- Trong tất cả thư tịch cổ lẫn trong các văn bản hiện tại, một điều không thể chối căi là Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Lời khẳng định này được nhấn mạnh từ lịch sử và cả luật pháp quốc tế.
Để thêm một lần làm rơ vấn đề này, từ hôm nay,
VnMedia xin mở chuyên đề "V́ biển đảo Tổ quốc". Rất mong nhận được sự cộng tác của bạn đọc, các nhà nghiên cứu và các chuyên gia về lĩnh vực này.
Để rộng đường dư luận, chúng tôi xin điểm lại một số khẳng định chân lư Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam để bạn đọc tiện theo dơi.
Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa
Các bản đồ địa lư Việt Nam cổ ghi nhận Băi Cát Vàng (được dùng để chỉ chung cả Hoàng Sa và Trường Sa) là lănh thổ Việt Nam từ đầu thế kỷ 17. Trong cuốn "Phủ biên tạp lục" của Lê Quư Đôn, Hoàng Sa và Trường Sa được xác định rơ thuộc về tỉnh Quảng Ngăi. Ông miêu tả đó là nơi người ta có thể khai thác các sản phẩm biển và những đồ vật sót lại từ các vụ đắm tàu. Tài liệu ghi chép Việt Nam vào thế kỷ 17 nhắc đến các hoạt động kinh tế được tài trợ của chính phủ dưới triều nhà Lê từ 200 năm trước đó. Nhà Nguyễn đă tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu địa lư về các đảo từ thế kỷ 18.
Khẳng định chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong cuốn Phủ biên tạp lục của Lê Quư Đôn.
Thập niên 1930, Pháp tuyên bố chủ quyền lănh thổ của Chính phủ Bảo hộ đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thay cho Việt Nam, lúc đó đang là nước thuộc địa của Pháp. Họ chiếm đóng một số đảo thuộc Trường Sa, gồm cả đảo Ba B́nh, và xây các trạm khí tượng trên hai đảo, và sau đó quản lư chúng như một phần lănh thổ của Đông Dương thuộc Pháp.
Khi người Pháp rời Việt Nam, các Hải lực Việt Nam Cộng ḥa chính thức thay thế Pháp thực hiện chủ quyền đóng giữ Trường Sa.
Năm 1947, chính phủ Trung Hoa dân quốc đưa ra yêu sách về chủ quyền biển Đông theo “đường lưỡi ḅ gồm 11 khúc đứt đoạn”. Năm 1949, chính quyền Cộng ḥa nhân dân Trung Hoa cũng yêu cầu tương tự nhưng không quyết liệt, quốc tế coi như làm ngơ. Ngày 14/10/1950, tại Hội nghị kư ḥa ước San Francisco (Liên Hiệp Quốc), Thủ tướng Trần Văn Hữu của chính quyền Bảo Đại do Pháp bảo trợ đă tuyên bố: “Chúng tôi xác nhận chủ quyền đă có từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”…
Không chỉ có Việt Nam khẳng định chủ quyền của ḿnh với Trường Sa và Hoàng Sa mà một số sách của Trung Quốc cũng khẳng định vấn đề này.
Thứ nhất là cuốn Chư Phiên Chí của sử gia Triệu Nhữ Quát đời nhà Tống chép: Sau khi thôn tính Nam Việt, Hán Vũ Đế sai quân vượt biển sang chiếm đất của địch quân (Nam Việt) và đặt ra 2 quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam). Trong thế kỷ thứ I TCN, Hán Nguyên Đế đă rút quân khỏi đảo Hải Nam. Cho đến đời nhà Lương và nhà Tùy (cuối thế kỷ thứ VI đầu thế kỷ thứ VII) mới đặt lại quyền cai trị.
Tài liệu cổ này cũng cho biết, vùng Vạn Lư Trường Sa (Hoàng Sa bây giờ) là nơi nguy hiểm, tàu thuyền Trung Hoa không nên đến gần v́ chỉ đi sai một tí là có thể ch́m đắm; đồng thời mô tả rơ Vạn Lư Trường Sa nằm ở phiên quốc, tức không thuộc về Trung Hoa, mà thuộc về phiên quốc Nam Việt. Như vậy, biên giới trên biển Đông của Trung Hoa vào đời nhà Hán chỉ tới đảo Hải Nam.
Cuốn Hải Ngoại Kư Sự của Thích Đại Sán (người Trung Quốc) năm 1696
Trong quyển 3 của Hải ngoại Kư sự đă nói đến Vạn Lư Trường Sa và khẳng định Chúa Nguyễn đă sai thuyền ra khai thác các sản vật từ các tàu đắm trên quần đảo này.
