Nhớ 'một câu nhịn chín câu lành', người Việt sẽ không hung dữ
Hơn nhau không phải ở nắm đấm mà là ở khả năng học tập, làm việc, chia sẻ, thương yêu, tử tế với mình, với người trong mối quan hệ với cuộc sống xung quanh!
Hạ cẳng tay, thượng cẳng chân sau khi va chạm giao thông - Ảnh do bạn đọc cung cấp
Cách đây mấy bữa, trên đường đi làm về, tôi thấy một đám đông ở Hàng Xanh (Q.Bình Thạnh, TP.HCM), nghĩ là có kẹt xe. Tới gần mới phát hiện là vừa có vụ va quẹt và hai tài xế đang cãi nhau, người đi đường ngang qua ai cũng lắc đầu.
Chuyện va quẹt trên phố đông như Sài Gòn giờ tan tầm là chuyện cơm bữa, nếu cảm thông và chia sẻ được thì có lẽ người ta sẽ nhẹ nhàng cho qua, tôi nghĩ vậy!
Môi trường nhiều mầm mống bạo lực
Thường người ta sẽ nổi nóng khi gặp một chuyện bất như ý nào đó, như vừa bị sếp la, ra cổng cơ quan bảo vệ đùa một câu, liền sân si. Nỗi buồn, sự bực bội là thứ năng lượng chi phối hành xử khiến người ta không thể kiềm chế được cơn tức dâng lên, lây sang người khác.
Vì vậy, có người dễ nổi nóng đã cảnh báo: "Thấy tôi ‘khó ở’ là tránh xa xa giùm, không ăn mắng ráng chịu". Theo đó, người nóng lâu ngày họ cũng biết tính khí của mình nên có "chống chỉ định" chuyện nói đùa, tiếp xúc lúc họ đang không vui, căng thẳng. Thực ra, khi quá mệt mỏi, phiền muộn trong lòng, ta không còn giữ được mình.
Có người bạn của tôi bình thường hiền queo, ai nói gì cũng cười. Bỗng một ngày, tôi hỏi "sao buồn dữ rứa?" lại bị bạn nạt cho một câu nghe chưng hửng. Trời, bạn mình đây sao? Mới đầu tôi phản ứng vậy, nhưng chợt dừng lại vì nhớ ra, đây không phải là bản chất của bạn. Có thể bạn đang có một nỗi niềm, áp lực từ cuộc sống, gia đình, tình yêu hoặc bản thân đang trải qua bệnh tật, sự cố…
Ai cũng có lúc nóng giận, nếu mình hiểu thì sẽ không khiến ngọn lửa trong họ cháy phừng. Tôi im lặng và không bỏ mặc, cuối cùng cũng nghe được thổ lộ từ bạn. Bạn bị nhiều áp lực trong công việc: sếp chèn ép, đồng nghiệp tìm cách chơi khăm, lương không cao, phải chật vật trang trải cuộc sống…
Tất nhiên, nhiều người khó khăn hơn nhưng họ không nổi nóng. Đó là tính cách và sức chịu đựng của từng người. Sự nóng tính là một thói quen được huấn tập hằng ngày theo nguyên lý:
"Thói quen tạo nên tính cách, tính cách tạo nên số phận".
Vì thế, các chuyên gia tâm lý khi chia sẻ với tôi về thói vũ phu của chồng vẫn thường lưu ý, có thể anh ấy từng bị bạo hành lúc nhỏ, từng sống gần những gia đình lớn tiếng, ồn ào đánh cãi nhau như cơm bữa.
Sự tác động của cuộc sống xung quanh lên tính cách con người theo hướng đó được ông bà xưa đúc kết rằng "gần mực thì đen". Cái đen đó cần có thời gian thanh lọc để dần trắng, nhưng nếu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng trong môi trường đen hơn thì sẽ đen đậm hơn.
Ngày nay các văn hóa phẩm mang tính bạo lực vẫn đầy rẫy trên mạng và tồn tại trong cuộc sống, giải trí của nhiều người: từ game online đến phim ảnh. Thường ngày tiếp xúc với sự đánh đấm, máu me trong các "thức ăn tinh thần" đó khiến não quen với những "mùi vị" của bạo lực, từ đó hành xử theo.
Những kẻ "giang hồ mạng" được ngưỡng mộ và thu tiền trăm triệu cũng chính là một "hình tượng" khiến người ta thay đổi suy nghĩ: cần gì học hành, tử tế, chỉ cần có "số má" là có thể lên đời.
Môi trường bên ngoài đã vậy, trong nhà trường, gia đình cũng đầy mầm mống bạo lực, tránh sao người trẻ không hoang mang và hành xử theo cách tương tự. Đây mới là điều đáng lo, và người lớn muốn thay đổi không khí bạo lực lan tràn thì chính bản thân phải nỗ lực để ứng xử nhẹ nhàng với nhau trước.
Nhẫn để yêu thương
Không thể có kết cục tốt với những người nóng nảy. Nhân vật Trương Phi trong Tam Quốc Chí là hình mẫu của nóng tính dẫn đến hư sự và mang họa sát thân. Ai cũng nóng nảy trong hành xử thì chiến tranh sẽ nổ ra, thương vong là tất yếu.
Một câu nói đùa cũng thành chuyện lớn vì con người ta quá nóng, quá hung dữ; đi nhậu lo hát karaoke cũng bị đánh chết thì… ôi thôi, cuộc sống quá kinh khủng. Pháp luật cần nghiêm minh để trừng trị việc vô cớ đánh, giết người nhưng đó là xử lý phần ngọn, còn cái gốc vẫn là giáo dục.
Làm sao để con người có thể chậm lại để phân tích kỹ hơn từng câu nói, từng biểu hiện của người khác, trong đó có thân nhân, bạn bè mình để không chụp mũ rồi hành xử như người điên, người say?
Sống thiền hay bình tĩnh sống, sống chậm, sống có chánh niệm… là những cách sống theo tinh thần "nhẫn để yêu thương". Đầu tiên là thương mình. Một người chỉ được người khác tin tưởng, nể trọng và giao việc khi có sự chín chắn, điềm tĩnh trong xử lý. Như vậy, người sống có lý trí, điềm tĩnh chính là cách sống lợi lạc tự thân.
Còn cái lợi cho người xung quanh, nhất là người thân - thương thì cũng dễ dàng để thấy. Con cái sẽ học được nhiều điều hay ho từ bố mẹ có cách sống nhẹ nhàng, tình cảm. Đó mới là gia tài quý giá để lại cho con.
Hành xử nóng tính dẫn tới hư việc, hại người thì vòng lao lý chờ mình là chắc chắn. Một khi đã gây ra sự cố mới hối thì đâu còn kịp. Nhiều người bình luận thiếu niên 16 tuổi rút dao đâm chết người nhắc mình chuyện chạy xe chính là "anh hùng rơm", chứng tỏ với bạn gái nhưng rồi được gì sau lần ra tay đó? Tù tội và có thể mất luôn bạn gái.
Ai đợi và ai chấp nhận một người giết người làm người yêu, người chồng, người cha tương lai?
Thực ra, sân si - ai cũng có. Cái chính là cách quản lý năng lương tiêu cực đó để những năng lượng tích cực phát triển. Để làm được điều đó, phải xây dựng lối sống nhân văn từ chính mỗi gia đình, người lớn dạy trẻ nhẫn nhịn để an lành như ông bà mình nhắc "một câu nhịn chín câu lành".
Sau khi là con người tự do, là nhà báo tự do, kết thân với nhiều nhà báo tự do của thế giới, các nhà báo tự do Pháp, Đức, Anh, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Hoa, Ba Lan, Tiệp…, tôi tìm đọc các kho tư liệu lưu trữ quý ở Paris, Moscow, London, Washington… rồi suy nghĩ bằng cái đầu tỉnh táo của mình, của riêng mình, không sùng bái bất cứ một người hay một học thuyết nào. Từ đó tôi giác ngộ không biết bao nhiêu điều mới mẻ, và lần này tôi thật sự có cảm giác sâu sắc về hạnh phúc tinh thần tiếp cận được ngày càng nhiều sự thật, lẽ phải, chân lý. Tôi đã tự giác ngộ mình.
Nhìn lại 44 năm quá khứ CS của mình, tôi nhận rõ có không ít điều tôi giác ngộ, cho là đúng, thì khốn thay, hầu hết đều là lầm lẫn, ngộ nhận, ảo tưởng, sai lầm và cả tội ác.
Như chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản kiểu mác-xít đều là những học thuyết chủ quan, lầm lẫn, hoàn toàn nguy hại trong thực tế, cổ xuý đấu tranh giai cấp cực đoan và bạo lực, đi đến chiến tranh, khủng bố, đổ máu, hận thù. Giữa thủ đô Washington, tôi cùng anh Cù Huy Hà Vũ đã viếng Tượng đài Kỷ niệm hơn 100 triệu nạn nhân bi thảm của chủ nghĩa CS hiện thực, trong đó có hàng triệu nạn nhân đồng bào Việt ta. Tượng đài nhắn nhủ toàn nhân loại hay cảnh giác với chủ nghĩa CS, tai họa của toàn thế giới.
Tháng 5/2015, Tổng thống Ukraine, một nước cộng sản cũ, đã ký Luật cấm tuyên truyền về chủ nghĩa Mác Lênin, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản như trong thời kỳ trong Liên bang Xô Viết từ 1917 đến 1991, coi đó là thời kỳ bi thảm, sai lầm và Tội Ác. Các tượng đài, di tích thời kỳ ấy đều bị phá bỏ. Các sự kiện ấy giúp tôi khẳng định việc thoát đảng CS của tôi là chuẩn xác và giúp tôi thấy Dự thảo văn kiện sẽ đưa ra Đại hội XII sắp đến là lạc hậu, lẩm cẩm và cực kỳ nguy hại cho đất nước, cho nhân dân, cho chính Đảng CS ra sao.
Tôi không thể hiểu vì sao, sau khi Giáo sư Trần Phương, từng là Phó Thủ tướng, là uỷ viên Trung ương Đảng, đã chứng minh rành mạch rằng chủ nghĩa Mác, Lênin, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa CS đều là ảo tưởng sai lầm, nguy hại, hay vì sao sau khi đương kim Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh đã công khai cho rằng: “Cái chủ nghĩa Xã hội và cái định hướng Xã hội chủ nghĩa làm gì có trong thực tế mà đi tim cho mất công! “, vậy mà Bộ Chính trị vẫn cứ khẳng định trong văn kiện Đại hội XII rằng “kiên định chủ nghĩa Mác, Lênin, kiên định chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa CS là lập trường không thể thay đổi “, một thái độ ngoan cố, cổ hủ, tối tăm, buộc toàn đảng phải đi theo sự lẩm cẩm dai đẳng nguy hại của mình.
Ngay đối với thần tượng Hồ Chí Minh, tuy tôi biết rằng đây là bình phong cố thủ lợi hại của thế lực bảo thủ trong đảng CS do tệ sùng bái cá nhân ăn quá sâu trong quần chúng, tôi vẫn thấy cần và có thể thuyết phục ngày càng đông đảo bà con ta nhận ra sự thật.
Sự thật là ông HCM không phải là thánh thần. Ông là con người với những tốt xấu, mạnh yếu, đúng sai của minh. Ông đã lầm lẫn khi chọn con đường CS, khi lao quá sâu rồi không dám quay lại nữa. Ông đã xa rời lập trường dân tộc, thực hiện lập trường giai cấp cực đoan, đặt ảo tưởng vào giai cấp vô sản quốc tế, và mù quáng đặt niềm tin ở 2 ông Anh lớn Stalin và Mao, 2 con Quỷ Đỏ mà ông cho là “không bao giờ có thể sai”.
Mới đây, có 2 sự kiện minh họa rõ thêm bản chất con người thật HCM. Nhà báo Trần Đĩnh từng gần gũi ông Hồ kể lại ông từng cho rằng không thể giết bà Năm – Cát Hanh Long để mở đầu cuộc Cải cách Ruộng đất, bà lại là ân nhân của đảng CS, – ông còn văn hoa nói: “Không nên đánh phụ nữ dù chỉ bằng một cành hoa”. Vậy mà theo Trần Đĩnh, chính ông Hồ đã viết bản Cáo trạng kết án Bà Năm: “Địa chủ ác ghê”, ký tên CB (của Bác- Bác Hồ) trên báo Nhân Dân của Đảng. Cũng theo Trần Đĩnh, ông Hồ đã cải trang, mang kính râm đích thân đến dự cuộc xử bắn bà Năm.
