- Để bảo vệ cái mà TQ tự nhận là “lănh thổ biển rộng lớn”, Trung Quốc sẽ chế tạo 3-5 tàu sân bay, đảm bảo cho 3 tàu trực chiến, trong đó có 1 tàu đối phó vấn đề biển Đông.
Tân Hoa xă dẫn nguồn tin nước ngoài (chưa xác định) cho hay, theo trang mạng tạp chí “Quan chức ngoại giao” Nhật Bản, gần đây Vương Hải Vận, Phó hội trưởng Hội nghiên cứu lịch sử quan hệ Trung-Nga của Trung Quốc đă có bài viết trên tạp chí “Hoàn Cầu” cho rằng, Trung Quốc cần chế tạo 3-5 tàu sân bay để hỗ trợ cho chiến lược biển của nước này.
Tàu sân bay đầu tiên Varyag của Trung Quốc chuẩn bị bàn giao cho Hải quân.
Trong đó, để bảo vệ cái mà TQ tự nhận là “lănh thổ biển rộng lớn” của họ, TQ sẽ t́m cách phá vỡ sự bao vây trên biển mà đứng đầu là Mỹ và tránh bị một số nước “dọa dẫm”.
Bài báo cho biết, phó giáo sư Học viện Chiến tranh Hải quân Mỹ, James Holmes đă tiến hành phân tích đối với vấn đề này. Ông cho rằng, mục tiêu chủ yếu chế tạo tàu sân bay của Trung Quốc là đối phó với hai nước Mỹ và Nhật Bản, đồng thời bảo đảm cho 3 cụm chiến đấu tàu sân bay có thể thực hiện nhiệm vụ trong bất cứ tình huống nào.
Bài viết chỉ ra, Trung Quốc chế tạo nhiều tàu sân bay là muốn ứng phó với các cuộc xung đột cường độ cao với lực lượng trên biển của Mỹ và Nhật Bản. Thông thường, hải quân có thể phân thành lư luận tác chiến và lực lượng quản lư; tàu sân bay rơ ràng là chủ yếu dùng làm lực lượng chiến đấu.
"Nếu sử dụng chúng quản lư biển chính là một sự lăng phí nguồn lực, sử dụng tàu sân bay hoặc máy bay chiến đấu xua đuổi ngư dân nước ngoài trong vùng biển mà TQ tuyên bố chủ quyền là không cần thiết".- Tân Hoa Xă viết.
Theo b́nh luận của Tân Hoa xă, quản lư biển tốt nhất phải là sử dụng tàu hộ vệ và tàu hải giám, những loại tàu có cấp độ thấp hơn, chi phí chế tạo của chúng tương đối thấp, có thể chế tạo với số lượng lớn. Nh́n vào điểm này, bài viết cho rằng, quan điểm “sử dụng tàu sân bay bảo vệ vùng biển chủ quyền” của Vương Hải Vận khiến dư luận cảm thấy hoang mang.
Cụm chiến đấu tàu sân bay Trung Quốc (tưởng tượng)
Bài viết cho rằng, số lượng cụm chiến đấu tàu sân bay do Vương Hải Vận đưa ra là phù hợp. Xuất phát từ góc độ kinh nghiệm của Hải quân Mỹ, tác giả đă phân tích đối với vấn đề này. Quy tắc quan trọng hàng đầu của Hải quân Mỹ chính là phân chia Hải quân thành bộ phận để bảo đảm có thể sử dụng 1/3 lực lượng dùng cho tác chiến trong bất cứ tình huống nào.
Xét tới các phương diện như duy tŕ nhà máy đóng tàu, huấn luyện lực lượng và triển khai ở tuyến đầu, thông thường chỉ có thể duy tŕ đầu tư 1/3 lực lượng tổng thể cho tác chiến.
Những năm gần đây, Hải quân Mỹ luôn thử nghiệm “kế hoạch hưởng ứng hạm đội” để tăng tỷ lệ lực lượng tác chiến trong thời gian ngắn. Hải quân có thể nâng lực lượng tác chiến lên mức 2/3 toàn bộ lực lượng; nhưng do điều này sẽ làm trầm trọng hơn tần suất sửa chữa trang bị và sự mệt mỏi cho binh sĩ, rủi ro và chi phí thử nghiệm tương đối cao, không thể duy tŕ kéo dài.
Trung Quốc sở hữu 5 tàu sân bay, có nghĩa là Trung Quốc có thể bảo đảm cho 1-2 tàu sân bay có thể thực hiện nhiệm vụ trong bất cứ tình huống nào, bất cứ lúc nào. Dường như sẽ có một tàu sân bay ứng phó với vấn đề biển Đông, một tàu sân bay ứng phó với các sự kiện bất ngờ ở Đông Bắc Á.
C̣n việc Trung Quốc có thể tăng lực lượng tác chiến tàu sân bay trong lực lượng tổng thể hay không th́ phải xem t́nh h́nh ưu tiên trong nhiệm vụ sửa chữa của Hải quân Trung Quốc, hiệu suất làm việc của nhà máy đóng tàu Trung Quốc; hơn nữa việc quyết định của cấp cao về nhiệm vụ của tàu sân bay cũng có ảnh hưởng rất lớn.
Nếu Trung Quốc chỉ giới hạn hoạt động tàu sân bay ở phạm vi “chủ quyền lănh hải” do nước này tuyên bố hiện nay, th́ hoạt động hải quân của họ sẽ tương đối ít.
Điều này có nghĩa là tỷ lệ hư hao về phần cứng sẽ tương đối nhỏ, thời gian sửa chữa lớn cũng có thể kéo dài (đương nhiên, không có lợi cho độ thục luyện tác chiến của binh sĩ); khi đó, Trung Quốc có thể sẽ sở hữu 3 cụm tàu sân bay có thể thực hiện nhiệm vụ bất cứ lúc nào.
Máy bay chiến đấu trang bị cho tàu sân bay Trung Quốc (hư cấu)
Đông B́nh (nguồn Tân Hoa xă)