo.
Nhưng dù là anh em ruột thịt, cùng mẹ cùng cha nhưng phần lớn các nhà CM ấy quên luôn, không dám đi thăm.
Dính líu với ngụy quân ngụy quyền là phản động.
- “Thời kỳ phát động chiến dịch, bố tôi bị đi cải tạo là tôi cũng phải quên bố tôi luôn nếu tôi muốn có sổ gạo, có bát cơm mà ăn, huống hồ là anh em họ hàng”, một người tù hình sự đã nói với tôi như vậy.
Thế mà ở đây đang mùa đánh tư sản mại bản, ông cụ Việt chánh giám thị trại tù lại gọi chúng tôi là [b]“các ông” [/]b.
Tôi chưa gặp ở đâu, cai tù CS lại gọi , đối xử với tù nhân như vậy…
Trại triệu tập ban Văn nghệ tù chính trị bằng hai cách.
Theo nghề nghiệp trước đây ghi trong hồ sơ và tin tức nhận được về những người tù có khả năng văn nghệ.
Một người bạn của tôi được gọi ra thành lập ban kịch.
Đó là bạn Nguyễn Văn Th. nguyên đạo diễn điện ảnh và sân khấu.
Anh cũng là người được giải thưởng văn chương toàn quốc thời Đệ nhất Cộng hòa… cùng với nhà văn Nguyễn Mạnh Côn.
Th. già là bạn cùng khóa 2 Thủ Đức và cùng ngành Chiến tranh Chính trị với tôi nên một bữa Th. tìm gặp tôi và nói :
- “ Cán bộ chính trị nó chửi mình nặng như thế thì dù là tù đi nữa, mình cũng phải làm cái gì chứ ông”.
Nể lời bạn nên tôi cũng vào ban văn nghệ với một nhiệm vụ khiêm nhượng [b]“phụ tá khói lửa”[/]b.
Ở miền Bắc, kịch cũng như điện ảnh bao nhiêu năm qua đều sống với đề tài chiến tranh nên tổ chức nào cũng phải có người lo về khói lửa tức là vấn đề kỹ xảo về súng bắn, mìn nổ, lửa cháy, v.v…
Nhưng nhiệm vụ khởi đầu của tôi chỉ là đem đến ban kịch một cái nùi rơm và cái điếu cày để anh em giải lao hút thuốc.
Ngẫm ra rất đúng với nhiệm vụ được giao :
Có khói và có lửa.
Các bộ đội đang tò mò ngắm nghía một cái radio, có lẽ được người phụ nữ trong hình chào bán.
Nguyễn Văn Th. được lệnh viết một cái kịch ngắn cho anh em trình diễn. Nhưng mà bạn tôi kẹt, viết mãi không ra. Một bữa tôi mới nói với Th. :
- “ Mình “sức voi” mà đi viết kịch.
Tư tưởng mình khác, tư tưởng của họ khác.
Đầu óc họ luôn luôn căm thù, nghi kỵ, không khéo rồi bút sa gà chết. Tại sao mình không lấy kịch của họ mà “chơi ?”
– “ Nhưng mà kịch của họ, nó chỉ chửi bố mình không làm sao mà diễn”, Th. đủng đỉnh trả lời như vậy.
QUA CƠN MÊ ( HAY VĂN NGHỆ TẾT TRONG TRẠI TÙ YÊN BÁI )
Vua Quang Trung và đại quân tiến vào giải phóng Thăng Long. Tranh sơn dầu tại Bảo tàng Quang Trung ở Bình Định.
Khi mới về trại, tôi có thời gian lo liên lạc mượn một số sách, báo cho anh em, nên tôi biết thư viện trại có một số kịch bản.
Trong trường kịch Quang Trung của Trúc Đường có một màn có thể tách ra diễn được.
Tôi ngỏ ý với Th. già :
“ Màn Lửa Kinh Thành " trong kịch Quang Trung này viết khá. Nếu chơi màn kịch này, mình có 2 điều lợi.
Thứ nhất mình không mất công viết, kịch của họ, tác giả của họ mình khỏi lo về phần tư tưởng.
Thứ hai kịch lịch sử nên anh em ta không có mặc cảm khi tập và khi diễn.
Như thế may ra mới có “chút lửa” cho anh em.
Tôi đưa kịch bản Lửa Kinh Thành cho Th. đọc và bạn tôi đồng ý ; sau đó kịch được đưa lên ban Giáo dục duyệt.
Trong khi đó bộ phận nhạc do một số anh em ngành Tâm lý chiến đảm trách lo hát đồng ca, tốp ca, đơn ca và độc tấu tây ban cầm.
Anh em bên nhạc cũng đồng ý chọn trình bày những bài ca ít sắt máu, ít căm thù mà vẫn bàng bạc một tấm lòng yêu quê hương xứ sở.
Chương trình tổng quát được chuẩn y, gồm 30 phút ca nhạc, một giờ kịch, anh em bắt đầu vào tập dượt.
Chúng tôi tập ở trên Hội trường, anh em hình sự tập trong một căn nhà khu B.
Chúng tôi được biết anh em hình sự được nghỉ lao động ăn tập trước chúng tôi 2 tuần theo một chương trình đã được công diễn từ những năm trước, nay chỉ ôn luyện lại cho thuần thục.
Nửa buổi, khi chúng tôi đang uống nước cầm hơi thì anh em văn nghệ hình sự xuống nhà bếp đem về một rổ khoai lang “bồi dưỡng”. .
Theo như chúng tôi cảm nhận, ban Giáo dục trại đang dốc hết tâm lực để phần trình diễn của anh em hình sự nhuần nhuyễn, vượt trội hơn phần văn nghệ của tù chính trị, nhằm “dạy cho tụi ngụy một bài học về văn hóa” .
Anh em trong ban Văn nghệ khu A tuy không nói ra nhưng cảm thấy có trách nhiệm trong trò chơi văn nghệ của mình. Đói thì đói nhưng anh em tập dượt hết mình.
CẢ NƯỚC LÀM BẠN VỚI KHOAI MÌ , KHOAI LANG
Còn gần một tháng nữa mới đến Tết nhưng không khí thi đua văn nghệ giữa 2 khu A, B đã lan truyền khắp trại.
Anh em khu A đi làm ngoài, có bữa kiếm được củ khoai, miếng sắn lại dấm dúi đem cho.
Chúng tôi hiểu được sự chăm lo, kỳ vọng của anh em. Cuộc chiến tranh quân sự tàn rồi, cuộc chiến tranh văn hóa còn đang tiếp diễn.
Một hôm đang nửa buổi, trại trưởng ông cụ Việt vào hội trường dự khán anh em chúng tôi tập dượt. Thấy gần trưa rồi mà ban Văn nghệ khu A vẫn tập xuông , ông cụ hỏi :
- “ Anh em không nghỉ ăn bồi dưỡng hay sao ?”
Mấy người có trách nhiệm mới trình bày với trại trưởng là chúng tôi vẫn tập “xuông” không có “bồi dưỡng”.
Ông cụ Việt liền cho gọi thi đua (mấy anh tù được cất nhắc lên làm chân chạy việc cho ban giám thị) lên chỉ thị :
- “ Cung cấp ngay chế độ bổi dưỡng hằng ngày cho đội văn nghệ khu A”. Ông cụ còn dặn thêm :
- “ Lệnh trại trưởng cấp thêm cho mỗi đội văn nghệ của A lẫn B mỗi ngày một gói trà. Anh em tập dượt ca, kịch cần thấm giọng”.
Thế là hàng ngày, “phụ tá khói lửa” là tôi lại thêm việc đun nước pha trà cho anh em nhấm nháp.
Đi vào thực hiện kịch lịch sử đối với chúng tôi, nó có ưu điểm nhưng cùng một lúc nó kéo theo nhiều điều phức tạp.
- Thứ nhất tập dượt cầu kỳ.
Người “ngày xưa” ăn nói cử chỉ khác người ngày nay.
Một ông quan văn với một ông quan võ chào hỏi, vuốt râu nó khác nhau , không giống nhau.
Cách phát âm hay nói theo giọng nhà nghề “đài từ” của kịch lịch sử khác với kịch thời đại.
Hơn nữa trang trí sân khấu, cách phục sức cho nhân vật kịch “ngày xưa” nó đòi hỏi nhiều nghiên cứu, nhiều phụ tùng hơn kịch “bây giờ”, cái kho đạo cụ của trại không thỏa mãn được.
Vào việc đạo diễn Th. già bấn xúc xích về việc dàn cảnh, về đạo cụ nên bạn già yêu cầu tôi lo giúp về phần tập luyện.
Bạn Th. già biết dạo xưa tôi có sinh hoạt trong Sông Hồng Kịch Xã ở Hà Nội trước khi động viên vào quân đội, trong khi đó Th. già viết cho báo Giang Sơn. Chúng tôi biết nhau từ ngày ấy.
Vả chăng tôi vốn sinh trưởng ở nhà quê mà làng tôi vốn là đất chèo, có một phường chèo thường trực ở trong làng nên tự nhiên tôi quen thuộc với một số ước lệ của tuồng, chèo cổ.
Những năm đi kháng chiến ngoài bưng, tôi đi theo một đoàn Tuyên truyền xung phong nên tôi cũng tàm tạm có một số kinh nghiệm về sân khấu.
Cho nên nhận lời bạn già, tôi đang là “phụ tá khói lửa” lại thêm một chức vụ nữa “phụ tá đạo diễn” .
- Đinh Đề Lĩnh, trấn thủ Thăng Long; thất vọng trước sự yếu hèn của hôn quân Lê Chiêu Thống, căm hận trước sự tham tàn bạo ngược của quân tướng nhà Thanh nên phút cuối cùng Đinh Để Lĩnh nghe theo lời khuyến dụ của La Sơn Phu Tử, đặc sứ của vua Quang Trung Nguyễn Huệ, mở cửa thành, đốt kho lương thảo khi nghĩa quân tấn công.
Vai chính Đinh Đề Linh do Nguyễn Huy T., đại úy Tự Do cục Tâm lý chiến đảm trách.
T. là một con người tài hoa, hát hay, nhảy giỏi, dáng người cao mà thanh, vừa văn vừa võ, đã nhập vai Đinh Để Linh rất đẹp.
Anh chơi kịch từ thời sinh viên nên có đủ bản lĩnh trên sân khấu vừa say mê vừa tỉnh táo.
Vai La Sơn Phu Tử do Nguyễn T. cũng đại úy bên Tổng cục Chiến tranh Chính trị (người ở Seattle vừa viết thư cho tôi) nhận lãnh.
Nguyễn T. vốn là em một người bạn tôi, nên tôi biết T. từ khi chưa bị động viên vào quân đội.
