(Bài viết trong vùng trách nhiệm của Tiểu Ðoàn 3, Lữ Ðoàn 147 TQLC)
Tiếng nổ của lựu đạn tạo ra những đóm lửa bập bùng trong đêm tối. Trên bờ thành các toán TQLC tiến dần đến cổng chánh Tây còn gọi là cửa Hữu. Vòng vây từ từ khép lại. Tổ biệt kích của đại đội giải giao toán tù binh cuối cùng về tiểu đoàn đã trở lại vị trí lúc màn đêm phủ kín. Kể từ giờ phút này mọi sự di chuyển giữa Đại đội và tiểu đoàn bị hạn chế, chỉ trừ trường hợp khẩn cấp đặc biệt.
Trong thời Pháp, thành cổ Ðinh Công Tráng là nơi đặt các cơ sở Quân sự, và sau đó chính phủ Việt Nam Cộng Hòa vẫn tiếp tục duy trì. Tiểu Khu Quảng Trị chiếm đóng toàn bộ thành cổ Ðinh Công Tráng, có những công trình xây cất như dinh quan Tuần Vũ, dinh quan Án Sát, dinh quan Lãnh Binh,… có lao xá kiên cố nằm gần khu vực cửa Hậu. Khi CSBV tràn qua sông Bến Hải, tiểu khu đã làm thêm những hầm trú ẩn, vị trí chiến đấu nhưng bất ngờ Quảng Trị bỏ ngỏ. Quân đội CSBV trú đóng trong thành cổ cho thiết lập những căn hầm chữ A sâu dưới đất thật vững chắc để trú ẩn tránh bom oanh tạc, tránh pháo kích, vừa làm chỗ ăn hoặc ngủ, vừa là công sự chiến đấu với ngỏ ra vào trổ hai hướng đối nghịch nhau.
Khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tiến về Quảng Trị, pháo đài B.52 rải thảm thật xa phía trước, trong mục tiêu đó có thành cổ và Thị xã Quảng Trị. Từ lúc các đơn vị tiến sát Thành phố thì chỉ còn sự yểm trợ của các phi cơ phản lực, F.4C Phantom của Hoa kỳ từ hạm đội, hoặc A.37 của Không Quân Việt Nam từ Ðà Nẵng. Trong cuộc chiến mới thấy thương cho các phi vụ A37 của Không Quân Việt Nam. Họ không được trang bị để chống hỏa tiễn tầm nhiệt SA.7 (cùng một số vũ khí mới do Liên Xô trang bị cho Quân đội CS Bắc Việt). Các phi tuần phản lực cơ chiến đấu Hoa Kỳ khi nhào xuống mục tiêu do TQLC điều chỉnh, họ đều phóng ra một số trái sáng như để thu hút hỏa tiễn tầm nhiệt, vì thế họ chỉ thả một lần hai quả bom, rồi tiếp tục theo hướng điều chỉnh mới nếu có, vì thế sự yểm trợ của họ đạt kết quả sát hại cao.
Thông thường địch bắn hỏa tiễn SA7 vào đợt oanh kích thứ nhì, vì họ đã biết rõ hướng phi cơ lao xuống giội bom rồi vút thẳng lên cao thật nhanh. Ðợt đầu bất ngờ nên địch không chuẩn bị kịp thời. Biết rõ thế nên những phi vụ của Không Quân VN đến yểm trợ đã trút hết bom một lần vào thành cổ rồi rời vùng ngay. Thảo còn nhớ một lần A.37 đánh bom, hai trái lọt vào tuyến đại đội, một trái nổ tung, hai binh sĩ Trung Ðội 21 thiệt mạng, may mắn trái thứ hai bị lép, tạo sự âu lo cho đại đội vì biết đâu đạn pháo 130 rớt trúng vào nó. Nghĩ thì như thế, đạn pháo như mưa rơi dai dẳng mỗi ngày, nhưng quá cận kề cái chết nên rồi quên đi, không còn ai màng tới nó nữa.
Thành Cổ hứng chịu bom đạn, những công trình xây dựng đổ nát đã trở thành những vị trí chiến đấu, bom của không quân, đạn pháo từ hạm đội, và các pháo đội Thủy Quân Lục Chiến bắn tập trung, nổ tung đất bao phủ các công sự nên rất khó khăn cho việc lục soát dứt điểm. Bóng đêm và khoảng cách sát cận, nên những người lính TQLC đã kêu gọi cán binh CSBV ra hàng trước khi tung những quả lựu đạn M.67.
Cơn mưa ảnh hưởng của cơn bão làm mặt đất bên trong cổ thành thêm lầy lội, những hố bom lấp xấp nước. Người lính TQLC có khi phải nằm bất động, dán sát người xuống mặt đất, im lặng để lắng nghe tiếng thì thào hoặc bàn tính đường tháo chạy của địch quân. Vì sự an toàn cho bản thân mình nên kể từ chập tối, anh em không còn kêu gọi địch quân ra hàng nữa, vì sự phát âm sẽ giúp địch nhận rõ vị trí và ném bê ta sát hại để tẩu thoát.
Thảo cùng hai hiệu thính viên Ðẹp, Lượm và Y tá Thâu, chiếm cứ cửa Tiền. Vị trí này Trung Ðội 22 bắn vài quả quả M.79 nổ phía trước và trên đầu cửa, hai cán binh CS hoảng sợ ra đầu hàng, đây là nơi trú ẩn tránh bom và pháo hơn là một vị trí chiến đấu. Cửa trổ ra đường Lê Văn Duyệt đã bị đóng, gạch phủ kín. Mặt trong thành cổ có hai hàng bao cao cát che phía trước rất an toàn. Hạ sĩ Ðẹp và Lượm điều chỉnh âm thanh của máy PRC-25 thật thấp, Binh I Thâu thì sẵn sàng túi y tá, nhất là thuốc ATS (Anti Tetanus Serum) ngừa phong đòn gánh, lúc nào cũng chiếm gần phân nửa. Cứ mỗi lần ai bị thương, trước tiên là chích ngay một ống ATS, sau đó tùy theo bệnh trạng, nếu quá nặng đâm vào thịt một morphine tube bằng hai lóng ngón tay út, rồi bóp mạnh cho morphine vào dưới da, nó giảm cơn đau cho thương binh và ngừa cơn sốc có thể gây tử thương. Tầm nhìn trong bóng đêm tuy hạn chế về độ xa nhưng vẫn thấy gần nhờ ánh sao lấp lánh trên bầu trời.
Ầm !
Ánh lửa lóe lên cùng tiếng nổ chát chúa trước mặt, cát sỏi theo khoảng trống bay vào hầm mù mịt, Bên ngoài có tiếng vật lộn, và tiếng nói của Binh I Huỳnh Văn Tư . Máu rươm rướm chảy bên gò má bên phải của y tá Thâu. Trong hoàn cảnh hiện tại, Thảo vôi vã thoa cồn sát trùng, bịt vào ngay miếng compress rồi dán băng keo vải lên, sau đó chích ATS vào mông của Thâu, Thảo học lóm từ Uyên, người yêu ngày trước làm cán sự điều dưỡng, dùng hai đầu ngón tay rờ tìm đầu khớp xương hông ngay thắt lưng rồi lần xuống một khoảng cách ngắn, nằm bên trái hoặc bên phải của vùng mông, vùng này nhiều thịt, it có gân máu. Sau khi chọn đúng vị trí, xoa cồn sát trùng, phóng mũi kim vào, kéo nhẹ ống chích (syringe) xem có máu theo ra không, nếu không thì bơm hết thuốc vào. Thảo tự mỉm cười vì sự tò mò để học đôi khi trở thành hữu ích.
Binh I Tư bước vào báo cáo :
- Ông thầy, bắt được 3 thằng Việt Cộng, có một thằng bị thương.
Thảo bước theo Tư vừa hỏi :
- Họ đâu rồi ?
- Ông thầy tụi em đã trói tay chúng nó và thằng Ẩn đang canh giữ bên ngoài.
Ba anh bộ đội đều ở trần và cùng mang quân xà lỏn màu đen giống nhau, người bê bết bùn. Dưới ánh sao lờ mờ, vẫn lộ rõ cốt cách phương phi của người có da có thịt, hình vóc của họ khác hẳn với những cán binh CSBV mà Ðại Ðội Thảo đã bắt được kể từ khởi đầu cuộc chiến, tuy thân thể họ dính bùn nhưng nhiều nơi màu da trăng trắng tạo nên cái nét tương phản. Cái trực giác khi nhìn họ, Thảo liên tưởng họ không phải là bộ đội chính quy thuần túy, mà là cấp chỉ huy đầu sỏ của đơn vị quyết tử giữ thành cổ. Thảo chú ý đến người bị thương dưới xương sườn bên tay trái, vết thương là một lỗ sâu đen ri rỉ máu. Binh I Thâu khi nghe nói có người bị thương đã tròng lên cổ túi cứu thương và bước theo phía sau. Anh lập tức làm ngay nhiệm vụ với thương binh CSBV như đang phục vụ cho các bạn đồng đội của mình.
Anh sát trùng vết thương, đặt lên đó miếng vải mà một bên có thoa sẵn chất thuốc giống như vaseline, rồi dùng băng cá nhân quấn vòng quanh phủ kín vết thương, sau đó anh tiêm thuốc chống phong đòn gánh, chích thuốc giảm đau. Xong xuôi anh cũng tròng vào cổ người cán binh CS một phiếu tản thương ghi rõ những việc làm cấp thời như tên thuốc cùng liều lượng đã dùng. Thâu làm rất thành thạo dưới ánh sáng lập lòe của tinh tú. Nhìn mắt của ba cán binh CSBV, phản chiếu ánh sao lấp lánh, Thảo nhận thấy sự thù hận vẫn còn hằn sâu trong họ. Dù biết rằng vài phút trước đây, với sự thành thạo mọi ngả ngách trong thành cổ, họ đã quan sát và biết được Ban Chỉ Huy Ðại Ðội (có hai máy truyền tin PRC 25) ở đây, họ ngụy trang bằng cách cởi bỏ Quân phục, bò dưới đất sình, tiến sát và ném beta sát hại toán của Thảo để rồi leo ra ngoài bờ thành tẩu thoát, vì giờ phút này Tiểu Ðoàn 7 TQLC cũng chưa kiểm soát được làng Hạnh Hoa bên kia đường Lê văn Duyệt. Bắt được người cố giết hại mình, nhưng Thảo và anh em Đại đội đối xử rất tốt với họ, anh em đã mời họ hút thuốc nhưng họ từ chối.
Dân gian có câu “Miếng trầu là đầu câu chuyện,” còn trong Quân đội chắc phải là “Ðiếu thuốc là bước tình thân.” Trong cuộc chiến, nếu bắt được một người tù binh thì người này sẽ vui vẻ hút điếu thuốc khi được mời, nhưng nếu có từ hai tù binh trở lên, họ luôn luôn sẵn một giọng điệu rập khuôn như nhau :
- Tớ không dùng sản phẩm của đế quốc Mỹ và tay sai.
Thảo vẫn cố gắng hỏi vài lời thân thiện, nhưng họ không trả lời, Ta và địch, người chiến sĩ Miền Nam và bộ đội chính quy Miền Bắc, khác biệt về ý thức hệ và tình cảm con người giữa hai bờ chiến tuyến.
Sau Hiệp Ðịnh Genève, vĩ tuyến 17 chia đôi đất nước, phía Bắc vĩ tuyến theo Chủ nghĩa Xã hội, được sự yểm trợ của Liên Xô và các nước trong khối Cộng sản, còn phía Nam vĩ tuyến là Việt Nam Cộng Hòa được sự yểm trợ của Hoa Kỳ và các nước Ðồng Minh.
Trong những năm đầu của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, kinh tế Miền Nam phát triển, gạo được xuất cảng ra nước ngoài, đời sống an lành và sung túc bỗng nhiên cuộc binh biến do CS phát động dưới danh xưng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và phong trào Ðồng Khởi vào năm 1960 tại một vài nơi ở Bến Tre. Những đoàn xe Molotova ngày đêm chuyên chở bộ đội Cộng Sản Bắc Việt, vũ khí từ Thanh Hóa theo đường trên đất Lào vào lãnh thổ Cam Bốt, lập căn cứ hậu cần, từ đó xâm nhập dưới danh xưng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để khủng bố, pháo kích bừa bãi vào thành thị, và trường học giết hại đồng bào cùng trẻ em vô tội. Trước nguy cơ đó, hàng hàng lớp lớp thanh niên lên đường nhập ngũ bảo vệ Miền Nam tự do. Năm 1968, sau khi giải tỏa xong thủ đô Sài Gòn, Tiểu Ðoàn 3 cùng Tiểu Ðoàn 2 Trâu Ðiên về Cần Thơ hành quân, tảo thanh địch. Sau vài cuộc hành quân, Tiểu Ðoàn 2 tăng phái cho Lực Lượng Sông Ngòi của Hoa Kỳ, Tiểu Ðoàn 4 TQLC đến thay thế. Hai đơn vị hành quân ở Cầu Kè, Kế Sách cũng như bảo vệ Cái Răng, bẻ gãy các cuộc tấn công của Tiểu Ðoàn Tây Ðô phối hợp các đơn vị chủ lực miền mà địch dự tính tổng công kích đợt 2. Sau cuộc hành quân bình định vùng rạch Ông Vựa, Miễu Ông, mở rộng vòng đai an ninh cho phi trường Trà Nóc và Bình Thủy, Tiểu Ðoàn 3 rời Cần Thơ về Vĩnh Long, hành quân vùng quận Càn Long rồi sau đó biệt phái cho Lực Lượng Sông Ngòi Hoa Kỳ, từng toán một lên những chiếc ATC (Amored Troop Carrier) có trọng tải mỗi chiếc 40 Quân nhân, chở về đóng quân tại xã An Hóa thuộc tỉnh Bến Tre. Từ đây tuần tự hai đại đội dưới quyền điều động của Ðại Úy Lê Bá Bình, Tiểu đoàn phó, được lực lượng sông ngòi yểm trợ tác xạ, ủi bãi, đổ quân, từ đó tìm địch theo các mục tiêu đã dự tính.
Ðại Ðội 1 được đổ bộ vào phía Tây Nam quận Mỏ Cày, người dân bảo rằng sở dĩ có tên nầy vì mấy nhánh sông uốn lượn giống như cái lưỡi cày của nhà nông, Trung Ðội Thảo tiên phong tiến vào căn nhà lồng có tên Chợ Thơm. Cảnh vắng lặng, không một bóng người. Trước mặt chợ có tấm bảng đen, những nét chữ viết hấp tấp bằng phấn, nhưng vẫn có thể đọc được : “Anh em binh sĩ hãy quay súng bắn vào đầu các tên chỉ huy ác ôn rồi trở về với Mặt Trận.”