Vậy ông Hồ là con người thế nào? Nói một đằng làm một nẻo, lá mặt lá trái, tử tế hay không tử tế? đạo đức hay vô đạo đức?
Nhà triết học uyên bác bậc nhất nước ta Trần Đức Thảo trước khi từ giã cõi trần đã kể trong cuốn Những lời trăn trối (do nhà báo Tri Vũ Phan Ngọc Khuê ghi âm) rằng ông đã gặp ông Hồ, quan sát, nghiên cứu sâu về tư tưởng, hành vi, đạo đức của ông Hồ, và đi đến kết luận vững chắc rằng ông Hồ là “con Người muôn mặt, lắm mưu mô, nhiều tham vọng quyền lực, nhiều điều bí hiểm, lắm tên nhiều họ, ẩn hiện khôn lường, lắm vợ, nhiều con, rất phức tạp”, là một “Tào Tháo của muôn đời”.
Ông Trần Đức Thảo cho rằng đảng CS kêu gọi cả nước học tập đạo đức HCM, vậy là muốn biến cả nước thành Tào Tháo hết cả ư!
Thế thật thì nguy cho dân tộc ta quá ! Ý kiến của nhà triết học này thật thỏa đáng.
Tôi có nhiều lý do để quý trọng ông Hồ. Tôi từng gặp ông khá nhiều lần, khi là phóng viên thời sự quốc tế, vào Dinh Chủ tịch dự chiêu đãi ông Lưu Thiếu Kỳ, ông Alexei Kosigyn hay các nhà báo Pháp, Nga, Trung Quốc. Năm 1957 khi ông vào Vinh thăm bộ đội Quân khu IV tôi được giao chuẩn bị bài nói chuyện của ông trước cán bộ quân khu, khen ngợi thành tích giúp dân gặt lúa, chống bão, lụt và diễn tập ở giới tuyến, ông liếc qua bản viết, khen đãi bôi: “Chú văn hay chữ tốt nhỉ!” rồi đút vào túi. Hơn nữa, cha tôi có quan hệ mật thiết với ông Hồ. Ông từng ngỏ lời mời cha tôi ra tham chính từ những ngày đầu Cách mang tháng Tám. Cha tôi lưỡng lự, do quan niệm Nho giáo “Trung thần không theo hai Vua”, nhưng ông Hồ vẫn cử ông Bộ trưởng Tư pháp Vũ Trọng Khánh, rồi ông Vũ Đình Huỳnh mang thư riêng đến. Chính ông Hồ đề cử cha tôi thay Cụ Nguyễn Văn Tố làm nhiệm vụ Chủ tịch Quốc hội sau khi Cụ Tố bị lính Pháp bắn chết. Nhưng tôi không thể vì những chuyện riêng tư ấy mà làm sai lạc sự đánh giá công bằng, khách quan, chuẩn xác của chính mình.
Không một học thuyết nào, không một cá nhân lãnh tụ nào có thể được đặt trên dân tộc và nhân dân. Do yêu nước thật lòng, thương đồng bào Việt mình thật lòng nên sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, tôi đi đến kết luận dứt khoát, sòng phẳng rằng ông HCM là một nhân vật tiêu cực trong lịch sử VN. Ông có phần trách nhiệm lớn làm cho đất nước lâm vào chiến tranh, do ông chọn con đường CS của Đệ Tam Quốc tế nên mới bị thế giới Dân chủ sớm đặt VN ta trong Chiến lược Be bờ ngăn chặn CNCS (Containment of Communism Strategy). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do ông dựng lên thật ra không phải là chế độ dân chủ, mà còn là chế độ độc đoán toàn trị do đảng CS độc quyền cai trị, đến nay vẫn chưa có tự do ngôn luận, tự do ứng cử và bầu cử, tự do xuất nhập cảnh, tự do tôn giáo, không thực hiện chế độ pháp quyền nghiêm minh, đảng CS nắm trọn cả ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, còn thêm quyền thứ tư là ngôn quyền.
Các tổ chức xã hội dân sự tự phát đang lớn mạnh cùng các nhà dân chủ từ lão thành đến trẻ tuổi đang cùng các cựu đảng viên CS đã thoát đảng tự đặt cho mình nghĩa vụ trước Dân tộc và Lịch Sử chung sức mở ra Kỷ Nguyên Dân chủ và Tự Do cho nước Việt Nam ta.
Tôi tha thiết kêu gọi tất cả các đảng viên CS nhân các cuộc họp Đại hội Đảng các cấp từ chi bộ, đảng bộ cơ sở đến Đại Hội toàn quốc hãy thắp sáng lên ngọn đèn Giác ngộ mới mẻ, manh dạn xoá bỏ những điều giác ngộ cũ kỹ, lạc hậu, giáo điều, lẩm cẩm, mê muội rất có hại, như kiên trì chủ nghĩa Mác Lênin, chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa Cộng sản mác-xít, sùng bái nhân vật HCM, kiên trì chế độ toàn trị độc đảng lạc lõng, tệ hại.
Đó chính là sự giác ngộ cần thiết cấp bách hiện nay. Trong các cuộc họp bàn, góp ý vào các văn kiện dự thảo, chớ bị lừa dối khi nghe lãnh đạo tuyên truyền rằng các văn kiện đã tiếp thu hàng triệu ý kiến xây dựng, đã được nhất trí cao, không cần bổ sung, sửa chữa gì nhiêu, “do kẻ xấu và bọn phản động xúi giục”. Cần nhận rõ nội dung các văn kiện mới là điều kiện sinh tử của đảng, quan trọng hơn vấn đề nhân sự nhiều, vì vận mệnh đất nước, quyền lợi của toàn dân phụ thuộc vào học thuyết chính trị, vào đường lối đối nội, đối ngoại, vào các quốc sách chính trị, kinh tế tài chính, đối ngoại, xã hội và văn hoá đạo đức. Kiên quyết từ bỏ, gột rửa những điều giác ngộ cũ, nhận rõ đó chỉ là những học thuyết sai lầm tệ hại trong thực tế cuộc sống, những tà thuyết đã bị thế giới nhận diện, lên án, loại bỏ, ta không có một lý do nào để gắn bó, quyến luyến, tiếc thương.
Xin các bạn chớ sợ mình đơn độc, thiểu số trong các cuộc họp. Chân lý ban đầu bao giờ cũng là thế. Các bạn chính là những hạt kim cương trong khối quặng đen. Hãy dũng cảm thắp lên ngọn đèn giác ngộ mới, tiên tiến. Các bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc sâu lắng khi dần dần chính kiến của bạn được lan tỏa trở thành chân lý, sự giác ngộ của số đông.
Buổi tâm sự về hai chữ giác ngộ xin tạm ngừng ở đây, mong có ích trong khêu gợi những ý kiến mới mẻ trong tư duy của các bạn về hiện tình đất nước, về con đường cần chọn cho dân tộc, cho Quê hương, để đất nước phát triển mạnh mẽ trong cuộc sống tự do, bình đẳng, hạnh phúc cho mỗi công dân, mỗi gia đình chung hưởng.
Câu Hỏi Của Ông Lão Đem Điện Thoại Đến Sửa Khiến Tôi Chết Lặng…
Đây là câu chuyện có thật tại Trung Quốc và do chính người thợ sửa chữa điện thoại kể lại, nó đã khiến nhiều người xúc động.
Những ngày gần đây, câu chuyện xúc động về người cha giàu tình yêu thương đã khiến cư dân mạng Trung Quốc vô cùng xúc động.
Một ông lão tới cửa hàng để sửa máy điện thoại, nhưng nhân viên sửa chữa không thể tìm được lỗi. Câu nói tiếp theo của ông làm mọi người sững sờ…
Tôi là một nhân viên bảo trì và sửa chữa điện thoại di động. Sáng hôm đó, một ông lão đã tới cửa hàng để sửa điện thoại. Tôi cẩn thận kiểm tra chiếc điện thoại nhưng không thể tìm được lỗi nào. Tôi nói với ông rằng mọi thứ đều ổn, và điện thoại vẫn chạy tốt.
Ông nhìn tôi, nhăn nheo, rơm rớm nước mắt hỏi: “Thế tại sao lão không nhận được điện thoại của con?”
Tôi chết lặng…
Thực tế, con cái thường hay bỏ quên cha mẹ mình. Bạn bè trên Internet cũng chia sẻ với tôi những kỷ niệm không thể nào quên của họ. Dưới đây là một số câu chuyện được kể lại:
Cha mẹ phải học cách xa con
Khi còn học đại học, tôi được mời đi chơi trong kỳ nghỉ lễ. Cha nhắn tin hỏi tôi có về không. Tôi đã trả lời rằng con phải đi vài ngày đã. Cha nhắn lại: “Con nhớ về ăn trái chín nhé” (Nhà tôi trồng cây ăn trái). Thế rồi, tôi bật khóc như mưa…
Nhưng cha mẹ luôn cần con, dù con có lỗi lầm gì
Hồi đó tôi rất hư, muốn chứng tỏ bản thân. Tôi đã muốn bỏ nhà đi một tháng để chứng minh mình không cần cha mẹ. Mẹ gọi điện thoại nói: “Mẹ cần con”. Lúc đó, tôi mới nhận ra mẹ yêu mình tới nhường nào…
…Và luôn bao bọc con cái mà không hề quan tâm tới bản thân mình
Hồi đó, tôi đi học xa nhà, học phí ở trường đều là cha mẹ lo cho. Tôi không hiểu hết được khó khăn của gia đình. Một ngày cha uống quá chén, gọi điện cho tôi và nói, “Con à, cần gì cứ nói, con cần gì nào. Dù cha mẹ có khó khăn cũng không sao. Cha sẽ không để con thiếu tiền dù chỉ một ngày. Cứ để cha lo hết.”
Khi con đi xa, cha mẹ sẽ cô đơn lắm
“Ba đang ngồi cạnh mẹ. Nhà chẳng muốn nấu nướng gì. Cả hai đang ăn bánh quy”. Đây là tin nhắn của mẹ, tôi vẫn còn giữ mãi cho tới tận bây giờ.
Câu Hỏi Của Ông Lão Đem Điện Thoại Đến Sửa Khiến Tôi Chết Lặng…
Đây là câu chuyện có thật tại Trung Quốc và do chính người thợ sửa chữa điện thoại kể lại, nó đã khiến nhiều người xúc động.
Những ngày gần đây, câu chuyện xúc động về người cha giàu tình yêu thương đã khiến cư dân mạng Trung Quốc vô cùng xúc động.
Một ông lão tới cửa hàng để sửa máy điện thoại, nhưng nhân viên sửa chữa không thể tìm được lỗi. Câu nói tiếp theo của ông làm mọi người sững sờ…
Tôi là một nhân viên bảo trì và sửa chữa điện thoại di động. Sáng hôm đó, một ông lão đã tới cửa hàng để sửa điện thoại. Tôi cẩn thận kiểm tra chiếc điện thoại nhưng không thể tìm được lỗi nào. Tôi nói với ông rằng mọi thứ đều ổn, và điện thoại vẫn chạy tốt.
Ông nhìn tôi, nhăn nheo, rơm rớm nước mắt hỏi: “Thế tại sao lão không nhận được điện thoại của con?”
