Khác với chiến lược ngăn chặn của Mỹ trong thời Chiến tranh lạnh, đường lối hiện tại của Washington đối với Trung Quốc (TQ) không phải là sản phẩm của một tiến tŕnh hoạch định có tính toán. Đường lối này không được soạn thành luật lệ (codified) bằng các văn kiện chính thức. Thật vậy, nó không có lấy một cái tên. Tuy vậy, trong phần lớn hai thập kỷ vừa qua, Mỹ đă theo đuổi một chiến lược nói chung là nhất quán, gồm hai mũi: hợp tác và quân b́nh lực lượng với Trung Quốc (engagement and balancing).
Ảnh minh họa. (Nguồn: Internet)
Các Tổng thống Mỹ từ Richard Nixon đến Barack Obama đă vận động làm thân với Trung Quốc xuyên qua chính sách ngoại giao, thương mại, hợp tác khoa học, và trao đổi giáo dục và văn hóa. Từ giữa thập niên 1990, nhiều chính quyền liên tiếp c̣n có những biện pháp nhằm duy tŕ cán cân lực lượng có lợi cho Mỹ tại Đông Á. Khi Trung Quốc trở nên lớn mạnh hơn, Mỹ đă tăng cường khả năng quân sự của ḿnh trong khu vực, gia tăng hợp tác chiến lược với các đồng minh truyền thống, và xây dựng những quan hệ đối tác mới với các nước khác cùng chia sẻ mối quan ngại như Mỹ, chẳng hạn Ấn Độ và Singapore.
Một nửa của chiến lược này là các nỗ lực hợp tác nhằm ràng buộc Trung Quốc vào hệ thống thương mại toàn cầu và các cơ chế quốc tế, ngăn không cho TQ chống lại nguyên trạng (the status quo) và dùng phần thưởng để khuyến khích TQ trở thành một thực thể mà chính quyền George W. Bush gọi là “kẻ dự phần có trách nhiệm” (responsible stakeholder) trong hệ thống quốc tế hiện hữu. Mặc dù các nhà làm chính sách đă trở nên thận trọng hơn trong những năm gần đây, từ lâu họ vẫn hy vọng rằng thương mại và đối thoại cuối cùng sẽ giúp chuyển đổi TQ thành một nước dân chủ tự do. Nửa kia trong chiến lược của Washington đối với TQ, tức quân b́nh lực lượng, có vẻ đă duy tŕ được ổn định và chặn đứng được hành động xâm lược và các mưu mô chèn ép của TQ trong khi chính sách làm thân đă có những kết quả tuyệt vời.
Nhưng những biến chuyển gần đây đă dấy lên những mối hoài nghi nặng nề về cả hai yếu tố của chiến lược này. Thương mại và đối thoại qua nhiều thập kỷ đă không thúc đẩy nhanh chóng tiến tŕnh dân chủ hoá chính trị TQ. Thật ra, t́nh h́nh trong vài năm qua đă được đánh dấu bằng một cuộc đàn áp ngày một gia tăng nhắm vào các nhà bất đồng chính kiến trong nước. Trong lúc đó, quan hệ kinh tế từng được ca ngợi giữa hai cường quốc Thái B́nh Dương đă trở thành một nguyên nhân xung đột quan trọng. Và bất chấp các kỳ vọng gia tăng hợp tác, Bắc Kinh thực sự đă làm quá ít trong việc giúp Washington giải quyết các vấn đề quốc tế bức thiết, như việc Bắc Triều Tiên nắm được vũ khí hạt nhân hay các âm mưu của Iran nhằm phát triển loại vũ khí này. Sau cùng, thay v́ chấp nhận nguyên trạng, các lănh đạo TQ đă có thái độ mạnh mẽ hơn trong nỗ lực kiểm soát các lănh hải và tài nguyên nằm ngoài khơi vùng duyên hải của họ. Về vấn đề quân b́nh lực lượng, việc Trung Quốc tiếp tục xây dựng các khả năng quân sự đi liền với việc Mỹ cắt giảm chi tiêu quốc pḥng sắp tới, cho thấy rằng sự phân bố lực lượng trong khu vực sẽ làm nghiêng hẳn cán cân về phía có lợi cho Trung Quốc.
