Một số công tŕnh kiến trúc ở Sài G̣n được trưng dụng thay đổi chức năng phục vụ qua các thời kỳ thay đổi thể chế.
Trong số đó, Hội trường “ Diên Hồng ” có nhiều thay đổi nhất và đây là một trong những công tŕnh kiến trúc để lại nhiều dấu ấn.
Ngoài ra, công tŕnh này cũng mang lại nhiều ấn tượng cho người dân Sài G̣n từng quen với những kiểu kiến trúc cổ điển thời thuộc địa.
“Chambre de Commerce” (Hiệp hội Thương mại) tại góc cuối đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng) khoảng năm 1930 (Ảnh: Bưu Thiếp)
Sài G̣n vào năm 1928 trên Quai de Belgique (Bến Chương Dương) góc cuối đường Mac Mahon (Công Lư), xuất hiện một công tŕnh kiến trúc mới mang phong cách Art Deco với các chi tiết trang trí giản đơn và đại sảnh rộng lớn phù hợp với chức năng của một văn pḥng dành cho các cuộc hội họp của giới thương gia, kỹ nghệ Sài G̣n và Chợ Lớn, được mang tên “Chambre de Commerce” (Hiệp hội Thương mại).
Công tŕnh khởi công từ năm 1924 sau 4 năm th́ hoàn thành.
Trước đó tại góc cuối đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng) chính quyền Pháp đă cho xây một Văn pḥng Thương mại có quy mô khiêm tốn dành cho việc quản lư xuất nhập cảng hàng hoá.
Sau nhiều thập niên, việc phát triển thương mại và kỹ nghệ tại Sài G̣n ngày càng lớn mạnh, buộc phải có một công tŕnh lớn hơn.
Thật ra, vào những thập niên đầu của thế kỷ 20, kỹ nghệ của Việt Nam mới bắt đầu phát triển, hàng hoá sản xuất đa dạng hơn, chứ trước đó hầu hết ngành thương mại của Việt Nam tập trung vào lúa gạo và các loại cây công nghiệp dành cho xuất cảng.
Đa số các thương gia đều là người Hoa Chợ Lớn hoặc là người Hoa từ các vùng Đông Nam Á sang Sài G̣n lập nghiệp.
Thương gia Trương Văn Bền là người Việt Nam (gốc Hoa) nổi tiếng với sản phẩm xà bông thơm Cô Ba cạnh tranh với các thương hiệu xà bông thơm nhập cảng từ Pháp và xà bông giặt đồ Việt Nam.
Ông c̣n được biết đến như một kỹ nghệ gia không bằng cấp sản xuất dầu ăn, dầu dừa và dầu cao su dùng trong kỹ nghệ.
Trong nhiều năm làm việc qua kinh nghiệm, ông viết lại những công tŕnh biên thành sách như :
- Phương pháp chế tạo xà pḥng (1918)
- Phương pháp cải tạo các giống lúa (1932) và Phương pháp lấy dầu thông (1932).
Ông được bầu làm Phó Chủ tịch Hiệp hội Thương mại từ năm 1932 cho đến năm 1941.
Năm 1941 chiến tranh Đông Dương xảy ra, lính Nhật hất cẳng Pháp vào miền Nam. Trong thời gian tiếp quản, lính Nhật trưng dụng trụ sở Hiệp hội Thương mại làm Sở Hiến binh.
Kinh tế VN trong giai đoạn này gần như tê liệt, đ́nh trệ sản xuất, quân Nhật vơ vét lúa gạo phục vụ chiến tranh, bắt bớ những người theo Việt Minh.
Trụ sở bàn luận những chính sách, đưa ra những kiến nghị và kế hoạch phát triển công thương tại Sài G̣n trở thành tổng hành dinh của cơ quan mật vụ Nhật.
