Người đưa đ̣ ấy đă 65 tuổi đời, ngót nghét tṛn 52 năm hành nghề chèo ghe đưa đón khách qua sông. Trong kí ức, hoài niệm về cuộc hành tŕnh mấy mươi năm thầm lặng với cái nghề một nắng hai sương, dăi dầu sương gió của bà biết bao cung bậc, nỗi niềm.
Đưa đ̣ từ tuổi 13
Nơi bến đ̣ ông Đốc, bà Lê Thị Hương được người dân của thôn Văn Ly, xă Điện Quang và thôn 3, xă Điện Hồng nhắc đến như một chứng nhân lịch sử gắn liền với những năm tháng chiến đấu khốc liệt nơi cứ điểm cách mạng bến đ̣ ông Đốc ghi dấu nhiều chiến công vang dội của bộ đội ta ngày trước và đến khi ḥa b́nh lập lại, “tổ nghiệp” chèo ghe bao đời truyền lại vẫn được người đàn bà ấy nối giữ cho đến hôm nay.
|
Bà Hai say sưa kể chuyện |
Có lẽ không dưới 10 lần tôi có dịp bắt ghe xuồng nơi bến đ̣ ông Đốc và được ngồi trên chiếc ghe máy bé nhỏ của bà Hai (tên mà người đi đ̣ vẫn thường hay gọi bà Hương), được nghe bà thổ lộ về cuộc đời đầy truân chuyên với cái nghề chèo ghe đưa khách.
Và mỗi lần hoài cổ về thời đă qua, trong từng câu nói sang sảng pha chút giọng mặn ṃi miền sông nước xứ Quảng của người đàn bà trên mái đầu nay đă lấm chấm những sợi bạc vẫn khiến người nghe bị cuốn hút, chăm chú lắng nghe.
“Tôi chèo ghe cũng độ hơn 50 năm rồi. Từ nhỏ sống trôi nổi trên vùng sông nước cùng với chiếc ghe của gia đ́nh, vừa là nồi cơm bươn chải mưu sinh vừa là nơi trú ngụ. 13 tuổi th́ tôi đă có thể phụ ba mẹ chèo ghe đưa khách, tự ḿnh quăng chài đánh cá trên sông. Cứ thế cái nghề chèo ghe của tổ tiên đến đời tôi là đời thứ 6 vẫn tồn tại cho đến hôm nay”, bà hồi tưởng.
Và cũng kể từ khi biết cầm dầm, quen thuộc với từng hàng cây, ngọn cỏ nơi bến đ̣ cũng là lúc bà xin tham gia vào hàng ngũ làm thông tin liên lạc đưa đón bộ đội qua lại đôi bờ sông này. Trong kí ức của một thời đă xa nay chỉ c̣n vang bóng, những kỉ niệm đưa bộ đội lướt sóng qua sông trước sự truy lùng ráo riết của bọn địch vẫn không thể nào thôi âm ĩ cháy măi trong suy nghĩ, con tim của bà Hai.
“Có lần địch mở đợt càn quét vào căn cứ bến đ̣ ông Đốc để diệt sạch bộ đội của ta và ngay trong đêm đó tôi đă âm thầm đưa gần 50 chiến sĩ ngược ḍng sông Thu Bồn trốn chạy. Để tránh sự phát hiện của địch, tôi dùng lưới đánh cá phủ lên trên người bộ đội như thể ḿnh mang lưới đánh cá ban đêm. May mắn tất cả 5 chuyến đ̣ đưa bộ đội vượt ṿng vây kẻ địch đă diễn ra trót lọt”, giọng hào hùng bà kể tiếp.
Thế nhưng trong một lần bị Việt gian tố cáo, bà đă bị địch bắt giam và dùng những đ̣n roi tra tấn hết sức dă man. Ngậm đắng nuốt cay suốt 3 tháng không hé nửa lời, cuối cùng bọn chúng mới thả bà về, từ đó bà tiếp tục với nhiệm vụ làm thông tin liên lạc, vận chuyển lương thực từ bên ngoài vào căn cứ cách mạng và trong chiến thắng oanh liệt nơi bến phà ông Đốc năm 1975, các chiến sĩ bộ đội năm ấy không thể nào quên được công lao to lớn của một cô gái nhỏ thó ngày đêm tận tụy giúp bộ đội băng sông vượt cạn, mở đường cho các chiến sĩ cách mạng hoàn thành nhiệm vụ đấu tranh giải phóng quê hương hai huyện Điện Bàn, Đại Lộc.
Cứu người trước lưỡi hái “thủy thần”
Có lẽ trong suốt cuộc hành tŕnh hơn 50 năm chèo ghe trên sông, chắc hẳn kỉ niệm về những lần cứu vớt người gặp nạn trên sông trước lưỡi hái “thủy thần” sẽ măi là những giây phút bà không thể nào quên. Đó là những lần không may khách ngồi trên ghe bất cẩn té ngă xuống sông hay những đêm bà thức trắng ṃ lặn vớt người đuối nước.
Và khi chúng tôi hỏi thế từ trước đến nay bà đă cứu được bao nhiêu người?. Bà bấm tay lẩm nhẩm một hồi lâu rồi lắc đầu: “Ui chao làm sao mà nhớ nổi. Mỗi năm có biết bao nhiêu vụ lật ghe thuyền trên sông này, làm sao tính được người đuối nước nhất là vào mùa lũ mà đếm được hả cháu. Cứ ở trên thuyền mà nghe thấy tiếng ú ới của người gặp nạn là cứ như theo quán tính nhảy sồng xuống sông trước cái đă, Thậm chí nhiều người được tôi cứu sau nhiều năm t́m đến tạ ơn tôi cũng không nhớ rơ đă cứu họ tự bao giờ, nhớ th́ chắc cũng vài ba người thôi”.
|
Ngày ngày bà Hai vẫn tiếp tục hành tŕnh chèo ghe đưa khách, sẵn sàng quên ḿnh cứu giúp người gặp nạn trên sông. |
Nhiều người thấy bà bơi lội giỏi chẳng khác ḱnh ngư nên bà con trong vùng phong cho bà biệt hiệu “bà Hai ḱnh ngư”.
Mọi người nể phục bà bởi bản tính gan ĺ, không sợ hiểm nguy, quên ḿnh cứu giúp người khác. Nghe một số người dân nơi bến đ̣ kể lại th́ có lần bà suưt mất mạng trong lúc cứu vớt một người gặp nạn lúc nửa đêm, v́ bơi liên tục hàng tiếng đồng hồ lần ṃ dưới nước nên bà bị kiệt sức, may lúc cố dốc hết sức ḿnh đẩy người gặp nạn vào bờ bà bám được vào một chiếc phao đang trôi nổi ven bờ sông.
Chuyện đó đến nay chỉ một vài người thân thiết với bà Hai biết được chứ hiếm khi bà kể lể công cáng với ai. Với bà cuộc sống hạnh phúc đơn giản chỉ là cho đi chứ không muốn nhận sự đền đáp. Và cứ thế suốt mấy chục năm qua, người đàn bà ấy vẫn âm thầm, lặng lẽ gắn bó với thiên chức cứu người như thể nó gắn bó với một phần máu thịt, không thể tách rời.
Thanh Ba