Tôi chết lặng…
Thực tế, con cái thường hay bỏ quên cha mẹ mình. Bạn bè trên Internet cũng chia sẻ với tôi những kỷ niệm không thể nào quên của họ. Dưới đây là một số câu chuyện được kể lại:
Cha mẹ phải học cách xa con
Khi còn học đại học, tôi được mời đi chơi trong kỳ nghỉ lễ. Cha nhắn tin hỏi tôi có về không. Tôi đã trả lời rằng con phải đi vài ngày đã. Cha nhắn lại: “Con nhớ về ăn trái chín nhé” (Nhà tôi trồng cây ăn trái). Thế rồi, tôi bật khóc như mưa…
Nhưng cha mẹ luôn cần con, dù con có lỗi lầm gì
Hồi đó tôi rất hư, muốn chứng tỏ bản thân. Tôi đã muốn bỏ nhà đi một tháng để chứng minh mình không cần cha mẹ. Mẹ gọi điện thoại nói: “Mẹ cần con”. Lúc đó, tôi mới nhận ra mẹ yêu mình tới nhường nào…
…Và luôn bao bọc con cái mà không hề quan tâm tới bản thân mình
Hồi đó, tôi đi học xa nhà, học phí ở trường đều là cha mẹ lo cho. Tôi không hiểu hết được khó khăn của gia đình. Một ngày cha uống quá chén, gọi điện cho tôi và nói, “Con à, cần gì cứ nói, con cần gì nào. Dù cha mẹ có khó khăn cũng không sao. Cha sẽ không để con thiếu tiền dù chỉ một ngày. Cứ để cha lo hết.”
Khi con đi xa, cha mẹ sẽ cô đơn lắm
“Ba đang ngồi cạnh mẹ. Nhà chẳng muốn nấu nướng gì. Cả hai đang ăn bánh quy”. Đây là tin nhắn của mẹ, tôi vẫn còn giữ mãi cho tới tận bây giờ.
Thời sinh viên, khi đang đi chơi với bạn, tôi chợt nhận được tin nhắn: “Ngày này 20 năm trước, mẹ và ba đã được thấy con chào đời. Con khóc thật to. Đó là ngày hạnh phúc nhất đời ba!”
Vì vậy, đừng quên thể hiện sự quan tâm tới cha mẹ, bạn nhé! Không cần phải là cái gì đó to tát, đôi khi chỉ là 1 cuộc điện thoại mà thôi…
Nghiệp Nặng và Sự Cứu Độ Của Đức Phật - Nguyễn Xuân Chiến
1- Một bậc trưởng lão, thọ giới Tỳ-kheo và tu hạnh đầu đà (khổ hạnh) đã hơn 50 năm. Ngài là niền tin và là tấm gương sáng cho nhiều Phật tử. tuy đã lớn tuổi, nhưng Ngài vẫn thường xuyên giữ chánh mạng, chưa hề bỏ quên khất thực hóa duyên, dù chỉ một ngày.
Hôm nọ tin dữ loan truyền khắp thành phố khiến mọi người sửng sốt: Khi đi hóa duyên trở về, ngài đã gặp tai nạn bất ngờ, một chiếc xe gắn máy đụng phải. Ngài đã thâu thần nhập diệt ngay tại hiện trường.
Chúng tôi nghe rất nhiều Phật tử xì xào to nhỏ: “Ngài tu hành tinh tấn và nghiêm túc, tại sao lại chết thảm như vậy? Chắc là nghiệp của Ngài quá nặng? Nghiệp nặng?
Một vị Ni sư gần 60, xuất gia từ nhỏ, giới hạnh nghiêm túc, luôn phát tâm hoằng pháp, bố thí, cúng dường. Hôm nọ ngồi sau xe gắn máy, té xuống bị xe hơi cán dập nửa thân mình. Tuy vậy Ni sư vẫn còn tỉnh táo, chắp tay niệm Phật và căn dặn đệ tử nên tha thứ cho ngời tài xế vừa gây án, xong mới nhẹ nhàng tắt thở.
Người bạn tôi vô cùng rúng động, vội vã về tường thuật mọi sự và gào to: “Không thể chịu nổi, một người tu hành như vậy sao lại nhận lấy nghiệp nặng như thế?”
Tôi chờ anh ta hết xúc động mới nói: “anh còn nhớ không, trong kinh sách Phật dạy rõ: ‘Chết như thế nào và chết trong hoàn cảnh nào đều là do quả báo quá khứ từ vô lượng kiếp, chúng ta phàm phu không thể can dự được.
Không phải chết trên giường là tốt hơn trên hiện trường tai nạn, tất cả chỉ là lý do để ta xa rời thân xác này để đi tới kiếp sống khác’. Anh là người Phật tử có hành trì, tất nhiên không nên đặt tâm vào chuyện được chết trong tình trạng ưng ý, mà tốt nhất là được chết khi “nhất tâm bấn loạn”, khi tâm định tĩnh, khi làm chủ tâm thức lúc lâm chung – phải thế chứ?
Còn nữa, một nữ Phật tử gần như trọn đời tu tại gia, thọ giới Bồ tát, ăn chay trường, ngoài ra luôn luôn tham gia từ thiện không bao giờ tiếc lẫn tài sản và công sức.
Thế nhưng, khi về già, thân thì mang trọng bệnh, gia cảnh nghèo túng, mà đạo hữu càng lúc càng thưa dần. Đã thế con cái đứa thì bị tai nạn, đứa thì làm ăn thất bại, phải bỏ xứ mà đi, khiến bà ta chỉ còn chiếc bóng thui thủi, sớm chiều chỉ biết vui với xâu chuỗi hột. Nhiều nguời chép miệng dè bỉu: “nghiệp nặng!”.
Trong cuộc sống và cả trong những buổi đàm luận chuyện đạo, chúng ta thường nghe những người xung quanh hay thốt lên hai chữ “nghiệp nặng”. Từ ngữ này được sử dụng để kết thúc một câu chuyện đời, một mẫu tin thời sự, hoặc để phê phán hành vi kém cỏi của một cá nhân nào đó.
Ở đây, chúng tôi không đánh giá việc làm ấy là đúng hay sai. Mà chỉ đơn giản thảo luận đến ý nghĩa của từ ngữ Nghiệp nặng theo quan điểm Phật giáo mà chúng tôi được học mà thôi. Còn những ai muốn tìm hiểu sâu xa về Nghiệp thì xin kiếm tìm trong kho tàng kinh sách Phật giáo, hoặc có thể tham vấn các bậc tôn túc.
2- Phải chăng một thực thể gọi là “Nghiệp nặng” hay là không?
“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ý nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”.
Nhưng khi được Đức Thích Ca sử dụng để trình bày giáo lý do Ngài giác ngộ dưới gốc cây Bồ đề, thì từ ngữ này đã mang nhiều ý nghĩa khác biệt, phong phú hơn và thâm áo hơn. Hôm nay, chúng tôi chỉ hạn chế bài viết này trong hai từ ngữ “nghiệp nặng” mà chúng ta hay sử dụng một cách tùy tiện, dễ dãi!
“Nghiệp nặng” cũng là một từ ngữ hết sức hàm hồ đa nghĩa, vì luôn lệ thuộc vào văn cảnh , hoặc tùy thuộc vào hệ thống triết học, tư tưởng mà nó phải diễn giải. Thói thường, người ta chỉ hiểu “nghiệp nặng” nghĩa là nghiệp chướng nặng nề, hoặc là: gặp phải quả báo tệ hại, xấu xa khốn khổ.
Theo quan điểm thế gian (của những người chưa tin Phật và học Phật) thì: kẻ nào nghèo nàn túng thiếu, bệnh hoạn tật ách, tai nạn cấp kỳ, gia đạo bất an, nghịch cảnh đau đớn, đời sống khó khăn, tình cảm bấn loạn, sinh hoạt đời thường không được ổn định v.v.. thì bị thiên hạ gọi là “ kẻ có nghiệp chướng nặng nề” hoặc là “kẻ bị nghiệp nặng”
Phật giáo không hề nhìn nhận một cách thiển cận và thiếu sót như vậy.
3- Nhưng Phật giáo có rất nhiều loại nhận thức tùy thuộc vào nhiều nền giáo lý; tư tưởng khác biệt. Xin được trình bày lần lượt như sau:
Theo quan điểm nguyên thủy, một chúng sanh được gọi là nghiệp nặng khi kẻ ấy không có điều kiện để thực hiện một nếp sống giải thoát. Mà mục tiêu của giải thoát là chứng dắc thánh quả A-la-hán (đạt tâm vô ngã), chấm dứt sự thọ nghiệp.
Vậy ta có thể kết luận rằng: ngài A-la-hán ra, tất cả chúng sanh chưa giải thoát đều là nghiệp nặng cả, vì còn sinh tồn bởi nghiệp lực chứ không bằng tâm thái vô ngã (Ngay cả những bậc đắc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm cũng còn sống bằng nghiệp lực nói chung và chưa đạt Vô ngã).
Trên đây là giáo lý dành cho bậc xuất gia, còn người tại gia (những người đã được thọ Tam quy và trì Ngũ giới) thì ngoài việc bố thí cúng dường và đặt bát cho chư Tăng, Ni , thì phải nỗ lực thọ trì Bát quan trai để được sanh Thiên ( sanh lên cõi Trời). Vậy ai không thường xuyên thọ trì Bát quan trai, sẽ không được “sanh Thiên”, như vậy có thể bị gọi là nghiệp nặng.
4- Còn quan điểm Đại thừa thì sao?
Đại thừa Phật giáo luôn luôn đặt trọng tâm nơi việc phát khởi Vô thượng Bồ-đề-tâm để giải thoát luân hồi sanh tử cho bản thân và để cứu độ tất cả chúng sanh khác, giúp mọi chúng sanh thành Phật như mình.
Vậy kẻ nào không thể liên tục phát khởi Vô-thượng Bồ-đề tâm hoặc không tạo điều kiện để mình cùng mọi chúng sanh thành tựu trí giác Phật-đà, thì kẻ ấy vẫn là n gười đa mang nhiều nghiệp chướng nặng nề.
Đó là ý nghãi tạm thời của hai chữ “nghiệp nặng” được trình bày tổng quát qua giáo lý Đại thừa.
Ngoài ra, tùy theo pháp môn tu hành mà người ta có thể diễn giải từ ngữ Nghiệp nặng theo nhiều ý nghĩa khác nhau, có thể sử dụng trong những văn cảnh khác nhau.
5- Ví dụ, Thiền tông chủ trương: “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” là tiêu chí cho tất cả môn đồ, đệ tử, không loại trừ bất cứ ai. Vậy kẻ nào chưa “thấy tánh”, nghĩa là chưa bắt gặp “cái mặt mày của mình trước khi cha mẹ sinh ra” (ngôn ngữ nhà Thiền gọi là: chưa nhận chân được cái bản lai diện mục của mình), và chưa thành tựu khả năng thành Phật thì là một kẻ nghiệp nặng.
Dẫu là hòa thượng, đại đức, thiền sư, tổ sư, nếu người nào còn lẩn quẩn bên ngoài cửa Đốn Ngộ thì còn trầm luân sanh tử, nên gọi người ấy là kẻ có nghiệp chướng nặng nề, đáng thương đáng trách!
Hoa nghiêm tông lấy “Ly thế gian, nhập pháp giới”làm yếu chỉ tu hành. Người nào còn bị vương mắc bởi dây trói ngũ dục, bị ràng buộc bởi phiền não chướng và sở tri chướng. còn dính líu đến những lợi ích thế gian và ngay cả những hiệu quả xuất thế gian, mà chưa nhập thế tánh siêu việt bình đẳng bất khả tư nghị của pháp giới thì…Hoa nghiêm tông gọi kẻ ấy còn nghiệp chướng nặng nề .
Thiên thai giáo tức Pháp Hoa tông thì lấy “Khai thị ngộ nhập Phật tri kiến” làm mục tiêu và cơ sở tu hành cho tất cả tín đồ.
Vậy, kẻ nào chưa ngộ nhập Phật tri kiến mà còn đang sống với quan điểm thế gian, nhìn mọi sự vật bằng con mắt phàm tục, đầy ý thức phân biệt, tách bạch thiện ác tốt xấu chỉ vì thiếu thốn chất liệu từ bi, chưa phát huy năng lực trí tuệ của Phật, thì vẫn là kẻ nghiệp chướng nặng nề, chưa liễu ngộ được tông chỉ của Thiên Thai giáo nói riêng và chưa cảm nhận diệu nghĩa của nhà Phật nói chung.
Pháp Tướng môn tức là Duy Thức tông thì lấy “Nhiếp vạn pháp quy về Chân Duy Thức Tánh” ( tất cả không ngoài thức) làm cốt lõi cho sự hành trì, đồng thời làm cứu cánh tối hậu cho cuộc sống. Người nào chưa có khả năng thực hiện Chân Duy Thức Tánh, thì gọi kẻ ấy còn nghiệp chướng nặng nề.