T. đi Hướng đạo nên quen thuộc với sân khấu.
T. không dám tin ở tài sức của mình nhưng tôi khuyến khích T. nhận vai La Sơn Phu Tử. T. vốn người Thanh Hóa, nói được giọng già, dáng người văn nhã mà cứng cỏi, lại chuyển sang gíọng Nghệ An – Hà Tĩnh rất ngọt nên có đầy đủ dáng vẻ của một mưu sĩ “đàng trong”.
Một vai phản diện rất gay là vai tướng nhà Thanh, nói tiếng Việt ngọng líu ngọng lo mà tham dâm hiếu sắc do Trung tá Lê Văn Hóa, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn văn nghệ Quân đoàn 4 phụ trách.
Anh là người tràn đầy kinh nghiệm sân khấu lại thêm là “vua cười” của đội, luôn mồm hát, no cũng hát, đói cũng hát :
- “Ngộ bên Tàu à… ngộ mới sang – sang Nam Việt bán buôn làm giàu…” nên vai tướng Tàu như là vai viết riêng cho anh vậy.
QUA CƠN MÊ ( HAY VĂN NGHỆ TẾT TRONG TRẠI TÙ YÊN BÁI )
Người nữ độc nhất, cô chủ quán mê hoặc tướng Tàu do đại úy Tôn Thất L. thủ vai.
Anh đi tù cực khổ, đói khát như vậy mà vẫn da trắng tóc dài, mắt sắc như dao làm gái Thăng long rất đẹp.
Riêng có một vai quê mùa, vai ông già chăn ngựa thọt chân, luôn luôn say xỉn do một đại úy Cảnh sát đảm nhận vai mà tập mãi chưa vô.
Anh có nhân dáng quê mùa, cục mịch, say mê vai diễn nhưng tiếng cười, giọng nói của anh nó văn minh quá, thành thị quá thiếu mất chất nhà quê. Mà đây là vai quần chúng vai đại diện cho nhân dân phản kháng nên trại để ý lắm.
Thiếu úy Công an Q. đại diện cho phòng Giáo dục, hằng ngày theo dõi chúng tôi tập dượt, lắc đầu trước vai ông già chăn ngựa mà phê bình đủng đỉnh “chưa được” .
Sau rồi, đạo diễn Th. già mới tham khảo ý kiến anh em mà bảo tôi rằng :
- “ Ông khỏi mất công dượt cho anh ấy nữa. Ông thì vừa già, vừa chân tập tễnh, lại vừa có chất quê… thế thì ông chơi ngay cái vai ấy đi cho nó tiện việc sổ sách.”
Anh em cũng ồn ào đề nghị nên tôi lại kiêm luôn vai cụ Triệu ông già chăn ngựa.
Sở dĩ đạo diễn Th. già và tôi chú ý đến giọng nói là vì khi diễn kịch ở đây, chúng tôi diễn “chay” không có ban nhạc làm nền (background music).
Vì vậy phải đặt trọng tâm vào giọng “thoại”, đưa vào đó nhiều màu sắc để phần nào quên đi cái thiếu vắng nhạc nền kia.
Có giọng Bắc trầm hùng cứng cỏi của Đinh Đề Lĩnh, giọng miền Trung uyển chuyển, sâu sắc của La Sơn Phu Tử, giọng ngọng nghịu của tướng Tàu, giọng Bắc pha Huế đài các của cô chủ quán, giọng quê mùa bạo liệt của ông già chăn ngựa.
Nút kịch được thắt khi La Sơn Phu Tử đang đêm được ông già chăn ngựa nhà ở gần bên đưa vào gặp Đinh Đề Lĩnh ở tư dinh, thuyết điều hơn, lẽ thiệt.
Kịch được thắt thêm 1 nút khi tướng Tàu sục sạo đi tìm cô chủ quán xinh đẹp bất ngờ xộc vào tư dinh Đinh Đề Lĩnh khi La Sơn Phu Tử còn đang hiện diện.
Để tránh cho cơ mưu của “đàng trong” đừng bại lộ, cũng là cởi nút cho vở kịch… ông già chăn ngựa liền dũng cảm nhảy vào đâm chết tướng Tàu rồi cùng chết.
Cái chết bất ngờ của ông già chăn ngựa như một giọt nước làm tràn ly khiến Đinh Đề Lĩnh còn đang do dự, chuyển hẳn sang thế nghĩa quân… mở cửa thành, đốt kho lương thảo khi đại quân vua Quang Trung tràn tới.
Sau đó, bình minh ngày 5 tháng 1 năm Kỷ Dậu cũng vừa hiển hiện.
Để lo việc trang trí sân khấu và phục sức cho nhân vật kịch, trung tá Quân cụ Tr., nguyên sinh viên Mỹ Thuật ngày nào bây giờ là trưởng ban đạo cụ liền đem cái tài hoa còn lại của mình sửa chữa mấy đôi bốt hư của cán bộ thành hia cho văn quan, võ tướng nhà Lê , cải biến mấy cái mền dạ cũ màu đỏ, màu xám thành nhung y cho Đinh Đề Lĩnh, cho tướng nhà Thanh.
Mấy cái đường kẻ đen trên tấm mền đỏ ngày nào bây giờ dưới bàn tay thần tình của Tr. đã biến thành hoa văn “thủy ba sóng rợn”.
Tướng nhà Thanh thì nhung y lẫm liệt, hia mão đàng hoàng.
Nhưng khi Đinh Dề Lĩnh, võ quan nhị phẩm triều đình đội mão theo đúng nghi thức thì tôi có ý kiến là Đinh Đề Lĩnh không nên đội mão chỉ nên đội khăn.
Đội mão xem ra nó “cải lương” hơn, không truyền thống bằng cái khăn lượt Việt Nam.
Đạo diễn Th. già đồng ý. Anh Tr. cũng đồng ý tuy rằng anh rất tiếc chiếc mão “võ quan nhị phẩm” rất công phu của anh.
Trong thành tích trang trí tư dinh của Đinh Đề Lĩnh ngày Tết, anh Tr. đắc ý nhất là 3 chữ đại tự anh viết trên bức hoành phi (bằng giấy):
- Huyết do hồng. Tr. vừa là nghệ sĩ vừa là trí thức.
Th. già và tôi hiểu ý anh, nắm tay anh thông cảm.
Thiếu úy Công an Q. người thường xuyên sinh hoạt với chúng tôi một bữa mới hỏi Th. già về ý nghĩa mấy chữ nho này. Th. giải thích :
Đây là 3 chữ cuối trong vế đối, nhắc lại chiến công chống xâm lược phương Bắc của tiền nhân “Đằng Giang tự cổ Huyết do hồng” (Nước sông Bạch Đằng từ xưa đến nay vẫn còn đỏ máu) .
Tôi thấy Thiếu úy Q gật gù, ngẫm nghĩ, và từ đó thái độ đối với chúng tôi có khác.
Anh em chúng tôi dù sống kiếp tội đồ khổ sở, đói khát nhưng trong công tác văn nghệ này ai củng cố gắng đóng góp một chút gì, để hi vọng nói lên rằng :
Chúng tôi thua trận, bị cầm tù, bị lăng mạ nhưng chúng tôi có văn hóa theo cách riêng của chúng tôi.
QUA CƠN MÊ ( HAY VĂN NGHỆ TẾT TRONG TRẠI TÙ YÊN BÁI )
VÀI NGÔI MỘ CỦA NHỮNG NGƯỜI TÙ CẢI TẠO !
Bữa tổng dượt có mặt đủ ban Giám thị trại, chương trình của khu A chúng tôi được cán bộ giáo dục Nguyễn Hồng L. chăm chút rất kỹ.
Y ta để ý rất nhiều đến những sự “đóng góp” của chúng tôi vào vở kịch, hỏi khá kỹ về câu đối :
“ Đằng Giang tự cổ huyết do hồng “ .
Vốn bản tính đa nghi nên y không muốn đưa vào bất cứ điều gì không có trong kịch bản.
Ông cụ Việt, có lẽ ông ta là người rộng rãi kiến văn nên ông cụ nói :
- “ Tư dinh một viên võ tướng có tâm hồn với đất nước mà treo bức hoành Đằng Giang tự cổ huyết do hồng thì được lắm. Để đối phó với cường lân phương Bắc lại càng hay nữa .”
Nhưng cán bộ giáo dục tỏ ý ngần ngại , khi chúng tôi định hát đoạn đầu của bài Thăng Long Hành Khúc của Văn Cao vào đoạn kết của vở kịch.
Nguyên văn trong kịch bản chỉ có :
- “ tiếng hô sát của đại quân ta nhỏ dần rồi màn hạ ”.
Ở đây chúng tôi trong hậu trường sẽ hô “sát, sát” đồng loạt rồi hát từ từ nhỏ đến to dần lên :
- “ Cùng ngước mắt về phương Thăng Long thành cao đứng, trông khói sương chiều ám trên dòng sông.
Nhị Hà còn kia Nhị Hà còn đó, lũ quân giặc Tôn sập cầu trôi đầy sông.”
Màn từ từ khép và đến đó là dứt kịch.
Chúng tôi muốn cho cái “ coup de rideau " nó thêm sức thuyết phục.
Đã thử lại lúc màn hạ này mà không có tiếng đồng ca Thăng Long Hành Khúc ở bên trong. Nó nguội đi nhiều lắm.
Cán bộ giáo dục cuối cùng chấp nhận “cách đạo diễn” của chúng tôi nhưng nhất quyết không bằng lòng 2 chữ “giặc Tôn” mà phải đổi ra là nhà Thanh “cho nó rõ nghĩa” (chữ của y ta, bởi vì giặc Tôn có thể liên tưởng đến Tôn Đức Thắng chăng?).
Tối 30 Tết, trại Yên Hạ nôn nả hẳn lên. Mới 7 giờ đêm, mà hội trường đã chật cứng.
Phạm nhân khu A ngồi bên phải. Khu B bên trái.
Những dãy ghế phía trên là dành cho quan khách, gồm cán bộ khung xã sở tại, huyện ủy Phù Yên, cán bộ Công an và gia đình.
Cứ như ý kiến bữa tổng dượt thì đêm 30 Tết, ban Văn nghệ sẽ diễn trong trại.
Mồng 4 Tết chúng tôi sẽ ra huyện lỵ Phù Yên diễn cho dân chúng tới xem.
Cho nên buổi diễn hôm nay là buổi diễn trong chương trình vui Tết đón Giao thừa, vừa là buổi phúc khảo trước khi ban Văn nghệ “đem chuông đi đấm xứ người”.
Chương trình khu B, bên hình sự được diễn đầu tiên. Cũng đồng ca, đơn ca, một màn kịch ngắn “đánh Mỹ” và kết bằng màn dân ca Quan họ Bắc Ninh.