Ðã được huấn luyện ở Quân trường, nên mọi người cẩn thận dò dẫm từng bước, tiểu đội của Hạ Sĩ I Võ Văn Phước bám theo mỗi gốc dừa có vẽ cờ Giải phóng tiến về chòm nhà bên phải, Tiểu đội đại liên của Hạ Sĩ I Ký từng bước quan sát những điểm khả nghi, Hạ Sĩ Minh xạ thủ M.60 ngón tay trên cò súng, Binh I Lập phụ xạ thủ đeo lủng lẳng thùng đạn bám theo. Tiểu đội của Trung Sĩ Nguyễn Văn Xảo tiến vào chòm nhà bên trái, Trung Sĩ Hạ Chí Trang, Trung đội phó, giữ đoạn hậu. Sau khi lục soát các căn nhà bỏ trống, và bố trí xong xuôi, Thảo ghé mắt vào một một lớp học có tấm bảng đen và những hàng chữ của một bài toán cộng. Một cuốn tập còn nằm trên bàn học, Binh I Lê ngọc Tuyết, Hiệu thính viên tính hay tò mò, nhưng Thảo khuyên nên dùng một cành tre dài đẩy cuốn tập đề phòng mìn bẫy.
Khi cuốn tập rơi xuống chạm vào mặt đất.
Ầm !
Tiếng nổ lớn trong không gian tĩnh mịch, phản ứng tự nhiên mọi người bám vào các vị trí tương đối có thể chiến đấu. Sự yên lặng trở lại. Trung Sĩ Trang đã dùng báng súng đẩy ngã tấm bảng trước chợ, nó kích động quả mìn bẫy phát nổ, may mắn mọi người an toàn.
Trong cuốn tập của Giáo viên dạy Toán đố với những dòng chữ nắn nót :
- Du kích Tân Quới giết chết 5 tên lính bảo an, dân quân Thới Hòa bắn chết 2 tên lính Sư đoàn, vậy Quân dân ta đã giết được bao nhiêu tên lính Ngụy ?!
Rồi một bài toán khác :
- Một toán 15 tên lính Bảo An định vào xóm hà hiếp Nhân dân, quân dân Thanh Nam giật mìn giết chết 6 tên, vậy bao nhiêu tên còn sống bỏ chạy ?!
Vùng đất mà người Cộng sản gọi là đã được giải phóng, trẻ thơ bị gieo vào đầu tư tưởng giết những người không cùng chí hướng, bằng đủ mọi cách tuyên truyền trong việc giáo dục, ngay cả bài toán cộng, toán trừ căn bản.
Trái lại trong vùng Quốc Gia, bài học thường dùng hình ảnh thật hiền lành :
- Mẹ em đi chợ mua cam hết 5 đồng, mua bánh tai heo 2 đồng, vậy mẹ em đã mua tổng cộng hết bao nhiêu đồng ?!
Hoặc :
- Mẹ em đem theo 20 đồng đi chợ mua thức ăn, Sau khi đã trả cho các gian hàng 15 đồng, vậy mẹ em còn lại bao nhiêu đồng ?!
Người mẹ luôn luôn là biểu tượng của sự ngọt ngào, trìu mến, Vì thế đây cũng chính là một trong những sự khác biệt đó tình thương và sắt máu.
***
Những tràng AK từ hướng Tây cày trên mặt đất. nơi đó là cổng thành ra đường Phan Ðình Phùng song song với dòng sông Thạch Hãn. Một số địch đã tháo chạy, tiếng huyên náo vọng lại từ bờ sông hòa lẫn tiếng nổ do các Tiểu Ðoàn Pháo Binh TQLC bắn T.O.T (có lẽ Thiếu Tá Ðệ Ðức đã yêu cầu). Các Trung đội trưởng cùng anh em tập trung triệt hạ những ổ chống cự, mọi người thèm được chợp mắt đôi phút, nhưng tiếng nổ bập bùng như reo vui lấn áp mệt nhọc của thân xác.
- Ông thầy !
Hạ Sĩ Ðẹp cất tiếng gọi, Thảo cùng y tá Thâu hướng theo ánh mắt của anh, người thương binh CSBV đã dùng hai bàn tay bị trói đẩy băng vải trụt xuống dưới bụng. Ba anh tù binh này được Thảo ưu ái cho đem vào nơi trú ẩn, hai người bị trói ngoặt tay ra phía sau lưng, hai chân cũng bị cột nhưng có một khoảng cách để cử động, riêng anh thương binh được trói hai tay về phía trước tránh ảnh hưởng đến vết thương gây thêm đau nhức. Tuy biết rằng nếu đưa anh thương binh CSBV này về Tiểu đoàn ngay bây giờ sẽ có bác sĩ săn sóc và thuốc men đầy đủ hơn, nhưng biết bao phiền toái và hiểm nguy cho binh sĩ. Chướng ngại vật giăng mắc trên lối đi đêm cùng đạn pháo không dứt đang bao trùm khu vực làng Trí Bưu.
Thâu chụp ngay túi cứu thương và ngồi xuống quân lại băng mới cho người tù binh. Thâu không cần biết tại sao người thương binh này hành động như thế, bổn phận và trách nhiệm của một người Y tá chiến trường, anh phải cố gắng làm sao duy trì được mạng sống cho dù đó là địch quân đã sát hại đồng đội mình, nhưng nay họ không còn vũ khí để bắn giết.
Ðạn pháo 130 ly bay xẹt ngang đầu các toán TQLC trong thành cổ rồi nổ dồn dập bên ngoài, đây là những hỏa tập tiên liệu, của quân trú phòng bắn quấy rối liên tục trong đêm, và tất nhiên pháo binh CSBV nghĩ rằng đơn vị của họ vẫn còn đang kiểm soát khu vực này. Từ khi đơn vị TQLC vào được bờ thành, các Tiểu Ðoàn Pháo Binh TQLC đã chuyển xạ về hướng Tây, dọc theo bờ sông Thạch Hãn. Ðây cũng là điều thuận lợi cho đại đội Thảo, tìm và tiêu diệt địch không còn âu lo tâm trí vào việc tránh pháo kích nữa. Màn đêm nhạt dần, Chuẩn Úy Lê Ðình Lời, Chuẩn Úy Trần Trung Ngôn báo cáo Trung đội đã hoàn toàn kiểm soát các góc thành trong khu vực trách nhiệm, riêng Thiếu Úy Nguyễn Văn Phán, Trung Ðội 22, Trung Sĩ Trương Văn Hai, Trung đội phó, điều động Tiểu đội của Trung Sĩ Trần Văn Trí tiến thẳng vào cửa chánh Tây mà địch quân vẫn còn bám giữ. Ðồng loạt, Tiểu Ðội đứng dậy vừa bắn vừa lao thẳng vào mục tiêu, Binh Nhì Huỳnh Ngọc Lanh bắn M 79 chính xác vào vị trí, xác địch ngã gục, bỗng nhiên Trung Sĩ Hai té chúi xuống sau tiếng súng AK từ một vị trí trong vùng của Tiểu Ðoàn 6 TQLC, Lanh xoay người bắn một trái M79 ngay tên địch.
Viên đạn xuyên qua ngực Trung Sĩ Hai, Trung Sĩ Trí đỡ anh dậy, nhưng anh đã ra đi, không nhìn thấy hình ảnh vinh quang mà anh là một nhân tố tạo nên.
Anh em của 3 Trung đội cùng dựng lá cờ vàng giữa tiếng reo hò vang dậy vào lúc mờ sáng ngày 15 tháng 9 năm 1972. Từ bên kia đồi cao của căn cứ Ái Tử, khi lá cờ Việt Nam Cộng Hòa phất phới trên cổng thành Quảng Trị, đạn đại bác 100 ly và đạn pháo 130 ly bắn ào ạt vào thành cổ. Tiếng nổ không làm nao núng nỗi mừng mừng tủi tủi, nghiêm chào lá Quốc kỳ tung bay ngạo nghễ. Tiếng la vang dậy át mất tiếng pháo của địch quân, người phóng viên chiến trường bấm liên tục cái nét sống động tự nhiên trong niềm vui tột cùng đó.
Thảo sung sướng nhìn lá Quốc kỳ nổi bật trên bầu trời ửng ánh bình minh cùng ánh lửa của đạn pháo binh CSBV, thành cổ Quảng Trị hiện rõ trước mặt mọi người, những đoạn tường đổ nát, xác địch quân nằm rải rác trên mặt đất, bên hố bom hay nát tung trong hầm chiến đấu. Với sự hy sinh ròng rã bao nhiêu ngày đêm, của các đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tham chiến, thì thu lượm chiến lợi phẩm, đếm xác địch cũng trở thành vô nghĩa, chính giờ phút này, người lính chiến tại mặt trận, được thoải mái chuyền tay rít dài hơi điếu thuốc đen Quân Tiếp Vụ, nghĩ tới bạn đồng đội của mình đang ở một nơi nào đó, đớn đau trong Bệnh viện hay an giấc trong nghĩa trang.
Vũ khí và hai người tù binh được chuyển về Tiểu đoàn, anh em đại đội chào tiễn đưa Trung Sĩ Trương Văn Hai được gói chắc trong chiếc Poncho có đính phiếu tản thương bên ngoài, tấm Poncho đã theo người lính trong suốt cuộc chiến, nó che nắng che mưa, nó là bè nổi để qua sông sâu và cuối cùng gói trọn hình hài người lính như hình ảnh da ngựa bọc thây trong thi ca cổ xưa.
Người thương binh CSBV đã tắt thở trong giờ phút giẫy chết của đơn vị phòng thủ thành cổ. Thượng Sĩ I Võ Lách đã cho nhặt hết xác cán binh CSBV trong khu vực Đại đội và chôn trong các hố bom. Bên dưới thành cổ, Tiểu Ðoàn 8 thay Tiểu Ðoàn 7 tiến qua làng Hạnh Hoa ra bờ sông Thạch Hãn. Bên kia bờ thành của Tiểu Ðoàn 6, các chiếc M113 bên trên có những bình tròn to chứa hóa chất, tiến lên phun vòi lửa vào vị trí địch, dần dần hướng về đường Phan Ðình Phùng. Thành cổ bị triệt hạ, các đơn vị bên dưới vừa lục soát, từ từ tiến ra sát bờ sông Thạch Hãn.
Chiều hôm đó, anh em phát hiện xác hai anh lính cảm tử Nhảy Dù nằm chết bên hào nước, xác đã rã chỉ còn hai bộ xương trắng trong Quân phục Dù, dưới hai nón sắt là hai tấm thẻ bài. Họ nằm đè lên lá Quốc kỳ nhỏ cùng cỡ với lá Quốc kỳ mà Ðại Ðội 2 đã dựng sáng hôm nay. Tư thế của họ như vừa bò lên khỏi hào nước và bị quân trú phòng phát hiện bắn chết. Chào hai anh, những người lính như chúng tôi, hy sinh cho Tổ quốc và cũng cho Binh chủng mà mình phục vụ. Ngày hôm sau đơn vị Dù đến đưa xác hai anh về an nghĩ cùng đồng đội tại nghĩa trang.
Ngày lễ mừng chiến thắng và tưởng thưởng được tổ chức trọng đại ở phía sau trận tuyến, Người lính chiến đấu dọn dẹp chiến trường và lấp hố chôn xác chết trong thành cổ, vài ngày sau họ di chuyển ra trấn giữ bờ đông sông Thạch Hãn. Trung Sĩ I Thành và Hạ Sĩ Phúc được tưởng thưởng chiến sĩ xuất sắc đi Ðài Loan. Buồn vui đời lính lại tiếp nối với cuộc sống luôn cận kề sinh tử, Binh I Thâu lau sạch túi cứu thương và sắp xếp gọn gàng, anh đứng dậy móc dây đeo vào cái bao cát, đại pháo 130 nổ phía sau chùa Tỉnh Hội Quảng Trị. Thâu nhìn vào máy PRC 25 chờ đợi, môi anh khe khẽ hát :
Hãy tiến lên vì Tổ Quốc hy sinh,
Hãy vui lên vì binh chủng hy sinh.
Hãy nhanh lên vì đồng đội hy sinh.
Giang Văn Nhân
(Trích hồi ký Người Lính Tổng Trừ Bị)
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Ðây là bài viết thứ 7 trong loạt bài tìm hiểu về trận thư hùng Nam Bắc tại Quảng Trị vào mùa Hè 1972. Chúng tôi đã viết về Sư đoàn 3, về TQLC, Pháo binh, về miền Trung, về xứ Quảng, về tình yêu, đêm đen.
Nay viết về Nhẩy dù và sẽ còn tiếp theo với Biệt động quân, Không Quân, Thiết giáp Sư đoàn 1…
Riêng đoản văn này thực hiện được là nhờ thêm tài liệu của Thiếu tá Trương đăng Sỹ hiện định cư tại Úc Châu. Cách đây 37 năm ông là Đại úy Đại đội trưởng Đại đội 51 của Tiểu đoàn 5 Nhẩy dù. Ðơn vị đã trải qua nhiều cay đắng bên bức tường thành oan trái của Tiểu khu Quảng Trị.
Từ Úc Châu, Thiếu tá Sỹ đã viết những lời hết sức đau thương. Ông viết rằng : “Nhẩy dù đã đánh vào Cổ Thành như thế đó. Bằng tất cả hỏa lực và xương máu. Bằng tất cả quyết tâm của tuổi trẻ hiến dâng cho Tổ quốc. Quyết tâm dựng bằng được lá Quốc kỳ “.
Và lời than vãn 37 năm sau đã nhắc lại : “Trong lúc Thủy Quân Lục Chiến chuẩn bị làm lễ thượng kỳ, ghi dấu chiến thắng Cổ Thành Quảng Trị thì cũng có 1 người âm thầm tưởng nhớ các chiến sĩ của Đại đội 51 ”.
Như vậy thì ý nghĩa của trận dứt điểm Quảng Trị tại Cổ Thành quả thực là 1 vấn đề hết sức quan trọng. Dù muốn dù không, tinh thần thi đua sống chết với bom đạn, thi đua lập chiến công các Sư đoàn bộ binh, giữa các đơn vị Tổng trừ bị là chuyện mà lịch sử không thể bỏ qua được. Trước khi vào bắt đầu, xin hãy cùng người Đại đội trưởng năm xưa, chúng ta tưởng nhớ đến Tiểu đội Thám sát tình nguyện mang màu hoa dù mũ đỏ đã hy sinh đợt đầu tiên tại Cổ thành Ðinh công Tráng. Những cái chết oanh liệt và rất cô đơn đó sẽ được kể lại trong những đoạn sau.
Diễn tiến tin chiến sự :
Chúng tôi sẽ không viết về chi tiết của cuộc chiến. Bài viết này không phải đơn thuần dành cho các nhà Quân sự, không phải chỉ dành cho giới chiến binh. Ðây là bài viết cho mọi người, cho gia binh, cho thế hệ tương lai. Xin được thông cảm. Câu chuyện sẽ trình bầy đơn giản và bây giờ xin kể lại từ đầu.
Trong chiến tranh Việt Nam có 2 kỳ chiến sự bộc phát mãnh liệt.
Năm 1968 Tết Mậu Thân, cộng sản đánh theo kiểu nổi dậy từ bên trong. Hoa Kỳ có tham gia chiến trận với Việt Nam Cộng Hòa. Sau 50 ngày quân ta dẹp tan phe địch ở khắp nơi.
Qua đến mùa hè 1972 địch mở 3 mặt trận. Riêng quân khu I, địch tấn công trực tiếp qua giới tuyến. Trong nội tháng 4-1972 Bắc quân chiếm toàn thể lãnh thổ Quảng Trị. Bên ta rút lui từ sông Bến Hải về sông Thạch Hãn, rồi từ sông Thạch Hãn về sông Mỹ Chánh. Qua tháng 5-1972 miền Nam chỉ còn giữ được Thừa Thiên và Huế. Cuộc lui binh Quảng Trị được coi như thất bại đau thương. Các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến, Bộ binh, Biệt động quân, Pháo binh, Thiết giáp, Địa phương quân và dân chúng đều phải chạy về miền Nam.