Lư do tại sao chúng ta không thể chỉ sống ḥa b́nh với nhau
Ngày nay, giới lănh đạo chóp bu TQ vừa kiêu căng vừa cảm thấy bất an. Theo quan điểm của họ, việc Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) tiếp tục cai trị là thiết yếu đối với sự ổn định, thịnh vượng, và uy tín của Trung Quốc; chẳng phải là sự trùng hợp t́nh cờ, sự cai trị này cũng tối cần cho sự vinh thân ph́ gia và an toàn bản thân của họ. Mặc dù họ gần như đă chấp nhận một dạng thức nào đó của chủ nghĩa tư bản trong lănh vực kinh tế, nhưng họ vẫn quyết giữ vững quyền lực chính trị của ḿnh.
Quyết tâm của ĐCSTQ nhằm duy tŕ sự kiểm soát chính trị nói lên cảm thức của chế độ về các mối đe dọa, nói lên những mục đích, và những chính sách của họ. V́ lo lắng về tính chính đáng của ḿnh, các nhà lănh đạo TQ hăng hái tô vẽ cho ḿnh trở thành những chiến sĩ bảo vệ danh dự quốc gia. Mặc dù họ tin tưởng Trung Quốc đang trên đường trở thành một cường quốc thế giới ngang hàng với Mỹ, nhưng họ vẫn lo lắng sâu sắc về t́nh trạng bị bao vây và sự phá vỡ ư thức hệ. Và bất chấp những nỗ lực của Washington nhằm trấn an họ về thiện chí của ḿnh, các nhà lănh đạo TQ tin rằng Mỹ cố t́nh chặn đứng sự trỗi dậy của Trung Quốc và, cuối cùng, phá hoại hệ thống cai trị độc đảng của họ.
Cũng như Mỹ, kể từ khi cuộc Chiến tranh lạnh chấm dứt, Trung Quốc theo đuổi một đường lối gần như không thay đổi đối với địch thủ bên ngoài lớn nhất của ḿnh. Thông thường, Bắc Kinh t́m cách tránh né đối đầu trực diện với Mỹ trong khi TQ theo đuổi tăng trưởng kinh tế và xây dựng tất cả các yếu tố của “sức mạnh quốc gia toàn diện” của ḿnh, một quan niệm chiến lược của TQ bao gồm sức mạnh quân sự, kỹ năng công nghệ, và ảnh hưởng ngoại giao. Tuy nhiên, ngay cả khi họ giữ thế thủ, các quan chức TQ cũng không chịu giữ thái độ thụ động. Họ t́m cách tiến lên từng bước, dần dần bành trướng vùng ảnh hưởng của Trung Quốc và củng cố địa vị của họ tại châu Á trong khi hoạt động âm thầm để xói ṃn địa vị của Mỹ. Mặc dù họ đủ cẩn trọng để không bao giờ nói thẳng điều này, nhưng về lâu về dài họ t́m mọi cách để Trung Quốc thay thế Mỹ và đưa Trung Quốc trở về vị trí mà họ cho là chỗ đứng hợp lư của Trung Quốc như một bá quyền khu vực. Các nhà chiến lược TQ không tin rằng họ có thể đạt được mục tiêu này một cách nhanh chóng hay bằng một cuộc tấn công trực diện. Thay v́ vậy, họ t́m cách trấn an các nước láng giềng, bằng cách dựa vào sức thu hút của nền kinh tế đồ sộ của Trung Quốc để chống lại các nỗ lực quân b́nh non trẻ nhắm vào Trung Quốc. Theo lời dạy của một nhà chiến lược quân sự cổ đại là Tôn Tử, Bắc Kinh muốn giành “thắng lợi mà không cần chiến tranh” (bất chiến tự nhiên thành), bằng cách từng bước tạo ra một t́nh thế mà những hành động công khai chống lại tham vọng của TQ sẽ có vẻ vô ích.