Anh em hình sự chơi chương trình này đã “thuộc” nên đối đáp, tung hứng rất là nhuần nhuyễn. Nhưng vì “bổn cũ soạn lại” nên nó làm cho tù chính trị chúng tôi chăm chú hơn là khán giả sở tại.
Bên hình sự có một ca sĩ tên Ng. hát rất hay, rất kỹ thuật; nghe nói anh ta đã tốt nghiệp thanh nhạc nên hát đâu có thua gì ca sĩ trên đài phát thanh. Ca sĩ bị tù mút mùa vì nghe nói anh mắc tội làm tem, phiếu giả.
Kịch “đánh Mỹ” thì không có gì mới. Vẫn theo công thức cũ.
- “ Mỹ cút, ngụy nhào, quân ta kẻ thù nào cũng đánh thắng, khó khăn nào cũng vượt qua”.
Nhưng phải công nhận anh em hình sự chơi nhạc cảnh Quan họ “Mời trầu, giã bạn” rất đằm thắm, ý nhị và duyên dáng. Đây là một tiết mục hay.
Khi anh em cúi đầu chào khán giả, chúng tôi dù ở trên sân khấu, đang sửa soạn “ra trò” mà chúng tôi cũng không ngừng vỗ tay tán thưởng.
Đoàn trưởng đoàn kịch khu B. Quách H., đứng ở cánh gà phía bên kia, đứng nghiêm, để tay lên ngực cúi đầu chào lại chúng tôi như một sự cảm thông cái tình tri âm, tri kỷ.
QUA CƠN MÊ ( HAY VĂN NGHỆ TẾT TRONG TRẠI TÙ YÊN BÁI )
Có lẽ “cái đinh” của đêm văn nghệ hôm nay đối với khán giả địa phương là Văn nghệ khu A, tù chính trị.
Họ chưa bao giờ được biết miền Nam thật sự như thế nào ? Miền Nam đã thua, đã tan nát nhưng những tàn dư của miền Nam, lũ tù chính trị chúng tôi, vẫn còn đây.
Họ đã được nghe “nhà nước ta”nói rất nhiều về miền Nam, nhưng “trăm nghe sao bằng một thấy”.
Văn nghệ, là một thái độ sống. Họ muốn biết thái độ sống của miền Nam thế nào qua những đại diện khốn khổ nhưng trung thực là chúng tôi
Chúng tôi cũng cảm nhận được điều đó nhưng trong tình trạng tù đày, bó buộc như thế này, biết ăn, biết nói làm sao ? Thôi thì “sức người có hạn, được đến đâu hay đến đó”.“
Trận đánh Cầu Tân Cảng, Sài Gòn sáng 30/4/1975. Csbv tấn công vào thành phố, dân lãnh đủ Lính VNCH vừa chiến đấu vừa cấp cứu cho dâ
Qua mấy màn ca nhạc, đồng ca, đơn ca, tôi nghiệm ra là về kỹ thuật, chúng tôi không sánh bằng anh em hình sự. Điều dễ dàng nhận thấy là tù chính trị già hơn, nên hơi hám kém hơn. Nhưng hiệu quả sân khấu thì chưa chắc ai hơn ai.
Lấy ví dụ như ca sĩ Văn B . của chúng tôi hát làm sao tốt bằng, khỏe bằng Ng. bên khu B, nhưng khi anh hát xong tiếng vỗ tay có lẽ nhiều hơn, nồng ấm hơn.
Ng. hát giọng ngực, lớn, vang nhưng anh hát theo lề lối thường thấy ở ngoài Bắc, không rõ lời.Nhiều khi không biết anh hát cái gì nữa chỉ thấy trước sau iọng ngân vang rền rĩ mà thôi.
Còn Văn B. anh là ca sĩ tài tử (ngoài Bắc kêu bằng nghiệp dư, thích thì hát chơi không phải nhà nghề) nên hát bài nào anh phổ tâm tình vào bài hát đó.
Anh không trưng bày giọng hát mà như văn nghệ thường thấy ở miền Nam, anh có một tâm sự để mà kể lại.
Anh thuộc loại ca sĩ trữ tình (chanteur de charme) không phải ca sĩ Opera như khuynh hướng ngoài Bắc. Cho nên nghe Văn B . ca sĩ miền Nam, hát không giỏi bằng, không khỏe bằng nhưng nó dễ nghe hơn, nó thấm thía hơn, nó con người hơn. Mà cũng có thể vì cách hát của anh khác lạ hơn nên anh được chú ý và tán thưởng.
QUA CƠN MÊ ( HAY VĂN NGHỆ TẾT TRONG TRẠI TÙ YÊN BÁI )
Tiết mục gây được nhiều tiếng cười sảng khoái là màn tốp ca.
Anh em chúng tôi dựng tiết mục này theo lối AVT, nhằm kiếm được nụ cười trong tình trạng tối ám của nhà tù. Mà điều này cũng là một thực tế. Chúng tôi là phạm nhân nhưng trong đời sống chúng tôi vui cười nhiều hơn cán bộ coi tù.
Ở ngoài Bắc, hoặc là người ta sống căng thẳng quá hoặc là người ta phải ngụy trang lối sống cho nên phần đông mọi người mặt khó đăm đăm.
Đây là bệnh táo bón tinh thần thường thấy nơi xã hội thiếu tự do.
Ba bạn Đỗ H., Văn B., Trịnh P. hát hò, đối đáp với nhau thoải mái.
- “ Cái gì nhúc nhích là ta chén liền “.
Tiếng cười đồng cảm vang lên. Từ cánh gà nhìn xuống, tiếng cười lan tỏa chỉ có người cau mặt là cán bộ giáo dục…
Màn gây ấn tượng sâu sắc là độc tấu Tây ban cầm. Đây là loại đàn nhiều người chơi. Nhưng tập tành đến nơi đến chốn chơi được nhạc cổ điển hay bán cổ điển thì có rất ít người.
Người anh em chơi Tây ban cầm của chúng tôi đã có trên 10 năm cầm đàn. Anh bữa ấy độc tấu một bản bán cổ điển. Một cây đàn Tây ban cầm mà như một dàn nhạc. Có lúc réo rắt như violon, lúc nhảy nhót như mandoline, khi rộn rã như piano, khi trầm hùng như một đoàn quân nhạc đón đoàn chiến binh chiến thắng trở về .
Tôi nghĩ đám đông khán giả kia chưa chắc đã hiểu hết ý nghĩa của bài vừa diễn tấu nhưng nhìn bàn tay buông bắt đầy kỹ xảo, nghe âm thanh tiết tấu phong phú, họ hiểu rằng chơi đàn như vậy là một kỳ công. Kỳ công ấy là văn hóa.
Bây giờ bắt đầu tiết mục cuối cùng, tiết mục chủ yếu chấm dứt đêm văn nghệ, kịch Lửa Kinh Thành, trung tâm đầu tư công sức của chúng tôi.
Tôi nhìn suốt một lượt. Sân khấu đã trang trí chỉnh tề. Diễn viên đã sẵn sàng, đạo cụ đầy đủ. Th. già nhìn tôi. Tôi giơ tay ra dấu sẵn sàng.
Trưởng ban đạo cụ kiêm trang trí sân khấu, họa sĩ Tr. đưa cho Th. một thanh gỗ. Rất trịnh trọng Th., nhà đạo diễn giơ cao thanh gỗ nện 3 lần xuống sàn sân khấu. 3 tiếng gõ truyền thống của sân khấu kịch bắt đầu.
Màn từ từ mở.
Tư dinh quan Đề Lĩnh với hoành phi, câu đối, lộ bộ, cờ hiệu trên án thư, kiếm treo trên tường đã phút chốc đưa người xem về không khí trang trọng và sương kính của thế kỷ 18.
Một tràng pháo muộn của đêm mồng 4 Tết từ đâu vẳng lại.
Đinh Đề Lĩnh, võ phục uy nghiêm, lưng mang đoản kiếm tiến lại gần án thư, cúi mặt thở dài.
Chợt lính hầu khép nép hiện ra chắp tay thưa :
– Bẩm quan, người vừa đi chầu về.
– Có chầu chực gì được đâu. Hoàng thượng còn bận sang hầu Tôn Tổng đốc… Ở nhà có chuyện gì không ?
– Bẩm quan, có ông cụ Triệu mấy lần sang kêu về cỏ ngựa.
(Có tiếng i ới bên ngoài vang lên :
- Quan lớn về chưa ?) Đấy lại có tiếng ông cụ…
– Ra mời ông cụ Triệu vào đây.
(Ông cụ Triệu, ông già chăn ngựa, tập tễnh vì thọt chân, lảo đảo vì say rượu, chầm chậm bước vào).
– Xin kính chào quan lớn.
– À cụ Triệu (giọng độ lượng), Thế nào ? Cụ đã làm lễ tạ ông vải chưa?
– Bẩm quan, các cụ nhà tôi có về đâu mà tiễn. Con cháu còn không đủ ăn lấy gì mà thỉnh các cụ.
Bẩm quan, từ ngày Hoàng thượng hồi loan đến giờ, nhờ ơn Hoàng thượng mà cả nước này đói xanh xao cả người ra đấy quan lớn ạ.
Vừa nghe đến đó, [/i][/color][/size][/b]cả khối B hình sự như chạm phải một luồng điện, vùng lên vừa vỗ tay vừa cười la ầm ĩ.
Qua nửa chương trình, tôi nghiệm ra khán giả khu B thưởng thức văn nghệ rất nhạy bén.
Không thích là ồ, là suỵt, là thở dài ào ào, mà thích là vỗ tay là cười la thoải mái .
Ở đây kịch vừa mới bắt đầu, động tác chưa “chuyển” , tại sao anh em lại hoan nghênh như vậy ?
Sau hỏi ra mới biết là chưa có ở đâu dám động đến cái đói thâm căn cố đế của miền Bắc như vậy.
Cả nước đói “xanh xao” mà vẫn phải luôn miệng “ơn đảng ơn người”.
Đến những cảnh sau, khi động đến sự thối nát của đương triều, sự bạo ngược của đoàn quân họ Tôn là anh em hình sự lại vỗ tay rôm rả.
- “ Cái quân họ Tôn này là nó vừa trí trá vừa ngông cuồng ” (vỗ tay).
- “ Tại sao nhà Lê lại có một ông vua ươn hèn như vậy, cõng rắn cắn gà nhà (vỗ tay rất lâu).
Người miền Bắc sống dưới một chế độ chuyên chính lâu ngày, đã trở thành một vương quốc nói dối. Không ai dám công khai nói thực ý kiến của mình. Có nói là phải nói gần nói xa, nói cạnh nói khóe.