Luật Tông lấy “Nhiếp thân ngữ ý vào Thi-la-tánh” làm tông chỉ. Nghĩa là đi đứng nằm ngồi, tất cả mọi sinh hoạt, cử động , lời nói, tư tưởng, đều an trú trong Giới Tánh. Nếu chưa biểu hiện được như thế, thì Luật Tông gọi kẻ ấy còn nghiệp chướng nặng nề.
Tam Luận tông lấy “Lìa Có và Không, thẳng vào Trung đạo” làm tông chỉ, rồi tiến tới “siêu Tử Củ, tuyệt Bách Phi” làm cứu cánh tối hậu. Ai biểu hiện trái ngược lại, nghĩa là còn vướng víu cái Có của phàm phu, hoặc cái Không của Thánh nhân, thì ta gọi kẻ ấy còn nghiệp chướng nặng nề.
Người theo Pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực lạc thì phải lấy “Tín Nguyện Hạnh” làm điều kiện chính yếu cho việc tu hành, và chấp nhận “ Một đời vãng sanh, được bất thối chuyển” làm mục tiêu cuối cùng cho việc niệm Phật. Dù là tăng, tục, nam, nữ đều không biệt lệ.
Tín là lòng tin chuyên nhất về sự cứu độ của chư Phật.
Nguyện là ý nguyện mong muốn được trở về sinh sống tại cõi tịnh độ.
Hạnh là, thường xuyên xưng niệm nam mô A Di Đà Phật liên tục, không gián đoạn.
Ai không có khả năng thực hiện được Tín Nguyện Hạnh và khi lâm chung không đuợc vãng sanh Cực Lạc, thì tông phái này sẽ gọi kẻ ấy là nghiệp chướng nặng nề vì “còn vướng lụy”, phải ở lại thế gian, lăn lộn trong ba cõi sáu đường.
7- Đặc biệt ở Tịnh độ Nhật Bản, chư vị Tổ sư như Ngài Nhất Biến, Pháp Nhiên và Thân loan, đều cực lực tuyên dương 2 phần:
I- Danh hiệu Nam mô A Di Đà là phương tiện thù thắng, vừa là cứu cánh tối thượng, vừa là chỗ quy túc cho mọi hành vi, tư tưởng và lời nói của hành giả.
II- Bản nguyện A Di Đà có khả năng vĩ đại là cứu vớt tất cả kẻ “nghiệp nặng, phước khinh, chướng sâu, huệ cạn”, Hết thảy chúng sanh không phẩm tâm linh cần thiết cho mọi chúng sanh không phân biệt.
Do đó chúng ta chớ quên rằng, trong Pháp môn Tịnh độ các Tổ sư vô cùng hân hoan, thích thú khi che chở cho những kẻ thường bị thế gian miệt thị là nghiệp chướng nặng nề, là đôn căn hạ trí, là ươn hèn yếu đuối.
Vì Đức Phật A Di Đà luôn ưu ái những người tội lỗi, nghiệp nặng, va luôn luôn đối xử với họ bằng lòng bi mẫn đặc biệt:
Nhưng thật ra, ngoại trừ những bậc thánh vào ra sanh tử cốt thị hiện để cứu độ chúng sanh thì…tất cả chúng sanh đều là kẻ nghiệp nặng hết thảy.
8- Tóm lại, từ ngữ “nghiệp nặng”không có chỗ đứng trong lòng người Phật tử (vì ai cũng là kẻ nghiệp nặng, dưới những hình thức khác nhau, trong những lốt vỏ khác nhau, trong những vị thế khác nhau-thì cần chi phải luận bàn vô ích đến một sự kiện rất ư là hiền thiện như vậy?) hoặc nói cách khác:
Đạo Phật không có sự phân biệt “nghiệp nặng” hay là “nghiệp nhẹ”. Vì trái lại, kẻ nào nghiệp càng nặng, càng được Phật cứu độ một cách khẩn trương, càng được ưu ái bởi Bản Nguyện A Di Đà một cách triệt để, hoàn mãn.
Hòa thượng Quảng Khâm, một cao tăng trong thiền môn thời nay, đã dạy rằng:
“Danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật chứa đựng vô biên năng lực bất khả tư nghì, há không thể tẩy rửa mọi nghiệp chướng của chúng sanh dẫu sâu nặng tới đâu chăng nữa hay sao?
Vậy mà chúng ta chớ e sợ mình nghiệp chướng nặng nề, mà hãy tự hỏi: chúng ta hành trì sáu chữ hồng danh đã thực thà, chân thật hay chưa?
Lại nữa, Đức Phật A Di Đà tựa như Bà Mẹ tràn đầy yêu thương, thế nên đứa con nào gặp phải nguy nan, khốn cùng, tai họa thê thảm mà lớn tiếng kêu cứu thì Bà mẹ ấy đương nhiên phải quan tâm ngay lập tức, phải bày tỏ lòng xót xa và cứu trợ cấp kỳ. Và điều này cũng không phải khó hiểu!
Cho nên chúng ta đừng ngại rằng mình nghiệp nặng, mà cũng đứng miệt thị kẻ khác là “nghiệp nặng”, vì nếu chủ trương như vậy, e rằng chúng ta dường như chưa hiểu và chưa tin vào Bản Nguyện A Di Đà! Ngài Thân Loan lại bảo:
May mắn thay cho những kẻ chất chứa nhiều ác nghiệp, bởi vì họ sẽ được Đức Phật cứu độ khẩn cấp!
Bởi vì tôi là một chúng sanh không chồng nghiệp nặng, tôi còn biết ơn sâu xa hơn đối với Bản Nguyện, nó đích thực được thiết lập ra để cứu độ tôi.
(Trích Sông Lửa Sông Nước của Taitetsu Unno, bản dịch An Cư)
Vâng, phài một danh hiệu thù thắng nhiệm màu như vậy, mới thừa khả năng cải biến tâm linh chún ta, chuyển hóa cái tâm dơ bẩn xấu ác này trở thành Niết-bàn vi diệu, bằng cách vận chuyển những kẻ u mê ám chướng tội lỗi nghiệp nặng sang định cư tại cõi Cực lạc chứ?
9- Chúng ta cần khẳng định rằng đạo Phật không những chỉ dành cho những người thông minh, đạo đức (hạng này rất ít, không mấy người), mà là đặc biệt dành cho những con người yếu đuối trước cám dỗ của tội lỗi, cưu mang lắm nghiệp nặng, hành vi xấu ác, tâm lý mê đắm. Nhờ vậy, mới làm sáng tỏ đức từ bi vô hạn của chư Phật, chư Bồ Tát.
Như Angulimala từng giết 999 người, còn âm mưu sát hại Đức Phật Thích Ca, thế mà còn được Phật khai ngộ và dạy dỗ cho đến khi chứng đạo.
Như Yasa, một công tử giàu có đam mê dục lạc, vẫn được Ngài thâu nhận làm đệ tử, rồi chẳng bao lâu đã chứng quả. Như Châu-lợi Bàn-đà-già là người u mê, si độn , vẫn được Phật đưa vào giáo đoàn. Sau này trở thành người có tài biện luận sắc sảo, nổi tiếng là bậc Nhớ Nghĩa Hay đệ nhất.
Cho nên chúng ta nên lạc quan, không cần biết nghiệp mình nhẹ hay nặng, hãy hành trì chắc thật và luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự cứu độ không giới hạn của chư Phật.
Sau ngày 30.4.75 nhiều gia đình Cán bộ, bộ đội từ miền Bắc vào Nam lập nghiệp, trong số đó có vợ chồng Hương, từ Hải phòng vào đây, vì là Cán bộ thâm niên nên đôi vợ chồng này được ưu tiên "hóa giá" nghĩa là được mua một căn nhà với giá tượng trưng, căn nhà do một gia đình sĩ quan chế độ cũ đã vượt biên.
Từ ngày có gia đình Ông Hương dọn về ở, xóm tôi tự nhiên náo động hẳn lên, vì hầu như không ngày nào hai vợ chồng này không có những cuộc cãi vã, chúng tôi chẳng ai muốn can ngăn, phần vì còn lạ lẫm nhau, phần vì giữa chúng tôi và họ vốn đã có một hố sâu ngăn cách, khó mà hòa hợp nhau được. Ông chồng vốn là một tay nát rượu, xưa nay bị kềm chế, bây giờ vào Nam, mặc sức mà uống, nên mỗi lần uống là mỗi lần say khướt, mà mỗi lần say là thế nào hai vợ chồng cũng lục đục. Một hôm cả xóm đang yên tĩnh, bỗng nghe tiếng thất thanh:
- Ối giời đất,thánh thần ơi, ối làng nước ôi, sao tôi có thằng chồng khốn nạn thế này hở Giời?
Chúng tôi chạy lại trước cửa, thấy anh chồng hai mắt nhíu lại, giọng lè nhè :
- Khốn nạn hả, mày bảo ông khốn nạn hả, Khốn nạn mà sao mày cứ bám lấy ông như đỉa, mày làm khổ ông, mày giam hãm ông.
Hai bên lời qua tiếng lại, nhưng vì anh chồng đã nát rượu nên không thể cãi lại mụ vợ dẻo mồm, dẻo miệng, anh chỉ còn cách sử dụng nắm đấm làm biện pháp chiến thắng, nhưng đấm quờ đấm quạng, càng đấm cái loa rè càng tăng công suất. Chị vợ cũng không kém, càng sấn sổ vào gần chồng để xỉa xói. Bất ngờ, một cú đấm mạnh trúng ngay vào mồm
Chị vợ hét lên :
- Ối làng nước ơi, đồng bào, đồng chí ơi! Nó đánh vào đài rồi.
Thừa thắng xông lên, anh chồng nhắm ngay mắt vợ đấm cho một cú, chị vợ lảo đảo, vừa né vừa la:
- Ối giời ôi, Nó đánh trúng trung tâm nghe nhìn rồi.
Ông chồng đá tiếp vào chân vợ.
- Ối nhà nước ôi! Nó đánh vào Bộ giao thông vận tải rồi.
Anh chồng quơ tay phải trúng ngay vú trái! Bà vợ càng la to hơn:
- Đồ vô nhân đạo! Đồ dã man, Mày dám tấn công vào cơ quan Bảo vệ bà mẹ và trẻ em nữa à?
Vợ càng la to, chồng càng hăng tiết, đấm ngay một cái vào vú phải.
- Ối giời đất ơi, Nó tấn công vào Tổng cục cao su rồi!
Anh chồng gào to:
- Mày nói gì, cái gì mà cao su với không cao su, Ông cho mày biết tay luôn...vừa nói hắn vừa nhắm ngay chỗ kín mụ vợ đá thẳng vào.
Bà vợ thét lên:
- Ối làng nước ơi, Ối Bác Hồ, Bác Giáp ơi, cái thằng chồng khốn nạn của con nó đã tấn công thẳng vào Bộ Chỉ Huy Sinh Đẻ Có Kế Hoạch của Bác rồi Bác ơi!
QĐND - Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, địa bàn huyện A Lưới (Thừa Thiên-Huế) thường bị máy bay Mỹ quần thảo, chà xát và bắn phá. Đồng bào dân tộc Tà Ôi sống trong vùng chăn nuôi được trâu, bò, lợn, thường bị máy bay trực thăng của Mỹ-ngụy bắn chết rồi cướp về căn cứ mổ thịt. Để bảo vệ đàn gia súc và bản làng, đồng bào đã nghĩ cách tiêu diệt máy bay của địch.
Theo sáng kiến của già bản Rúa, xã A Đớt, một nhóm thanh niên của làng tập hợp lại, nấp trong thân núi, trên cây rậm, che kín lá để máy bay địch không phát hiện. Như mọi lần, hai chiếc máy bay trực thăng địch bay vào bản, xả súng bắn chết hai con trâu mộng. Khi chúng hạ cánh xuống khu đất bằng phẳng, bọn lính mở cửa máy bay để ra khiêng trâu lên khoang.