Cho đến nay sở dĩ không có được một hiệp ước thân hữu đích thực giữa Mỹ và Trung Quốc không phải do thiếu nỗ lực nhưng do một sự khác biệt cơ bản về các lợi ích giữa hai nước. Mặc dù sự hợp tác giới hạn trên một số vấn đề cụ thể là có thể thực hiện, nhưng khoảng cách ư thức hệ giữa hai quốc gia là quá lớn, và mức độ tin cậy lẫn nhau là quá thấp, thực tế này không cho phép một thỏa ước tạm thời (modus vivendi) ổn định. Điều mà các nhà lănh đạo Trung Quốc hiện nay mong muốn sau cùng, nghĩa là bá quyền khu vực, không phải là điều mà các đồng nhiệm của họ tại Washington sẵn sàng chấp nhận. V́ điều này sẽ đi ngược lại một mục tiêu tiền đề (axiomatic goal) của đại chiến lược Mỹ, vốn không thay đổi qua nhiều thập kỷ nay: đó là, ngăn chặn sự thống trị ở một trong hai đầu của đại lục Á-Âu bởi một hay nhiều cường quốc có tiềm năng trở thành thù nghịch. Những lư do để giải thích mục tiêu này nằm trong một tổng hợp gồm những cân nhắc có tính chiến lược, kinh tế và ư thức hệ – và những điều này vẫn tiếp tục có giá trị cho đến một tương lai có thể trông thấy.
Một Trung Quốc không bị một sự hiện diện của Mỹ trong khu vực ngăn chặn có thể sẽ không lập tức lao vào một cuộc chinh phục lănh thổ, nhưng sẽ ở vào một tư thế thuận lợi để thực hiện những đ̣i hỏi chủ quyền tại những lănh thổ và vùng có tài nguyên đang tranh chấp. Nếu được rảnh tay khỏi phải đối phó với những đe dọa mà TQ nhận thấy quanh lănh hải của ḿnh, TQ sẽ phóng chiếu sức mạnh quân sự xa hơn nữa để theo đuổi lợi ích của ḿnh tại Ấn Độ Dương, Trung Đông, và châu Phi. Hậu quả sẽ là, trong vùng ảnh hưởng đang mở rộng của Trung Quốc, các công ty Mỹ sẽ thấy khả năng tiếp cận thị trường, sản phẩm, và tài nguyên thiên nhiên của ḿnh bị hạn chế do những dàn xếp thương mại được Bắc Kinh định đoạt. Viễn ảnh cải tổ chính trị tại các nước láng giềng dọc theo biên giới Trung Quốc cũng sẽ trở nên u ám cho đến bao giờ mà ĐCSTQ vẫn c̣n giữ quyền thống trị. Và từ căn cứ an toàn tại châu Á, Bắc Kinh có thể cung cấp viện trợ và động viên các chế độ độc tài ở những khu vực khác trên thế giới.
Tuy nhiên, ngay cả nếu Trung Quốc kinh qua một chuyển đổi chính trị, điều này sẽ không bỗng nhiên xoá hết mọi căng thẳng với Washington. Nếu lịch sử cho ta một chỉ dẫn nào, đấy là tiến tŕnh tự do hóa có thể được tiếp nối bằng nội loạn (internal turmoil) làm gia tăng nguy cơ xung đột với các quốc gia khác. Một Trung Quốc dân chủ chắc chắn sẽ t́m kiếm một tiếng nói mạnh mẽ hơn trong các vấn đề khu vực, và những mục tiêu của nó sẽ không luôn luôn phù hợp với những mục tiêu của Mỹ. Nhưng trong bầu khí dân chủ về lâu về dài, viễn ảnh hợp tác Mỹ-Trung sẽ sáng sủa hơn nhiều. Một chính phủ tự tin về tính chính đáng của ḿnh sẽ không có lư do để lo sợ sự bao vây và âm mưu lật đổ của các nước dân chủ trên thế giới. Trong khi đó, cùng với các nước không c̣n coi Trung Quốc là một mối đe dọa, Bắc Kinh sẽ thấy dễ dàng dàn xếp với các nước láng giềng, kể cả Đài Loan, những giải pháp mà hai bên có thể chấp nhận.
Mỹ có thể sẽ đi đến chỗ chấp nhận một Trung Quốc dân chủ làm bá quyền trong khu vực Đông Á, theo cung cách Vương quốc Anh đi đến chỗ chấp nhận vai tṛ bá quyền của Mỹ tại Tây Bán cầu trước đây. Nhưng, nếu không có sự chuyển đổi dân chủ về phía Bắc Kinh, Washington sẽ không sẵn sàng từ bỏ chính sách quân b́nh lực lượng của ḿnh và rút khỏi khu vực này. Đồng thời, trừ phi có một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng hay một cuộc đối đầu lớn, có lẽ Washington sẽ không từ bỏ những nỗ lực duy tŕ quan hệ hữu nghị với Bắc Kinh. Một phiên bản nào đó của chiến lược hỗn hợp này [gồm quân b́nh lực lượng và hợp tác kinh tế và ngoại giao] sẽ tiếp tục kéo dài, chí ít trong một thời gian. Nhưng muốn có hiệu quả chăng nữa, th́ cả hai yếu tố của chiến lược này cần phải được điều chỉnh đáng kể.
