| R10 Vô Địch Thiên Hạ 
				 
				Join Date: Dec 2006 
					Posts: 54,629
				 Thanks: 1,521 
		
			
				Thanked 4,892 Times in 1,268 Posts
			
		
	 Mentioned: 0 Post(s) Tagged: 0 Thread(s) Quoted: 0 Post(s) 
				
				
  
    Rep Power: 73      | 
			
			Cô Tư Hồng,  Ba Tư và Thị Phượng đều là những nàng Kiều mang kiếp “hồng nhan mệnh  bạc”, khiến người ta chỉ cần nghe tên, phải ngậm ngùi xót thương…
 Ba ngôi mộ của họ từng vô t́nh ở vào ba góc nhọn của một h́nh tam giác ở  quận Hai Bà Trưng; nhưng nay, do Hà Nội thay đổi nhiều, không ai rơ họ  đă lưu lạc về đâu.
 
 Cô Tư Hồng: Đôi mắt khiến đàn ông nh́n vào là tự nguyện khuất phục
 
 Theo nhiều tư liệu, cô Tư Hồng tên thật là Trần Thị Lan, quê ở Phủ Lư  (Hà Nam), có nhan sắc và thông minh. Đồn rằng, đôi mắt cô “nhăn trung  hữu thuỷ” (trong mắt có nước) làm cho đàn ông nh́n vào là tự nguyện  khuất phục.
 17 tuổi, Thị Lan bị ép làm hầu một tên chánh tổng trong làng. Do  chênh lệch tuổi tác, cô bỏ trốn sang Nam Định. Ở đây một thời gian, cô  ra Hải Pḥng đi ở và sau đó, lấy chủ hiệu buôn người Hoa, tên Hồng nên  người ta gọi là thím Hồng. Ít lâu sau ông chủ Hồng vỡ nợ, phải trốn về  Trung Quốc, Thị Lan trở nên bơ vơ, đă gặp một bạn gái làm me Tây khuyên  lấy chồng Tây…
 
 Nguyễn Thị Lan lên Hà Nội giao du với đám me Tây và hành nghề tú bà.  Trong một bữa tiệc nhà quan, cô quen biết với quan tư Croibier Huguet,  một cố đạo phá giới và nhanh chóng tiến tới hôn nhân. Theo tục của người  Việt, phải gọi cô là Tư Lan mới đúng nhưng cô đă ghép tên chồng cũ với  chức quan tư của chồng mới… thành Tư Hồng (xuất xứ tên gọi này là thế).
 Dựa vào bóng của ông quan Tư, cô đă thầu vật liệu xây dựng, cơm tù  cho các trại giam, nhà tù. Cô kinh doanh xây dựng nhà ở, dinh thự, cầu  cống, mở các hăng buôn lớn. Thời đó, thành phố Hà Nội được lập nên thành  nhượng địa Pháp theo đạo dụ ngày 1/10/1888, v́ thế các quy định của nhà  Nguyễn không có giá trị với thành phố này. Để xóa dấu ấn văn hóa Trung  Hoa và văn hóa Việt ở Hà Nội nhưng núp dưới chiêu bài mở mang và xây  dựng, Hội đồng thị chính đă họp và đi đến quyết định đập bỏ Bắc thành để  xây trại lính. Ngày 28/7/1893, Hội đồng thị chính đă ra quyết định  chính thức. Việc phá dỡ thành được mang ra đấu thầu và dù nhiều thầu  khoán có tiềm lực lại quen việc tham gia nhưng không thắng nổi mẹo bỏ  giá thấp nhất của cô Tư Hồng và cô cũng giàu sổi và quyền lực nhờ gói  thầu này. Người ta kể lại rằng, những viên gạch cô Tư Hồng có do phá  thành, được mang về xây những dăy nhà để cho thuê…
 