Chambre de Commerce” (Hiệp hội Thương mại) xây mới tại Bến Chương Dương (Ảnh: Nadal)
Nhắc đến Sở Hiến binh Nhật, tôi nhớ lại bác Ba Thiện ở G̣ Vấp trong câu chuyện “Sài G̣n thuở chiến tranh Đông Dương” mà tôi đă viết trước đây không lâu.
Ông làm tài xế cho một viên sĩ quan Nhật tuyên truyền văn hoá. Nhưng khi tôi hỏi bác Ba về sự tàn ác của mật vụ Nhật có giống như trong các phim t́nh báo Trung Quốc hay không. Ông chỉ lắc đầu rồi nói :
- “ Chiến tranh mà, mật vụ nào không ác, không tra khảo sao lấy lời khai ”.
Sau này, t́nh cờ tôi đọc được một bài viết :
- “Những ngày tù chung với ông Đạo Dừa” của tác giả Hoàng Ngọc Giao viết lại theo lời kể của ông Joseph Cao ở Paris, tôi trích lại để độc giả biết thêm đôi chút.
…Cảnh ngồi tù Nhật Bổn là đáng nhớ nhất.
Năm ấy 1942, tôi bị Hiến binh Nhật bắt giam ở “Chambre de Commerce” ở bến sông Sàig̣n, sau này là Thượng Nghị Viện của chế độ trước. V́ tội rải truyền đơn chống thực dân, cả Pháp lẫn Nhật, mà bọn Hiến binh nghi tôi là gián điệp Trùng Khánh.
Chúng giam vào pḥng Thương Mại ấy, hai bên là chỗ giam người có song gỗ chắn trước mặt, chừa một lối đi ở giữa.
Mỗi sáng, 7 giờ, tụi Nhật cho chúng tôi đem thùng vệ sinh ra đổ xong lại bưng vào căn pḥng giam hẹp của ḿnh. Chúng bắt ngồi xếp bằng, thẳng lưng lên, tay để nơi đầu gối, không được nhúc nhích.
Sáng ngồi tới 12 giờ trưa, được nghỉ ngơi cơm nước. Cơm th́ được phát một chén gạo Thái Lan dẻo như nếp, có nêm tí muối.
Chiều 2 giờ ngồi đến 6 giờ mới được nghỉ ngơi, cơm nước như khi trưa.
Tối lại phải ngồi từ 7 giờ đến 9 giờ mới có quyền nằm xuống.
Khi ngồi, phải ngồi yên như pho tượng.
Nếu mỏi mệt khom lưng, nghiêng quẹo người, hay lệch đầu qua bên là bị một côn gỗ gơ đánh cốp trên đầu như bị sét đánh, tá hỏa tam tinh !
Đó là thằng đội Trâu, thân h́nh trùng trục như con trâu nước, đầu vấn khăn lông trắng, dưới bẹn thắt cái khố, đi qua lại nơi khoảng đường giữa, vai vác cây gậy gỗ tṛn và nặng. Nó thường đập chảy máu đầu tội nhân.
Đấy là chỉ trừng phạt sơ sài về tội ngồi không thẳng thôi.
C̣n khi bọn Nhật tra khảo để lấy lời cung khai th́ thật kinh khủng sởn cả tóc gáy.
Cứ hai thằng Nhật thân h́nh như hộ pháp quần một phạm nhân; vật, ném, tung, hứng… nạn nhân của chúng như quả bóng rổ !
Thường th́ có máu đổ, nạn nhân chết giấc năm ba phen mới tạm được buông tha cho về khám.
Khi ấy tôi c̣n trẻ, háo động, làm sao ngồi yên tĩnh như thế từ giờ này sang giờ khác được. Nên cũng đă nếm mùi côn gỗ bao nhiêu phen…”.
Cờ hiệu của Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân và Lực lượng Pḥng vệ Biển Nhật Bản.