Từ khẩu hiệu đến chiến lược
Việc làm trước tiên của Mỹ là phải chống lại việc Trung Quốc đang tăng cường lực lượng quân sự, bằng cách củng cố yếu tố quân b́nh lực lượng trong hồ sơ chiến lược của ḿnh. Chính quyền Obama thoạt đầu đă đi ngược khuynh hướng này, coi nhẹ chiến lược đề pḥng, nhấn mạnh viễn ảnh hợp tác rộng lớn và sâu sắc hơn, và gợi ư rằng ưu tiên hàng đầu trong quan hệ Mỹ-Trung phải là điều mà James Steinberg, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, gọi là “trấn an chiến lược” (strategic reassurance). Đến năm 2010, chính quyền này đă làm một việc đáng khen là bắt đầu đảo ngược đường lối. Phản ứng lại một loạt vụ việc diễn ra trong năm đó khiến căng thẳng gia tăng giữa Trung Quốc và một số nước khác, trong đó có Nhật Bản, Philippines, Nam Hàn, và Việt Nam, các quan chức Mỹ bắt đầu nhấn mạnh cam kết của họ đối với việc quân b́nh lực lượng. Chính quyền Obama thậm chí c̣n nặn ra một khẩu hiệu để mô tả ư định của ḿnh: khi đă giảm thiểu vai tṛ của ḿnh tại Afghanistan và Iraq rồi, Mỹ sẽ “xoay trục” (pivot) để hướng về Đông Á.
Nhưng cho đến nay, vấn đề chính của việc xoay trục là chiến lược này thiếu một thực chất nghiêm túc (serious substance). Những động thái đi liền với nó hoặc là chỉ có ư nghĩa tượng trưng, như dự định triển khai một số nhỏ lính thủy đánh bộ sang Australia, hay chỉ tái bố trí các lực lượng không quân và hải quân, bằng cách đưa chúng từ các khu vực khác đến khu vực Thái B́nh Dương. Ngoài những cách nói bóng gió về một “trận chiến hải-không” mới mẻ (new air-sea battle), bằng các thuật ngữ tiêu biểu như “kết hợp thành mạng lưới, hợp nhất, đánh thọc sâu để làm rối loạn, phá hủy và đánh bại” các lực lượng đối phương, chính quyền Obama không nói rơ họ sẽ phải đáp trả việc Trung Quốc tăng cường các khả năng quân sự bằng cách nào. Trái lại, sau khi công bố đường lối mới này, các người phát ngôn của Bộ Quốc pḥng đă chịu khó tránh né việc nh́n nhận một sự thật hiển nhiên là việc chuyển trục sẽ nhắm vào Trung Quốc là chính. Đặc biệt trong t́nh h́nh ngân sách hiện nay, thật khó biết làm cách nào mà một chính quyền có thể vận động được sự hậu thuẫn cần thiết của dân chúng, để duy tŕ một cán cân lực lượng có lợi thế tại châu Á, nếu chính quyền này không chịu tŕnh bày thẳng thắn hơn nữa với người dân về bản chất của sự thách đố do sức mạnh đang gia tăng của Trung Quốc đặt ra.