Tháng 4-1972 cũng đã là 1 tháng tư đau thương.
Nhờ 1 Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến còn giữ vững phòng tuyến sông Mỹ Chánh. Nhờ Sư đoàn 1 Bộ binh giữ được mặt trận phía tây Thừa Thiên. Kinh thành Huế còn sống, đứng bất động đợi chờ. Cộng sản với đà chiến thắng mạnh mẽ cũng đã hết sức nên phải dừng lại chỉnh đốn binh mã.
Tháng 5-1972 là tháng miền Nam phục hồi. Tháng 6-1972 đại quân Tổng trừ bị Nhẩy Dù và Thủy quân lục chiến cùng vượt sông Mỹ Chánh để bắt đầu trận phản công. Có thiết giáp, pháo binh, Biệt động quân cùng tham dự. Rõ ràng là cuộc hành quân Bắc tiến thực sự. Không quân Việt Mỹ bao vùng, thêm hải pháo từ đệ thất hạm đội Hoa Kỳ ở biển Ðông.
Cuộc tiến quân tháng 6 của miền Nam coi như thành công. Quân sử của miền Bắc đã phê bình nội bộ cho rằng phe cộng sản đã không bám đất, giữ trận tuyến ngay từ bờ bắc sông Mỹ Chánh. Ðể đến khi miền Nam dồn địch lên phía bắc thì quá muộn. Tuy nhiên, vì nhu cầu hòa đàm, địch vẫn phải sống chết bám lấy Cổ thành Quảng Trị.
Từ Paris phe ta phe địch, cả hai bên đều theo chiến thuật đánh đánh, đàm đàm. Việt Nam Cộng Hòa, Giải phóng miền Nam, cộng sản Hà nội và Hoa kỳ đều chờ tin tức trận Quảng Trị. Ðại tá Ðỗ đức Tâm, hàng ngày chạy qua bộ tổng tham mưu nghiên cứu thật kỹ bản đồ trận liệt miền hỏa tuyến để nhật tu phòng hành quân riêng của tổng thống Nguyễn văn Thiệu tại dinh Ðôc Lập. Trên bản đồ của tổng thống có các dấu hiệu theo dỏi xuống đến cả cấp tiểu đoàn.
Trung tướng Thiệu gọi điện cho Tướng Trưởng mỗi ngày và đồng thời nhận điện từ tin tức hòa đàm Paris. Từ Hà Nội, Lê Duẩn nhấp nhỏm theo dỏi tình hình từ các cấp chỉ huy mặt trận tại Quảng Bình rồi lại chờ báo cáo của Lê đức Thọ từ Pháp. Cố vấn Mỹ từ Saigon bay ra Huế rồi đi trực thăng đến bờ sông Mỹ Chánh nói chuyện với tòa đại sứ. Ông đại sứ gọi thẳng qua Pháp cho Kissinger. Báo cáo sau cùng, nhẩy dù Việt Nam đã tiến vào thị xã Quảng Trị. Tin tức trên trang nhất của báo chí Hoa Kỳ loan báo trận chiến quyết định sắp sửa mở màn. Mục tiêu sau cùng là Cổ thành Ðinh Công Tráng. một nhu cầu chính trị. Lúc đó vào đầu tháng 7-1972, sư đoàn Thủy quân lục chiến Việt Nam với 3 lữ đoàn có chiến xa và pháo binh đã nhẹ nhàng làm chủ tình thế mặt trận phía duyên hải. Vị tân Tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến là Chuẩn tướng Bùi thế Lân.
So với Nhẩy Dù, TQLC quân số đông hơn, và từ đầu năm 72, mũ xanh tổn thất nhẹ hơn Sư đoàn mũ đỏ. Phần vụ của Sư đoàn xem chừng cay đắng hơn vì từ trục tiến quân trên Quốc Lộ bây giờ phải xoay ngang cánh mặt để giải quyết khúc xương chính của chiến trường. Thị Xã và Cổ Thành. Lúc đó Trung tướng Dư quốc Ðống, gốc Rạch giá vẫn còn giữ chức vụ Tư lệnh Nhẩy dù với 3 lữ đoàn tác chiến chuẩn bị dứt điểm mục tiêu sau cùng bên bờ sông Thạch Hãn. Một lữ đoàn giữ phòng tuyến quốc lộ và chặn địch phía Tây, vùng cận sơn. Một lữ đoàn trừ bị. Trách nhiệm tấn công giao xuống đại tá Trần quốc Lịch, lữ đoàn 2 nhận nỗ lực chính. Ðại tá Lịch quê Nam Ðịnh, một đời chinh chiến đi lên từ Trung đội trưởng. Tiểu đoàn trưởng Pháo binh nhẩy dù là Bùi Ðức Lạc, yểm trợ trực tiếp cho Lữ đoàn 2. Ðến trung tuần tháng 7 thì Nhẩy dù đã giải tỏa xong thị xã Quảng Trị, nhưng chưa tính đến tòa thành cổ. Ðịch tăng cường mạnh mẽ và rút vào cố thủ bên trong. Pháo địch bắn liên tục chung quanh phía ngoài. Bom đạn bên ta ngày đêm cầy nát bên trong. Mặc dù sư đoàn mũ đỏ tinh thần rất cao, nhưng thương vong tổn thất suốt năm qua đã quá mệt mỏi. Tạm thời dừng chân bên ngoài Cổ Thành và bàn thảo phương cách tấn công.
Buổi họp hành quân lịch sử.
Hôm đó là ngày chủ nhật 16 tháng 7 năm 1972. Tất cả các Sĩ quan chỉ huy cao cấp tham dự hành quân đều có mặt với sự chủ tọa của Trung tướng Ngô quang Trưỡng tư lệnh Quân đoàn. Chỉ thị sau cùng là thay quân. Sư đoàn Nhẩy dù bàn giao ngay mặt trận Quảng Trị cho Thủy Quân Lục Chiến để lãnh nhiệm vụ khác.
Tướng Bùi thế Lân, tân Tư lệnh của sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến có thể đã được biết nhiệm vụ mới nên không có gì thắc mắc. Phía bên Nhẩy dù, tư lệnh Dư quốc Ðống lắng nghe ý kiến của Lữ đoàn trưởng Trần quốc Lịch ghé bên tai và gật đầu đồng ý. Ðược phép vị Tư lệnh Sư đoàn, ông Lịch bầy tỏ ý kiến khi phải bàn giao nhiệm vụ. Ðại tá lữ đoàn trưởng Nhẩy dù trình bầy các giải pháp đánh vào Cổ thành và đề nghị cho phép mũ đỏ tiếp tục hoàn tất nhiệm vụ.
Tướng Ngô quang Trưởng nói rằng đây là lệnh của thượng cấp. Ai cũng hiểu rằng ông nói đến Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu. Nói xong, ông tạm lui vào phòng bên cạnh. Một lát sau, tướng Trưởng quay trở ra và cho biết : thượng cấp quyết định lui lại hơn 1 tuần sau. Ngày 27/7/1972 mặt trận Quảng Trị sẽ được bàn giao giữa sư đoàn Dù và Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Và ông nói tiếp : Thượng cấp nói rằng bên Thủy Quân Lục Chiến đã rút lui tại Quảng Trị, bây giờ phải giao trách nhiệm cho anh em lấy lại Cổ Thành. Nếu không thì về sau làm sao người ta đánh giặc. Với câu nói đó, bên Nhẩy dù không bình luận gì thêm. Sự hy sinh lớn lao sau này của trận dứt điểm Cổ Thành trong 50 ngày sau cùng đã tổn thất trên 3.000 thủy quân lục chiến. Tuy nhiên, ngay sau hội nghị quan trọng kể trên. Chỉ thị bàn giao chưa ban hành. Các đơn vị Nhẩy dù tại tiền tuyến vẫn tiếp tục đánh thêm hơn tuần lễ đẫm máu cuối cùng.
Bây giờ là lúc Lữ đoàn trưởng Trần quốc Lịch kêu Trung tá Nguyễn chí Hiếu, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 nhận trọng trách lịch sử. Cho quân tiến vào và cắm cờ trên Cổ thành Quảng Trị. Vào 1 buổi tối dừng quân, Trung tá Hiếu trịnh trọng trao tay lá cờ cho Đại úy Trương đăng Sỹ, Đại đội trưởng Đại đội 51. Với lời lẽ rất khác thường so với ngôn ngữ Nhẩy dù thường lệ. Trung tá Hiếu đã nhắn nhủ người Đại đội trưởng tin cậy của ông làm tròn sứ mạng. Nếu công tác hoàn tất, lá cờ lịch sử của Nhẩy dù không phải chỉ bay trên nền trời Cổ Thành mà bay cả trên không phận Saigon. Bay cả trên bàn hội nghị Paris.
Và bây giờ xin quý vị nghe ông Đại đội trưởng 51 kể lại chuyện 37 năm về trước đã sống chết với lá cờ ra sao.
Bức tường oan trái.
Vào những ngày tháng đó, Cổ thành Quảng Trị, với tường thành vững trãi. Tường cao, hào sâu là mục tiêu sau cùng nhưng đồng thời cũng là mồ chôn xác của hàng vạn binh sĩ hai miền Nam Bắc.
Chiến binh của Đại úy Trương văn Sỹ lúc đó là những người lính ở tuyến đầu. Xuất thân khóa 21 Võ bị Ðà Lạt, người thanh niên Cần Thơ của miền sông nước Cửu Long đã sống với mũ đỏ từ Campuchia, Hạ Lào, An lộc và giờ đây dừng bước chân chinh chiến trước Cổ thành Ðinh công Tráng. Ngay phía sau lưng ông là Tiểu đoàn phó Bùi Quyền, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn chí Hiếu rồi lên đến Lữ đoàn trưởng Trần quốc Lịch. Sau ông Lịch là Tư lệnh sư đoàn Dư quốc Ðống. Cuối cùng là ông Tư lệnh vùng Ngô quang Trưởng ngày ngày nhận lệnh trực tiếp từ Tổng thống Nguyễn văn Thiệu.
Thanh kiếm miền Nam với mủi nhọn giờ đây đã ở chân Cổ Thành nhưng đuôi kiếm nằm ở dinh Ðộc Lập Saigon. Cây trường kiếm của cuộc phản công với cả 1 hệ thống quân giai rất dài bắt đầu đâm xuống, nhưng tường thành vẫn trơ như đá tảng.
Trong một khoảng khắc, gánh nặng của quốc gia ngàn cân đè lên vai người chiến binh Đại đội trưởng ở tầng lớp dưới cùng.
Trên con đường đi đến chân Cổ Thành, đại đội 51 của Trương đăng Sỹ cùng các chiến binh Tiểu đoàn 5, các Tiểu đoàn tác chiến, Biệt kích dù, đơn vị Trinh sát đã đổ ra biết bao nhiêu mồ hôi và xương máu. Ngày nào cũng có tử sĩ và thương binh từ mặt trận chuyển về phía sau. Mỗi thước đất tiến lên đều phải trả bằng nước mắt thương vong..
Trận đánh khốc liệt xảy ra từng ngày. Trên trục tiến quân của Đại đội 51 Tiểu đoàn 5 Nhẩy dù, lính của Đại úy Trương văn Sỹ đã giải thoát cho hơn 100 đồng bào dưới hầm trú ẩn tại 1 nhà thờ.
Thành Ðinh công Tráng hình vuông mỗi chiều 1/2 cây số, tường cao 5 thước, mặt thành rộng 5 thước, và hào sâu tới cổ, rộng gần 10 thước.
Từ trong thành địch vẩn cố thủ giử vững trận địa. Phía cổ thành tiếp giáp sông Thạch Hãn, cộng sản đưa quân tiếp viện liên tục ngày đêm.
Trung tuần tháng 7 năm 1972, người Đại đội trưởng 51 Nhẩy dù trong vai trò mủi nhọn của cây trường kiếm miền Nam, đứng trước bức tường thành oan nghiệt. Nhiệm vụ sau cùng là dựng được ngọn cờ.
Trận sau cùng của Đại đội 51.
Khi đã nhìn thấy Cổ thành, Đại úy Trương đăng Sỹ cố gắng thi hành nhiệm vụ. Mười mũ đỏ tình nguyện, ông chọn ra 8 chiến binh. Nhắc đi nhắc lại là các em không phải bắt buộc. Hãy suy nghĩ thật kỹ trước khi lên đường. Nhờ bom Không quân đánh ngay vào tường thành để mở đường. Tường đổ xuống lấp hào sâu cho tiền sát vượt qua. Hạ sĩ nhất Trần Tâm làm trưởng toán. Hồ Khang là học sinh Quảng trị ngày xưa dẫn đường, chú Hậu mang máy đi với Hồ Con và Lê văn Lịch… tất cả 8 chiến binh với sứ mạng ra đi vào lúc tối trời. Ðại đội trưởng khích lệ đàn em. Những điếu thuốc lá Quân tiếp vụ chia nhau trước giờ lên đường. Anh luôn luôn ở đằng sau các em. Chuyến này về sẽ cho đi phép Sài Gòn. Phần thưởng cho nhiệm vụ sống chết mà người chỉ huy cấp dưới chỉ có thể dành cho anh em là mấy ngày phép. Hồ Khang cầm lá quốc kỳ. Máy PRC 25 trên vai chú Hậu. Ðại đội thức suốt đêm theo dõi tin tức của Tiểu đội trinh sát mở đường. Hai Đại đội của Tiểu đoàn 5 nhẩy dù sẵn sàng chờ đợi để tiến lên.