H́nh xưa Thượng Nghị Viện VNCH (Hội trường Diên Hồng) từ thời Đông Dương (Chambre de commerce )
Khi Việt Nam chia đôi giới tuyến, từ năm 1955 đến 1963 , dưới thời VN Đệ Nhất Cộng Hoà, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm thực hiện chính sách hạn chế hoạt động thương mại và sản xuất của Hoa kiều Chợ Lớn
Muốn mua bán, lập hăng xưởng th́ phải có quốc tịch VN và biết nói tiếng Việt.
Chính sách này góp phần cắt đứt sự làm giàu của người Hoa và làm ảnh hưởng đến Hiệp hội Thương mại.
Các hội viên ra đi, một số thương gia Hoa kiều rời VN về cố quốc.
Năm 1955, Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa đổi thành Hội trường “Diên Hồng” và Nha Tổng Giám đốc Kế hoạch, cũng là nơi hội họp của Nghiệp đoàn Thương gia và Kỹ nghệ gia.
Hội trưởng nhiệm kỳ 1955 -1957 là ông Trần Đôn Thăng, người Phước Kiến, là hội trưởng cuối cùng của Hiệp hội Thương mại.
[b][size=4][color=indigo][i]
Đến ngày 1/11/1963, sau cuộc đảo chánh thành công của Hội đồng Quân nhân Cách mạng, Nghiệp đoàn Thương gia và Kỹ nghệ gia cũng không c̣n có một cuộc họp nào.
Hội trường “Diên Hồng” trở thành nơi “tranh chấp quyền lực”.
Chambre de Commerce thời kỳ VNCH đổi thành Hội trường “Diên Hồng” (Nguồn: Manhhaflickr)
và tại đây ngày 2/1/1964, tướng Nguyễn Khánh ra quyết định giải tán Hội đồng Nhân sĩ vốn là một cơ quan cố vấn dân sự cho chính quyền quân sự của Hội đồng Quân nhân Cách mạng, đưa ông lên nắm quyền.
Nhưng chỉ 28 ngày sau đó, dưới sự ủng hộ của Mỹ và các tướng trẻ, Nguyễn Khánh mở cuộc “chỉnh lư” , cướp chính quyền và truất phế các tướng lĩnh chủ chốt trong cuộc đảo chính TT Ngô Đ́nh Diệm là tướng :
- Dương Văn Minh
- Trần Văn Đôn và Mai Hữu Xuân.
Ngay sau đó, ông được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng. Sau đó, làm Thủ tướng, rồi Quốc trưởng, rồi lại lui về làm Thủ tướng, rồi cuối cùng trở về nhận cấp bậc Đại tướng trong bối cảnh thay đổi xoành xoạch của chính quyền quân sự lúc bấy giờ .
Đại Tướng Nguyễn Khánh
Nhưng thôi, chuyện chính quyền quân sự thuở ấy c̣n là chuyện dài nhiều tập, cho đến năm 1967 khi tướng Nguyễn Văn Thiệu được bầu làm tổng thống, th́ Hội trường “Diên Hồng” trở thành trụ sở của Thượng Nghị Viện.
Tuy nhiên, tên Hội trường “Diên Hồng” vẫn được giữ nguyên bên ngoài mặt tiền của Thượng Nghị Viện thời Đệ Nhị VNCH.
Thượng Nghị Viện cũng là nơi giới sinh viên học sinh với các phong trào xuống đường tuần hành đ̣i chính quyền trả tự do cho hàng chục sinh viên bị bắt giữ, chấm dứt đàn áp, bắt bớ, băi bỏ chế độ quân sự học đường…
Các dân biểu đối lập như :
- Ngô Công Đức
- Hồ Ngọc Nhuận
- Lư Quư Chung ủng hộ phong trào sinh viên, nắm tay nhau tuần hành đến Thượng Nghị Viện đă phải khiến ông Chủ tịch Thượng viện Nguyễn Văn Huyền tiếp nhận thỉnh nguyện thư và hứa chuyển đến Phủ tổng thống.