Từ trên lưng chừng núi và trên các thân cây, thanh niên dân bản đồng bào Tà Ôi dùng cung nỏ, súng tự chế bắn vào phi công và bọn địch. Bị bất ngờ, bọn địch không kịp trở tay, vội vàng cho máy bay cất cánh.
Nhưng do bị trúng tên nỏ, nên tên phi công loạng choạng, điều khiển máy bay đâm vào núi, nổ tung... Từ đó, quân Mỹ không dám cho máy bay đến bắn giết trâu bò, gia súc của dân bản vì sợ cung nỏ và súng tự tạo của đồng bào.
Nhật Quang
Dùng cung nỏ bắn hạ... máy bay 'Mỹ Ngụy'?!
(Cảnh báo: Khi đọc bài này không nên ăn hay uống, coi chừng chết sặc!!)
Ngoc Nhi Nguyen (Danlambao) - Trong mục Khoa học - Nghệ thuật Quân sự của báo Quân đội nhân dân của đảng CSVN có 1 bài, dưới tiêu đề "Ông cha ta đánh giặc" mà đọc vào cái tựa đã muốn té ngửa "Dùng cung nỏ bắn hạ... máy bay"!!!
Đọc vào nội dung thì càng choáng váng hơn nữa khi bài báo cho biết Mỹ - Ngụy dùng "trực thăng đi bắn trâu, bò, lợn để cướp về ăn"!!!
Má ơi, công nhận Mỹ Ngụy chơi sang thiệt! Bỏ tiền triệu ra sắm trực thăng, tốn tiền xăng, tốn công, tốn lính bay vào vùng miền núi để "săn" trâu bò về ăn thịt?? Giá 1 con trâu 1 con bò là bao nhiêu so với phí tổn cho 1 chuyến bay như vậy? Hay là "nhân dân ta" lúc ấy toàn nuôi trâu bò Kobe, cho ăn nhân sâm và nghe nhạc giao hưởng nên quý hiếm và mắc tiền đến nỗi Mỹ Ngụy phải tốn ngần ấy tiền và liều mạng vô cướp?
Chưa kể con trâu, con bò Kobe của họ bao lớn? Bên trong khoang của 1 chiếc trực thăng nhỏ xíu, chỉ ngồi vừa 4 người kể cả phi công, cửa khoang cũng chỉ vừa 1 người chui lọt, chỗ đâu mà nhét cả con trâu vô hả trời??? Đã thế lại còn cần thêm "1 bọn lính" để "khiêng trâu" nữa mới ác!!!
Đọc tiếp xuống dưới thì xuýt xỉu vì thấy kể "đồng bào ta" dùng cung và nỏ tự chế, bắn trọng thương phi công đang ngồi trong buồng lái khiến "phi công loạng choạng, điều khiển máy bay đâm vào núi, nổ tung..."!!!
Thiên địa quỷ thần ơi! Cung và nỏ tự chế của "nhân dân" làm bằng cái thứ chi mà kinh khủng vậy trời? Bắn theo kịp cả tốc độ trực thăng và xuyên thủng cả kính chống đạn để làm trọng thương phi công??
Đề nghị đảng cho bà con dân tộc Tà Ôi này chế thêm cung nỏ đi, đem ra bắn tàu Trung Quốc xâm lược coi bộ hiệu quả hơn mấy con Kilo với tuần dương hạm á!!
Hiii thiên hạ nghĩ ra những giòng chữ tếu phù hợp mà lại hay.
Có một anh chàng về VN, đi nhậu một mình, vừa ngồi xuống bàn, chưa kịp kêu beer thì một cô tiếp thị beer Tiger xinh như mộng mặc váy khá ngắn bước đến gần nhìn anh với ánh mắt đắm đuối:
- Anh uống bia TIGER giùm em đi anh. Bia tình yêu đó!
Chàng ta :
- Tại sao lại là bia tình yêu?
- Thì anh hãy giải mã chữ Tiger đi. Tình Yêu Giết Em Rồi !
- À vậy hả? Thôi đi em! Tình yêu bạo lực quá!
Tức thì một người đẹp khác bước đến thế chỗ:
- Vậy thì anh uống bia của em đi. SAN MIGUEL dzô dzô đó. Em sẽ nhớ anh suốt đời. Khi nào quán vắng anh thì em lại thẫn thờ... Sao Anh Nhớ Mà Ít Ghé Uống, Em Lo !
- Ồ không đâu, anh chỉ là khách qua đường thôi.
Như thấy phương thức tiếp thị của hai cô kia chưa được ấn tượng, người đẹp thứ ba bước lên vừa đá lông nheo vừa thỏ thẻ:
- Anh hãy uống CARLSBERG đi, bia này mới là sành điệu đó. Anh uống xong thì Cho Anh Ráng Lấy Sức Bế Em Ra Giường !
Quá kinh hãi, mồ hôi đầm đìa, nhưng chàng ta cũng trấn tĩnh lắc đầu:
- Uống xong thì anh xỉn mất tiêu rồi, còn sức đâu nữa em.
Cô tiếp thị thứ tư bèn bước lên ra chiêu cuối cùng hy vọng sẽ quật ngã được con tim sắt đá của anh chàng này :
- Vậy thì chỉ có HEINEKEN thôi. Anh uống xuôi hay ngược gì cũng được, cũng là tình yêu trọn vẹn cả.Hôn Em Ít Nên Em Khều, Em Nhéo.... hay là ngược lại Nếu Em Khôn Em Nằm Im Em Hưởng.
Chàng ta lắc đầu quầy quậy:
- Thôi xin lỗi mấy em, tình yêu mấy em sao mà sành điệu quá, anh chỉ uống SAIGON thôi!
Đến lúc này thì cả 4 cô tiếp thị đều ngạc nhiên:
- Trời! Sao anh lại uống beer đó?
- Ồ, đây mới chính là tình yêu thiêng liêng của anh đó.
Chàng ta bèn chỉ vào cái nhẫn trên tay: Số Anh Yêu Gái Ở Nhà !
Tình cờ đọc trên mạng tôi thấy người ta “bôi bác” đàn ông. Họ nói cuộc đời người đàn ông gắn liền với chữ “ĂN”.
Đại loại như là:
Khi còn nhỏ thì “ăn học”. Xin tiền ba mẹ mua quà không được thì “ăn vạ”.
Lớn chút nữa thì “ăn chơi”, “ăn mặc”, “ăn diện” để tán tỉnh các cô.
Lỡ “ăn nói bậy bạ” thì “ăn bạt tai”.
Rồi thì “ăn hỏi”, “ăn cưới”, “ăn đời ở kiếp".
Khi vợ sắp sinh đành phải “ăn chay”. Sau khi vợ sinh lại phải “ăn kiêng”.
Khi bắt đầu chán (vợ) đâm ra "ăn vụng". “ăn gian nói dối”. Nói với vợ là đi “ăn cơm khách” nhưng thực ra là đi “ăn bánh trả tiền”. Vợ mà biết được cho “ăn gậy”, đuổi ra khỏi nhà đi “ăn mày”.
Vân vân và vân vân…
Nghe mà tức anh ách!
Nhưng gẫm ra cũng đúng, mặc dù không đúng với tất cả mọi người. Trên đời cũng có nhiều đàn ông hiền lành, lo cho vợ con, có đồng nào đưa cho vợ đồng đó, vợ cho gì ăn nấy, không than vãn một câu như… tác giả bài viết này chẳng hạn.
Nhưng nghe người ta bôi bác đàn ông tôi cũng thấy tức, càng nghĩ càng tức, tức anh ách. Dự định “ăn miếng trả miếng” tôi cũng cố nghĩ xem đàn bà “ăn” gì!!! Nghĩ mãi, tôi thấy phụ nữ chẳng thích hợp với chữ “ăn” tí ti nào cả, có chăng chỉ là “ăn hàng” nhưng chẳng bằng một chút của đàn ông “ăn nhậu”.
Vậy cuộc đời người phụ nữ gắn với chữ gì? Suy nghĩ đúng hai ngày ba đêm, lục hết sách vở tôi thấy chẳng có ai nói phụ nữ hợp với chữ gì. Các nhà hiền triết Đông Tây Kim Cổ thường bốc phụ nữ lên tận mây xanh. Tỷ như:
- “Trên đời này chỉ có hai cái đẹp: phụ nữ và hoa hồng”.
- “Phụ nữ được tạo dựng nên để làm dịu sự hung hãn trong tính cách của người đàn ông”.
- “ Rung cảm, yêu, chịu đau khổ, hy sinh: những chữ này mãi mãi dệt nên trang đời của phụ nữ”.
Nghe mà phát rét!
Một đêm phiền muộn (vì chưa nghĩ ra chữ thích hợp với người phụ nữ, “trả thù” cho cái việc bị nói “ham ăn”), tôi phát hiện ra rằng cuộc đời người phụ nữ gắn liền với chữ… “Làm”.
Làm thì cũng có ba bảy đường làm, làm theo kiểu “nói điều hay làm việc tốt”, “làm đẹp” hay đơn giản chỉ là “làm việc”. Nhưng cũng có làm theo kiểu “làm bậy làm bạ”, “làm hung làm dữ” vân vân và vân vân…
Khác với chữ “ăn” hàm ý nhiều hư hỏng, chữ “làm” của người phụ nữ đa số là tuyệt vời. Không lẽ bạn chưa một lần thấy hạnh phúc bởi chữ “làm” của người phụ nữ của bạn hay sao!?. Bởi thế thay vì tìm cách lên án phụ nữ, “trả thù” cho cái chữ “ăn” đáng ghét trên, tôi lại “trở giáo quy hàng” viết bài này ca ngợi phụ nữ.
Lúc còn nằm nôi, người-phụ-nữ-tương-lai thường biểu diễn “làm xấu” mang lại tiếng cười hạnh phúc cho cả gia đình. “Con làm xấu đi!” thế là đứa bé chun mũi, nhắm mắt… đúng là .. xấu thật. Cái trò chơi làm xấu này tiêu tốn không ít thời gian và tiếng cười của nhiều gia đình. Có điều lạ là trò chơi này chỉ có ở bé gái. Bạn có bao giờ thấy bé trai chơi trò “làm xấu” chưa?
Lớn hơn một chút khi đi mẫu giáo, lớp một, lớp hai, là “làm nũng”, con gái ở tuổi này làm nũng thì không ai bằng, lòng mình dịu lại, đang bực bội cũng phải chìu, phải không bạn. Mà cũng như làm xấu, làm nũng chỉ có ở bé gái thôi, bé trai mà làm nũng thì…không giống ai!
Nhưng cũng cô bé hay làm nũng này, nếu không vừa ý sẽ “làm nung làm nẫy”, con gái làm nung làm nẫy thì đúng “ trời sợ”, “làm khó” cho bố mẹ. Khó nhưng cũng cố chìu thôi bạn ạ, có con gái khổ như vậy đó!
Mời ba mười bốn tuổi con gái đã biết “làm điệu”, “làm duyên làm dáng”, khiến không ít chàng trai mới lớn phải ngẩn ngơ.
Lớn hơn chút nữa, khi có người để ý thì các cô thường “làm cao”, ra cái vẻ “Ta đây lo học là chính, nhà người liệu mà tránh xa nơi khác”.
Thân hơn một chút, rủ đi chơi buổi đầu thì các cô lại “làm khó làm dễ” để “làm khổ” cánh đàn ông.
Khi đã đến tuổi lập gia đình, mọi việc đều thuận lợi, chàng trai ngỏ lời cầu hôn thì thường bị các cô “làm lơ”. Nhưng khi thấy chàng trai lơ không nhắc đến nữa thì các cô lại nhất đình đòi “làm thiệt”.
Thế là “làm lễ hỏi”, “làm lễ cưới”. Cô gái ngày xưa lên xe hoa về nhà chồng để “làm vợ”, “làm dâu” và sau này là “làm mẹ”.
Ngày xưa con gái đi làm dâu thường bị nhiều điều ấm ức, các bà mẹ chồng, có lẽ cảm thấy tình cảm đứa con trai dành cho mình bị san sẻ cho người khác nên thường quay sang “làm hung làm dữ” với cô con dâu mới, bởi thế mới này sinh nhiều bi kịch của làm dâu.