Đói phải nói là no, khổ phải nói là sướng. Đang trong tình trạng ấm ức như thế, ơn đảng ơn người như thế mà bây giờ có người dám nói thẳng ra giữa chốn trù nhân quảng tọa là :
- " Từ ngày Hoàng thượng hồi loan đên giờ nhờ ơn Hoàng thượng mà cả nước đói xanh xao cả người ” thì dân hình sự nghe nó sướng quá, nó thỏa mãn quá.
Nói đến quân họ Tôn thì họ không nghĩ đến Tôn Sĩ Nghị mà nghĩ đến Tôn Đức Thắng”.
Ông vua nhà Lê ươn hèn thối nát họ không nghĩ đến vua Lê Chiêu Thống mà lại nghĩ đến ông “vua” Lê Duẩn đương thời.
Thực tình khi trình diễn chúng tôí không hề có hậu ý đó. Chỉ cốt tìm một kịch lịch sử để cho anh em có chỗ diễn mà thôi, những sự kiện trên hoàn toàn là sự ttùng hợp tình cờ
. Nhưng anh em hình sự lại nghĩ chúng tôi cố ý nên khi vở kịch kết thúc là anh em hình sự đứng dậy vỗ tay như pháo nổ, nồi niêu xoong chảo gõ loạn lên, hoan hô kịch liệt.
Đội trưởng đội văn nghệ khu B, Quách H. chạy lại nói với Th. và tôi :
- “ Các đàn anh chơi kịch đâu ra đấy” .
Mấy chú hình sự “đồng nghiệp văn nghệ” thì chạy lại cõng Đinh Đề Lĩnh, La Sơn Phu Tử mà quay mòng mòng.
Điều làm trại phó Đặng U., cán bộ giáo dục Nguyễn Hồng L. và cán bộ an ninh kiêm chấp pháp Trần M. khó chịu hơn hết là họ muốn qua văn nghệ khu B dạy cho chúng tôi một bài học về văn hóa thì bây giờ chính anh em hình sự sau buổi trình diễn lại càng gần gũi thân thiết với chúng tôi hơn.
QUA CƠN MÊ ( HAY VĂN NGHỆ TẾT TRONG TRẠI TÙ YÊN BÁI )
Cái vui của đêm văn nghệ không kéo dài được bao lâu !.
Ngay mồng 2 Tết, còn đang ngày nghỉ, Th. và tôi cùng mấy anh em bên ca nhạc có lệnh đi họp với cán bộ giáo dục, đã nhận được một tin choáng váng
“ buôỉ diễn hôm mồng 4 Têt ngoài huyện Phù Yên được hủy bỏ . Đội văn nghệ nghiệp dư giải tán ngay sau kỳ nghỉ Têt”.
Chúng tôi phải về làm kiểm điểm về “những sai phạm trong công tác văn nghệ ”.
Ngày mồng 4 Tết trước khi nộp kiểm điểm, Th. và tôi được thiếu úy Q. phụ tá giáo dục, gọi ra nói khẽ :
- “ Trước sau như một, phải cam kết là diễn y như kịch bản, không thay đổi một chữ ”.
Không hiểu bạn tôi Th, làm kiểm điểm ra sao, riêng tôi cứ y thế thi hành. Có lẽ thiếu úy Q., người đi sát chúng tôi khi tập dượt, phần nào thông cảm chúng tôi sau hơn một tháng trời sát cánh nên chút thiên lương còn lại đã khiến y chỉ cho chúng tôi cái cạm bẫy mà chúng tôi cần tránh.
Nếu chúng tôi, trong khả năng thường thấy của đạo diễn, có sửa đổi kịch bản cho nó thêm phần sống động, là chúng tôi có thể bị ghép vào tôi
“bôi xấu chế độ có hệ thống” một trọng tội thuộc hàng quan điểm.
Thực ra chúng tôi chỉ linh động phần trang trí mà không hề đổi thay kịch bản một chữ nào.
Đương sự, phó trại trưởng Đặng U. đã chính thức lên trại trưởng khi Tết ra, cán bộ giáo dục Nguyễn Hồng L., cán bộ an ninh kiêm chấp pháp Trần M. khi đọc lại nguyên văn kịch bản của Trúc Đường chắc cũng nhận ra điều đó.
Nhưng người CS vốn luôn luôn cảnh giác, cảnh giác nhiều quá thành đa nghi nên mới “có tật giật mình” như thế.
Sau một tuần lễ kiểm điểm đi kiểm điểm lại, người chịu tội thay cho toàn thể ban văn nghệ khu A là bạn trẻ Đỗ H. bên phần nhạc.
Thật ra khi sáng tác ra bản nhạc vui kiểu AVT, nhiều anh em xúm lại cùng làm, trong đó có tôi.
Nhưng khi bị cán bộ giáo dục quy tội “bôi bác chế độ” trong câu “cái gì nhúc nhích là ta chén liền” Đỗ H. một mình nhận hết cho anh em.
Trong 3 người ca hát AVT, Đỗ H. cũng là người hát duyên dáng nhất, nên bị cán bộ gà mái Nguyễn Hồng L. cho rằng “nhảy dậm giựt phát huy văn hóa đồi trụy”.
Tôi thường ngày rất gần gũi Đỗ H., bởi vì H. ngoài việc tính tình khẳng khái, hát giỏi, thơ hay, anh còn là một người “biết sống” . Nửa đùa nửa thật nhiều lúc anh gọi tôi là “ông thầy”.
Có miếng khoai củ sắn anh thường chiếu cố đến tôi.
Một hôm trời mưa không đi ra ngoài làm được anh cũng “bồi dưỡng” tôi miếng sắn. Tôi thấy rõ ràng sắn khẩu phần của trại đâu phải sắn cải thiện bên ngoài. Cho nên dù luôn luôn đói, tôi không nhận củ sắn H. cho.
- “ Anh cứ ăn đi mà ” .
– “Chú mày coi tao ra làm sao mà lại đi ăn sắn khẩu phần của chú mày cho được”.
Đỗ H. đủng đỉnh :
- “ Nóỉ thật với anh, H. chỉ ăn môt nửa số sắn trại phát là đủ rồi. Tập cho cái bao tử nó quen đi. Chế độ này nó chỉ giỏi nắm cái bao tử của mình. Mình tập cho bao tử nó teo lại thì dù có bị nắm, nó cũng không ảnh hưởng bao nhiêu. Em thấy ngoài hiện trường anh cuốc hăng quá. Cuốc chút chút thôi chớ ”.
Nghe xong tôi mới tỉnh ra mà nói :
- “ Thôi chú mày đừng có gọi tao là ông thầy nữa, chú mày mới đúng là ông thầy của tụi tao”.
Người anh em của tôi, Đỗ H. bị lên làm việc trên phòng an ninh chấp pháp liên miên. Đỗ H. có nhắn một người bạn Nguyễn T. La Sơn Phu Tử nói với tôi là bất cứ ở đâu, trong trại ngoài hiện trường đừng gặp Đỗ H., coi như không quen biết.
Một buổi sớm mai, Đỗ H. được đi làm trở lại. Đỗ H. gầy rộc, mặt mũi vêu vao, thâm tím.
Sau này tôi mới biết, đối với tù chính trị, cán bộ khi cần không có đánh công khai. Gọi lên “làm việc”, đánh kín trong phòng chấp pháp.
QUA CƠN MÊ ( HAY VĂN NGHỆ TẾT TRONG TRẠI TÙ YÊN BÁI )
Từ ngày trại phó Đặng U. lên làm trại trưởng, lũ tù cải tạo chúng tôi gieo neo vất vả hơn nhiều. Khẩu phần ít đi, làm việc nhiều hơn. Làm quần quật ban ngày, đêm còn “ngồi đồng” bình bầu, tự phê, tự kiểm.. .
Trời đã sang tháng 3, hoa gạo đã bắt đầu nở đỏ, chim “bắt cô trói cột” mà cán bộ bắt chúng tôi gọi là chim “khó khăn khắc phục” đã ra rả ở đầu rừng.
Từ khi trại phó Đặng U. lên, tôi được thăng chức làm “phân cục trưởng” chuyên môn đi gánh c… Mỗi buổi sáng, gánh từ trại ra đội rau 3 chuyến là xong.
Chuyến cuốì cùng, tắm rửa xong ra về anh em chúng tôi bất ngờ gặp ông cụ Việt, nguyên trại trưởng đang ngồi trên chiếc xe đạp gần nhà kho của trại.
- “Thưa cụ, cụ từ trên huyện về thăm trại ”.
– “Vâng, các ông đi làm tôi về lĩnh chút tem, phiếu” .
,
Ngày ấy chế độ bao cấp còn thịnh hành, người ta sống bằng phiếu gạo, phiếu đường, phiếu sữa, phiếu bột ngọt, phiếu thuốc lá, thuốc lào, v.v… ông cụ Việt chắc chưa chuyển hộ khẩu về huyện Phù Yên nên hàng tháng vẫn phải lên trại lĩnh chút nhu yếu phẩm. Tôi nghĩ vậy.
Nhưng buổi chiều đi làm tôi vẫn gặp ông cụ ngồi trên chiếc xe đạp cũ bên cạnh cửa kho. Chưa ai phát nhu yếu phẩm cho ông cụ, mà cũng không ai mời ông cụ vào nghỉ chân qua lúc ban trưa.
Tôi tự nghĩ tại sao cùng là cán bộ với nhau, người ta lại phũ phàng với ông già như vậy? Tôi chợt nhớ đến câu nói của người tù hình sự khi mới về đây “Đang phát động chiến dịch đánh tư sản mại bản nếu bố tôi có bị đi cải tạo tôi cũngphải quên bố tôi luôn, nếu tôi muốn có bát cơm mà ăn “.
Sự nghỉ hưu bất ngờ và vội vã của ông cụ Việt có liên hệ gì đến việc ông cụ đối xử tử tế với tù nhân, đến việc ông gọi chúng tôi là “các ông” . Câu hỏi này cứ làm tôi băn khoăn thắc mắc mãi.
Bất giác, một người tù khổ sai biệt xứ là tôi lại thấy cảm thương một người cai tù già “cùng một lứa bên trời lận đận “.
Bạn T. “La Sơn Phu Tử” cái thư của bạn làm tôi bồi hồi nao nức về chuyện văn nghệ trong tù 19 năm xưa.
Bạn nói là có lúc nào chúng ta gặp lại nhau “chơi” lại cái màn kịch “Lửa Kinh Thành” không nhỉ ?
Khó lắm bạn ơi. Làm sao người ở lục địa này, người lục địa kia hội họp bên nhau cho được. Lại còn chuyện người còn kẻ mất.