Khả năng mất mát của Mỹ có thể là lớn hơn bao giờ hết. Kể từ giữa thập niên 1990, Trung Quốc đă đúc kết một chiến lược mà các nhà làm kế hoạch tại Lầu năm góc mô tả là những khả năng lấy yếu đánh mạnh “chống tiếp cận/từ chối địa bàn hoạt động” [asymmetric anti-access/area-denial (A2/AD) capabilities]. Ở trung tâm của chiến lược này là nỗ lực phát triển một kho vũ khí gồm tên lửa đạn đạo và tên lửa hành tŕnh của chiến tranh cổ điển, vừa chính xác, vừa tương đối ít tốn kém. Với những vũ khí này, Trung Quốc có thể thực sự nhắm vào tất cả căn cứ không quân và quân cảng tại Tây Thái B́nh Dương, cũng như đe dọa đánh ch́m các tàu chiến địch trên mặt biển (kể cả tàu sân bay Mỹ) hoạt động cách duyên hải TQ hàng trăm dặm. Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) đă và đang thí nghiệm những vũ khí chiến tranh mạng và chống vệ tinh, và đă bắt đầu mở rộng lực lượng tên lửa hạt nhân liên lục địa nhỏ bé của ḿnh.
Nếu không có một phản ứng mạnh mẽ từ phía Mỹ, những nhà hoạch định chiến lược TQ cuối cùng có thể đi đến chỗ tin tưởng rằng những khả năng A2/AD (chống tiếp cận/từ chối địa bàn) của họ là đủ gây ấn tượng để làm cho Mỹ sợ hăi không dám can thiệp hay gây ra một cuộc đối đầu trong khu vực. Tệ hại hơn nữa, họ có thể tin rằng nếu Mỹ can thiệp, họ có thể tấn công làm tê liệt các lực lượng quy ước của Mỹ tại Tây Thái B́nh Dương, khiến Mỹ chỉ c̣n rất ít lựa chọn ngoài việc đe dọa leo thang bằng chiến tranh nguyên tử. Muốn duy tŕ ổn định khu vực, Mỹ phải làm giảm bớt khả năng các lănh đạo Trung Quốc có thể coi việc tung ra một cuộc tấn công như thế là có lợi cho họ. Dĩ nhiên, một cuộc đối đầu quân sự trực tiếp Mỹ-Trung hiện nay là cực kỳ khó xảy ra (extremely unlikely). Nhưng mục tiêu chính của việc quân b́nh lực lượng trong chiến lược Mỹ nhất định phải là để đảm bảo rằng chiến tranh Mỹ-Trung không thể xảy ra, ngay cả khi quyền lực của Trung Quốc ngày một tăng trưởng.
Nếu không phản ứng đúng mức trước nỗ lực gia tăng quân sự của Bắc Kinh, Mỹ có thể làm mất tính khả tín trong các cam kết an ninh mà Washington đă hứa hẹn với các đồng minh châu Á. Nếu không có những dấu hiệu mạnh mẽ cho biết Mỹ vẫn tiếp tục cam kết và duy tŕ quyết tâm của ḿnh, th́ các nước bạn có thể đâm ra lo sợ bị bỏ rơi và chịu những cám dỗ để đi đến chỗ nhượng bộ vô nguyên tắc. Nhằm ngăn ngừa các đồng minh của ḿnh khỏi rơi vào t́nh huống đó, Washington sẽ phải làm nhiều hơn nói. Bằng cách hợp tác với nhau, Mỹ và các đồng minh sẽ có thừa nguồn lực để quân b́nh lực lượng với Trung Quốc. Nhưng nếu Washington muốn các đồng minh phải tự ḿnh gia tăng các nỗ lực quốc pḥng, bản thân Mỹ cũng phải nghiêm khắc phản ứng lại những khả năng quân sự ngày một gia tăng của Trung Quốc. Về vấn đề châu Á, Mỹ không thể lựa chọn cái phương án mà tờ The New Yorker mô tả lần đầu là khuynh hướng “lănh đạo từ đằng sau” (leading from behind) của chính quyền Obama.
Nhằm làm cùn mũi nhọn trong chiến lược A2/AD [chống tiếp cận, từ chối địa bàn] của Trung Quốc, trước hết Mỹ và đồng minh phải có những biện pháp phân tán, tăng cường, hoặc những biện pháp khác nhằm pḥng thủ các mục tiêu mà Trung Quốc có thể tấn công trước tiên, kể cả các mục tiêu trong không gian và trên mạng Internet. Nhưng, chiến tranh hiện đại không thể thắng bằng thế pḥng thủ, và cũng không thể ngăn chặn thuần túy bằng thế phản ứng (purely reactive posture). Những người chủ trương chiến lược này lư luận rằng khi Trung Quốc cải tiến khả nămg tấn công những mục tiêu nằm ngoài khơi vùng duyên hải phía Đông của nó, Mỹ phải phát triển các phương án để tiến hành các cuộc phản công rộng lớn của ḿnh bằng vũ khí quy ước.