Ngày nay, Hội trường “Diên Hồng” hay Thượng Nghị Viện VNCH đă thay đổi hoàn toàn diện mạo kiến trúc hiện đại cao tầng và trở thành Sở Giao dịch Chứng khoán.
Cái thứ nước giải khát thơm tho mùi xá xị, mùi cam, mùi bạc hà trong cái chai nước ngọt hiệu con cọp hấp dẫn trẻ con đến mức có thể mang ra dụ khị chúng.
Sự thèm thuồng đó lúc nào cũng đầy tràn trong đầu óc trẻ thơ cho đến khi trưởng thành, và cả lúc đầu đă hai thứ tóc nó vẫn c̣n nguyên vẹn trong kư ức.
Hăng B.G.I chuyên sản xuất bia lade, đến khoảng 1950 bắt đầu sản xuất nước ngọt con cọp bán ra thị trường (Ảnh: Internet)
Nước ngọt con cọp quảng cáo khắp nơi qua hai câu thơ :
- “Nước ngọt con cọp ở đâu / Đó là khoẻ mạnh sống lâu yêu đời”.
Có lẽ v́ thế mà cả người bệnh cảm mạo cũng thích nhấm nháp vài ngụm nước ngọt xá xị hay coca để không lạt miệng.
Nhớ hồi nhỏ, cứ mỗi lần tôi bị cảm mạo, má tôi cho uống thuốc bắc Ông Già. Thứ thuốc bột này khó uống, đắng đến mức có thể chưa qua cổ họng th́ trào ngược trở ra.
Thế là mỗi lần cho tôi uống thuốc là má kèm theo một ly xá xị. Nh́n ly nước ngọt bốc ga toả ra mùi thơm quyến rũ, thuốc khó uống cỡ nào cũng đều trôi qua cổ họng.
Thời tiết oi bức, cuộc sống ngột ngạt trong khu lao động dễ sinh bệnh. Đám anh em chúng tôi thỉnh thoảng trong năm không đứa này cảm mạo th́ đứa kia cũng ho hen nhức đầu, đau bụng.
Cứ mỗi lần anh em tôi bị bệnh th́ trên kệ góc bếp vỏ chai nước ngọt con cọp được bổ sung thêm nhiều.
Má tôi nói, sẵn mua nước ngọt, cất lại vỏ chai để khi Tết đến mang ra đi đổi.
Đi đổi nước ngọt là nhiệm vụ của tôi vào ngày Hăm Chín. Tôi hăm hở gom hết vỏ chai cẩn thận dựng đứng trong cái giỏ nhựa đi chợ mang ra quán chú Hai đầu ngơ để đổi lấy những chai xá xị, bạc hà.
Tiếng vỏ chai đựng thứ nước màu nâu cánh gián, màu xanh lanh canh trong giỏ chạm vào nhau phát ra thứ âm thanh tươi vui của ngày Tết.
Nước ngọt con cọp có hai mùi vị là xá xị và bạc hà. Tôi nhớ vị bạc hà xuất hiện trên thị trường sau xá xị. Tuy vậy, xá xị vẫn luôn là thứ nước giải khát được người tiêu dùng yêu thích nhiều hơn. Tôi nghĩ có lẽ cái màu nước ngọt và hương vị của nó làm cho người ta có sự so sánh.
Xá xị có mùi quế, hồi nồng ấm hơm mùi bạc hà the the lạnh mát và màu xanh lá cây cũng không quyến rũ bằng thứ nước màu nâu nằm trong tiềm thức người tiêu dùng từ lâu.
Nước ngọt chai có mặt tại Sài G̣n từ năm 1952 do nhà máy Usine Belgique sản xuất. Nhà máy này thuộc hăng B.G.I sản xuất bia, nước đá cây và nước ngọt từ năm 1927 khi hăng bia Larue sát nhập vào hệ thống nhà máy B.G.I của Pháp.