“Tướng nhà Thanh”, người bạn Lê Văn Hóa của chúng ta đã đi rồi. Anh mất ở trại Thanh Phong rừng sâu Hạ Lào. Anh cứ phù lên xẹp xuống như “thủy triềư”.
Hôm cáng anh lên tuyến trên rồi nghe tin anh mất ở đó, nằm trên cáng mà anh vẫn hát “ò e con ma đánh đu, thằng Tây nhảy dù, Zoro bắn súng”. Người đâu mà lạ. Cười ngoài đời, cười trong tù, cười luôn khi sắp chết.
Bạn nói trong thư “ước gì chúng ta…” Bạn ơi nếu tôi có một điều ước, tôi ước mong cho ngày nào trời đất phong quang, chúng ta được trở về đất nước Việt Nam yêu dấu, muốn đi đâu thì đi.
Tôi sẽ đi tới những trại tù năm cũ, thăm lại người xưa, thăm lại các bạn tù chúng ta còn nằm lại.
Tôi sẽ tới trại Yên Hạ, tới quận Phù Yên hỏi xem ông cụ Việt trại trưởng năm xưa còn sống hay không ?
Nếu gặp được ông cụ tôi sẽ nắm lấy tay mà nói “Tôi là là cựu tù nhân Yên Hạ đây, cụ còn nhớ tôi không, thưa cụ ?”
Sáng nay tôi nhận được một mẫu tin nhắn trên Face Book từ một người tôi vừa biết vừa không biết.
Biết vì anh đã từng là người được tôi chăm sóc trong hai tuần ở Bệnh xá của trại tù Yên Bái khi anh bị kiết lỵ nặng phải đưa từ trại lên Bệnh xá.
Không biết vì giờ này tôi có cố moi óc cũng không thể tài nào hình dung ra anh là ai.
Bệnh nhân đến rồi đi, thầy thuốc có bao giờ nhớ hết mọi người!
"Kính anh Phước, tình cờ đọc bài " Củ khoai Yên Bái " nhớ đến anh nhiều (có thể anh không còn nhớ tôi!) lúc được anh điều trị cho sau khi được khiêng từ trại 12 ra trạm xá Yên Bái/Hoàng Liên Sơn, lúc đó anh, tuy là tù nhân Phước Long nhưng được tên " bác sĩ " VC tên Cán (?) ủy thác trị bệnh cho anh em QN/VNCH ở Liên trại 4.
Tuy ở tram xá có 2 tuần, vào thời điểm anh niên trưởng của chúng tôi là PĐT219 Nguyễn văn Nghĩa bệnh nặng và chết tại đó.
Anh cũng đã nhường phần (hồ) bột mì cho tôi " bồi dưỡng", nên chóng bình phục, tôi vẫn còn nhớ và mang ơn anh, hôm nay nhờ bè bạn KQ mách bảo cho nên muốn liên lạc với anh để tỏ lòng tri ân và gợi lại những kỷ niệm thời gian tù đầy gian khổ ngoài Bắc.
Mong thay.
KQ Trần quang Tuyến/USA.
Thân kính.
Mẫu tin nhỏ gợi tôi nhớ lại có một thời tôi đã từng ở nơi rừng sâu nước độc này.
Tháng Tư 1975 Sài Gòn rơi vào tay CS . Tháng Sáu 1976, CS ồ ạt chuyển tù từ miền Nam ra.
Tôi được điều về Bệnh xá của trại tù Yên Bái, Hoàng Liên Sơn.
Lúc ấy trong trại chỉ có tôi là bác sĩ, vì tôi bị bắt khá sớm trên chiến trường Phước Long như một tù binh ngay từ tháng Giêng 1975 rồi chuyển ra Bắc theo đường mòn HCM.
Bệnh xá gồm 80 giường :
- 20 giường cho bộ đội và 60 giường còn lại cho tù.
Đứng đầu là BS. Cán, thượng úy, ông ta điều trị cho bộ đội ; còn 60 giường của tù giao cho tôi.
Hai mươi giường của " khung" chỉ lèo tèo mấy tên bộ đội trông còn khỏe chán, chỉ về bệnh xá để nghỉ ngơi.
Ông BS Cán quá rảnh, không biết làm gì tiêu thời giờ nên đi nuôi gà và tăng gia trồng trọt để cải thiện thêm "chất tươi".
Trong khi 60 giường của tù lúc nào cũng " làm ăn khấm khá " , khách khứa ra vào tấp nập, nhất là khi có những trận bệnh bùng phát như kiết lỵ, sốt vàng da (Leptospirosis)…, đôi khi một giường phải nằm đến hai người.
Hình minh họa
Bệnh xá là tuyến điều trị đầu tiên và cũng là tuyến cuối cùng. Rất hiếm khi tù được chuyển lên tuyến cao hơn là BV Yên Bái.
Bệnh xá dụng cụ chẳng có gì, thuốc men lại vô cùng thiếu thốn. Tôi cũng chẳng có sách báo Y khoa gì để tham cứu, hay một người bác sĩ bạn để bàn luận khi gặp những trương hợp khó.
Tôi chỉ loay hoay, xoay trở trong mớ kiến thức còn rơi rớt lại trong đầu từ thuở còn học ở Y khoa Sài Gòn và lê lết ở các bệnh viện.
Cũng may Y khoa Sài Gòn đã đào tạo chúng tôi khá quy củ. Ngày xưa tôi oán mấy ông giáo sư lắm vì bắt bọn này học nhiều quá, mỗi lần thi cử nhìn đống cua cao ngất mà hãi hùng.
Sau đó khi đi thực tập ở BV Nguyễn Văn Học, Gia Định, tôi lại có dip học thêm bệnh truyền nhiễm từ GS. Joel D Brown, một bác sĩ chuyên môn về bệnh nhiễm trùng. [b][size=4][color=blue][i] Không ngờ những gì mình phải học chung chung để thi lên lớp và ra trường giờ mới thấy hữu dụng.
Tôi làm việc với cả tấm lòng và nhận lại những ánh mắt biết ơn của các bạn tù.
Chúng tôi là những kẻ "cùng một lứa bên trời lận đận" cả mà, làm sao không trải lòng với nhau ?
Nói thì có người cho tôi là đạo đức giả, chứ theo tôi đó là thời kỳ đẹp nhất trong đời thầy thuốc của tôi , vì tôi giúp được những người đang tha thiết mong chờ sự giúp đỡ của mình trong hoàn cảnh cùng khổ như nhau, hoàn toàn không dựa vào tiền bạc.
Ai cũng muốn sống sót để có ngày về với gia đình. Bệnh tật trong trại tù cũng nguy hiểm dễ đưa đến tử vong không khác gì khi xông pha lửa đạn trên trận mạc. Do đó mọi người rất quý mến tôi, vì tôi là cái phao cho những hy vọng của họ khi phải sống xa sự săn sóc của gia đình.
Nói thật tôi qua Úc, học lại rồi hành nghề ở Melbourne 25 năm trước khi về hưu, tất cả giao tiếp của tôi đối với bệnh nhân phần lớn đều dựa trên tiền bạc.
Có những buổi sáng tôi đứng sau hàng rào bệnh xá. Anh em đi lao động ngang qua, thấy tôi họ vẫy tay :
" BS. Phước! BS Phước !." Tôi thấy cả một niềm vui ấm áp dâng trào trong lòng. Cảm ơn những bạn tù khốn khổ của tôi !
Bệnh xá của tôi cuối cùng được bầu là đơn vị tiên tiến. Điều ấy có nghĩa là bệnh xá chúng tôi đã tiếp nhận bệnh nhân khá đông và tổ điều trị của chúng tôi cũng đã làm việc cật lực với những phương tiện hết sức nghèo nàn.
Bệnh xá của liên trại tù Yên Bái tuy là tuyến đầu tiên nhưng hầu như cũng là tuyến cuối cùng để điều trị tù nhân.
Từ ngày tôi về bệnh xá, chỉ có một trường hợp duy nhất bị gãy xương đùi được chuyển ra bệnh viện tỉnh Yên Bái, nhưng ba hôm sau bệnh nhân lại được chuyển về với tình trạng y nguyên như cũ.
Những bình tro cốt của 14 tù cải tạo mang từ Ba Sao về một nhà thờ ở Sài Gòn.
Hình do VAF cung cấp. (Những bình tro cốt của 14 tù cải tạo mang từ Ba Sao về một nhà thờ ở Sài Gòn. Hình do VAF cung cấp.)
Dụng cụ của bệnh xá rất sơ sài. Chúng tôi chỉ có ống nghe, máy đo huyết áp, một bộ tiểu giải phẩu, ống chích và kim tiêm. Ngay cả găng tay là thứ chúng tôi cần nhất vẫn không có.
Thuốc men cũng lèo tèo không kém, không gì ngoài mấy thứ trụ sinh thông thường do các công ty quốc danh cung cấp như penicillin, tetracycline, thuốc bổ multivitamin, thuốc đỏ, thuốc tím…
Thế mà chúng tôi là cái phao cho tù nhân nương tựa khi đau yếu.
Một hôm BS. Cán, Trưởng bệnh xá, gọi tôi lên để nhận thêm thuốc từ trong miền Nam gởi ra. Tôi mừng khấp khởi vì hy vọng có thêm thuốc cho bạn tù. Đến nơi tôi thì hỡi ôi :
Cả một đống thuốc vứt bừa bãi trên sàn nhà, không được sắp xếp phân loại gì cả.
Tôi kiểm lại hạn sử dụng thì đã quá đến hai năm là ít.
Thì ra đống thuốc này họ hốt từ miền Nam ra, cái gì xài được họ lấy hết cả rồi, cái gì họ không xài được là ném cho chúng tôi như đổ rác.
Các chỉ dẫn kèm theo thuốc họ không đọc được vì viết bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp nên không thể sắp xếp, phân loại thuốc men cho đâu ra đó, trong khi bác sĩ miền Nam chúng tôi thì đọc sách báo y khoa bằng Anh hay Pháp ngữ dễ dàng như đọc tiếng Việt.
Nhưng không lẽ bỏ, bỏ thì tiếc quá, tôi nhủ thầm :
- Có còn hơn không , thuốc ” tư bản” biết đâu vẫn còn tốt !
Nghĩ thế, tôi cặm cụi tìm trong đống thuốc bừa bãi thứ gì có thể dùng được thì nhặt ra.
Tôi tìm được mấy thứ thuốc viên trị đau khớp, dạ dày, thuốc giảm đau, trụ sinh….
Tôi dứt khoát loại ngay mấy thứ thuốc chích vì sợ thuốc quá hạn có thể gây ‘sốc’ thuốc (anaphylactic shock) làm chết người thì mình hối hận suốt đời.
Tù nhân chuyển ra Bắc tháng sáu 1976 có cả cấp tướng và đại tá.