Dù dùng bất cứ lư luận chiến lược nào để biện minh, quan niệm về một trận chiến hải-không đă bắt đầu khuấy động tranh luận trên nhiều điểm. Nếu mở những cuộc tấn công quy ước trên quy mô lớn đánh vào Trung Quốc, việc này có thể khiêu khích một phản ứng leo thang, kể cả khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân. Những hệ thống vũ khí mới nhằm phóng chiếu quyền lực từ bên ngoài tầm hoạt động ngày một gia tăng của vũ khí TQ sẽ mất nhiều thời gian và ngân sách để phát triển, và chúng sẽ lấy mất các nguồn lực từ nhiều loại dự án mà xưa nay các binh chủng vẫn yêu chuộng. Chẳng hạn, thay v́ cần thêm nhiều tàu sân bay và các chiến đấu cơ bắt mắt có người lái, thiết tưởng Mỹ cần một hỗn hợp gồm nhiều vũ khí cho đến nay vẫn chưa được phát triển, chẳng hạn máy bay chiến đấu không người lái có sức chịu đựng lâu (long-endurance drones), hoặc một loại máy bay thả bom thế hệ kế tiếp có người lái [next-generation manned bomber, dự định đi vào phục vụ năm 2018, ND], những tên lửa cổ điển tầm xa, và có lẽ cả những tàu vũ khí khó phát hiện (stealthy arsenal ships) chuyên chở các loại vũ khí cực kỳ chính xác.
Trong t́nh h́nh có thể gặp phải những trở ngại tài chính, những phản đối có tính cách chính trị, và những bấp bênh chiến lược, Mỹ và đồng minh có thể không hội đủ điều kiện để phát triển những phương án chiến tranh quy ước hoàn toàn hữu hiệu và có tính thuyết phục, để chống lại những khả năng quân sự A2/AD [chống tiếp cận/từ chối địa bàn] của Trung Quốc. Đúng như trong thời Chiến tranh lạnh, chính sách ngăn chặn hiện nay cũng phải một phần dựa vào việc có trong tay những phương án leo thang chiến tranh khả thi. Lời hứa rằng Mỹ sẽ dùng vũ khí hạt nhân để bảo vệ đồng minh vẫn nằm trong cốt lơi của những cam kết pḥng thủ của Mỹ. Nhưng lời đe dọa này sẽ mất tính khả tín (credibility) khi kho vũ khí hạt nhân có tầm xa của Trung Quốc ngày một ph́nh ra.
Thay v́ chỉ dựa vào viễn ảnh leo thang chiến tranh ở mức độ khốc liệt ngày càng cao, thiết tưởng Mỹ phải cố gắng phát triển những phương án leo thang chiến tranh theo chiều ngang. Trong những phương án này, phương án hiển nhiên nhất sẽ là gia tăng khả năng đáp trả những hành vi xâm lược bằng cách gia nhập một liên minh với các nước bạn và đồng minh nằm trên bờ biển để cắt đường vận chuyển trên biển của Trung Quốc. Thậm chí nếu Bắc Kinh có tin tưởng rằng TQ có thể dùng vũ lực để đạt được một chiến thắng chớp nhoáng, chẳng hạn, trên đảo Đài Loan, hoặc trong Biển Đông Việt Nam, khi đó TQ sẽ phải đối diện với một viễn cảnh là mất khả năng xuất khẩu hàng hóa bằng đường biển hay nhập khẩu năng lượng và các tài nguyên khác mà TQ đang cần đến để giữ cho bộ máy kinh tế tiếp tục chạy đều. Mỹ có thể gia tăng tính khả tín (credibility) của lời đe dọa này bằng cách đầu tư thêm nữa vào các công nghệ chiến tranh dưới biển (undersea warfare technologies), một lănh vực mà Mỹ đă nắm giữ những lợi thế đáng kể; bằng cách tăng cường hợp tác với hải quân các nước khác như Australia, Ấn Độ, và Nhật Bản; và bằng cách hậu thuẫn những nỗ lực của các quốc gia Đông Nam Á trong việc thu mua những vũ khí mà họ cần đến để bảo vệ vùng trời và vùng biển dọc theo duyên hải của họ.