Báo cáo của Đại úy Trương đăng Sỹ. (1972) (Trích từng đoạn ngắn)
Toán quyết tử âm thầm lao mình vào đêm đen. Tôi thức theo dõi từng bước đi, thỉnh thoảng cho pháo binh bắn yểm trợ, soi sáng và chỉ hướng. Tiểu đội này phải tránh các ổ kháng cự của địch. Nửa đêm, toán quyết tử báo cáo đã tới sát bờ thành và đang tìm cách lội qua hào : “Nước sâu quá” Hậu thều thào trong máy. Tôi gọi pháo binh bắn yểm trợ tối đa vào Cổ thành và xung quanh. Ra lệnh tiền quân sẵn sàng xuất phát. Tờ mờ sáng hôm sau, bỗng nhiên tôi nghe tiếng la lớn : “Việt Nam Cộng Hòa muôn năm, Nhảy Dù muôn năm !” Nghe hiệu thính viên đứt khoảng trong máy : “Quốc Kỳ đã được dựng lên !” Liền sau đó tiếng nổ ầm vang tứ phía. Ðại liên 12 ly 8, AK47, B40. bắn xối xả vào một mục tiêu duy nhất lá Quốc Kỳ ! Sau đó lại mất liên lạc, tôi nhanh chóng ra lệnh đơn vị xuất phát và gọi pháo binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu bạn và xin thêm đạn khói bao phủ Cổ thành. Pháo binh địch cũng bắt đầu lên tiếng trả đũa.“ Mưa rơi nặng hột (Pháo địch mạnh lắm)” Nhưng cho dù mưa rơi dữ dội cách mấy, tôi cũng phải đi. Tôi phải cứu các đệ tử của tôi. Tôi hối thúc Hồ Tường, 52 : “Sắp tới rồi, còn không đầy 100m nữa thôi, nhanh lên”. Tôi và Hồ Tường song song tiến thẳng lên Cổ Thành, xin thêm lá Quốc Kỳ thứ hai. Nhưng thành dày khoảng 5m, cao 5m và được bao bọc bằng hào sâu tới cổ, rộng gần 10m. Không thể tiến quân hàng ngang, tiền quân bị khựng lại, đào hầm hố bố trí và tìm phương thức tấn công. Trên mặt thành, địch phòng thủ vững chắc trong các lô cốt, bắn xối xả vào quân ta. Ðêm hôm đó đành bám trụ cố thủ, cho thám sát mặt nước cũng như kéo xác toán cảm tử còn kẹt trong thành. Quả thật là một đêm kinh hoàng, tôi không thể nào chợp mắt, Xác đệ tử cách mình chỉ vài chục thước chưa kéo về được, bức tường thành kiên cố và hào sâu đầy chướng ngại, làm cách nào thanh toán? Một binh sĩ toán cảm tử chạy về báo cáo: Hồ Khang, Trần Tâm, Hồ Con, Hậu đã tử thương trên thành, số còn lại đều thất lạc ! Sáng hôm sau, tôi cho xử dụng hỏa tiển M72, 4 khẩu châu vào và bắn cùng một lúc với hy vọng phá nổi tường thành, nhưng bờ thành vẫn sừng sững giữa trời…
Ngày N+26, một ngày định mệnh đã xảy đến !
Tôi quyết định đánh bom theo trục Tây Bắc xuống Ðông Nam, nghĩa là đối diện với tiền quân. Một chiến thuật rất nguy hiểm cho quân bạn. Mục đích là muốn lấy gạch đất của thành để lấp hào sâu, làm bàn đạp xung phong. Chiếc khu trục đầu tiên nhào xuống, 2 quả bom rời cánh phi cơ, tất cả đều cúi sát mặt đất, nón sắt che đầu. Rồi chiếc thứ hai lao xuống, thêm 2 quả nữa nổ long trời lở đất, cát bụi tung phủ cả bầu trời. Khi ngẩng đầu lên nhìn trong đám bụi mờ, tôi vỗ vai Hồ Tường : “Thành đã bị vỡ, chuẩn bị xung phong !” Sau khi gọi pháo binh, đầu nổ chụp lẫn chạm nổ, sau đó là 20 tràng đạn khói phủ ngập mục tiêu. Tôi ra lệnh 2 Trung đội đầu bỏ balô tại chỗ, một người cầm lựu đạn, một người cấm súng vượt nhanh qua hào sâu, bám chặt vào góc Cổ Thành đã bị vỡ. Nhờ đất đổ xuống lấp mặt nước hơi cạn, lợi dụng màn khói bao phủ, nên tiền quân vượt qua tương đối dễ dàng. Khi màn khói vừa tan, địch quân bắt đầu trả đũa dữ dội. Nặng nhất là hai lô cốt ở mặt tiền và giữa sân cột cờ Tiểu khu, địch còn ngoan cố trong hầm hố bắn trả rất mạnh. Tôi tung thêm vào thành một trung đội, bung rộng đội hình vừa đào hầm hố, vừa chống cự. Phi cơ quan sát L 19 bao vùng báo cho biết địch từ phía Bắc sông Thạch Hãn tràn qua như kiến ! Tôi xin pháo binh yểm trợ, một mặt xin phi tuần tiếp tục oanh kích. Trong giờ phút dầu sôi lửa bỏng như thế, thình lình một tai họa xảy đến. Một quả đạn cối 82 ly nổ ngay hầm chỉ huy. Nói là “hầm” chứ thật ra là một ụ ẩn nấp sơ sài, ngay trước mặt đường là hào sâu vì tôi muốn dễ quan sát tiền quân. Hồ Tường máu me đầy người, 3 hiệu thính viên : một chết, hai bị thương nặng. Riêng tôi cảm thấy cánh tay trái trĩu nặng, máu đào đã thấm ướt áo trận. Tôi gọi tải thương và y tá băng bó tạm. Còn một tay vẫn xử dụng được Combiné. Lúc đó tôi đã là người say máu. Cho củng cố, phối trí lại lực lượng. Hai đại đội 51 và 52 nhập lại thành một. Ðã kéo về được 3 xác của toán quyết tử: Hồ Khang bị chặt làm 3 khúc nhận ra được vì anh đeo thẻ bài dưới chân, Hồ Con gục ngã, Lê Văn Lịch bị bắn ngay giữa đầu… số còn lại bị thất lạc.
Ra lệnh cho các trung đội trong thành củng cố hầm hố, tôi quyết định cho dựng Quốc Kỳ lần thứ hai. Cờ vàng ba sọc đỏ là mối thù không đội trời chung của Cộng sản, cho nên vừa thấy lá Cờ tung bay là chúng khai hỏa dữ dội, nặng nhất ở giữa cột cờ Tiểu khu Quảng Trị. Hai khẩu 12 ly 8 ở lô cốt mặt tiền hạ nòng bắn xối xả, B40, B41, AK47 châu thẳng vào cột cờ. Quân ta cũng chống trả quyết liệt với quyết tâm giữ vững ngọn cờ ! - Tôi gọi L19 lên bao vùng và quyết định dùng bom đánh thẳng vào cột cờ Tiểu khu. Khoảng 10 phút sau, 2 chiếc A37 bán phản lực vào vùng, bay lượn xung quanh và chờ L19 chỉ điểm. L19 bay quá cao để tránh phòng không nên khi lao xuống bắn khói chỉ điểm không được chính xác, Tôi vừa bấm máy gọi Phi Long thì chiếc A 37 đã đầu tiên lao xuống, 2 quả bom rơi xuống ngay trung đội tuyến đầu. Tôi thất thanh la lớn : “Check fire ngay lập tức!” Nhưng sát theo sau là chiếc thứ hai lao xuống, 2 quả nữa chấn động cả vùng. Tôi ra lệnh tung khói màu và gọi “check fire”. Ðã trễ rồi! “Phi cơ đã đánh lầm chúng tôi rồi !” Tôi cảm thấy lồng ngực ê ẩm, tay chân nặng trĩu. Cả một bầu trời sụp đổ.. Phân nửa của các trung đội tuyến đầu gần như tê liệt. Nhìn binh sĩ lần lượt tải thương, dìu nhau trở lại mà lòng tôi tê cứng. Sau khi báo cáo về Bộ Chỉ Huy, tôi kiểm soát lại binh sĩ, tạm bố trí chờ lệnh. Chiều hôm đó, Trung Tá Hiếu cho Thiếu Tá Bùi Quyền lên thay để tôi về dưỡng thương. Nhưng tôi biết rõ, nếu tôi về đêm nay và lỡ bị địch tấn công coi như tan rã. Tôi cần ở lại và quyết định từ chối tải thương. Thiếu tá Bùi Quyền cho biết lệnh ngày mai bàn giao Cổ Thành lại cho Thủy Quân Lục Chiến để Nhẩy dù nhận nhiệm vụ khác. Tôi không thắc mắc, vì thật ra tôi chỉ còn là một cái xác không hồn, đau thương, uất nghẹn... ( Trích đoạn báo cáo của đại đội trưởng 51, TÐ 5ND.)
Lời cuối cho một bài toán lịch sử :
Bài viết về bức tường thành oan trái lần này đã trả lời hai câu hỏi 37 năm qua chưa được giải đáp. Tại sao Nhẩy Dù lại phải bàn giao trận Cổ Thành cho Thủy Quân Lục Chiến và, trong tuần lễ cuối cùng, thực sự Nhẩy Dù đã lọt vào được Cổ Thành chưa ? Câu hỏi thứ nhất, Trung tướng Nguyễn văn Thiệu đã để lại câu trả lời. Thủy Quân Lục Chiến có trách nhiệm, nếu không để cho họ hoàn tất thì về sau làm sao đánh giặc.
Câu hỏi thứ hai được trả lời bằng bản báo cáo viết bằng máu và nước mắt của người Đại đội trưởng 51 Nhẩy dù cùng với những chiến binh mũ đỏ hy sinh trong bức tường hành oan trái, một ngày trước khi thay quân. Cựu Sinh viên Sĩ quan khóa 21 võ bị Ðà Lạt Trương đăng Sỹ mới từ Bình Long anh dũng đi ra đã mang trọng trách dựng lá cờ cho Trị Thiên vùng dậy. Sứ mạng bất thành sau khi bị thương nhẹ lại về đánh trận Barbara tại Trường Sơn. Lần này bị thương nặng về nằm bệnh viện Ðỗ Vinh, nhận lon Thiếu tá. Trong khi đó, định mệnh đưa đẩy, Đại úy Giang văn Nhân, Cựu sinh viên Ðà Lạt khóa 22, Đại đội trưởng Đại đội 2, Tiểu đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến thay thế khóa đàn anh, đem quân vào dứt điểm Cổ Thành. Lá cờ chiến thắng tung bay trong tay TQLC vào tháng 9-72 đã rũ bỏ kỷ niệm đau thương của cuộc lui binh tháng tư - 72.
Nhưng sau cùng, ba năm sau, ngày tang chung của dân tộc là tháng Tư - 75. Cả hai cựu Sinh viên Sĩ quan khóa 21 và 22 . Cả hai Đại đội trưởng Dù và Thủy Quân Lục Chiến đều có chung những ngày thương khó. Cùng đi tù tập trung cải tạo. Cùng vượt biển tìm tự do. Ngày nay, ông Trương đăng Sỹ, 67 tuổi đã về hưu, định cư tại Úc châu. Ông Giang văn Nhân trẻ trung hơn đôi chút, vẫn còn đi làm, sống với gia đình tại Texas, Hoa kỳ.
Hình ảnh của cả hai Đại đội trưởng, một Dù và một Thủy Quân Lục Chiến đều sẽ có mặt trong cuốn phim Quảng Trị như một bức thông điệp anh hùng gửi cho thế hệ tương lai.
Tháng 5-1972 là tháng miền Nam phục hồi. Tháng 6-1972 đại quân Tổng trừ bị Nhẩy Dù và Thủy quân lục chiến cùng vượt sông Mỹ Chánh để bắt đầu trận phản công. Có thiết giáp, pháo binh, Biệt động quân cùng tham dự. Rõ ràng là cuộc hành quân Bắc tiến thực sự. Không quân Việt Mỹ bao vùng, thêm hải pháo từ đệ thất hạm đội Hoa Kỳ ở biển Ðông.
Cuộc tiến quân tháng 6 của miền Nam coi như thành công. Quân sử của miền Bắc đã phê bình nội bộ cho rằng phe cộng sản đã không bám đất, giữ trận tuyến ngay từ bờ bắc sông Mỹ Chánh. Ðể đến khi miền Nam dồn địch lên phía bắc thì quá muộn. Tuy nhiên, vì nhu cầu hòa đàm, địch vẫn phải sống chết bám lấy Cổ thành Quảng Trị.
So với Nhẩy Dù, TQLC quân số đông hơn, và từ đầu năm 72, mũ xanh tổn thất nhẹ hơn Sư đoàn mũ đỏ. Phần vụ của Sư đoàn xem chừng cay đắng hơn vì từ trục tiến quân trên Quốc Lộ bây giờ phải xoay ngang cánh mặt để giải quyết khúc xương chính của chiến trường. Thị Xã và Cổ Thành. Lúc đó Trung tướng Dư quốc Ðống, gốc Rạch giá vẫn còn giữ chức vụ Tư lệnh Nhẩy dù với 3 lữ đoàn tác chiến chuẩn bị dứt điểm mục tiêu sau cùng bên bờ sông Thạch Hãn. Một lữ đoàn giữ phòng tuyến quốc lộ và chặn địch phía Tây, vùng cận sơn. Một lữ đoàn trừ bị. Trách nhiệm tấn công giao xuống đại tá Trần quốc Lịch, lữ đoàn 2 nhận nỗ lực chính. Ðại tá Lịch quê Nam Ðịnh, một đời chinh chiến đi lên từ Trung đội trưởng. Tiểu đoàn trưởng Pháo binh nhẩy dù là Bùi Ðức Lạc, yểm trợ trực tiếp cho Lữ đoàn 2. Ðến trung tuần tháng 7 thì Nhẩy dù đã giải tỏa xong thị xã Quảng Trị, nhưng chưa tính đến tòa thành cổ. Ðịch tăng cường mạnh mẽ và rút vào cố thủ bên trong. Pháo địch bắn liên tục chung quanh phía ngoài. Bom đạn bên ta ngày đêm cầy nát bên trong. Mặc dù sư đoàn mũ đỏ tinh thần rất cao, nhưng thương vong tổn thất suốt năm qua đã quá mệt mỏi. Tạm thời dừng chân bên ngoài Cổ Thành và bàn thảo phương cách tấn công.
Hôm đó là ngày chủ nhật 16 tháng 7 năm 1972. Tất cả các Sĩ quan chỉ huy cao cấp tham dự hành quân đều có mặt với sự chủ tọa của Trung tướng Ngô quang Trưỡng tư lệnh Quân đoàn. Chỉ thị sau cùng là thay quân. Sư đoàn Nhẩy dù bàn giao ngay mặt trận Quảng Trị cho Thủy Quân Lục Chiến để lãnh nhiệm vụ khác.
. . .
Tướng Bùi thế Lân, tân Tư lệnh của sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến có thể đã được biết nhiệm vụ mới nên không có gì thắc mắc. Phía bên Nhẩy dù, tư lệnh Dư quốc Ðống lắng nghe ý kiến của Lữ đoàn trưởng Trần quốc Lịch ghé bên tai và gật đầu đồng ý. Ðược phép vị Tư lệnh Sư đoàn, ông Lịch bầy tỏ ý kiến khi phải bàn giao nhiệm vụ. Ðại tá lữ đoàn trưởng Nhẩy dù trình bầy các giải pháp đánh vào Cổ thành và đề nghị cho phép mũ đỏ tiếp tục hoàn tất nhiệm vụ.
Bây giờ là lúc Lữ đoàn trưởng Trần quốc Lịch kêu Trung tá Nguyễn chí Hiếu, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 nhận trọng trách lịch sử. Cho quân tiến vào và cắm cờ trên Cổ thành Quảng Trị. Vào 1 buổi tối dừng quân, Trung tá Hiếu trịnh trọng trao tay lá cờ cho Đại úy Trương đăng Sỹ, Đại đội trưởng Đại đội 51. Với lời lẽ rất khác thường so với ngôn ngữ Nhẩy dù thường lệ. Trung tá Hiếu đã nhắn nhủ người Đại đội trưởng tin cậy của ông làm tròn sứ mạng. Nếu công tác hoàn tất, lá cờ lịch sử của Nhẩy dù không phải chỉ bay trên nền trời Cổ Thành mà bay cả trên không phận Saigon. Bay cả trên bàn hội nghị Paris.
Vào những ngày tháng đó, Cổ thành Quảng Trị, với tường thành vững trãi. Tường cao, hào sâu là mục tiêu sau cùng nhưng đồng thời cũng là mồ chôn xác của hàng vạn binh sĩ hai miền Nam Bắc.