Trong số đó có chuẩn tướng Phạm Hà Thanh, nguyên là chỉ huy trưởng ngành Quân y của tôi.
Nhưng tôi không được gặp ông vì sĩ quan cấp tướng nếu đau yếu phải chính tay BS. Cán điều trị.
Cấp đại tá trở xuống khi bệnh mới được đưa qua bệnh xá do tôi trông coi.
Nhờ thế tôi mới có dịp được gặp một người mà tôi rất ngưỡng mộ từ lâu, đó là sử gia Phạm Văn Sơn.
Từ thời còn học trung học ở Tăng Bạt Hổ, Bồng Sơn, tôi đã đọc cuốn “Việt Nam tranh đấu sử” của ông mà xúc động khôn cùng.
Tôi kính trọng, thương cảm, ngã nón kính phục tiền nhân của tôi đã hy sinh cả cuộc đời và cả yên ấm của gia đình chỉ vì lòng yêu nước vô bờ bến.
Ông viết sử mà lời văn trong sáng, đanh thép, hừng hực lửa như tấm lòng của tiền nhân. Có đoạn tôi không cầm được nước mắt.
Ông là một học giả uyên bác, một sử gia nổi tiếng ở miền Nam, tác giả của những công trình nghiên cứu Việt sử được mọi người khâm phục.
Chức vụ cuối cùng của ông là đại tá, Trưởng Ban quân sử Bộ Tổng tham mưu.
Ông bị bệnh vảy nến (Psoriasis) khá nặng, da sần sù nên nhiều người tưởng lầm ông bị bịnh cùi.
Bệnh xá đâu có thuốc gì để điều trị cho ông, ngay cả thuốc giúp ông khỏi đau nhức khớp xương, biến chứng hay đi chung với bệnh vảy nến.
Nhưng dù sao ở đây ông không phải đi lao động, được ăn cơm không độn và được nghỉ ngơi.
Yên Bái thường lạnh, nhất là dịp gần cuối năm khi bắt đầu có mưa phùn.
Có những buổi sáng, sương đóng băng trắng xóa trên ngọn cỏ trước sân.
Buổi tối anh em trong tổ điều trị chúng tôi thường đốt một đống lửa nhỏ, ngồi quây quần chuyện vãn với nhau cho đỡ lạnh và đỡ nhớ nhà. Nghe những cơn gió rít lê thê bên ngoài mà buồn não nuột.
Những buổi tối như thế chúng tôi đều mời ông tham dự.
Chúng tôi mời ông chỉ vì ai cũng biết và kính trọng ông, nhưng cũng vì một lý do khác :
Ông nói chuyện rất hay, lưu loát và mạch lạc. Ở ông là cả một kho kiến thức về sử.
Ông kể cho chúng tôi đủ thứ chuyện, chuyện Gia Long đào mộ Quang Trung rồi đem sọ Quang Trung giam vào ngục thất, Gia Long bó con nữ tướng Bùi Thị Xuân rồi đốt như ngọn đuốc trước mắt bà, riêng bà thì bị voi dày.
Cảnh Quang Trung lên ngôi Hoàng Đế ở Phú Xuân rồi kéo quân ra Bắc đánh quân Thanh...
Có lúc ông đem chuyện Kiều ra bàn, ông còn làm cả thơ vịnh Kiều đọc cho chúng tôi nghe. Chúng tôi ngồi nghe ông nói quên cả thời gian và lạnh.
Trại cấm chúng tôi gọi nhau bằng cấp bậc, nhưng chúng tôi đã có cách, đại úy gọi là anh Ba, đại tá như ông chúng tôi gọi là anh Sáu.
Nhưng cách gọi như thế chỉ trước mặt cán bộ, khi ngồi chung với ông bên bếp lửa chúng tôi gọi ông là Bố và xưng Con.
Hôm nào chúng tôi cải thiện được được ít lá chè tươi và nấu được bát nước chè xanh chia nhau thì không khí càng đậm đà.
Có khi chúng tôi xoay được thứ quý hiếm nhất trong tù là khoai mì, nướng vào lửa và mời ông.
Ông bóc từng miếng mì cháy bỏ vào miệng nhai ngon lành. Tro và những vết lọ cháy dính cả lên má và môi ông, ông cũng chẳng buồn lau.
Nhìn ông ăn từng mẩu mì cháy mà tôi chạnh lòng. Đời ông đã từng ăn bao nhiêu là yến tiệc sang trọng !
Tranh minh họa một hình phạt tra tấn trong trại cải tạo.
Nguồn: San Jose Mercury News / Ngày 11/10/1987 / Anna Mallett / Trung tâm Việt Nam và Lưu trữ (Đại học Công nghệ Texas).
Lúc tôi chuyển trại ông vẫn còn ở lại bệnh xá.
Sau này khi đã sang đến Úc tôi mới gặp được một người bạn tù với tôi ở Yên Bái cho biết sau đó ông được chuyển lên Vĩnh Phú và chết rất thê thảm trong tù.
Từ trong Nam chuyển ra Bắc, Bệnh xá Yên Bái chỉ là trạm đầu tiên của Đại Tá Phạm Văn Sơn. Có lẽ nơi đây ông đã có những ngày tương đối an thân vì trại tù dưới sự kiểm soát của bộ đội dù sao cũng vẫn chưa đến nỗi quá khắc nghiệt, vả lại chúng tôi biết ông và kính phục ông.
Nhưng khi ông được chuyển về trại Tân Lập, Vĩnh Phú, dưới sự quản lý của công an ông mới thực sự sống trong đáy địa ngục của lao tù CS.
Đại Tá Phạm Văn Sơn sinh ngày 15/08/1915 tại Hà Đông cũ, nay thuộc thành phố Hà Nội.
Ông mất ngày 06/12/1978 tại trại tù Tân Lập, Vĩnh Phú.
Ông là một học giả uyên thâm và là một sử gia nổi tiếng. Những tác phẩm chình và đồ sộ của ông gồm :
- Việt Sử Tân Biên (7 cuốn)
- Bộ Quân sử VNCH ghi lại tất cả các trận đánh trên chiến trường miền Nam.
Ngoài ra ông còn viết :
- Việt Nam tranh đấu sử
- Vỹ tuyến 17 (ký tên Dương Châu)
- Việt sử toàn thư
- Cuộc Tổng Công Kích - Tổng Khởi Nghĩa của Việt-Cộng Mậu Thân 1968, (viết cùng với Lê Văn Dương), 1968
- Việt Nam hiện đại sử yếu.
Chức vụ cuối cùng của ông là :
- Đại Tá, Trưởng Ban Quân Sử, Bộ Tổng Tham Mưu.
Đại Tá Phạm Văn Sơn đã sống đúng mẫu mực của một quân nhân với châm ngôn :
- TỔ QUỐC - DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM.
Trước cường quyền và độc ác, Đại Tá không khiếp sợ, không van xin, ngẩng cao đầu mà nói với CS :
- " Các ông làm như thế là lưu xú uế lại cho muôn đời sau " , dù biết rằng lời nói khí khái của mình sẽ đưa mình vào kỷ luật cùm nhà đá, đó là giữ vững DANH DỰ .
Ông tuyệt thực cho đến chết và viết thư cho ban chỉ huy trại yêu cầu họ đối xử nhân đạo hơn với tù nhân, đó là TRÁCH NHIỆM của một sĩ quan đối với các chiến hữu của mình.
Tôi ngả mũ kính phục nhân cách tuyệt vời của một quân nhân mẫu mực như ông.
" Anh hùng tử, khí hùng nào tử"
BS Phạm Hữu Phước
***
The Following 3 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
Tôi phải viết lại bài này một lần nữa cho rõ ràng hơn. Vì rằng, vừa qua cũng có những bài viết về cái chết của Ðại Tá Sơn, nhưng phần chính không nói được tính khí kiên cường của Ðại Tá mà chỉ xoáy vào mối liên hệ tình cảm cá nhân của 2 bên với nhau…
Tôi tuy không phải là người được khiêng xác Ðại Tá đi chôn (việc chôn cất tù nhân chính trị thường do nhóm tù hình sự đảm nhận vào ban đêm, nhằm khỏi gây dư luận xôn xao…) nhưng là người đưa xác Ðại Tá Sơn từ trạm xá đến nhà Vĩnh Biệt trong khuôn viên nhà tù, do đó tôi biết rất rõ về cái chết của Ông.
* * *
Chúng tôi từ nhiều trại “tập trung cải tạo” thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn, gồm đủ mọi thành phần “ nặng ký ” khác nhau, đều bị chuyển xuống miền trung du, vì Trung Quốc sắp xua quân xâm lăng biên giới…
Nói chung, Cộng Sản đã ghép chúng tôi vào loại “ác ôn” vì trong chế độ VNCH chúng tôi đã phục vụ ở các ngành :
- Tuyên Úy
- Tình Báo
- An Ninh Quân Ðội
- Cảnh Sát
- Chiến Tranh Chính Trị
- Tâm Lý Chiến…
Giai đoạn này chúng tôi không còn được đi lại dễ dàng như khi sống trong núi rừng hồi còn Ðoàn 776 thuộc Nha Quân Pháp (Bộ Quốc Phòng) VC trông coi… mà bị tống ngay vào buồng giam do công an “áo vàng” cai quản.
Trên danh xưng, bọn công an trại giam (thuộc Bộ Nội Vụ) bắt chúng tôi phải thừa nhận mình là “Cải Tạo Viên” chứ không phải là “Tù Nhân”…
Ngay từ khi bước qua cổng để vào sân trại giam K1 Tân Lập, chúng tôi đã thấy một cái gì đó rờn rợn cả người.
Mọi thủ tục khám xét thật là khắc nghiệt, nhìn mặt mày hầm hầm của những tên công an vừa nộ nạt, vừa đấm đá mấy tên tù “hình sự” phụ giúp việc khám xét các tù “chính trị” mới đến mà tất cả chúng tôi thầm nhìn nhau… lắc đầu !
Không khí “cải tạo” do công an thuộc Bộ Nội Vụ cai quản làm chúng tôi ngột ngạt thật.
Mấy ngày sau chúng tôi mới biết từ miệng các tù hình sự, các cảnh sát bảo vệ mang súng dẫn “đội tù” đi lao động như sau :
Trại Tù Tân Lập là trại tù khét tiếng khắc nghiệt nhất tại miền Bắc , còn phân trại K1 là trại “điểm” của tỉnh Vĩnh Phú này.
Tỉnh Vĩnh Phú có 2 trại tù lớn, đó là :
- Tân Lập và Phong Quan, nhưng Tân Lập lớn hơn (7 phân trại) và được Bộ Nội Vụ chọn làm trại tù kiểu mẫu cho toàn quốc.