 V́ có ḷng thương đối với những người bị tù tội, cô Tư Hồng luôn can  thiệp để làm cho các bản án của họ được giảm nhẹ. Với những người mang  án từ 10 năm đến 15 năm tù, cô cũng xin được tha bổng như không. Bất cứ ở  nơi nào trong toàn quốc bị mất mùa, băo lụt, cô đều cho chở gạo, ngô  đến phát cứu tế cho các nạn nhân với số lượng rất lớn. Thỉnh thoảng, cô  lại đi xe ngựa, rải những gói thịt ḅ chừng một lạng với những gói lạc  tới những người dân nghèo ở hai bên đường. Với những lần phát chẩn như  vậy, cô đă giết hàng chục con ḅ lớn. Cô phát cho mọi người nhưng không  bao giờ cao ngạo mà thường cúi xuống với nét mặt trầm tư…
 Cô được vua nhà Nguyễn tặng cho bốn chữ “Tiết hạnh khả phong” với hàm  ư rộng của chúng. Nhưng về sau, cô can thiệp nhiều vào việc giảm án cho  cả những người tù, nên bị nhà chức trách cho là nguy hiểm, có tinh thần  dân tộc nên cô bị liệt vào "thành phần nguy hiểm". Từ đó, cô bị nhà  nước bảo hộ không cho liên lạc ǵ với các cơ quan, họ tẩy chay cô, không  cho lập các hăng buôn và cản trở những hoạt động của cô. Thế là cô đành  phải rút lui về nhà sống những ngày c̣n lại quạnh hiu…
 Không rơ cô Tư Hồng mất năm nào, trong hoàn cảnh nào; mà chỉ nghe kể,  mộ cô cách cổng chùa Hai Bà Trưng 150 bước chân, khoảng đất Trường PTCS  Bạch Mai. Bia mộ vẻn vẹn có 3 chữ “Cô Tư Hồng”.
 
 Cô Ba Tư: Sở hữu một cơ thể “lên tiếng gọi”
 
 Cô Ba Tư tên thật là Vũ Thị Tư; không đẹp rực rỡ nhưng thân h́nh khoẻ  mạnh. Theo người cùng thời, thân thể cô là một cơ thể "lên tiếng gọi".
 Cuộc đời Ba Tư là cả một huyền thoại đánh đấu bởi những cuộc phiêu  lưu đầy kịch tính. Cô là gái nhà quê, con út trong một gia đ́nh 3 con;  nhưng sau bị thất lạc năm 13 tuổi, cô được ba má nuôi là vợ chồng công  sứ Hưng Yên cưu mang, cho học tiếng Pháp nên 5,6 năm sau, đă rất thông  thạo. Các quan thầy coi cô như con chim lạ miền Bắc v́ hồi đó, hiếm có  gái An Nam nào vừa thạo tiếng Pháp vừa đẹp, thông minh như người đẹp. V́  thế, họ bị cô Ba Tư chinh phục hơn là họ chinh phục Ba Tư. Không những  trẻ, đẹp, giai nhân c̣n khéo o bế, chiều chuộng nên không người t́nh nào  thất vọng v́ cô.
 
 Với tất cả 28 ông chồng trong suốt 36 năm vang bóng, Ba Tư đă vận  dụng nhiều tiểu xảo gây ảo tưởng cho họ rằng, cô là người chung t́nh,  chỉ yêu có họ mà thôi. Và nếu họ chợt thấy một đàn ông nào khác trong  nhà cô th́ đó là ....bạn chồng rất thân đến chơi lúc cô đi vắng. Cô từng  tâm sự với Tư Hồng rằng, bận tâm lớn nhất mỗi ngày là việc "canh giờ"  để các người t́nh khỏi chạm mặt nhau.
 Từ 1910, cô Ba Tư đă trở thành bà chúa Hàng Bạc, có hẳn một cái động  bà chúa nay ở khoảng gần rạp Chuông Vàng. Đó là một ngôi nhà rộng lớn,  lộng lẫy bày đặt nhiều đồ vật đẹp và lạ kỳ, mở cửa rộng cho mọi khách  thập phương xa gần đến xem. Nơi đây có đủ những đồ quư hiếm, những cổ  vật vô giá như: đỉnh, bầu rượu, đôi ngà voi của vua Hàm Nghi, nhiều lọ  độc b́nh, sập gụ chạm trổ đủ 100 con phượng... Lại có cả những con vật  hiếm như gà ba chân, rùa hai đuôi, cá vừa là chép vừa là trắm, chó huyền  đề, sóc bay, ỉ bạc má, phượng hoàng đất…
 