Trong bài viết về bia La-de, tôi có nhắc chi tiết này. Hăng B.G.I có sản xuất nước ngọt nhưng với thương hiệu nào th́ ít có tài liệu nào nhắc tới.
Trong tài liệu về thức uống ở Sài G̣n ngày xưa của tác giả Phạm Công Luận ghi nhận: -
- “ Khoảng năm 1934, ở Sài G̣n có bán một loại nước uống giải khát độc đáo, được quảng cáo nhiều trên các tờ nhật báo có tiếng ở Sài G̣n lúc đó như :
- Nhật báo Sài G̣n, nhật báo Công Luận cho đến năm 1938.
Đó là một loại nước giải khát có tên Tây là Antésite của nhà bào chế Normale. Đây là thức uống công nghiệp.
Thứ nước uống này được quảng cáo là tốt cho sức khỏe, không có cồn, thơm ngon, làm toàn bằng tinh chất của các vị cam thảo, Thạch long đởm và các cây có hương liệu.
Người dùng mua về nhỏ vài giọt hoặc múc một muỗng cà phê tinh chất này cho vào ly chứa một lít nước là có một loại nước được đánh giá là rất bổ, giúp cho sự tiêu hóa, trị các chứng sốt rét, thích hợp cho các xứ thuộc địa và đă được dùng ở Algerie, Tunisie, Maroc…
Loại nước cô đặc này đựng trong hộp nhỏ, pha được từ 30 đến 80 lít nước, bán ở các tiệm tạp hóa, nhà bào chế, tiệm bán thực phẩm. Có thể mua qua bưu điện nếu gửi 5 quan đến nhà bào chế tận bên Pháp sẽ nhận được nước tinh chất pha được 30 đến 40 lít nước giải khát mà không tốn cước.
Trước đó, trên Hà Thành Ngọ Báo ở xứ Bắc từ năm 1932 đă có quảng cáo loại nước này, giới thiệu chi tiết hơn là nước pha ra có màu vàng trong như rượu bia, không dùng màu hoá học có 4 mùi chanh, bạc hà, hồi và cam. Rải rác trên Thanh Nghệ Tĩnh tân văn năm 1934 có thấy giới thiệu bán ở Vinh và Nha Trang”.
Loại nước cô đặc pha với vài ba chục lít nước vào thời Pháp hồi đó uống vào có ngon như nước ngọt pha trong mấy b́nh kim loại to chễm chệ trên xe đẩy của những quán nước người Hoa trong Chợ Lớn vào thập niên 1960.
H́nh ảnh chiếc b́nh mạ đồng sáng loáng có cái bụng tṛn phần dưới, phần trên là cổ b́nh có cái nắp thông với một sợi dây nhựa (chắc dùng để bơm hơi ga CO2). Phần dưới b́nh có cái ṿi “phông tên”.
Tôi nhớ có lần ba tôi dẫn tôi đi thăm người bà con ở cầu Cây Gơ, đi bộ ngang qua chợ thấy tôi nh́n miệng mấy đứa nhỏ đứng quanh chiếc xe nước ngọt của ông già Tàu một cách thèm thuồng, ba bảo :
- “ Thứ nước ngọt này không tốt, phẩm màu pha với nước, uống vào lâu ngày sinh bệnh ”.
Nghe th́ nghe vậy chứ thi thoảng tôi vẫn lén uống ly nước ngọt bạc hà hay nước cam từ chiếc thùng inox sáng loáng của quán nước gần cổng trường tiểu học Chí Hoà.
Đi học buổi trưa 1 giờ nắng gắt, nước ngọt tươm hơi lạnh đọng ngoài vỏ b́nh to trước mắt hấp dẫn quá đi thôi !
Thuở đó, đâu chỉ có nước ngọt pha sẵn trong b́nh có hơi ga thu hút đám học tṛ, nước si-rô đá bào cũng hấp dẫn không kém.