“Thật thà cũng thể lái trâu
Thương nhau cũng thể nàng dâu, mẹ chồng”.
Câu ca dao đó đã nói lên phần nào quan hệ không mấy tốt đẹp giữa nàng dâu mẹ chồng. Nhưng dù khổ cực, ấm ức bao nhiều nàng dâu cũng chấp nhận và luôn hiếu thảo với mẹ chồng:
Phải đâu mẹ của riêng anh
Mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi
Mẹ tuy không đẻ không nuôi
Mà em ơn mẹ suốt đời chưa xong
…
Chắt chiu từ những ngày xưa
Mẹ sinh anh để bây giờ cho em
(Xuân Quỳnh)
Có một chữ làm, đúng với nghĩa đen: “làm lụng”, “làm việc” thì người phụ nữ cũng không thua nam giới, có khi lại còn hơn: “Có chồng gánh vác giang san nhà chồng”.
Khi gia đình gặp khó khăn, người phụ nữ sẳn sàng:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặng lội thân cò khi quảng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.
(Trần Tế Xương)
Công việc nhà, những công việc không tên cũng đều phải nhờ tay người phụ nữ: làm tiệc, làm bếp, làm cơm, làm rau, làm gà, làm vịt…
Cả núi công việc phải làm để lo cho chồng và gia đình chồng nhưng người phụ nữ vẫn không quên thiên chức của mình, đó là “làm mẹ”.
Kể từ khi hình thành trong bụng mẹ, đến khi đủ hình hài, chín tháng cưu mang, mẹ đã hy sinh siết bao. Rồi khi vượt cạn mẹ có thể hy sinh cả mạng sống của mình để con ra đời lành lặn.
“Đàn ông đi biển có đôi
Đàn bà đi biển mồ côi một mình”.
(Ca dao)
Rồi khi nuôi con: “Mẹ nuôi con biển hồ lai láng.” (Ca dao)
……..
“Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn.” (Ca dao)
“Một đời vốn liếng mẹ trao.
Cho con tất cả, mẹ nào giữ riêng.”
(Ca dao)
Hai từ “làm mẹ” hàm chứa biết bao điều cao quý, thiên liêng: đó là suốt đời hy sinh, che chở, nuôi dưỡng, dạy dỗ con nên người, mẹ có thể hy sinh tất cả để con được hạnh phúc.
Khi con khôn lớn, thành gia thất, người phụ nữ bây giờ lại “làm mẹ chồng”, “làm mẹ vợ”.
Rồi ngày cháu ra đời, người phụ nữ đó bây giờ được lên chức: “làm bà nội”, “làm bà ngoại”. Bà nội hay bà ngoại lại một lần nữa như làm mẹ, cũng thức suốt đêm, canh cho con, cho cháu ngủ, cũng bế bồng, ầu ơ ru cháu bằng tất cả tình thương.
Nhiều năm trôi qua, nhiều thế hệ tiếp nối, người phụ nữ của ngày xưa có khi “làm bà Tổ” của một dòng họ.
Còn một chữ làm nữa mà tôi chưa nhắc đến trong phần trên, chữ làm khiến cho người phụ nữ đã đẹp lại càng đẹp hơn, đó là “làm đẹp”. Làm đẹp có lẽ được sinh ra cùng một lần với người phụ nữ.
Nhiều người đàn ông trên thế gian này (may mắn là số đó không nhiều) lên án phụ nữ về chuyện quá chăm chút làm đẹp. Có bao giờ bạn thấy người phụ nữ làm đẹp và đứng trước gương soi suốt ngày để ngắm mình không? chắc chắn là không. Người phụ nữ làm đẹp không phải cho họ mà là để cho đời, cho chúng ta đó hỡi những người đàn ông khờ khạo! Vậy thì vì lẽ gì mà chúng ta lại lên án phụ nữ làm đẹp?
Để làm đẹp, người phụ nữ lại có hàng trăm việc phải làm: làm đầu (làm tóc), làm móng tay, làm móng chân, làm trắng da, làm môi, làm mắt, làm lông mày, làm lông mi và hàng tá cái làm khác.
Làm xấu, làm nũng, làm nung làm nẫy, làm duyên làm dáng, làm điệu, làm cao, làm lơ, làm dâu, làm vợ, làm mẹ, làm đẹp…Từ thủa trong nôi cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, cuộc đời người phụ nữ luôn gắn với chữ “Làm”.
Ngày đẹp trời, một cặp vợ chồng khoảng trên 60 tuổi đến văn phòng luật sư. Họ muốn làm thủ tục ly hôn.
Lúc đầu vị luật sư vô cùng ngạc nhiên, nhưng sau khi nói chuyện với đôi vợ chồng, ông đã hiểu đầu đuôi câu chuyện. Trong 40 năm chung sống, cặp vợ chồng này luôn cãi nhau và dường như chẳng bao giờ quyết định gì cho đúng đắn. Họ chịu đựng nhau đến bây giờ là vì các con. Bây giờ con cái của họ đã lớn, đã có gia đình riêng, nên hai vợ chồng già không còn điều gì lo lắng nữa. Họ muốn được tự do sau những năm tháng dài không hạnh phúc. Cả hai vợ chồng đều đồng ý ly hôn. Hoàn tất thủ tục ly hôn cho cặp vợ chồng này là điều không dễ vì tình sâu nghiã nặng.
Vừa ký xong giấy tờ, người vợ già vừa nói với chồng: “Tôi thực sự yêu ông, nhưng tôi không thể chịu đựng hơn được nữa. Tôi thành thật xin lỗi”.
“Không sao, tôi hiểu.”, ông chồng già đáp lại.
Nhìn cảnh này, ông luật sư đề nghị mời hai vợ chồng một bữa cơm tối. Người vợ trả lời: “Sao lại không? Dù ly hôn, ta vẫn sẽ là bạn cơ mà”.
Bên bàn ăn, bầu không khí im lặng, nặng nề đến khó thở.
Món ăn đầu tiên được mang ra là món gà quay. Người chồng lập tức gắp một miếng đùi gà cho vợ: “Bà ăn đi, đây là món bà ưa thích.” Nhìn cảnh này, vị luật sư nghĩ “vẫn còn cơ hội cho họ hàn gắn lại”. Không ngờ người vợ cau mày, đáp lại: “Đây là vấn đề. Ông luôn chủ quan quá nên không bao giờ hiểu được tư tưởng của tôi. Ông không biết tôi ghét đùi gà chừng nào à?”
Điều người vợ không nhìn thấy được là trong bao nhiêu chung sống, người chồng luôn luôn cố gắng làm vui lòng bà, dù là người thiếu nhận xét hay khéo léo. Bà không biết là đùi gà là món yêu thích nhất của ông, cũng như ông không biết bà ghét đùi gà. Dù ông chỉ muốn dành những miếng ngon nhất theo khẩu vị của ông, nhường những thứ tốt nhất cho bà, bà chưa bao giờ cảm nhận được là ông hiểu bà.
Đêm hôm đó, cả hai ông bà đều không ngủ được. Sau nhiều giờ trằn trọc, người chồng không thể chịu đựng nỗi nhớ nhung nữa. Ông hiểu rằng ông yêu bà và không thể sống thiếu bà. Ông muốn van bà quay trở lại làm vợ chồng. Ông muốn xin lỗi, muốn nói “Anh yêu em” thật nhiều. Ông nhấc điện thoại lên và bấm số của bà. Tiếng chuông reo không ngừng, nhưng bà không nhấc. Ông lại cố gắng bấm máy, suốt tối.
Đầu bên kia, bà vợ cũng rất buồn. Bà không hiểu điều gì đã xẩy ra trong những năm tháng sống cùng nhau. Sau 40 năm, ông ấy vẫn chẳng hiểu bà. Bà vẫn yêu ông nhưng bà không thể chịu đựng cuộc sống tẻ nhạt như thế nữa.
Mặc cho chuông điện thoại reo liên hồi, bà không thèm trả lời, dẫu biết rằng người gọi là ông. Bà tự nghĩ: “Nói làm gì nữa khi mọi chuyện đã xong xuôi hết rồi. Mình quyết định ly hôn mà. Bây giờ đâm lao thì phải theo lao, nếu không mất mặt lắm”. Chuông điện thoại vẫn cứ reo rồi bà quyết định tháo dây điện thoại ra. Trong khi đầu bận suy nghĩ rối bời , bà quên bẵng đi là ông bị đau tim…
Sáng hôm sau, bà nhận được tin ông qua đời. Như một người mất trí, bà lao thẳng đến căn nhà của ông, để nhìn thấy thân thể ông trên chiếc divan, tay vẫn giữ chặt máy điện thoại. Ông buồn bã, thất vọng suốt đêm khi bà không cho cơ hội tỏ nỗi lòng và tim ông đã buông suôi. Bà đau đớn vì hối hận. Một cảm giác mất mát quá lớn bao trùm lấy tâm khảm bà.
Khi thanh toán tài sản của ông, bà tìm thấy trong ngăn kéo một hợp đồng bảo hiểm ông ta đã mua cho bà, từ ngày họ cưới nhau. Kèm vào đó, là một lá thư: “Gửi người vợ thân yêu của anh. Lúc em đọc lá thư này, chắc hẳn anh không còn trên cõi đời này nữa. Anh đã mua bảo hiểm này cho em, anh hy vọng nó có thể giúp anh thực hiện lời hứa của mình khi chúng ta lấy nhau. Đến khi anh không còn ở bên cạnh để chăm sóc cho em nữa thì mong số tiền này có thể giúp anh tiếp tục đùm bọc cho em. Đó là điều anh ước nguyện sẽ được làm suốt cuộc đời anh. Anh sẽ mãi mãi bên em và yêu em thật nhiều”.
Nước mắt bà tuôn chảy hai hàng. Bà cảm thấy yêu ông hơn bao giờ hết. Bà muốn nói vạn lời xin lỗi, muốn nói ngàn lời yêu thương nhưng ông không còn nghe được nữa.
Về tính cách của con người: tốt xấu thiện ác là những danh từ do con người đặt ra. Bản thân cái xấu chẳng có gì là xấu cả, nó nằm trong sự đa dạng chung của muôn loài, của tạo hóa.
Có những người thích làm những điều bất lương, thích lừa dối người khác. Chẳng phải vì họ muốn vậy mà do ông trời sinh ra tính cách của họ như vậy. Cái ông trời sinh ra đó (tính nết đó, ham muốn đó) sẽ làm nên số phận của họ sau này. Hiển nhiên rồi, chẳng ai muốn làm điều ác, ai cũng muốn làm việc chăm chỉ và lương thiện để kiếm tiền.
Nhưng khổ nỗi lòng tham của con người là vô hạn, trong khi tài năng của con người là hữu hạn. Đâu phải ai sinh ra cũng có tài, biết cách làm việc. Đâu phải ai cũng gặp hay biết tận dụng vận hội. Đâu phải ai cũng chăm chỉ, chịu khó cần cù, tiết kiệm. Nếu ai cũng vậy thì đâu có lô đề cờ bạc nhan nhản ra như vậy.
Nếu ham muốn của mình vừa phải và mình cũng có thực tài thì người đó sẽ sống khá lương thiện. Nếu ham muốn của mình lớn mà mình lại lười biếng, ham ăn ham chơi thì mình phải dùng những biện pháp không được lương thiện. Số người này thì đầy, ta cứ nhìn ra xã hội xung quanh thì không thiếu những người này.
Chẳng ai có lỗi cả, lỗi là khi sinh họ, họ có những tính cách như vậy, có những ham muốn như vậy rồi từ đó làm nên đủ các loại số phận trong cuộc đời.
Hành trình sống là hành trình tìm về với chính mình. Những điều mình đọc mình nghe nếu nó hợp với con người mình thì mình tiếp thu, nếu nó không hợp thì mình gạt sang một bên. Một người thích lừa dối người khác, thích cờ bạc lô đề thì sẽ tìm kiếm và sẽ hợp với những thủ thuật lừa dối người khác, những cách thức để luận ra số của lô đề. Sự thật là như vậy, chúng ta không thể bắt họ phải tiếp thu những điều nhảm nhí và mang tính triết lý được.