 Giàu lớn rồi, Ba Tư cũng như lắm bà đang nghèo hoá giàu, đua nhau  nhập tịch giới khăn chầu áo ngự. Cô nổi tiếng là đồng bóng lẫm liệt. Từ  Bắc vào Trung, không đền to phủ lớn nào cô không đến hành hương. Các bà  đồng quan đàn chị đều quí nể v́ cô khéo xử và hào phóng. Cô có 4 rương  lớn bằng gỗ bạch đàn mặt ngoài sơn vẽ tứ linh, mặt trong để mộc thơm  phức đựng đầy khăn chầu áo ngự thượng hảo hạng, mà ít bà bóng đương  thời, kể cả các bà đồng quan có nổi 2 chiếc… Ngoài ra, một giá gương  bằng vàng 18k cao hơn 2 gang nguyên của một nữ hầu tước Pháp do một ông  chồng Tây mua tặng, cô trong một tiệm đồ cũ ở Mạc Xây.
 Cô Tư Hồng từng nói về ba Tư: “Tôi giàu thấm đâu so với con bé Tư. Nó  có dư cả trăm cây vàng rồng do các chồng và nhân ngăi Tây cho. Nhưng nó  kín lắm, không dám gửi nhà băng, cũng chẳng dám giấu trong tủ trong  rương v́ sợ bị cướp. Nó nghĩ  ra một mẹo thật hay để đánh lạc hướng kẻ  gian. Nó sai gia nhân đi mướn hai toán thợ đúc ở hai làng xa nhau hai  bức tượng: 1 đúc bằng vàng thật,1 bằng đồng…”
 Thế nhưng, ở đời mấy ai học được chữ ngờ, hậu vận của cô Ba Tư cực  xấu. Cô đă bị người ta bày mưu tính kế, chiếm hết gia sản. Sau khi qua  đời, mô cô được chôn ở quận Hai Bà Trưng, trên bia đá có ḍng chữ Madame  Becty (v́ người chồng Pháp của cô tên là Becty), hàng chữ dưới đề: "Cô  Vũ Thị Tư"...
 
 Thị Phượng: “Tây Thi khiếp vía, Hằng Nga giật ḿnh”.
 
 Vương Thị Phượng là thiếu nữ Hàng Đào, được liệt vào nhóm Hà Thành tứ  mỹ. Người Hoa kiều ở Hàng Ngang nói rằng, cặp lông mày của cô “yên my“  (lông mày như mây khói), cặp mắt là “bán thụy phượng hoàng“ (con phượng  hoàng nửa thức nửa ngủ, nghĩa là mắt mơ màng say đắm. Đối tượng nh́n vào  đôi mắt ấy tự thấy ḿnh như một chiếc lá vàng rơi…
 
 Cô Phượng ăn mặc rất nền, khi th́ chít khăn nhiễu tam giang, khi th́  chít khăn nhung đen, đuôi gà vắt qua mái tóc. Cô hay mặc yếm hoa hiên,  quần lĩnh tía cạp điều thắt lưng quan lục. Tất cả những màu sắc ấy ánh  lên qua chiếc áo dài vải phin trắng may sát vào thân h́nh nở nang”. Và  đă có không ít văn nhân - kư giả đương thời khi được diện kiến cô Phượng  đă phải thốt lên: “Tây Thi khiếp vía, Hằng Nga giật ḿnh”. Nhiều thanh  niên, nhà ngay sát chỗ làm, nhưng hàng ngày vẫn bốn lần đi về theo đường  ṿng để qua phố Hàng Ngang, để được ngắm cô Phượng từ xa. Nếu hôm nào  không một lần được thấy cô, họ thấy bồn chồn, bứt rứt, đứng ngồi không  yên. Khi tàu điện chạy qua phố Hàng Ngang, không ai bảo ai, tất cả hành  khách đều hướng mắt về phía dăy nhà mang số chẵn, nơi có một mỹ nhân góp  phần làm cho vẻ đẹp Hà Nội thêm rực rỡ.
 