Bọn học tṛ chúng tôi có đứa không đủ tiền mua ly nước ngọt trong b́nh đành mua ly si-rô đá bào liếm láp. Nước đá bào được nhận nén trong ly vun tṛn, người bán lấy chai si-rô có cái ṿi cong cong đổ ra trên đó.
Thứ nước đặc sệt này có hương vị và đủ màu sắc xanh, vàng, tím, đỏ. Ba má tôi vẫn luôn dặn chừng chúng tôi đi học đừng bao giờ uống.
Uống nước th́ đă có cái b́nh tông bằng nhựa đựng nước lọc đă nấu chín mang theo. Dạ dạ cho xong, chứ cái màu sặc sỡ của thứ nước si-rô hấp dẫn như thế làm sao chúng tôi cưỡng lại.
Cầm ly si-rô liếm láp cho đến khi chỉ c̣n cục đá bào nhạt trắng.
Giữa thập niên 1960, bên cạnh nước ngọt Con Cọp có mặt trên thị trường, nước ngọt Phương Toàn hiệu Con Nai trong Chợ Lớn bỗng xuất hiện cạnh tranh.
Nước ngọt Phương Toàn cũng có mấy vị :
- Xá xị (có mùi của vị nước ngọt Pepsi nhiều hơn)
- Bạc hà (có thêm mùi cam thảo)
- Nước cam có ga (có màu vàng cam).
Sau đó vài năm, các hăng nước ngọt của nước ngoài cũng tham gia thị trường tại miền Nam VN. Pepsi và Coca-Cola.
Cuộc cạnh tranh của các thương hiệu nước ngọt ngày càng khốc liệt để chiếm thị phần.
Nước ngọt Pepsi cạnh tranh không lại với hăng Phương Toàn do những quy định ràng buộc sản xuất “bắt chẹt” vào lúc đó.
Hằng năm Pepsi chỉ được nhập một số lượng vỏ chai nhất định dùng vào sản xuất, việc thu hồi vỏ chai cũ để tái sử dụng bị hăng Phương Toàn trả giá cao hơn cho người thu mua ve chai để mua lại và cho đập bỏ.
Pepsi thiếu hụt vỏ chai sản xuất nên đành sập tiệm.
Riêng Coca-Cola giữ vững được thị phần của ḿnh nhờ ưu thế nước cam vàng Birley’s. Nước cam không có ga, mùi vị cam tươi và có màu vàng.
Phụ nữ rất thích loại nước cam này.
Chiếc xe quảng cáo của hăng Cocacola, SaiGon 1965 (ảnh: Brian Wickham)
Sau năm 1975, các hăng nước ngọt nước ngoài rút ra khỏi thị trường, hăng Phương Toàn cũng ngưng hoạt động.
Duy chỉ c̣n hăng nước ngọt Con Cọp được đổi thành hăng nước ngọt Chương Dương.
Xá xị Chương Dương vẫn là sản phẩm chính được dân chúng yêu thích. Người ta cho rằng hai tiếng “xá xị” do phiên âm từ tiếng Anh Sarsi, người Hoa đọc là Sá thị Việt hoá thành “xá xị”.
Mùi vị xá xị được chiết xuất từ loại thực vật có tên là Quế vị.
Đây là một loại rau rừng thân mềm dùng để ăn bánh xèo hay bánh tráng phơi sương làm tăng thêm hương vị món ăn hoặc ăn kèm rau sống.
Tuy nhiên, có một lần tôi đi rừng theo một vài người bạn ở Bảo Lâm tỉnh Lâm Đồng, thấy cây đại thụ thân gỗ bị đốn hạ c̣n một phần ba thân toả ra mùi đúng mùi hương xá xị không phải loại Quế vị chỉ mang một mùi hương nhẹ nhàng.
Người bạn am hiểu loài thực vật cho biết đó là cây xá xị, người ta dùng vỏ và thân để chiết xuất tinh dầu trong công nghiệp tạo mùi cho nước giải khát.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.