. . .
Chiến binh của Đại úy Trương văn Sỹ lúc đó là những người lính ở tuyến đầu. Xuất thân khóa 21 Võ bị Ðà Lạt, người thanh niên Cần Thơ của miền sông nước Cửu Long đã sống với mũ đỏ từ Campuchia, Hạ Lào, An lộc và giờ đây dừng bước chân chinh chiến trước Cổ thành Ðinh công Tráng. Ngay phía sau lưng ông là Tiểu đoàn phó Bùi Quyền, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn chí Hiếu rồi lên đến Lữ đoàn trưởng Trần quốc Lịch. Sau ông Lịch là Tư lệnh sư đoàn Dư quốc Ðống. Cuối cùng là ông Tư lệnh vùng Ngô quang Trưởng ngày ngày nhận lệnh trực tiếp từ Tổng thống Nguyễn văn Thiệu. Thanh kiếm miền Nam với mủi nhọn giờ đây đã ở chân Cổ Thành nhưng đuôi kiếm nằm ở dinh Ðộc Lập Saigon. Cây trường kiếm của cuộc phản công với cả 1 hệ thống quân giai rất dài bắt đầu đâm xuống, nhưng tường thành vẫn trơ như đá tảng.
Trong một khoảng khắc, gánh nặng của quốc gia ngàn cân đè lên vai người chiến binh Đại đội trưởng ở tầng lớp dưới cùng.
. . .
Giao Chỉ, San Jose
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
không có chi cô 8, gởi lời hỏi thăm ông chú người đã từng thụ huấn tại KBC 4100 đồi Tăng Nhơn Phú
Vì mấy đứa em mới về Việt nam gần hơn 1 tuần trước nên mới có ảnh của ông khi trẻ.. Ông bị Stroke . nói o được mấy năm nay ...Có Vợ và mấy đứa con trai an ủi....
Chu choa chú còn biết ông thuộc loại khóa nào .. Đáng phục
Chắc ông cùng khoảng 18 hay 20 hình chụp thì phải
The Following 2 Users Say Thank You to florida80 For This Useful Post:
Vì mấy đứa em mới về Việt nam gần hơn 1 tuần trước nên mới có ảnh của ông khi trẻ.. Ông bị Stroke . nói o được mấy năm nay ...Có Vợ và mấy đứa con trai an ủi....
Chu choa chú còn biết ông thuộc loại khóa nào .. Đáng phục
Chắc ông cùng khoảng 18 hay 20 hình chụp thì phải
sau khóa 20 và trước khóa 1968...
vì nhìn quần áo lễ phục và alpha có gạch, các Khóa sau này bỏ cái gạch ngang...
The Following User Says Thank You to cha12 ba For This Useful Post:
Hình như cháu nghe mang máng ba nói sau đó ông lên chuẩn úy thì phải .?
và khi Việt Cộng vào . Không biết ông chú đi học tập bao lâu
Còn ba N.Y ông khai gian .. { ông cũng đi lính cấp bậc Trung sĩ } Nhưng không khai
Ông chỉ làm hành chánh cho Hải Quân
học tập 1 hai tuần gì đó . Vì ông khi còn nhỏ sống với Việt Minh .. Nên ông hiểu
Last edited by florida80; 11-27-2018 at 19:11.
The Following 2 Users Say Thank You to florida80 For This Useful Post:
Vì mấy đứa em mới về Việt nam gần hơn 1 tuần trước nên mới có ảnh của ông khi trẻ.. Ông bị Stroke . nói o được mấy năm nay ...Có Vợ và mấy đứa con trai an ủi....
Chu choa chú còn biết ông thuộc loại khóa nào .. Đáng phục
Chắc ông cùng khoảng 18 hay 20 hình chụp thì phải
Nhìn qua hình có thể đoán được phần nào: hafppy:
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Cây Cầu Biên Giới Norungi Và Đại Lộ Kinh Hoàng Quảng Trị - Mường Giang
Thứ Năm, 18 tháng Mười năm 2018 14:04
Tác Giả: Mường Giang
(Tặng Thiếu Uý Nguyễn Văn Tuế (PBC-PT) - Trung Đoàn 56/SD3BB, bị bắt làm tù binh tại Quảng Trị -1972)
Tờ mờ sáng Chúa Nhật 26-6-1950, bảy sư đoàn Bộ Binh Bắc Hàn, với quân số tổng cộng hơn 90,000 người, được yểm trợ bởi một lữ đoàn Thiết Giáp, gồm 150 chiến xa T-34 của Nga Sô và lực lượng Không Quân hùng mạnh với 135 chiếc oanh tạc cơ cùng chiến đấu cơ. Tất cả ngang ngược vượt đường ranh ngăn đôi tạm thời hai nước Triều Tiên, tại Vỹ tuyến 38 để tấn công Nam Hàn.
Hai mươi hai năm sau đó, vào giữa trưa ngày 30-3-1972, nhằm mùa lễ Phục sinh của người Thiên Chúa Giáo, cũng là ngày thứ năm của tuần Thánh Holly Thursday. Lợi dụng mọi người đang xem lễ, cầu nguyện trong những giờ phút thiêng liêng, như dịp Tết Mậu Thân 1968. Cọng sản Đệ tam quốc tế Hà Nội, mở một cuộc tấn công ác liệt nhất , trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2 (1955-1975), vào khắp lãnh thổ VNCH. Chỉ riêng mặt trận giới tuyến, Hà Nội đã xử dụng một lực lượng quân sự vô cùng hùng hậu trên 40,000 người, gồm các Sư đoàn chủ lực 304, 308, năm Trung đoàn biệt lập của B-5 là 126, 31, 246, 270, đặc công, hai Trung đoàn chiến xa mang số 203, 204 gần 400 chiếc và năm Trung đoàn Pháo Binh nặng. Tất cả đồng loạt vượt sông Bến Hải, tràn qua khu Phi Quân Sự, pháo tập và tấn công biển người vào lãnh thổ VNCH tại tỉnh Quảng Trị.
Hai trận chiến trên rất giống nhau và cũng khác nhau, giồng vì cả hai hiệp định ngưng chiến của Cao Ly và Việt Nam, đều do Liên Hiệp Quốc chủ xướng, được ký tại Postdam (7-1945) và Genève ( 20-7-1954), trong đó có Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Cộng, Bắc Hàn, Bắc Việt ký vào văn bản. Còn hai nạn nhân là Nam Hàn và Nam Việt, chỉ đứng chầu rìa lơ láo bên lề hội nghị, để nuốt máu lệ và nổi nhục nhược tiểu mà thội. Riêng Bắc Hàn và Bắc Việt đều là chư hầu của Nga-Tàu, trước sau và tới bây giờ vẫn là những đảng cọng sản quốc tế còn sót lại, cuồng tín, cuồng sát và hung hăn hiếu chiến, không thua gì Trung Cộng. Tất cả những thảm họa chiến tranh, từ mấy chục năm qua trên bán đảo Dông Dương và Triều Tiên, cũng đều do hai nước cọng sản này gây nên, qua sự chỉ đạo của đàn anh Nga-Tàu cùng khối xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên cũng có sự khác biệt, đó là ngay khi Bắc Hàn hùng hổ , lộng hành tràn qua vỹ tuyến 38, thì lập tức bị Mỹ và LHQ đánh đuổi trở lại bên kia giới tuyến. Nhưng đối với hành động ngang ngược của Bắc Việt thì lại khác, chẳng những không bị các nước đồng chủ tịch , tại hội nghi Genève 1954 phản đối , mà ngay cả tổ chức Liên Hiệp Quốc cũng im re. Còn Mỹ thì có gì để noí, khi Nixon và Kissiger đã quyết định bỏ chạy khỏi VN. Bởi vậy, Hà Nội càng hung hăng tàn bạo, táng tận lương tâm, pháo tập, trực xa, chém giết thẳng tay hàng vạn đồng bào vô tội, bị kẹt trong vùng lửa khói giao tranh, trên khắp các nẽo đường đất nước, mà kinh khiếp và tàn nhẫn nhất, chắc chắn không đâu có thể sánh nổi với đoạn đường chín cây số, từ quận Hải Lăng về Mỹ Chánh, thuộc tỉnh Quảng Trị.
Ngậm máu phun người trước dơ miêng mình, đặt chuyện chụp mũ Mỹ và quân Lực VNCH trong chiến tranh, là một sự tuyên truyền rất rẽ tiền của Bắc Việt, chẳng những từ trước năm 1975, mà sau nay các văn nô Hà Nội, đều là chuyện bình thường và xảy ra hằng ngày như cơm bửa. Bởi vậy giờ đâu còn ai tin những chuyện QLVNCH hãm hiếp, bắn giết tù binh VC, hay những chuuyện quân đội Hoa Kỳ bắn giết bừa bãi thường dân Việt tại Mỹ Lai-Quảng Ngãi hay mới đây là chuyện Mỹ gài mìn trên cầu Nogunri ở Bắc Hàn vào tháng 7-1950 , trước khi rút lui, làm thiệt mạng thường dân trên đường chạy loạn hay có thể bị Bắc Cao, xua đi đầu dọn bãi mìn, như Bắc Việt từng làm tại An Lộc, Bình Đinh, KonTum.. Nhưng dù có chạy tội cách nào chăng nữa, thì đoạn đường xương trắng máu hồng từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, cũng đã trở nên Đại Lộ Kinh Hoàng, ngàn đời muôn kiếp, trong bia miệng, bia đời và những trang sử của VN cùng Nhân Loại. Hãy đọc G.H. Turley, nguyên Đại Tá cố vấn TQLC, trong tác phẩm The Easter Offensive, thuật lại lời Thiếu Tá Mỹ tên Sheridan vốn là một nhân chứng trong đoàn quân, di tản khỏi thành phố Quảng Trị ' không ngờ tôi đã làm nhân chứng, cho một hình ảnh thãm khốc, của cuộc chiến VN. Các pháo thủ, bộ đội Bắc Việt, với lý do mà tôi không thể nào giải thích nổi, khi tập trung các loại pháo nặng , thiết giáp để trực xạ vào đòn người di tản. Khiến cho hàng ngàn người đã gục chết oan khiên, trong đó phần lớn là người già yếu, đàn bà và trẻ nít ..'Còn ký giả A.R.Isaaca thì viết 'vào tháng 6-1972, tôi theo lực lượng Nhảy Dù của VNCH trở lại tái chiếm Quảng Trị, nên được tận mắt nhìn thấy những thảm họa của đồng bào khi chạy lánh nạn trên Đại Lộ Kinh Hòang. Kéo hài hàng chục dặm trên đoạn đường bi thiết trên, toàn là những xác xe cộ, trong đó nhiều chiếc còn nguyên tử thi của các nạn nhân. Tất cả đã biến dạng sau hai tháng dầi dầu chịu đựng mưa nắng. Dù quân sĩ cố gắng chôn cất cho họ, nhưng vì quá nhiều, nên vẫn còn nhiều xác kẹt trong xe, suốt hai bên đường Quốc Lộ số 1. Nhưng diễn tả đúng mức sự tàn ác dã man có một không hai của bộ đội Bắc Việt, nhắm vào đồng bào mình , là nhà văn quân đội Phan Nhật Nam, trong tác phẩm Mùa Hè đỏ Lửa 1972 "sự chết trên 9 cây số đường này, là chín cây số trời chết, đất chết, chết trên mỗi hạt cát, chết trên đầu ngọn lá và vạn vật chết trong lòng ánh sáng, thứ ánh sáng có mùi người..". Thê thảm quá, bất lương ghê cho chiến tranh không biên giới và không còn một chút tình người.
1. Quảng Trị, miền địa đầu giới tuyến
Tỉnh Quảng Trị nằm ngay địa đầu giới tuyến ngăn đôi đất nước, bởi con sông Bến Hải. Đây là một con sông nhỏ, phát nguyên từ dãy Trường Sơn, chảy ra Đông Hải tại cửa Tùng. Tỉnh bắc giáp quận Vĩnh Linh phía bên kia giới tuyền, phía Tây giáp nước Lào, phiá Nam là tỉnh Thừa Thiên và phía Đông là biển. Trước khi xãy ra trận mùa Hè năm 1972, tỉnh Quảng Trị có diện 3966 km2, dân số 270.984 người. Sau khi kết thúc trận chiến mùa hè vào tháng 9-1972, diện tích Quảng Trị chỉ còn có 164.900 km2, với ba quận Triệu Phong, Mai Lĩnh và Hải Lăng nhưng dân số tới 202.338 người. Điều này cho thấy, Bắc Việt gây chiến tranh, chỉ chiếm được đất chứ không bao giờ thu phục được nhân tâm, bởi sự tàn ác dã man của bộ đội miền bắc, đi tới tâu, thì đồng bào đều phải bỏ của để chạy lấy mạng.
Rừng núi Trường Sơn chiếm 2/3 lãnh thổ tỉnh, chạy dài từ bắc tới nam. Tỉnh có ba con sông chính là Bến Hải, Thạch Hản, Mỹ Chánh vô tình qua sự sắp xép của lịch sử, trở thành ba con sông biên giới, trong các giai đoạn chiến tranh VN . Tỉnh còn có hai Quốc Lộ 1 và 9, cũng là hai chứng tích lịch sử , về việc đồng bào chiến nạn tỉnh Quảng Trị bị thảm sát.
Quảng Trị du nhập vào Mẹ VN , từ năm 1069 khi vua Lý Thánh Tôn, thân chinh đánh Chiêm Thành,bắt được vua Chàm là Chế Củ. Để chuộc mạng, vua dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chánh (tứ Quảng Bình và một phần Quảng Trị ngày nay ). Sau đó, vào năm 1306, Huyền Trân Công Chúa vì nước quên mình, chịu gã cho vua Chế Mân, để đem về cho Đại Việt hai châu Ô và Lý. Hai châu này sau đó được vua Trần Nhân Tông, đổi thành đất Thuận-Hóa vào năm 1307. Các quận Triệu Phong, Mai Lĩnh và Hải Lặng ngày nay là đất Hóa thời nhà Trần. Quảng Trị cũng là đất khởi nghiệp của Họ Nguyễn, khi Chúa Nguyễn Hòang được vào trấn thủ Thuận Hóa , vào tháng 10 năm Mậu Ngọ (1588). Ông lập dinh ơ tại Ái Tử, quận Triệu Phong. Vì là đất cổ của Đại Việt, nên Quảng Trị có nhiều di tích lịch sử như đền thờ Trần Nhật Duật, thành Tân Sở nơi vua Hàm Nghi xuát bôn xuống hịch Cần Vương chống Pháp vào năm 1885, Vương Cung Thánh Đường La Vang (Mai Lĩnh), cổ thành Đinh Công Tráng.