Hải ngoại Kư sự mô tả: "Bởi v́ có những cồn cát nằm thẳng bờ biển, chạy dài từ Đông Bắc qua Tây Nam; động cao dựng đứng như vách tường, băi thấp cũng ngang mặt nước biển; mặt cát khô rắn như sắt, rủi thuyền chạm phải ắt tan tành; băi cát rộng cả trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là Vạn Lư Trường Sa, mù tít chẳng thấy cỏ cây nhà cửa. Nếu thuyền bị trái gió, trái nước tấp vào, dầu không tan nát, cũng không gạo không nước, trở thành ma đói mà thôi... Quảng ấy cách Đại Việt bảy ngày đường, chừng bảy trăm dặm. Thời Quốc vương trước, hằng năm sai thuyền đi đánh cá dọc theo băi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền lui tấp vào. Mùa thu nước dâng cạn, chảy rút về hướng Đông, bị một ngọn sóng đưa thuyền có thể trôi xa cả trăm dặm; sức gió chẳng mạnh, sợ có hiểm họa Trường Sa".
Bản đồ bở biển Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do người Hà Lan vẽ năm 1974
Tương quan với tài liệu của Việt Nam về hoạt động của đội Hoàng Sa, có thể nói, những ǵ Thích Đại Sán viết là hoàn toàn phù hợp, khách quan ghi nhận chủ quyền của Đại Việt đối với quần đảo Hoàng Sa.
Các bản đồ cổ Trung Quốc do chính người Trung Quốc vẽ từ năm 1909
Khảo sát tất cả bản đồ cổ của Trung Quốc từ năm 1909 trở về trước, người ta thấy tất cả bản đồ cổ nước Trung Quốc do người Trung Quốc vẽ không có bản đồ nào hiển thị các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tất cả bản đồ cổ ấy đều xác định đảo Hải Nam là cực nam của biên giới phía nam của Trung Quốc, gồm: Dư địa đồ đời Nguyên của Chu Tư Bản trong sách Quảng dư đồ của La Hồng Tiên; Thiên hạ Thống nhất Chi đồ đời Minh trong Đại Minh Nhất thống chí, năm 1461; Hoàng Minh Đại thống nhất tổng đồ đời Minh, trong Hoàng Minh Chức phương địa đồ của Trần Tổ Thụ, năm 1635; Lộ phủ, Châu huyện đồ đời Nguyên vẽ lại trong Kim cổ dư đồ của Nguyễn Quốc Phụ đời Minh, năm 1638; Hoàng triều Nhất thống dư địa tổng đồ trong tập Hoàng triều Nhất thống dư địa tổng đồ (khuyết danh), năm 1894; Đại Thanh đế quốc trong tập Đại Thanh đế quốc toàn đồ do Thường Vụ An Thư Quán Thượng Hải, năm 1905...
Sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa vào tháng 1/1974, nhiều đoàn khảo cổ Trung Quốc đến các đảo thuộc quần đảo này và gọi là “phát hiện” nhiều cổ vật như tiền cổ, đồ sứ, đồ đá chạm trổ trên các ḥn đảo này, song đều không có giá trị ǵ để xác minh chủ quyền Trung Quốc, trái lại, họ phát hiện ở mặt bắc ngôi miếu “Hoàng Sa Tự” ở đảo Vĩnh Hưng, tức đảo Phú Lâm (Ile Boiseé), lại là bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam dưới thời vua Minh Mạng.
Mặc dù chủ quyền về Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam đă được khẳng định, nhưng nhiều năm nay, Trung Quốc đă có nhiều hành động leo thang đến vùng lănh thổ này của Việt Nam.
* Những tư liệu phương Tây xác nhận về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
- Nhật kư trên tàu Amphitrite (năm 1701) xác nhận Paracels là một quần đảo thuộc về nước An Nam.
- Le mémoire sur la Cochinchine của Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825) viết vào những năm cuối đời Gia Long (hoàn tất năm 1820) đă khẳng định năm 1816 vua Gia Long đă xác lập chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Paracels.
- An Nam Đại Quốc Họa Đồ của giám mục Taberd xuất bản năm 1838 khẳng định Cát Vàng (Hoàng Sa) là Paracels và nằm trong vùng biển của Việt Nam.
- The Journal of the Asiatic Society of Bengal, Vol. VI đă đăng bài của giám mục Taberd xác nhận vua Gia Long chính thức giữ chủ quyền quần đảo Paracels).
- The Journal of the Geographycal Society of London (năm 1849) GutzLaff ghi nhận chính quyền An Nam lập ra những trưng thuyền và một trại quân nhỏ để thu thuế ở Paracels...
Trúc Dân - Tổng hợp
theo vnm