 Nhiều người "thèm" muốn như vậy, nhưng Thị Phượng lại lấy chồng -   hạng công tử “tốt mă giẻ cùi” ở Hàng Ngang. Chồng cô suốt ngày rong  chơi, chỉ coi vợ như một thứ đồ đắt tiền, xinh xinh, chỉ để ngắm nghía,  canh chừng, chứ không phải để tâm t́nh, cùng nhau vươn tới những khát  vọng xa xôi. Thậm chí, v́ nghiện cờ bạc rượu chè và có tính ghen tuông,  chồng thường đánh cô và đ̣i ly dị. Cô sớm hiểu ra thân phận người phụ nữ  lúc đó nên đă phản kháng bằng cách bỏ chồng đi theo tiếng gọi của một  anh chàng nhà báo trẻ đầy tài hoa, tên là Hoàng Hồ, bút danh Hoàng Tich  Chu, con trai một ông Huyện ở Bắc Ninh. Hai người yêu nhau say đắm, thực  là một đôi trai tài gái sắc!
 Vào khoảng cuối năm 1927, cả Hà Nội chấn động trước tin cô Phượng mất  tích. Măi sau này, mọi người mới biết cô Phượng đă theo Hoàng Tích Chu  vào Sài G̣n. Cô đâu có biết rằng đó là một chuyến đi định mệnh. Hoàng  Tích Chu đă quyết chí sang Pháp học nghề làm báo và hoàn cảnh không cho  phép Chu đem theo người t́nh. Lúc đó, Chu bảo với Phượng về Bắc gặp cha,  đem theo một bức thư cầu khẩn rất cảm động để ông nhận Phượng làm con  dâu trong khi đợi Chu du học về.
 Vốn là người có quan niệm cổ về lễ giáo, ông Huyện cho là gia đ́nh  Phượng không môn đăng hộ đối với gia đ́nh ông, nên sai người đưa Phượng  về xin lỗi chồng để trở lại, nhưng bị từ chối. Thế là cô Phượng đành  phải làm nghề buôn bán nuôi thân.
 
 Sau nhiều lần vào Nam ra Bắc, đôi khi cô phải nương tựa vào người  khác để tồn tại. Có người bạn giới thiệu Phượng cho một người tên Lưu -  cũng là người phong nhă lịch thiệp. Nhưng Lưu đă có vợ nên phải thuê một  căn nhà nhỏ bên Gia Lâm cho Phượng ở. Lưu đă vạch kế hoạch để hai người  trốn sang Hồng Công nhưng kế hoạch không thành. Phượng phải về nương  náu tại một ngôi chùa ở Hưng Yên ư muốn đi tu, nhưng v́ nghiệp trần vẫn  nặng, cô vẫn phải chịu đựng kiếp hồng nhan.
 Một hôm, có người đàn ông tên Bách làm Tham tán ở ṭa Sứ đến văn cảnh  chùa gặp Phượng. Bách mê mẩn vẻ đẹp mặt hoa da phấn của Phượng bèn mượn  người đến đánh tiếng với Phượng và xin với sư bà cho Phượng về làm vợ  lẽ. Vợ cả của Bách đến đón Phượng về làm chị làm em rất quư hóa ngọt  ngào. Ít lâu sau, Tham tán Bách được chuyển đi Lai Châu; vợ cả lại cho  Bách và Phượng đi trước, c̣n ḿnh sẽ lên sau. Ai ngờ bà cả đă ngầm sai  người đầu độc Phượng bằng một loại thuốc ǵ đó làm cho cô hóa điên lúc  tỉnh lúc mê, lúc cười lúc khóc, gầy rộc đi. Tham tán Bách đành sai người  đưa cô về Chợ Bờ (Ḥa B́nh), nhưng sau đó Phượng về lại Gia Lâm t́m đến  bà hàng xóm cũ, trong người chỉ c̣n có 15 đồng bạc. Bà hàng xóm tốt  bụng nhưng nhà quá nghèo trông nom cô như con đẻ. Bệnh ngày một nặng, bà  đành phải đưa cô vào nhà thương làm phúc. Một tuần sau, cô Phượng qua  đời.
 
 Đám tang Phượng chỉ có một người t́nh cũ rủ ḷng thương, khắc cho cô một  tấm bia đề: "Mộ người bạc mệnh Vương Thị Phượng". Mộ của cô đối diện  với cổng chính Bệnh viện Bạch Mai. Đường thẳng từ ngôi mộ đến cổng Bệnh  viện chừng 150 mét.
 
 Theo ĐV
 |