Một người nhân hậu, muốn giúp đỡ người khác thì sẽ tìm kiếm và thích thú với những kiến thức để giúp đỡ người khác (và cũng là để thỏa mãn sự mong muốn tìm hiểu khám phá của chính mình).
Chúng ta không thể ép mọi người sống theo ý của mình. Không thể ép tất cả mọi người phải sống theo cách chăm chỉ, cần cù, chịu khó. Rõ ràng có những người thích hưởng thụ và ăn sẵn. Họ chẳng muốn như vậy, nhưng sinh ra họ đã là như vậy. Đó không phải là xấu, tạo hóa muốn một sự đa dạng như vậy. Chúng ta không thể bảo họ: anh phải chăm chỉ chịu khó, anh phải tiết kiệm. Đó là điều không tưởng !
Cũng vậy, một người có tính lăng nhăng, nhu cầu tình dục mạnh, dễ phải lòng người khác, yêu đương lung tung và ta bảo họ phải sống một đời đoan chính, nghiêm túc thì họ sẽ cảm thấy bức xúc bực bội trong lòng và sớm hay muộn nhu cầu tình dục của họ sẽ tìm ra một lối thoát. Nếu chuyển hướng được tình dục mạnh sang hăng say, đam mê làm việc thì họ tránh được những mối tình lăng nhăng. Nếu không chuyển hóa được như vậy (mà đa số là không chuyển hóa được như vậy) thì khi có ngoại cảnh thuận lợi họ sẽ thực hiện sự mong muốn của mình với một người khác phái cũng có nhu cầu như họ.
Tác giả: Rimpoche Nawang Gehlek
Ngô Văn Xuân – chuyển ngữ
Như chúng ta đã biết, sự chết là điều chắc chắn sẽ xẩy ra. Chẳng ai tránh đựơc. Ngay cả đến những vị tâm linh phát triển tột mức cũng không tránh khỏi. Chẳng có ai sống mãi. Chẳng có ai từng đọc cuốn sách này sẽ sống mãi, bất kể gìa, trẻ, đẹp, xấu, giầu, nghèo cuả người đó ra sao. Nhưng thay vì chúng ta trốn tránh những ý tưởng về sự chết, chúng ta nên làm một điều gì đó cho chính mình nếu chúng ta thử nhìn xem điều gì sẽ tới hay chí ít thì cũng hãy tưởng tượng ra điều ấy. Điều này không chỉ giúp chúng ta thu nhỏ nỗi sợ hãi, mà nó còn tạo nền móng cho chúng ta có cơ hội để đổi thay tiến trình tử biệt vào tiến trình giác ngộ. Còn nếu chúng ta không thể hoàn thành đựơc điều này, thì tối thiểu, chúng ta cũng sẽ có một cái chết an lành.
Bất kể sinh lực chúng ta có ngay từ lúc khởi đầu như thế nào, thì cũng chẳng có thể kéo dài mãi đựơc. Thời gian, ngày, tuần, tháng, năm sẽ làm cạn mòn dần sinh lực đã đựơc ban cho ấy. Rồi tới một ngày, giống như một chiếc giếng cạn sau khi toàn bộ số nước đã bốc hơi hết. Những điều kiện sống cuả chúng ta có thể dễ dàng trở thành những nguyên nhân cho cái chết cuả mình. Những hóa chất trong thân xác chúng ta bị hư hoại. Một món ăn không lành mạnh hoặc một liều thuốc nhầm lẫn có thể đưa tới những hiệu ứng phụ.
Giờ đây chúng ta phải chấp nhận thôi. Nếu để chờ tới khi thực sự tắt thở thì đã quá muộn. Cho nên tôi phải chấp nhận rằng tôi nhất thiết phải lên đường và cái chết cũng luôn đi kèm theo tôi. Chẳng ai biết được chính xác khi nào sẽ xẩy ra, nó có thể là tuần tới, tháng tới hay năm tới. Tôi chẳng chắc rằng tôi còn sống ở đây tới ngày mai hay ngay cả một giờ nữa sắp tới đây. Nếu tôi biết đựơc điều ấy, tôi phải dứt khoát sử dụng bất cứ khoảng thời gian nào tôi đang có để chấm dứt sự nóng giận, ràng buộc và cái Tôi. Khi tôi chết, khi thần thức tôi rời khỏi thân xác, tôi đâu có mang theo đựơc gì ngoài một phiên bản thiện nghiệp hay ác nghiệp; đạo đức hay vô đạo đức; tích cực hay tiêu cực? Tôi sẽ rất cần những phiên bản tích cực. Thực ra tôi chỉ cần có một thôi. Nhưng nếu không thể làm đựơc điều ấy, tối thiểu tôi cũng có thể nối kết với số phận tốt đẹp cuả tôi trứơc khi kết nối với bất kỳ nghiệp xấu nào tôi đã từng tích lũy.
Dầu rằng cái chết chỉ là sự phân ly cuả thể xác mà tôi đã từng sử dụng trong đời với tâm linh đã cùng đi theo tôi mỗi lần tôi đầu thai, một tình cảm mãnh liệt cũng vẫn cứ nổi lên trong giờ phút cận tử. Chết là sự chấm dứt toàn bộ mọi hoạt động cuả chúng ta trong đời sống, tốt và xấu. Chúng ta sẽ đau khổ với ý tưởng không còn nhìn thấy hoặc trông thấy điều gì nữa, không còn ở bên hoặc nói chuyện với người thân. Không chịu buông bỏ để ra đi là một vấn đề lớn nhất. Hãy nói bất cứ điều gì cho những ai cần phải nói, viết bất cứ điều gì bạn cần phải viết lại. Nhưng chỉ vậy thôi, còn nếu cứ đeo bám vào những giận dữ, bất bình hay những ràng buộc chặt chẽ thì là điều rất tồi tệ, cho cả người chết lẫn người còn ở lại. Điều quan trọng là hãy dùng sự hiểu biết cuả bạn và ý lực của bạn để chặt đứt những cảm nghĩ xấu, và nếu cần, hãy dứt khoát chặt đứt chúng tức khắc.
Đức Phật đã có khá nhiều đệ tử xuất chúng khi ngài còn sống, một trong những vị ấy có tên là Maudgalyayana. Một trong những đệ tử cuả vị này bị ràng buộc rất chặt, vì thế Maudgalyayana quyết định mang theo 2 người trong một lần du hành có phép thần thông. Đầu tiên ông chỉ họ một đống xương lớn. Một đệ tử hỏi; “Đây là cái gì vậy? “. Maudgalyayana bảo, “Đây là toàn bộ xương cốt cuả con trong những tiền kiếp.” Rồi ông quay qua chỉ cho đệ tử kia, người đang rất khổ đau trong những ràng buộc, một bộ xương với một con rắn đang chui qua chui lại giữa các hốc mắt, xương sườn, bò lên bò xuống giữa các khúc xương. Ông bảo người đệ tử này, “Đây là con trong kiếp trước. Con có sự ràng buộc qúa mạnh trong thân xác con mà con không buông bỏ đựơc, cho nên con đã tái sinh thành một con rắn sống trong những bộ xương cũ cuả con.” Đó là một câu chuyện xưa, và cũng có thể là một câu chuyện thần tiên, nhưng dù sao nó cũng cho ta một hình ảnh về sự ràng buộc tác động ra sao.
Chúng ta bắt đầu chuẩn bị ra sao? Điều tốt đẹp nhất để chuẩân bị cho cái chết là hành trì nhẫn nhục, thương yêu và cảm thông trong khi đang sống. Thực hành nhẫn nhục bất cứ nơi nào có thể để sự giận dữ không khởi lên; tự huấn luyện tình thương yêu tinh túy để sự ràng buộc không còn; luôn kiểm tra cái Tôi để nỗi sợ hãi tan biến; và luôn cố gắng hết mình trong việc khai triển tình yêu thương và lòng thông cảm. Nếu bạn thực hành đựơc điều này, bạn sẽ không còn cảm thấy sợ hãi lúc ra đi. Những ý tưởng tích cực sẽ trở thành thói quen và nẩy nở dần một cách tự nhiên. Và nếu bạn bất ngờ gặp ai đó trong giờ cận tử, bạn cũng có thể giúp họ bằng cách nói cho họ những điều bạn biết.
Nhìn lại cuộc đời mình và xem xét những điều thiện lành mình đã làm. Đừng hối tiếc những sai lầm đã phạm. Có rất nhiều việc buộc chúng ta phải lầm lạc. Chúng ta là con người, cho nên chúng ta lầm lạc. Trong lúc hành trì tâm linh, tinh thần, chúng ta luôn mắc sai lầm, vì thế mới gọi là hành trì, thực tập. Cho nên hãy nghĩ tới những điều tốt lành. Chúng ta đã cố gắng sống trong đạo đức suốt cuộc đời mình -điều đó có nghĩa là chúng ta đã cố gắng sống không làm hại ai, và cố gắng giữ những cam kết. Bất kể loại nghiệp xấu nào chúng ta đã tích lũy, nó cũng chẳng thường hằng. Nó luôn thay đổi. Cách để làm cho nó trở thành thiện nghiệp là qua sự thanh tẩy. Kết tích tiêu cực sẽ không còn nếu bạn thực tâm hối hận về hành động đã làm, và tự cam kết sẽ không tái diễn, nếu bạn có thực tập hành thiền, nó sẽ trở thành một thứ thuốc chữa trị chống lại cái xấu, và nếu bạn có làm một sự đền bù nào đó về tinh thần cho những ai bị bạn xúc phạm, nghiệp xấu cũng tiêu tan.
Nếu bạn đã phạm một hành động gây tác hại tới người khác hay cho chính bản thân, đừng khuyếch đại nó lên. Nếu hồi ức của những hành động ấy tới ám ảnh bạn, hãy gạt nó sang một bên. Hãy luôn nhớ rằng trong suốt cả cuộc đời bạn, bạn luôn cố gắng để trở thành người thiện lành, vì thế cho nên bạn không có thời gian để nghĩ tới những hành động xấu. Đừng để chúng quấy rầy bạn. Bạn đã thanh tẩy chúng và bằng các ý tưởng tốt lành, cho nên tất cả sẽ đựơc cân bằng trong một chừng mực nào đó.
Bất kể thiện nghiệp cuả bạn như thế nào, bất kể những hành động tốt đẹp nào bạn đã làm, hãy luôn coi nó là vô lượng, tràn khắp. Hồi tưởng đến từng hành động, trong từng cảnh ngộ cuả sự tốt đẹp trong cuộc đời, bất kể nó nhỏ bé ra sao và nghĩ là nó bao la trùm khắp. Điều này sẽ giữ lại cùng với bạn, cho nên hãy nghĩ tới nó, ghi nhớ nó. Ngay cả khi nó dễ bị quên lãng, hãy tưởng tượng ra nó bao la, vô vàn.
Đừng sợ hãi. Nỗi sợ hãi đã dằn vặt ta suốt cả cuộc đời. Nó chính là cái TA đang nói, đang dựng chuyện. Hãy nghĩ rằng bạn đã nhìn ra điều ấy và hiểu nó một cách rõ ràng. Bạn đã hoàn toàn phá bỏ cái TA. Nếu nỗi sợ hãi còn hiện ra thì hãy coi đó chỉ là một nhận thức sai lạc. Đó là trò chơi cuả cái TA, và cái TA là lầm lạc. Hãy tự nhủ rằng cái TA đã đi rồi.
Đừng ngạc nhiên với những gì bạn đang trải qua. Không có hiện tượng nào là vĩnh hằng. Cho nên bất cứ điều gì xẩy ra trong lúc bạn cận tử, thì hãy nhớ điều đó không vĩnh hằng và hoàn toàn bình thường. Ghi nhớ kỹ những điều này trong giờ phút cận tử là cách để chuẩn bị cho bạn một cuộc chuyển di tốt đẹp cho kiếp sống tới của bạn.