Thành cổ Đinh Cộng Tráng, được xây dựng từ năm 1823 s9ời vua Minh Mạng, thời nhà Nguyễn. Đó là thành được đắp bằng đất. Năm 1838, thành được xây lại bằng đá gạch, với chu vi 481 trượng 6 thước, cao 1 trượng, dày 3 trượng. Thành có 4 cửa, chung quanh được bao bọc bởi vòng hào , rộng 4 thước, sâu 8 thước. Trước năm 1972, thành cổ là doanh trại của sư đoàn 101 không kỵ Hoa Kỳ. Vào năm 1972, trong cổ thành có Tiểu Khu Quảng Trị và Bộ Tư Lệnh của Sư đoàn 3 bộ binh. Tóm lại đây là một công thự phòng thủ quân sự kiên cố, nhất là trung tâm hành quân của Tướng Vũ Văn Giai, Tư Lệnh SĐ3BB, cũng là Tư Lệnh chiến trường miền Giới Tuyến Quảng Trị, trong trận Mùa Hè năm 1972.
Làm như để đáp ứng cùng với chính phủ Hoa Kỳ trong các cuộc họp mật, khi quân Mỹ lần lượt rút khỏi Nam VN, cọng sản Bắc Việt cũng đóng kịch giảm quân và cường độ tấn công vùng giới tuyến, so với những năm về trước. Do trên, các cấp lãnh đạo VNCH, từ trung ương tới quân đoàn I, đã tin tưởng là Hà Nội sẽ chẳng bao giờ , có ý đồ tấn công qua sông Bến Hải. Đây chính là lý do, đã giao trọng trách phòng thủ miền Giới Tuyến, cho một sư đoàn Bộ Binh tân lập, chỉ mới hính thành được vài tháng. Đó là Sư đoàn 3 Bộ Binh, thành lập cuối năm 1971, có quân số vào khoảng 11.203 người. Trong các đơn vị cơ hửu, chỉ có Trung Đoàn 2 BB rất thiện chiến, vì là một đơn vị tác chiến lâu đời của Sư đoàn 1BB, lừng danh miền giới tuyến. Riêng hai Trung đoàn 56 và 57 tân lập, mà quân số được bổ sung, từ các lao công đào binh,, quân dịch và các đơn vị ĐPQ + NQ Vùng 1 Chiến Thuật.. Sư đoàn cũng chưa có kinh nghiệm hành quân và tác chiến cấp vùng..
Quảng Trị lúc đó, được tăng phái thêm Lữ đoàn 147 TQLC của Trung Tá Nguyễn Năng Bảo, đóng tại Mai Lộc về phía tây tỉnh, với trách nhiệm phòng thủ các căn cứ Ba Hô, Sarge, Holcomb và Phượng Hoàng. Riêng SD3BB phòng thủ vỹ tuyến, Trung đoàn 56BB, đóng trong căn cứ hỏa lực Carroll lớn nhất tỉnh, do Trung Tá Phạm văn Đính chỉ huy, trách nhiệm phòng thủ các căn cứ Fuller, Khe Gió tiếp cận với Lử đoàn 147 TQLC.. Trung đoàn 2 BB đóng tại căn cứ A-4 (Cồn Thiên) và Trung đoàn 57BB trách nhiệm căn cứ C-1 (Gio Linh), chạy tới cầu Hiền Lương trên quốc lộ 1, về tới căn cứ Ái Tử.. Phía bên kia quốc lộ tới biển, do lực lượng ĐPQ+NQ tỉnh Quảng Trị bảo vệ.
2. Trận chiến mùa Hè 1972 tại Quảng Trị
Đúng 12 giờ trưa ngày 30-3-1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh quân đội miền Bắc, khai pháo mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ, xua 40.000 quân , vượt vỹ tuyến 17, cũng là con sông Bến Hải, tấn công QLVNCH trong tỉnh Quảng Trị. Để mở đường qua sông, , pháo binh cộng sản, vói các loại đại bác nòng dài 130 ly, cũng như hỏa tiển 122 ly, từ Vĩnh Linh bên kia cầu Hiền Lương, đồng loạt bắn phá tất cả các căn cứ hỏa lực của VNCH, với mức độ tàn phá kinh khủng chưa từng có. Ngay lúc đó, cũng là thời gian hai Trung đoàn 2 và 56/SĐ3BB, đang hoán chuyển vùng, nên bị tổn thất nặng nề về nhân mạng., đồng thời làm cho tinh thần binh sĩ, nhất là Trung đoàn 56 giao động mạnh và hoảng sợ. Sau đó bộ binh, chiến xa Bắc Việt, từ bốn hướng tấn công đồng loạt, mục đích không cho QLVNCH tiếp ứng lẫn nhau, khiến cho các căn cứ hỏa lực lần lượt thất thủ, vì pháo kích và các cuộc tấn công biển người.. Tuy nhiên quân cọng sản cũng vấp phải sự chống cự mãnh liệt khắp nơi, nhất là tại các căn cứ của Lữ đoàn 147 TQLC và Trung đoàn 2BB. trấn giữ. Đại chiến long trời lỡ đất khắp nơi tại Quảng Trị, dù được khấn báo về Sài Gòn và Đà Nẳng, nhưng lúc đó dường như cả hai cấp chỉ huy quân sự cao nhất, vẫn còn chưa tìn là Hà Nội dám vượt sông Bến Hải. Chính điều này, đã làm cho bao nhiêu sinh mạng của đồng bào và người lính, chịu thương vong oan khiên , trên các con đường di tản, trước biển giặc.
Mãi tới 6 giờ chiều ngày 30-3-1972, Lử đoàn 258 TQLC và Thiết đoàn 20 chiến xa M48, được tăng cường cho SĐ3BB tại mặt trận Đông Hà.. Ngay lúc đó, SĐ308 cọng sản đang tấn công Tiểu đoàn 4 TQLC tại hai căn cứ Sarge và đỉnh núi Ba Hô. Còn SD304 thì tấn công Tiểu đoàn 8 TQLC tại căn cứ Holcomb. Thời tiết lại quá xấu, nên Không Quân không thể yểm trợ hỏa lực cho các căn cứ trên., còn hải pháo cũng chỉ yểm trợ tới các căn cứ hỏa lực ở phía đông gần biển mà thôi. Riêng các Pháo đội đại bác 105,155 kể cả 175 ly của VNCH, cũng không thể đương đầu nổi , với hàng trăm khẩu pháo nặng 130 ly của Bắc Việt.
Rồi thì căn cứ Ái Tử, nơi đặt Bộ Chỉ Huy tiền phương của SD3BB cũng bị pháo kích nặng nề. Đồng bào từ các quận Cam Lộ, Hương Hóa, Gio Linh, Đông Hà, bất kể Kinh hay Thượng, ùn ùn bỏ làng xóm, tài sản, kéo nhau chạy về thành phố Quảng Trị để trốn lánh chiến họa. Trên đường đào sanh, hằng ngàn người đã làm mồi cho đạn pháo binh và thiết giáp của bộ đội miền Bắc, gây thêm rối loạn cho các đơn vị của ta, vì vừa phải bảo vệ cho dân chúng, lại vừa chiến đấu với giặc trong cơn nguy ngập.. Đạn pháo của địch càng lúc càng dữ tợn, hung tàn, phá hết tất cả , không cần phân biệt xóm làng, dân lính, thành phố đông người. Do đó trong phút chốc, những khu đông dân như Cam Lộ, Đông Hà trở thành địa ngục trần gian đau khổ, mà không một ai, có thể ngờ tới.
Ngày 31-3, căn cứ hỏa lực của TĐ4 TQLC tại núi Ba Hô và Sarge bị tràn ngập, phải di tản vào lúc 9 giờ 40 tối, sau khi hứng chịu nhiều thương vong. Ngày 1-4, các căn cứ Đông Hà, Cam Lộ, Ái Tử bị pháo kích nặng nề nhưng cọng sản vẫn chưa chiếm được, nhờ hải pháo của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ, từ ngoài khơi Quảng Trị, bắn vào yểm trợ, trong lúc thời tiết càng xấu thêm, nên không quân không thể yểm trợ hữu hiệu. Bởi vậy lần lượt các căn cứ hỏa lực A-1, A-2, A-3, A-4 do SD3BB trấn giữ, bị tấn chiếm, còn căn cứ Fuller và Khe Gió thì di tản chiến thuật. Căn cứ Holcomb của TĐ8TQLC , bị tràn ngập lúc 12 giờ 30 khuya đểm 2-4. Tình hình chiến sự rối loạn khắp nơi, cùng lúc tình cảnh của dân chúng chạy loạn cũng vô cùng thê thảm , khiên cho các cấp chỉ huy của SĐ3BB và Tiểu Khu Quảng Trị, gần như bó tay, vì không tìm ra kế hoạch nào, để ổn định tình thế.
Rồi BTL tiền phương của SD3BB được lệnh rút về thành phố Quảng Trị. Lử đoàn 258 TQLC, được tăng cường thêm TĐ3PB/TQLC và TĐ7TQLC, lãnh thêm nhiệm vụ phòng thủ căn cứ Ái Tử. Trong lúc đó căn cứ hỏa lực Carroll của Trung đoàn 56 BB bị vây khổn nhưng không có quân tiếp viện. Trung đoàn 57 cũng được lệnh bỏ căn cứ Gio Linh, rút về bờ nam Đông Hà, bỏ lại cho giặc nhiều khẩu đại bác 155 ly.
6 giờ 30 sáng ngày 2-4-1972, bổng có tin TQLC Hoa Kỳ đã đổ bộ vào bờ biển Quảng Trị, để tiếp viện cho QLVNCH. Tin trên làm cho quân dân trong tỉnh vô cùng phấn khởi nhưng Hà Nội biết trước là tin vịt, nên càng tấn công mạnh khắp nơi. Cùng ngày TĐ3TQLC và Thiết đoàn 20 chiến xa M48, được lệnh giữ cầu Đông Hà. Trận chiến trở nên ác liệt, vì bộ đội và chiến xa cọng sản, chuẩn bị vượt cầu Đông Hà. Ngày 3-4, Trung Đoàn 2BB bị bộ đội Bắc Việt truy đuổi , khi rút về Cam Lộ, nên không kịp dùng mìn phá cầu. Tại căn cứ Carroll, do Trung Tá Phạm Văn Đính chỉ huy, gồm Trung đoàn 56BB, các pháo đội diện địa, TĐ1 Pháo Binh TQLC, tổng cộng quân số trên 2000 người, kéo cờ trắng đầu hàng quân Bắc Việt. Đây là trường hợp duy nhất, trong cuộc chiến Đông Dương lần 2. Sỡ dĩ có tình trạng tồi tệ này, vì Trung Đoàn 56 BB rất bê bối, quân số hầu hết từ sĩ quan, hạ sĩ quan tới binh sĩ, được bổ sung từ quân phạm, lao công đào binh vô kỹ luật. Tình hình đã quá nguy ngập, nên cầu Đông Hà được lệnh giật xập, chận được bước tiến của giặc trong một thời gian ngắn. Lử đoàn 369 TQLC lại được tăng cường thêm cho Quảng Trị.
Ngày 4-4, Lử đoàn 147 TQLC cũng phải bỏ luôn căn cứ Mai Lộc, vì không chịu nổi pháo kích và chiến thuật tấn công biển người. Vì quân số bị hao hụt quá nhiều, nên lử đoàn này được lệnh về Huế bổ sung và tái trang bị.. Riêng TĐ7 TQLC vì quân số còn nguyên vẹn, nên được lệnh giữ con đường huyết mạch QL số 1, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh. Như vậy về phía tây, chỉ còn có TĐ1 TQLC, trấn giữ căn cứ Phượng Hoàng, làm tiền đồn, bảo vệ thành phố mà thôi.
Do tình hình quá khẩn cấp và nguy ngập, nên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1 tăng cường thêm cho Quảng Trị nhiều đơn vị. Như vậy tính đến ngày 5-4, chiến trường này có 2 Trung đoàn Bộ Binh của SĐ3 là 2 và 57, hai Lử đoàn 258 và 369 TQLC, bốn Liên Đoàn Biệt Động Quân, hai Thiết đoàn 17 (M113) và 20 (M48), 24 Tiểu đoàn Địa Phương Quân + Nghĩa Quân và 8 Tiểu đoàn Pháo Binh. Nhưng vì lệnh chỉ huy không thống nhất, giửa Tướng Hoàng Xuân Lãm (Tư lệnh QĐ1) từ Đà Nẳng và Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai (Tư lệnh SĐ3BB) tại chiến trường, khiến cho tình thế đã không được ổn định, mà càng gây thêm rắc rối trên khắp cac mặt trận. Cuối cùng Quảng Trị đã thất thủ, chỉ sau mấy ngày bị pháo kích, đã ban lệnh di tản.
Ngày 8-4, sau mấy ngày bị tổn thất vì mưa pháo, TĐ3 TQLC phải hoán chuyển về Ái Tử và BĐQ ra thay thế giữ bờ nam Đông Hà. Tại căn cứ Phượng Hoàng, cọng sản đã thảm bại khi trực chiến với TD6 TQLC, thiệt hại hơn một trung đoàn bộ đội, 21 chiến xa T54 bị cháy, phần lớn do Không quân Việt-Mỷ oanh kích, bãi mình cùng pháo binh. Hai chiếc T54 khác bị bắt sống đem về thành phố Quảng Trị. Nhưng sau đó, TĐ6 TQLCH cũng được lệnh bỏ căn cứ Phượng Hoàng vào ngày 12-4. Một cuộc hành quân đại qui mô, do Trung tướng Hoàng Xuân Lãm chỉ Huy, mang tên Quang Trung 729, khai diễn ngày 14-4 với mục đích tái chiếm các căn cứ ở phía tây đã mất. Nhưng cùng lúc, cọng sản Bắc Việt đã mở ba cuộc tấn công lớn vào Ái Tử, Đông Hà và căn cứ Anne ở phía nam, đối diện với quận Hải Lăng. Mục đích là muốn cắt đứt con đường huyết mạch của QLVNCH, từ Quảng Trị về Huế. Để chống lại âm mưu trên, tướng Giai chia các lực lượng đang tham chiến tại đây thành 5 chiến đoàn đặc nhiệm : Trung đoàn 57 BB giữ bờ nam sông Đông Hà. Thiết đoàn 1 + 20 + 2 LD 4,5 BDQ do Đại tá chỉ huy trưởng LĐ1 TG chỉ huy, tái chiếm căn cứ Carroll. Lử đoàn 258 TQLC từ Ái Tử, tái chiếm căn cứ Mai lộc. Trung đoàn 2BB giữ mặt trận từ Ba Lòng tới bờ tây sông Thạch Hản, ngăn không cho quân Bắc Việt tấn công thành phố. Cuối cùng là Liên Đoàn I BDQ, gồm các Tiểu đoàn 21, 37 và 77, giữ con đường huyết mạch từ Quảng trị tới quận Hải Lăng. Chiến cuộc thật sự bùng nổ lớn, tất cả các cánh quân đều chạm địch và bị pháo kích nặng nề. Bởi vậy thay vì quân ta tấn công, lại bị giặc đẩy ngược về phía thành phố. Trong số này, nguy khổn nhất là cánh quân của LD5 BDQ và Thiết đoàn 20 chiến xa. Tuy nhiên tính đến ngày 18-4, các đơn vị của QLVNCH vẫn còn giữ vửng đựợc các vị trí chịu trách nhiệm.