Như chúng ta ai cũng biết chuyện “kiểu mẫu” của một trại tù dưới chế độ Cộng Sản luôn luôn phải hiểu rằng sự hà khắc, sự dã man do bọn cai tù áp dụng đối với tù nhân phải thật tàn bạo nhất mới được nâng lên làm “trại kiểu mẫu”.
Phân Trại K1 Tân Lập đạt đủ các “tiêu chuẩn” gian ác đó, nên hàng năm mở Ðại Hội Tù Nhân luôn được giữ lá cờ đầu.
Chúng tôi bị giam ở trại này từ tháng Mười 1978 , vì lúc đó những vùng biên giới phía Bắc là mục tiêu của quân Trung Quốc lăm le xâm chiếm.
Và quả thực vào đầu Xuân 1979 , Trung Quốc đã xua quân đánh các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam để dạy cho Việt Nam Bài Học Thứ Nhất !
Trong số các tù nhân chính trị từ Hoàng Liên Sơn bị đưa về trại tập trung quỷ tha ma bắt này, có Ðại Tá Phạm Văn Sơn.
Mặc dầu bị nhốt chung cùng một trại, nhưng lúc đầu anh em chúng tôi chưa biết hết nhau lắm, còn đối với Cộng Sản thì hẳn nhiên chúng quá rõ về lý lịch từng người chúng tôi.
Họ phân chia chúng tôi thành nhiều đội theo “tội trạng” để nhốt chung vào một phòng.
Phòng giam được bao bọc bởi 4 bức tường kiên cố, trần phòng giam được rào chằng chịt bởi những lớp kẽm gai, tất cả che khuất bằng tấm “pla-phông” cứng.
Các cửa sổ của phòng giam đều có những song sắt ngang dọc có đường kính chừng 18mm. Phòng giam tập thể nào cũng có một lối đi chung ở giữa, dọc theo tường của phòng là 1 dãy sạp dài 2 tầng dùng làm chỗ ngủ cho tù nhân.
Mỗi phòng giam chứa khoảng 200 tù, tính trung bình mỗi tù nhân có chừng 0.4m bề ngang để nằm, do đó các tù nhân thường nằm ngược đầu nhau mới có thể cựa mình được.
Lúc đầu thì Ðại Tá Sơn cũng như các anh em khác ở chung trong đội lao động.
Chừng nửa tháng sau, không hiểu tình hình thế nào mà Ðại Tá cùng Cha Thịnh (Ðại Tá Giám đốc Nha Tuyên Úy Công Giáo), Mục Sư Kỳ (Ðại Tá Giám Ðốc Nha Tuyên Úy Tin Lành) và một người khác nữa tôi quên tên bị đưa vào phòng “cách ly” .
Ðể giải thích chuyện này, Công An Trực Trại K1 Tân Lập nói rằng :
Ðể tránh “lây lan” cho các “cải tạo viên” khác, nên những người này phải được cho ở riêng…
Trên thực tế, Mục Sư Kỳ chỉ bị vàng da, Cha Thịnh bị bệnh “đồi mồi” loang đốm ở vùng môi và cằm, Ðại Tá Sơn cũng bi bịnh này nhưng nặng hơn (khắp cả tay chân mặt mày), bọn cai tù cho đây là bệnh “ phong cùi”.
Rõ ràng chuyện bệnh tật của 4 người này chỉ là một trong trăm ngàn lý do mà Việt Cộng áp dụng nhằm ngăn cách những người chúng cho là nguy hiểm nhất trong tập thể anh em tù chúng tôi.
Sau khi gom 4 người đó vào với nhau rồi, họ thấy việc làm quá trơ trẽn nên mới đưa thêm một Thiếu Úy Ngành Quân Báo còn trẻ, bị mụn nhọt làm thối ngón út của bàn chân trái, vào ở chung để lý giải danh xưng “bệnh cùi” cho hợp lý.
Ngày 2 buổi, trong khi anh em tù nhân chính trị khác làm kiếp lao động khổ sai, thì trong phòng “cách ly”, 4 vị “bự” này phải viết kiểm điểm, [size=4]nhất là Ðại Tá Phạm Văn Sơn [/ssize], ông phải trả lời hết mọi câu hỏi mà cán bộ chấp pháp trung ương từ Hà Nội về làm việc đặt ra.
Gọi là lấy khẩu cung, nhưng thực chất họ có dụng ý muốn tìm hiểu để học hỏi thêm.
Cuộc sống của 5 người cùng “phòng cách ly” vẫn ngày tháng trôi đều :
- Cơm 9kg/tháng, chia làm 2 bữa một ngày.
Trưa, tối, bọn hình sự đem cơm tới, mỗi sáng thì ghé xem bên trong có ai bị việc gì không, tiện thể lấy phân để đem ra bón rau cải ở khu lao động, thỉnh thoảng năm ba ngày tên cán bộ trực trại cho họ đi tắm một lần trong giếng gần “đội nhà bếp”.
Mấy tháng trôi qua, một hôm cán bộ Việt Cộng phát hiện trong bài viết về lịch sử, khi so sánh 2 chế độ “tù” thời VNCH và thời XHCN của ĐT Sơn một điều gì đó chúng tôi không rỏ, nhưng họ cho đó là một việc làm “đại phản động hay cực kỳ phản động” nên Ban Giám Thị Trại Tân Lập “đặc biệt chiếu cố” bằng quyết định “mật” cho anh Sơn vào ngay hầm biệt giam tại K1.
Tất cả anh em chúng tôi khi vi phạm điều gì đều bị gọi tên ra trước sân, riêng trường hợp Ðại Tá Sơn thì quá đặc biệt, ngay cả Cha Thịnh và Mục Sư Kỳ cũng không biết nốt. Cả hai vị này khi gặp tôi chỉ nói rằng :
- Họ chuyển ảnh đi đâu mất rồi, vì có đem theo hết tất cả đồ dùng cá nhân…
Nhàn là một tên “đâm thuê, chém mướn, lừa đảo, cờ bạc”. Tên này vẫn làm Trưởng Ban Thi Ðua để kềm kẹp chúng tôi.
Hắn biết rõ Ðại Tá Sơn ở đâu vì y là người đưa cơm hàng ngày cho Ðại Tá Sơn khi bị cùm trong phòng biệt giam.
- Cái tên Sơn này cứng đầu… từ hôm bị biệt giam đến nay không chịu ăn chịu uống gì cả, lại còn phóng uế bừa bãi, linh tinh… thối chịu “đếch” được !
Thấy có cơ hội, tôi nói ngay:
- Thế anh đưa cơm hằng ngày cho hắn ta, hắn ta có chửi mắng gì anh không ?
- Anh ta đâu có thèm nói năng gì mà chửi với không chửi… Chỉ cái tội viết bậy mà vào cùm nên khổ thân đấy thô i! Các anh bảo nhau mà liệu hồn !
- Tôi nghe nói khi ở phòng cách ly, anh ta được viết những gì đúng theo cán bộ yêu cầu kia mà ?
- Thì đương nhiên phải đúng yêu cầu, nhưng diễn tả mặt tích cực thì được, đằng này cứ phanh phui chuyện tiêu cực thì hỏng ngay…
Tôi giả vờ :
- Như thế nào là tiêu cực? Anh cho tôi biết để còn giữ mình có thể cải tạo tốt không chỉ riêng bản thân mà còn giúp anh em khác nữa chứ…?
Nghe tôi hỏi có lý, tên Nhàn vênh mặt có vẻ như một cán bộ công an khi lên lớp cho các tù nhân:
- Anh ta khờ lắm! Viết gì không viết lại viết bài có nội dung đem so sánh hai chế độ tù giữa Chủ Nghĩa Tư Bản và Chủ Nghĩa Xã Hội… còn đem chuyện gian trá trong việc trao trả tù binh của hai bên ra phân tích… Chơi kiểu này thì chết thôi con ạ !
Phòng “cách ly” bây giờ gồm 5 người sinh hoạt chung với nhau, không được phép ra ngoài, đến giờ cơm nước, tù hình sự mang đến, không cho bất cứ tù chính trị nào lai vãng lại gần, mặc dù phòng cách ly này không phải là phòng kỷ luật.
Phòng kỷ luật là 1 cái hầm nổi, xây gạch kiên cố, chật hẹp, chứa tối đa 2 người, thiếu ánh sáng, có hệ thống cùm chân bằng các khoanh sắt hình móng ngựa.
Tranh minh họa một hình phạt tra tấn trong trại cải tạo. Nguồn: Anna Mallett / Trung tâm Việt Nam và Lưu trữ (Đại học Công nghệ Texas).
Chừng 4 ngày sau, tôi giả bộ đi ngang qua khu cấm này gọi là coi xem có vấn đề gì cho an ninh trại hay không.
Trước khi đi tôi có báo cho tên cán bộ trực trại biết. Tên này dặn thêm :
- “ Anh phải cẩn thận chứ tên Sơn khá nguy hiểm đấy nhé !”.
Cũng từ câu nói của tên này, tôi mới xác quyết rằng Ðại Tá Phạm Văn Sơn đang bị kỷ luật.
Làm bộ như đang đi lo việc quan sát phía bên ngoài các phòng kỷ luật, nhìn quanh thấy không có ai, tôi nói nhẹ vọng vào:
- Anh Sơn, em là Q. đây, anh khỏe không ? Ðói lắm không ? Em vứt vào nửa cái bánh bột nhé ![color=red
Giọng thật nhỏ, yếu, vọng ra :[/color]
- Q. đó hả ?
- " Tôi không cần gì cả, đừng vứt vào, bọn chúng đến kiểm soát thì chết cả lũ, ráng phải lo giúp các bạn khác nữa…
Hôm nay đã 4 ngày tôi nhịn ăn rồi, ít hôm nữa thì anh sẽ rõ những việc tôi làm.
Anh mau đi khỏi đây, và từ nãy giờ coi như anh chưa lại chỗ tôi, và cũng đừng nói với ai là tôi đang ở đây, nếu lỡ việc ra thì anh sẽ bị nguy, mà ngay chính tôi cũng không thể thực hiện ý nguyện của mình…"
Tranh minh họa một hình phạt tra tấn trong trại cải tạo.
Nguồn: San Jose Mercury News / Ngày 11/10/1987 / Anna Mallett / Trung tâm Việt Nam và Lưu trữ (Đại học Công nghệ Texas).
Tôi rón rén bước về phía các phòng giam khác giả vờ đi kiểm soát tổng quát…
Sau giờ xuất trại đi lao động chiều hôm ấy, một tên tù hình sự đến nói với tôi :
- Chú à, cháu đề xuất với chú chuyện này, khó khăn thật đấy, nếu vỡ ra thì cháu chết ngay, nhưng nếu không nói thì không được.