Thực hiện một cuộc hành trì tâm linh là ăn ngủ với nó, chết cùng với nó. Đó là lý do tại sao nó có thể mang tới những khác biệt cho kiếp sống tới cuả bạn. Chừng nào bạn còn coi nó là ở ngoài con người bạn thì nó chẳng mang lại lợi ích gì cho bạn cả. Những cảm tính tiêu cực sẽ ở cùng với bạn chừng nào “một điều gì đó cao cả” còn ở ngoài bạn, ở một nơi nào đó, xa cách thì nó chẳng giúp gì cho bạn cả. Nếu bạn chỉ thỉnh thoảng cầu nguyện một lần thì bạn trông mong gì hiệu dụng cuả điều ấy? Một vài lần cầu phước, hành lễ có thể mang lại cho bạn ít lợi lộc, nhưng chỉ có vậy thôi. Và điều ấy có thể làm đựơc gì? Chả làm gì cho bạn trong việc thanh tẩy các cảm tính tiêu cực. Để đối phó với các cảm tính tiêu cực, bạn phải sống, ăn, uống, ngủ và cùng chết với sự hành trì cuả chính bạn - Chính điều ấy mới tạo nên sự khác biệt ra sao.
Ông bạn Allen Ginsberg cuả tôi thường nói, “Tôi chẳng thể chứng minh đựơc rằng có sự tái sinh hay không, dù còn bán tín bán nghi nhưng tôi vẫn luôn sẵn sàng cho điều ấy; bởi vì tôi không muốn bỏ lỡ cơ hội cho chính mình.” Và ông đã thực sự sẵn sàng cho việc ấy.
Ông đã gọi điện thoại cho tôi khi ông đựơc chẩn đoán là chỉ còn sống đựơc 4 tháng nữa. Ông rất ngạc nhiên khi ông nhận đựơc tin này. Ông nghĩ rằng nếu ai nói ông sắp chết chắc ông sẽ nổi đóa lên ngay. Nhưng khi nghe tin này ông lại cảm thấy ông đã sẵn sàng để ra đi. Ông gọi phôn cho bạn bè để thông báo. Ông khởi sự vui vẻ với cuộc đời trong sự nhận thức nó sắp đi tới kết thúc. Ông sắp xếp lại những vấn đề riêng tư.
Không lâu sau đó, ông bị đột qụy, hôn mê và tôi đã tới bên ông lúc đó. Căn gác mái ông ở đông chật người - rất nhiều nghệ sĩ, nhà thơ, các diễn viên, những người đã biết và yêu thương ông. Khi tôi bước vào phòng, tôi đọc lời cầu nguyện cho ông và tiến hành các nghi thức tôn giáo cho người hấp hối.
Khoảng nửa đêm, khi thấy ông có vẻ sắp ra đi, tôi hoàn tất nghi thức và rời khỏi phòng. Khoảng 2 giờ sáng, tôi nghe nói ông đã thức dậy, nhìn chung quanh sau đó nhắm mắt lìa đời. Ông vẫn còn ở lại trong xác thân trong tình trạng trầm tư, cho mãi tới 11:30 đêm sau ông mới thực sự mất.
Trước khi bạn chết phải chắc chắn là môi trường chung quanh bạn không bị xáo trộn hỗn độn bởi vì điều ấy sẽ tạo ra những cảm tính tiêu cực. Giữ mình thanh lặng không giận hờn, trói buộc. Trường hợp cuả Allen bạn tôi, ông muốn có một cái chết phóng khoáng giữa bạn bè. Những người khác có thể thích sự tĩnh mịch lặng lẽ.
Môi trường khi cận tử nên tùy theo ý mong muốn cuả bạn, và ý muốn ấy phải ưu tiên hơn ý muốn cuả gia đình. Quan tâm tới bất cứ điều gì bạn cần quan tâm tới để cho khi bạn ra đi sẽ không còn ưu tư về những gì còn bỏ lại, như thể bạn là con chim đậu trên tảng đá, đã sẵn sàng tung cánh mà không có gì lôi kéo bạn trở lui. Bất cứ điều gì bạn quyết định sẽ cho đi hay muốn lưu lại thì hãy làm những điều ấy khi bạn còn sáng suốt, minh mẫn. Nếu có thể thì bạn tự mình làm mà đừng ủy quyền cho ai cả. Nếu bạn trình bầy rõ ràng cho vợ con mọi thứ chuẩn bị, sắp xếp thì tốt nhất vì nó sẽ làm giảm thiểu những khó khăn cho vợ con bạn sau khi bạn chết. Bất cứ điều gì bạn cho đi, thì cũng đừng ràng buộc vấn vương với nó. Đừng để mọi sự nóng giận, ràng buộc ảnh hưởng tới những quyết định cuả bạn. Bởi vì những tình cảm này sẽ còn ám ảnh bạn sau đó, đồng thời tạo nên những ngộ nhận cho những người bạn thương yêu. Điều quan trọng là phải rất độ lượng. Điều ấy sẽ giúp bạn buông lỏng những trói buộc.
Chúng ta có sự trói buộc rất mạnh về ẩm thực, quần áo và danh tiếng, hoặc đơn giản hơn, chúng ta bị trói buộc với những người yêu qúy, trọng nể ta. Từ bỏ ẩm thực và những sở hữu có lẽ dễ dàng, nhưng khó khăn hơn khi từ bỏ tiếng tăm. Cho ngay cả những vị hành thiền trong sa mạc nơi ít có người tới ở mà vẫn còn ước mong những người chăn cưù quanh đó sẽ tìm ra họ và thông báo cho mọi người trong làng hay biết nữa là.
Nếu còn điều gì níu giữ bạn lại, hãy gạt bỏ nó ngay tức khắc để sự ràng buộc đó không còn khi bạn sắp ra đi. Nếu không, nó sẽ thực sự tạo ra những rắc rối trong tiến trình ra đi cuả bạn.
Có một câu chuyện vui về điều này. Một trong những vị thầy cuả tôi, ngài Gomo Rimpoche, là người rất vui tính. Ông không xử sự như một vị đại lạt ma tái sinh. Ông cưới vợ, có một gia đình, và hiện rất nổi tiếng là “Cha cuả những đứa trẻ mồ côi nhà số 14,” ở Mussoori. Ông có một số nhỏ đệ tử rất vững vàng. Hai trong số đó là những quan chức trong chính phủ Tây Tạng đã rời Tây Tạng qua Ấn khoảng giữa thập niên 1950. Họ rất già và sức khoẻ yếu kém lắm, và họ rất mong muốn đựơc ra đi trong khi họ còn đủ minh mẫn để hành trì thiền định trong lúc cận tử. Trong nền văn hóa Tây tạng, một cuộc hành thiền như vậy thường được những thiền giả lão luyện thực hiện. Họ nói với Gomo Rimpoche, ngày họ muốn ra đi. Họ làm tất cả mọi sự chuẩn bị, cho đi mọi vật dụng cuả họ, và làm một thoả thuận với những gia nhân.
Nhưng khi ngày ấn định tới, một trong hai người không chết theo như dự định. Lúc đó Gomo Rimpoche đang ở nhà cùng con cái thì có người tới báo cho ông biết vị quan chức thứ nhất đã chết và yêu cầu ông đến để cầu nguyện. Ông thực hiện, sau đó chờ đợi người tới báo tử cuả vị quan chức thứ 2, nhưng chẳng có ai tới cả. Rimpoche lo sợ đã có chuyện gì chẳng lành xẩy ra nên ông đi đến thẳng nhà cuả đệ tử thứ hai xem ra sao. Ông đựơc người nhà cho biết,” Ồ, sáng nay ông ta bị bịnh nặng và phải đem vào nhà thương rồi.”
Rimpoche tới bịnh viện American Hospital và đựơc biết người này đang trong phòng cấp cứu đặc biệt. Họ không cho ông vào thăm, cho nên ông giả trang là người dọn quyét vệ sinh cuả bịnh viện để vào. Ông hỏi đệ tử cuả ông: “Cái gì đã xẩy ra vậy?”. Người này nói: “Con đã có tất cả mọi dấu hiệu để ra đi, nhưng rồi bỗng nhiên bị đảo ngược cả lại, và nó làm con đau đớn qúa phát la toáng lên cho nên gia nhân mang vào bịnh viện.”
Người này là một hành giả thuận thành nên đáng lẽ ra ông ta khá dễ dàng khi chuyển đổi sang vùng thánh địa. Rimpoche đã không thể tìm ra nguyên nhân cuả trục trặc này. Rồi bỗng dưng ông lưu ý tới đệ tử ông hiện đang bận một chiếc áo rất mới và đẹp. Ông hỏi: “Con mua chiếc áo ấy ở đâu vậy?”
Người đệ tử già trả lời: “Aó đẹp quá phải không? Thầy có thích không? Một người bạn con cho con hôm kia và sáng nay con mới bận.”
Rimpoche bảo, “Thầy thích lắm, thôi con cho thầy đi.”
Nhưng người đệ tử do dự: “Thực sự con không biết có nên biếu thầy hay không, vì con cũng thích chiếc áo này lắm.”
Rimpoche nài nỉ: “Thầy muốn chiếc áo này lắm, còn nếu con không cho thầy, thì chúng mình sẽ chẳng còn quan hệ gì với nhau nữa đâu.”
Vì vậy người đệ tử già cởi bỏ chiếc áo và đưa cho Rimpoche. Ngay lập tức Rimpoche xé toang chiếc áo trứơc mặt đệ tử cuả mình. Ngay sau đó viên quan chức này đã êm thấm ra đi.
Bất kể điều gì sẽ xẩy ra trong tiến trình cận tử, bất kể điều gì bạn sẽ trải qua trong thời điểm này, đừng bao giờ quên phải luôn duy trì một tinh thần đầy tràn yêu thương và lòng cảm thông. Đừng để đám mây u ám cuả sự đau khổ, lo lắng buồn phiền ám ảnh. Nếu bạn thực tập ngay từ bay giờ, thì khi cái chết đến bạn sẽ dễ dàng đem ra sử dụng. Những người thực hành tonglen (Pháp cho yêu thương/nhận khổ đau qua hơi thở) sẽ chết với tonglen trong hơi thở cuả mình. Bạn có thể cảm thấy khó khăn trong việc chấp nhận khổ đau cuả người khác để làm ta biến Cái Ta trong bạn. Điều ấy có vẻ đáng sợ thật, nhưng chỉ vì bạn không làm quen với ý tưởng đó thôi. Trong thực tế, bạn chẳng cho ai và nhận về cái gì. Đó chỉ là phương pháp tập luyện tâm tư để chấp nhận bất cứ điều gì sẽ xẩy ra cho bạn. Khi bạn làm quen với nó được rồi, bạn sẽ thấy điều đó là tốt đẹp, thoải mái và lạc thú. Thậm chí nó còn làm cho bạn cảm thấy hạnh phúc là khác.
Dù rằng bạn có thể lưu ý tới mọi vấn đề, sự giận dữ và ràng buộc vẫn cứ còn nổi lên, đặc biệt là sự tức giận với chính ngay cái chết. Người ta thường tự hỏi, Tại sao lại là tôi? Tại sao tôi lại phải chết trong khi tôi đang có một đời sống tốt đẹp như thế này? Bạn phải chết bởi vì điều đó là không tránh khỏi. Hãy tự nhủ rằng chết là tự nhiên, chẳng có gì bất thường ở đây cả. Khi bạn bình thản lặng lẽ ra đi, bước kế tiếp là tác động tâm linh bạn bằng những ý tưởng tích cực. Nếu bạn tin vào Thượng đế, hãy nghĩ về sự cao cả thiêng liêng cuả Thượng đế và ra đi trong ý tưởng ấy. Nếu bạn là một Phật tử, hãy nghĩ về Đức Phật. Hoặc nghĩ về những đạo sư cuả bạn, những vị Phật che chở phù hộ bạn, những vị luôn đi chung cùng Đức Phật. Hoặc nghĩ tới những tình yêu thương trong sáng, sự cảm thông sâu xa. Nếu tất cả những điều ấy bạn đều không thể tập trung thần thức đựơc thì với một cảm nhận minh mẫn cuả tinh thần tham dự và hào hứng, bạn hãy nghĩ đến một vùng đất đẹp, ở đó mọi thứ đều vô vàn cởi mở, ở đó có những vị thánh, tiên đang chờ đón để giúp đỡ bạn.
Giữ vững những điều này cho tới lúc bạn chìm vào vô thức. Sự mường tượng này sẽ giúp cho cuộc đời sau cuả bạn tốt đẹp hơn lên nhiều.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.