Ngày 22-4, Lử đoàn 147 TQLC sau khi được bổ sung và tái trang bị, đuợc lệnh trở ra Quảng Trị, thay thế LĐ258 TQLC phòng thủ căn cứ Aí Tử. Trong đêm CS pháo kích làm kho tiếp liệu của SĐ3BB tại La Vang , trong đó có kho xăng dầu và cả một đoàn xe tiếp tế quân trang dụng của Bộ Chỉ Huy 1 Tiếp Vận, từ Đà Nẳng tới. Nyày 23-4, bất chấp sự thiệt hại to lớn trong những ngày đụng dộ vừa qua với QLVNCH, Không Quân và Hải Pháo của Việt-Mỹ, Cọng sản Hà Nội vẫn điên cuồng tấn công khắp nơi bằng biển người, bất chấp sinh mạng con người của cả hai phía, trong đó phần lớn là đồng bào chạy lánh nạn. Trong lúc đó gần tháng qua, người lính Miền Nam các cấp, từ TQLC, BDQ, Thiết Giáp, Bộ Binh, DPQ + NQ..ngày đêm thiếu ăn mất ngủ, chỉ đứng dưới giao thông hào , chịu pháo, chịu đạn giữa rời mưa gió. Trong luc đó khắp các nẽo đường Quảng Trị, càbg lúc càng chết chóc thê thảm , bởi cảnh pháo kích bừa bãi của cọg sản. Quảng Trị đã thật sự trở thành địa ngục trần gian thứ hai, sau địa ngục An Lộc.
Ngày 27-4, tất cả nòng súng đại pháo của quân Bắc Việt, đều tập trung vào tỉnh lỵ, căn cứ hỏa lực Ái Tử, các quận Mai Lỉnh, Hải Lăng. Trong lúc đoàn người tị nạn thay vì tâp trung tại Quảng Trị, lại ùn ùn tiếp tục bỏ chạy về Huế tị nạn, gây cảnh hổn loạn trên Quốc lộ 1. Các cánh quân cũng bắt đầu náo động vì vợ con tan tác chạy lánh nạn. Do nhiều đơn vị đã tự động di tản, làm cho Bộ Tư Lệnh SD3BB cũng là đầu nảo chiến trường, mất liên lạc với một số lớn đơn vị trực thuộc. Đúng lúc, kho đạn lớn trong căn cứ Ái Tử lại phát nổ. Ngày 28-4, trước áp lực của đích, cánh quân của LD5BDQ và TD20 rút về phía bên kia cầu Vĩnh Phước nhưng bị pháo 130 ly của Cọng sản bắn sập cầu, khiến nhiều xe M48 và đại bác 105,155 ly bỏ lại bên bờ Bắc. Cũng từ phút đó, các cánh quân còn lại của LĐ4, 5 BĐQ, LĐ1 Thiết Kỵ và Trung Đoàn 57 BB, phải lui về phòng thủ căn cứ Ái Tử và thành phố Quảng Trị. Ngy 29-4, lúc 2 giờ sáng, cọng sản tấn công Trung đoàn 2BB và Thiết đoàn 17, tại căn cứ ở phía tây thành phố, trong lúc đó về phía bờ biển, cọng sản với bộ binh có chiến xa lội nước PT76, tấn cọng các Tiểu đoàn ĐPQ + NQ của Tiểu Khu Quảng Trị. Tình trạng hổn loạn khắp nơi, khiến cho Tướng Giai phải quyết định bỏ căn cứ Ái Tử, rút hết về bờ nam sông Thạch Hản phòng thủ. Lúc đó Trung đoàn 57 BB coi như tan hàng, vì hầu hết binh sĩ đã rã ngủ , để chạy theo gia đình đang di tản về Huế. Quốc lộ số 1 đã bị cọng sản đóng chốt nhiểu đọan, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, vì Tiểu đoàn 7 TQLC bị chuyển ra phòng thủ căn cứ Ái Tử. Do đó đoạn đường huyết mạch, chì có chín cây số, bị bỏ ngỏ để quân cọng sản đóng chốt, đã trở thành con đường xương trắng máu hồng., mà bia miệng và sử liệu gọi là Đại Lộ Kinh Hoàng hay là Mồ Chôn tập thể đồng bào tỉnh Quảng Trị, trong trận chiến Mùa Hè năm 1972.
3. Rút bỏ Quảng Trị
Ngày 30-4, Tư Lệnh chiến trường kiêm Tư Lệnh SĐ3 BB là Chuẩn Tướng Vũ văn Giai, triệu tập phiên họp đặc biệt và quan trọng, để bàn kế hoạch giữ thành phố Quảng Trị và bỏ căn cứ hỏa lực Ái Tử. Do đó, trong cuộc lui quân, LĐ147 TQLC và TĐ2 Pháo Binh/TQLC , với quân số trên 2000 người, khi quân qua cầu Thạch Hản thì cầu bị xập, khiến cho một số lớn chiến xa, xe cộ, đại bác và quân trang dụng..phải bị bỏ lại phía bên kia cầu cho cọng sản. Lúc đó Lử đoàn 369 TQLC được tăng cường với nhiệm vụ , giữ mặt tây từ sông Ô Khê tới đầu cầu Mỹ Chánh, ranh giới hai tỉnh Thừa Thiên-Quảng Trị. Đồng thời phải giải tỏa Quốc lộ số 1, đoạn từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, đang bị quân cọng sản chiếm và đóng chốt., nhất là cầu sông Nhung, nằm giữa Quốc lộ 1. Tình trạng này, đã làm gián đoạn giao thông, đoàn xe di tản của dân và lính, dài hơn ba cây số. Đây là mục tiêu chính, để quân Bắc Việt , tha hồ tác xạ dữ dội và tàn nhẩn, bằng đủ loại súng lớn nhỏ, từ cá nhân, cộng đồng, đại bác tới thiết giáp. Hàng ngàn xe cộ, quân xa cũng như xe dân sự, đồng bào, lính tráng chết thảm thương trong những xác xe cháy nằm la liệt khắp đường. Chỉ những kẻ biết bơi lội, mới sống sót được khi bơi qua sông Nhung, chạy về Mỹ Chánh.
Ngày 1-5-1972, Tướng Giai tuyên bố bỏ thành phố Quảng Trị và di tản chiến thuật. Tin trên chẳng những làm mười bảy triệu dân miền Nam đau xót bùi ngùi, mà còn khiến cho toàn thể thế giới sửng sốt. Tất cả không ai tin được là tại sao tỉnh Quảng Trị, lại bị lọt vào tay giặc một cách quá dễ dàng, nếu đem so sánh với sự kinh hồn bạt vía, trời long đất lở, hoàn cảnh nguy ngập tại hai mặt trận Kon Tum và nhất là địa ngục An Lộc lúc đó, không một chiếc xe tăng hay đại pháo và bị vây khổn giữa chốn ba quân bạt ngàn, có sức mạnh chẻ tre chém đá. Theo Lê Huy Anh Vũ, Trung tá thuộc phòng điện ảnh quân đội, một nhân chứng trong ba ngày cuối cùng , tại Bộ tư lệnh SĐ3BB, đã viết tướng Giai có hứa với thuộc hạ, là sẽ cùng với họ đi bộ. Nhưng cuối cùng tướng tư lệnh đã thất hứa, đã cùng với các cố vấn Mỹ và một ít sĩ quan tham mưu thân cận, lên trực thăng bay về Huế lúc 16 giờ 40 ' cùng ngày. Cổ thành Đinh Công Tráng-Quảng Trị, một căn cứ hỏa lực và phòng thủ vững chắc gấp 100 lân thị xã An Lộc, bị bỏ ngỏ và lọt vào tay cộng sản Bắc Việt, tối ngày 2-5-1972.
Giữa lúc đó, cánh quân còn lại tại Quảng Trị, gồm Lữ đoàn 147 TQLC, Liên đoàn 1 Biệt động quân và các đơn vị của SD3BB, vừa phải bảo vệ dân chúng di tản, vừa mở đường máu, vừa đụng độ và lãnh đạn pháo kích nặng nề của giặc nhưng cuối cùng cũng đã thoát được về Huế, sau khi lãnh chịu nhiều thương vong thê thảm. Như vậy tính đến ngày 2-5-1972, tỉnh Quảng Trị coi như hoàn toàn bị Bắc Việt cưởng chiếm. Nhưng giặc từ bộ đội, chiến xa, pháo binh kể cả đặc công, đã hoàn toàn bị chặn đứng bên bờ bắc sông Mỹ Chanh, bởi Lử Đoàn 368 Thủy Quân Lục Chiến, do Đại Tá Chung chỉ huy. Nhờ Lữ đoàn này ngăn được bước tiến của quân Bắc Việt, nên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1, với vị Tư lệnh mới là Trung tứơng Ngô Quang Trướng (thay tướng Hoàng Xuân Lãm), mới có đủ thì giờ chỉnh đốn lại các đơn vị và mở cuộc tấn công tái chiếm Quảng Trị. Sau đó thành cổ Dinh Công Tráng, coi như cũng được hoàn toàn giải phóng, vào đêm 14-9-1972, khi người lính của Đại Đội 3, Tiểu đoàn3 TQLC, treo được ngọn cờ vàng ba sọc đỏ, của Quốc Dân VNCH trên kỳ đài.
Những tên bộ đội cuối cùng của Trung đoàn 48 cọng sản, lội sông trốn chạy về bờ Bắc Thạch Hản, sau 82 ngày bám trụ.
4. Nguyên nhân và hậu quả cuộc chiến 1972
Đầu năm 1972, Hoa Kỳ đang bước vào chu kỳ mới với việc tổng thống Nixon ra tranh cử nhiệm kỳ hai, trong lúc hòa đàm tại Ba Lê giữa Mỹ và Bắc Việt lại bế tắc. Cùng lúc phong trào phản chiến , do trí thức, báo chí, truyền thanh truyền hình Mỹ chủ xướng, đang dân cao, còn Quốc Hội Mỹ, dưới sự chi phối của đảng dân chủ, lần lượt cắt bỏ quyền của tổng thống Nixon, đối với sự tham chiến tại VN. Cuối cùng Mỹ rút hết nước, QLVNCH bị cắt giảm hỏa lực và quân trạng dụng. Đó là những lý do khiến Hà Nội đốt giai đoạn, vượt tuyến tấn công ào ạt vào khắp lãnh thổ VNCH vào mùa hè năm 1972.
Nhưng dù đã được Nga-Tàu quân viện và bán chịu cho một số lượng quân dụng khổng lồ, tối tân như chiến xa T54,55, PT76, đại bác 130,155 ly, súng phòng không 23,57 và hoả tiển tầm nhiệt SA 7. Đồng thời xử dụng hết số 13 sư đoàn tác chiến tại miền Bắc, quân số trên 136.400 người, bất thần mở cuộc tấn công khắp lãnh thổ VNCH.. Tuy nhiên Bắc Việt chỉ thắng lợi lúc ban , rồi thì sau đó đại bại hầu hết trên khắp cac mặt trận, cho dù Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đã xử dụng binh pháp của Liên Xô, tận dụng triệt để hỏa lực của đại pháo, xe tăng và biển người, với mục đích đè bẹp nhanh chóng QLVNCH.
Đối với Hoa Kỳ, khi nhận được tin Bắc Việt vượt Vỹ tuyến 17, qua sông Bến Hải và biên giới Lào-Miên tấn công miền Nam. Tổng thống Nixon họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, quyết định cho phép Hải Không Quân Hoa Kỳ, trở lại yểm trợ hỏa lực cho QLVNCH. Ngoài ra bộ binh không được tham dự, đồng thời cuộc rút quân Mỹ về nước vẫn tiếp tục. Do đó Mỹ bắt đầu gia tăng các lực lượng yểm trợ, chiến đấu tại VN. Hai hàng không Constellation và Kitty Hawk, trở lại tăng cường cho hai Hàng không mẫu hạm Corral Sea và Hancook, cùng một số lớn tàu tuần duyên , khu trục hạm, có mặt quanh Cửa Việt trên 20 chiếc. Về Không Quân , từ ngày 15-4-1972, phi đoàn 35 Chiến Thuật , cùng với 3 phi đoàn F4 của TQLC Mỹ, đều trở lại VN. Đồng thới tất cả B52 tại hai căn cứ Anderson Field (Guam) và Utapao (Thái Lan), gồm 38 chiếc, cũng được lệnh yểm trợ cho chiến trường VN. Ngoài ra, tổng thống Nixon còn ra lệnh vào ngày 2-5-1972, mở chiến dịch Linebacker 1, tái oanh tạc miền Bắc, nhất là tại Hà Nội - Hải Phòng. Đồng thời thả mìn và thủy lôi , phong tỏa các cửa sông, cửa biển của Bắc Việt, ngăn chận các tàu thuyền của Nga,Tàu và các nước Đông Âu, tiếp tế vũ khí đạn dược , cho cọng sản Hà Nội. Sau đó mở thêm chiến dịch Linebacker II, kéo dài trong 11 ngày đêm, từ 1812 đến 29-121972, tàn phá miền Bắc rất nặng nề, khiến cho Hà Nôi phải trở lại bàn hội nghị, tại Ba Lê với Mỹ.
Theo J.Pimlott trong tác phẩm Vietnam The Decisive Battles, thì cuối tháng 9-1972, cọng sản Bắc Việt thương vong khoảng 100.000 người. Riêng VNCH, dồng bào và lính chết chừng 50.000 người. Nhưng theo W.H Morrison trong The Elephant & The Tiger thì Cọng sản Bắc Việt chẳng những đã thất bại về quân sự, mà còn không đạt được mục tiêu chính là dành dân chiếm đất, trừ tỉnh Quảng Trị bị tạm chiếm trong lúc đầu. Tướng Võ Nguyên Giáp bại trận và danh liệt từ đó cho đến ngày nay, vì đã lầm lẫn khi hoạch địch kế hoạnh tấn công . Không biết xử dụng nhị thức 'Thiết Giáp - Bộ Binh' như các tướng lãnh VNCH lừng danh : cố Đại Tướng Đổ Cao Trí, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn và Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi. Đã đánh giá sai lầm tinh thần chiến đấu của QLVNCH, dù đã bị đánh lén cũng như bị thua thiệt về hõa lực. Sau hết là ảo tưởng rằng , khi bộ đội đếu đâu, dân miền Nam sẽ đồng khởi, lật đổ chính quyền. Nhưng mọi sự hoàn toàn trai ngược, vì cọng sản tới đâu, dân miền Nam bỏ chạy tới đó, do trên bộ đội tức giận , thẳng tay bắn giết đồng bào, mà chúng gọi là nguỵ dân.
Trong trận chiến này, VNCH có hai sư đoàn Bộ Binh bị tan hàng, đó là SĐ22 BB ở Tân Cảnh (Kon Tum) và SĐ3BB tại Quảng Trị. Nhưng sự tan hàng va cung cách hành xử của hai tư lệnh sư đoàn trên, cũng khác biệt. Tại Kontum, lúc 2 giờ sáng ngày 24-4-1972, cộng quân tràn ngập căn cứ Tân Cảnh, do SĐ22BB trấn giữ. Đại Tá Lê Đức Đạt, Tư lệnh của SĐ22BB, đã từ chối lời mời của Đại Tá cố vấn Mỹ là Kaplan, lên trực thăng cấp cứu của cố vân Mỹ tại QĐII là Paul Vann. Ông cũng không cầu cứu với Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Đoàn, chịu ở lại, để cùng chết với binh sĩ của SĐ22BB. Riêng SĐ3BB, trừ Trung đoàn 2BB, còn lại hai Trung đoàn 56 và 57, chưa đụng trận mà chỉ bị pháo kích, đã náo loạn và bỏ chạy. Riêng tướng Vũ Văn Giai, Tư Lệnh SĐ, hứa ở lại, để cùng di tản bộ với đơn vị. Nhưng rồi lại thất hứa, leo lên trực thăng , để di tản với cố vấn Mỹ lúc 16 giờ 40 phút ngày 1-5-1972, bỏ lại binh sĩ của Bộ Tư Lệnh và Đại Đội Tổng Hành Dinh của SĐ3BB, như rắn mất đầu, phải chạy theo Thiết Đoàn 18 về Huế.