Tôi bảo ngay :
- Mầy lại lèng èng chuyện gì đây, linh tinh nữa phải không? Nhanh lên kẻo đến giờ tao phải phát dầu cho các buồng rồi đây !
Tên hình sự ngập ngừng :
- Vâng ạ, vâng ạ! Chú Sơn bảo chú cho chú ấy xin tờ giấy trắng, còn cháu thì có cây bút chì để chú ấy viết cái gì gì ấy mà…
Tôi như điếc cả 2 lỗ tai, không biết nghe có lầm không, nếu nó gài mình thì ngày mai tôi lại phải vào cùm, nếu nó thật lòng thì mình phải làm sao đây ? Tôi giả vờ nạt nộ một hồi, xong nói tiếp :
- Thôi, tao không giải quyết được việc gì đâu, tao bận lắm, mầy ở đây coi văn phòng giúp tao một tí, đừng cho giấy tờ trên bàn gió bay lộn xộn, và không cho bất cứ ai sờ vào món gì cả nghe chưa ? Tao phải xuống bệnh xá một tí là về ngay!
Nói xong tôi đi thật vội, không dám nhìn lại cho đến khi phải trở về lấy dùi trống đánh lên 3 tiếng gọi các “trực sinh” (danh xưng dùng cho những tù nhân lo việc vệ sinh, cơm nước cho anh em tù khác ra ngoài lao động) của các phòng đến nhận dầu về thắp trong đêm, chủ yếu để có lửa hút thuốc lào…
Ngoài ra, trong đêm, có ánh sáng leo lét của ngọn đèn tuy làm bằng vỏ chai cưa cổ, nhưng cũng giúp được nhiều việc như rủi có anh em nào đau nặng, cần cấp cứu là phải hô to :
- “ Báo cáo cán bộ, phòng X có người đau nặng, xin được cấp cứu ”.
Hô to lên như vậy nhiều lần cho tới khi các tên cán bộ vào mở cửa thì anh em mới có thể thấy đường để khiêng người bệnh lên trạm xá.
Nếu bệnh quá nặng thì để lại luôn tại trạm xá, nếu bệnh nhẹ hơn thì chỉ nhận 2 viên “xuyên tâm liên” rồi phải khiêng trả lại phòng giam ngay.
Nói là “trạm xá” cho oai thôi, chứ thật ra cũng vẫn là một phòng giam bị khóa cửa cẩn thận như mọi phòng giam tù khác.
Có nhiều anh em tù chính trị được cấp cứu trong những đêm như vậy, sáng hôm sau đã phải vĩnh viễn ra đi, có khi ngay tại trạm xá, đôi khi ngay tại phòng giam chung. Nói chung, tù chính trị chết nhiều hơn tù hình sự.
Gần 2 năm bị giam tại trại Tân Lập, tôi chưa gặp một trường hợp nào tù hình sự bị mạng vong cả.
Hai ngày sau, tên cán bộ trực trại gọi tên Nhàn (Trưởng Ban Thi Ðua) đưa 2 tù hình sự khỏe mạnh khiêng Ðại Tá Sơn từ phòng Kỷ Luật xuống trạm xá, lúc đó đã 8g tối, các tù nhân khác đã vào chỗ ngủ.
Màn đêm xuống, từ lâu… Tại trạm xá chả có thuốc men gì để giúp cho Ðại Tá Sơn khỏe lại mặc dầu biết Ðại Tá kiệt sức vì tuyệt thực đã mấy ngày…
Thế rồi Ðại Tá bắt đầu đi vào mê sảng…
Ðến 2g sáng hôm sau , Ðại Tá Sơn được đưa về lại Phòng Cách Ly cùng với Cha Thịnh, Mực Sư Kỳ, nhưng lúc này ông ta yếu lắm rồi, không nói được lời nào với các người chung phòng.
Tình trạng dần dần đi vào mê man… cho đến 8 giờ sáng hôm sau.
Thường thì 7 giờ 30 sáng tên công an làm cán bộ trực trại vào mở cửa phòng cách ly để những người này làm vệ sinh cá nhân, sau đó họ phải vê than đá bột lại thành từng nắm vừa trong hai bàn tay, đem phơi khô để đội nhà bếp lấy về đun bếp.
Công việc “vê” than này chỉ dành riêng cho 5 người trong phòng cách ly mà thôi.
Hôm đó anh chàng Thiếu Úy Quân Báo, sau khi làm vệ sinh cá nhân xong, thấy Ðại Tá Sơn quá yếu sợ để nằm trong phòng sẽ ngộp thở vì thiếu không khí, nên đã đề nghị mấy người còn lại phụ khiêng Ðại Tá Sơn ra bên ngoài bên đống than đang “nắm” dở… để hưởng chút không khí trong lành.
Lúc đầu Ðại Tá còn gượng ngồi được giống như một người đang làm việc “nắm” than. Nhưng khi lệnh xuất trại đi lao động, thì cũng là lúc Ðại Tá không còn ngồi nổi nữa, ông gục mặt trên đống than dang dở, và bất động…
Cũng đúng lúc đó anh tù chính trị làm ở nhà bếp đem xe cải tiến đến…
Thay vì chở than về đun bếp như thường lệ, anh ta phải dùng ngay xe nầy để chở Ðại Tá Sơn lên trạm xá cấp cứu…
Khi vượt qua sân trại thì đúng vào lúc chỉ còn một đội tù cuối cùng xuất trại, những người đi sau ngoái đầu nhìn ngơ ngác, không biết chuyện gì đã xảy ra…
Khi kéo được Ðại Tá Sơn đến trạm xá, những người tù trong này chạy ra để phụ khiêng vào cấp cứu…Nhưng lúc đó Ðại Tá đã tắt thở rồi…
Ðại Tá Phạm Văn Sơn đã vĩnh biệt anh em như vậy đó ! Đúng vào ngày 06/12/1978.]
Khoảng 11 giờ trưa khi tất cả các tù nhân còn đang ở ngoài bãi lao động, thì xác Ðại Tá Sơn được nhóm tù hình sự và tôi đưa đến “nhà vĩnh biệt” , một cái chòi mái lợp tranh, vách tô bằng đất sét nhồi với rạ do chính anh em tù chúng tôi dựng lên phía Tây đằng sau khu nhà giam của chính mình.
Những bộ quần áo tù rách nát, vá víu chằng chịt được khoác thêm vào người anh Sơn để gọi là tạm ấm khi phải trở về lòng đất lạnh.
Tám giờ tối, các phòng giam của khu tù chính trị được khóa cẩn thận, thì cũng là lúc chiếc hòm bằng cây “vông đồng” sần sùi, tồi tàn đựng xác Ðại Tá được đặt trên xe “cải tiến”, do 4 tên tù hình sự kéo và đẩy đi.
Họ chôn anh Sơn cạnh bên kia bờ suối nhỏ, phía bên này là một rừng sắn đang tươi tốt cao ngang lưng, thành quả lao động bằng máu và mồ hôi trong những ngày khổ sai của số người còn sống sót…
Tin về cái chết của Ðại Tá kiêm Sử gia Phạm Văn Sơn được giữ kín.
Ðiều này chứng tỏ đã không có sự bình thường như mọi lần trước khi có một trong những anh em chúng tôi ra đi.
Ðại Tá Sơn nằm xuống yên lặng như thế, nhưng mọi việc còn lại gây nhiều chấn động không phải chỉ trong anh em tù với nhau mà ngược lại có sự bàn tán, tranh luận… thể hiện ngay trong nội bộ của bọn chỉ huy trại Tân Lập (K1) do nội dung lá thư viết bằng bút chì trên 1 trang giấy “tự túc” mà tên hình sự đã tự ý lấy tại phòng thi đua.
Trong thư Ðại Tá Sơn nói rằng :
“Xin các ông hãy xem xét lại cách đối xử với chúng tôi, những hình thức dã man như vừa qua hoàn toàn không có lợi mà ngược lại rồi đây trong lịch sử phải ghi thêm vào đấy vết ô nhục mãi ngàn đời sau cho dân tộc VN… vì đã có một thời mà người cộng sản từng đối xử dã man ngay với đồng bào, đồng loại của mình !”
(Thực ra câu này, tôi chỉ viết dựa theo ý chính của tên Nhàn, còn nguyên văn thì không cách nào cá nhân tôi có thể xem được).
Sau biến cố này, bộ mặt sinh hoạt tù khác hẳn, kỷ luật nghiêm ngặt hơn.
Về phía ban thi đua được tăng cường thêm 2 người tù chính trị làm trật tự, các đội trưởng phải chịu trách nhiệm hết mọi hành vi của đội viên mình trong mọi nhất cử nhất động.
Bên ngoài tuy phải áp dụng hình thức lao động khổ sai như cũ, nhưng bên trong bọn Việt Cộng đã ngầm bảo nhau cần nhẹ tay hơn.
Trước đó, việc nấu nướng riêng tư không cho phép, nay thì có lệnh mỗi tù nhân vào sáng Chủ Nhật có thể xuống bếp trại để hâm lại những thức ăn riêng.
Những sĩ quan VNCH bị triệu tập đi “học tập cải tạo” , thực chất là đi tù với đời sống lưu đày nghiệt ngãdưới chính sách tàn bạo của cộng sản thời hậu chiến
(Jean-Claude LABBE/Gamma-Rapho via Getty Images)
Hôm nay ngồi suy ngẫm lại chuyện cũ thì cái chết của Ðại Tá Sơn nào có khác gì những anh hùng :
- Nguyễn Tri Phương (thà nhịn đói chịu đau mà chết chứ không bao giờ khuất phục giặc Pháp)
- Hoàng Diệu (lên thành treo cổ tự vẫn chứ không đầu hàng)…
Ðại Tá Phạm Văn Sơn tuyệt thực trong nhà kỷ luật, chấp nhận cái chết, vì muốn đòi quyền lợi cho các anh em tù nhân chính trị khác được hưởng đúng theo quy chế của một tù binh theo luật quốc tế, tuy kết quả không như ông mong muốn, nhưng dầu sao cũng làm cho những anh em còn sống được dễ thở hơn…
Ðại Tá Sơn chịu chết để cho anh em chúng tôi sống…
Viết bài này với ước mong có thể thay mặt cho các anh em cùng sống chung với Ðại Tá kiêm Sử gia Phạm Văn Sơn tại trại K1 Tân Lập, xin được thắp nén nhang vái linh hồn Ðại Tá luôn được siêu thoát.
Trường Xuân Phu Tử Hồ Quang
Viết lại vào ngày 18/5/2010
Nguồn : Diễn Đàn Cựu SVQY
****
Last edited by hoathienly19; 6 Hours Ago at 10:38.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.