Ngoài ra cũng còn rất nhiều chuyện lạ, như lúc quân Bắc Việt qua sông Bến Hải, tràn ngập và tấn công QLVNCH, thì người Mỹ lại dở trò chủ nhân, làm cho VNCH đang lúc nguy khôn lại càng tận tuyệt. Theo Turley trong The Easter Offensive, thì việc Bộ Tư Lệnh KQ Mỹ, cấm tác xạ vào vùng phi quân sự, tại miền Bắc tỉnh Quảng Trị, trong phạm vi đường kính 27 km, khi tung tin chiếc phi cơ EB66 của một Đại Tá Hoa Kỳ, bị hỏa tiển Sam, của cộng quan bắn hạ tại vùng Cam Lộ. Lệnh này được thi hành suốt 12 ngày đầu của trận chiến vùng hỏa tuyến., tạo cơ hội cho Hà Nội mở một hành lang an toàn , khi di chuyển qua vùng giới tuyến mà không bị máy bay hay pháo binh của ta oanh tạc và tác xạ. Tại căn cứ hỏa lực Ái Tử, trong lúc QLVNCH đang bị giặc vây khổn và pháo kích tơi bời, lại nhận được thông báo từ các cố vấn, rằng B52 sẽ đến thả bom san bằng, khiến cho BTL .SD3BB phải cấp tốc ban hành lệnh di tản chiến thuật. Đó là tất cả những chuyện khôi hài, cười ra nước mắt, khiến cho ai đọc tới, cũng phải chua xót và tủi hổ cho thân phận nhược tiểu VN.
Sau hết là cái tình yêu thương giữa đồng bào và người lính trận, trong cơn hoạn nạn, cũng được thể hiện một cach trọn vẹn, qua cuộc chiến 1972. Chính tại những miền đạn bom lửa máu này, những chổ không bao giớ có bóng dáng các tên nhà báo, ký giả hay nhà văn nhà thơ gì gì đó, mà chỉ có người dân cùng người lính chia nhau niềm đau khổ, đói rách và khủng hoảng tinh thần. Người quốc gia, từ công chức, cảnh sát, cán bộ cho tới các quân binh chủng của QLVNCH, ai nấy đều chấp nhận cái chết, chịu ở lại, đổi mạng mình, để đem lại sự bình an hạnh phúc cho hậu phương. Thắm thiết biết là bao, đó là sự đùm bọc đồng bào như chính bản thân mình. Nhửng khẩu phần lương khơ ít ỏi, những ngụm nước uống thiếu vệ sinh cùng với những sớt chia sự nguy hiểm quanh quanh , đều là những viên thuốc thần dược, xoa dịu và an ủi niềm đau bất hạnh của đồng bào trong lúc nguy khốn. Chẳng những thế, đối với cán binh bộ đội giặc, bị bắt làm tù binh, cũng được người lính đối xử nhân đạo với tình đồng bào, mà không hề phân biệt Nam-Bắc, dù thực chất Hà Nội luôn coi đồng bào Miền Nam là kẻ tử thù.
Trần Đức, một người lính nhẩy dù, trên đường tiến quân tái chiếm Quảng Trị, khi ngang qua Đại Lộ Kinh Hoàng, đã không cầm nổi nước mắt, giữa hàng trăm, hàng ngàn xác chết bên cạnh những chiếc xe đạp, xe gắn máy, nằm ngổn ngang, chỏng gọng, những gồng gánh, bao bọc bị đạn pháo đổ ra tung tóẹ Những chiếc xe jeep, xe thùng hồng thập tự, vết đạn xuyên lỗ chỗ. Ngọn gió Lào nóng rát mặt đẩy đưa cánh cửa xe cho thấy những xác người nằm trên băng ca, những cọng băng phất phơ chỉ còn bám vào bộ xương khô bởi mấy rẽ xương sườn. Có bộ xương em bé nằm trên bộ xương người mẹ dưới một bụi gai. Có xác khô đét như người tiền sử nằm giữa đám cỏ may bên lề đại lộ. Có xác nằm sấp, có xác nằm co như còn mong bờ đất dưới ruộng che chở cho mình thoát tầm đạn giặc. Đó đây, giữa đám xác người, rải rác những đuôi đạn súng cối 61 lý và B40 .Thì ra cộng quân đã đứng rất gần để tác xạ vào đám dân Quảng Trị chạy loạn. Họ đã bắn như bắn bia. Bắn cho chết đến người cuối cùng. Bất kể đàn ông, đàn bà. Bất kể người già hay trẻ thợ Thật là rùng rợn. Hình ảnh này trong trận tấn công "Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972" ghi sâu mãi mãi trong ký ức của những người đã chứng kiến thảm cảnh người dân Quảng Trị phải gánh chịu và tội ác chiến tranh của cọng sản Bắc Việt.
Đoạn đường mang tên "Đại Lộ Kinh Hoàng" nay không còn xác chết, không còn dấu vết của tội ác. Họ đã được thân nhân mang về mai táng ngay sau đó. Sau tháng 5- 1975, đất nước đắm chìm trong tù gông nô lệ cũa thực dân VC, vì vậy hằng năm đến ngày giỗ tập thể, hàng ngàn gia đình ở vùng quê hương Quảng Trị chỉ âm thầm thắp nén hương thơm tưởng nhớ. Không ai dám hé răng nửa lời. Có những người không còn thân nhân thì mồ hoang, mả lạnh, không chút khói hương. Nghĩ đến xót xa làm sao! Họ đã chết tức tưởi mà đến nay họ còn u uất nơi bờ cao bụi rậm, không sao siêu thoát được. Hẳn họ không sao có thể ngờ được là 30 năm sau, người đời vẫn còn nhớ thương họ. Mới đây, vào ngày 28-4 đến ngày 2-5-2002 vừa qua, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Quảng Trị đã tổ chức tại chùa Long An thuộc quận Triệu Phong đàn tràng cầu siêu cho những nạn nhân bị Cộng Sản sát hại trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 tại Quảng Trị., mặc dù chính quyền địa phương đã cho cán bộ đi từng nhà để ngăn cản, đe dọa, chặn đường, cấm cho thuê xe. Thượng tọa Thích Hải Tạng, trụ trì chùa Long An cho biết, nhân dịp này, đồng bào đã mang hàng trăm linh vị các nạn nhân của cộng sản trong Mùa Hè Đỏ Lửa đến chùa để xin được giải oan siêu thoát.
Mới đây báo đảng lại la ó lên vụ lính Mỹ thảm sát đồng bào Bắc Hàn trong chiến tranh Triều Tiên năm 1950. Báo viết lính Mỹ gài mìn hai bên cầu Nogunri, để làm chậm đà tiến quân Bắc Hàn. Sau đó vì hốt hoảng hay lý do nào khác, khiến lính Mỹ hạ sát hằng trăm người tị nạn đang trốn dưới vòm cầu. Bài viết rất mơ hồ, khi chỉ nghe mờ mịt và đang trong vòng tranh cải. Khi viết tin trên, không biết VC có khi nào sám hối về những hành động bắn giết đồng bào mình, trong cuộc chiến vừa qua và sau đó cứ tiếp tục tàn sát cho tới nay vẫn chưa dừng tay.
Bởi vậy ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình và trên hết chỉ làm trò cười cho kẻ khác mà thôi.
Mường Giang
The Following 3 Users Say Thank You to tbbt For This Useful Post:
Vì mấy đứa em mới về Việt nam gần hơn 1 tuần trước nên mới có ảnh của ông khi trẻ.. Ông bị Stroke . nói o được mấy năm nay ...Có Vợ và mấy đứa con trai an ủi....
Chu choa chú còn biết ông thuộc loại khóa nào .. Đáng phục
Chắc ông cùng khoảng 18 hay 20 hình chụp thì phải
Chú đoán ông ấy ở khoảng 18 hay 20 . Theo chú nhớ mang mang là có 22 hoặc 27 khóa . Sau năm 1968 thì được gọi khóa 1/ 68 ...2/ 68 cứ thế liên tục đến năm 75 . Mỗi khóa đều có tên riêng sau này . Khóa của chú đeo khăn vàng . khóa kiến thiết 9/73 . Dân Thủ đức đa số là Tổng động viên nhiều hơn là Tình nguyện như võ bị đà lạt . Chương trình học kém hơn đà lạt ( đa lạt học 4 năm ) gái mê nhiều hơn :haf ppy:
Mấy năm trước chú có về họp mặt khóa này Bolsa nhưng người còn người mất ( chung tiểu đoàn 4 phân chia làm 4 đại đội , lâu quá rồi cũng chẳng nhận ra ai chỉ có nhớ kỷ niệm phần nào ở lquân trường rồi đường ai nấy đi làm nhiệm vụ đời trai trong thời chinh chiến
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
Last edited by hoanglan22; 11-28-2018 at 04:41.
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Mình đóng góp và bổ xung thêm về Trường Vỏ Bị Thù Đức.
Trường chỉ đảm trách việc đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị cho toàn thể Lục Quân Việt Nam. Ngoài những khóa trên trường huấn luyện các khóa:
– Khoá hoàn hảo Sĩ quan Điạ Phương Quân
– Khoá Bổ túc Quân sự cho SQ Quân Y
– Khóa đào tạo Sĩ Quan Huấn Luyện Viên và huấn luyện quân sự hàng ngàn Sĩ Quan do các: Bộ Tư Lệnh Không Quân, Hải Quân và Cảnh Sát Quốc Gia gửi đến thụ huấn. (Năm 1969 CSQG thành lập Học Viện tại Thủ Đức cũng trên đồi Tăng Nhơn Phú, Sinh viên sĩ quan được huấn luyện căn bản quân sự tại trung tâm huấn luyện Rạch Dừa Vũng Tàu, sau khi mãn khoá gắn Alpha về Học Viện học chuyên môn, không còn thụ huấn tại trường SQTB Thủ Đức như những khoá đàn anh).
Học trình của Trường SQTB Thủ Đức kéo dài 9 tháng. Những khóa đầu điều kiện học vấn cần có bằng trung học, thời gian huấn luyện ngắn hơn. Nhưng sau nầy nhập học (động viên hay tình nguyện) thanh niên từ 18 tuổi phải có bằng Tú Tài I (trước 1974 tại miền Nam trường trung học đệ nhị cấp phải qua 2 kỳ thi Tú Tài I & II). Sau khi ra trường mang cấp Chuẩn úy, sau 18 tháng quân vụ thì thăng Thiếu úy, hai năm sau lên Trung úy. (ngoại trừ những Sĩ quan vi phạm kỷ luật bị “ký cũ“ thì khó lên cấp bậc theo quy định). Mỗi đơn vị Quân Đội có một Khu Bưu Chính (hộp thơ). viết tắt KBC, với 4 con số ghi sau chỉ danh đơn vị đó. KBC của Trường Bộ Binh là KBC 4.100 trực thuộc Quân Bưu Cục Trung Ương tại Thủ Đô Sài Gòn.
Sau Tết Mậu Thân 1968, chính phủ ban hành một sắc luật Quân Sự áp dụng vào học đường, cuối tuần học sinh đệ nhị cấp phải học căn bản về quân sự biết xử dụng vũ khí, tập bắn tại các trung tâm huấn luyện. Nên khi họ vào trường SQ trừ bị Thủ Đức đã có một phần căn bản về quân sự. Các công chức và chuyên viên kỹ thuật các ngành phải được thụ huấn quân sự xong có thể trở về nhiệm sở cũ làm việc, nếu có nhu cầu đòi hỏi của cơ quan ấy. Các giáo chức sau một vài năm trong quân ngũ đa số được trở về trường xưa tiếp tục dạy học. Ngoài những người được biệt phái đa số sĩ quan trừ bị Thủ Đức phải ở lại Quân đội mặc dù nhiệm kỳ trừ bị 4 năm đã qua, nhưng bị lưu giữ lại vì tình trạng chiến tranh.
Năm 1972 lịnh tổng động viên (sụt một tuổi) sinh viên cũng như học sinh phải lên đường nhập ngũ, có 15 khóa SQTB thụ huấn tại Nha Trang và Thủ Đức. Kể từ tháng 1-1968 đến tháng 12-1973, trong việc tiếp sức trường SQTB Thủ Đức, trường Hạ Sĩ quan Đồng Đế, Nha Trang đã đào tạo được 12.000 Sĩ quan trừ bị. Khoá 1/68 Khóa 2/68, Khóa 2/69, khóa 1/72, Khóa 6/72, Khoá 9B/72 Khóa 11/72 học tại Nha Trang. Như vậy tổng số Sĩ quan trừ bị được huấn luyện tại Thủ Đức, Nam Định, và Nha Trang trên dưới 100,000 người trong đó có những danh tướng xuất thân từ Thủ Đức chiến đấu tới ngày cuối cùng như: tướng Nguyễn Khoa Nam, Tướng Lê Văn Hưng… tuẫn tiết không đầu hàng, (còn những hèn tướng ra lệnh cho cấp dưới, binh sĩ tử thủ chiến đấu trong khi họ cùng gia đình bỏ chạy từ 27.4.1975).
Thủ Đức còn đào tạo những khoá Sĩ quan đặc biệt, giành cho Hạ sĩ quan có trình độ trung học và kinh nghiệm tác chiến, là một cơ hội tốt để họ tiến thân trong cuộc đời binh nghiệp như cố Đại tá Hồ Ngọc Cẩn.
Nhưng bạn bè, người thân trong gia tộc phần lớn được thụ huấn trong trường SQTB Thủ Đức, được học đầy đủ kỹ thuật tác chiến, công tác chỉ huy, tham mưu, tình báo, vũ khí, chiến thuật, chiến lược… Cuộc chiến đôi khi cao độ đẩm máu, nhiều người hy sinh, bạn thân của tôi trở về trong chiếc quan tài bọc kẻm, phủ cờ vàng trong chiều đông gió lạnh! Mẹ già ôm quan tài thương khóc…
Trường SQTB Thủ Đức đã đào tạo Sĩ quan trẻ tài năng và đạo đức. Những cuộc hành quân Sĩ quan chỉ huy ra lệnh binh sĩ luôn tôn trọng sinh mạng, tài sản của dân, kính trọng người già, yêu trẻ con và luôn đứng đắn với phụ nữ… đối xử nhân đạo với tù. Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín là năm đức tính người chỉ huy phải rèn luyện hàng ngày.
Cuộc đời của người trai thời loạn phải hy sinh tất cả ra chiến trường để bảo vệ cho miền Nam được tự do, mong ước chiến tranh chấm dứt để trở về mái nhà xưa. Mọi người hy vọng Hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở VN (Agre ement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam) nhưng chỉ là một giấc mơ!Sau khi Hiệp định Paris được ký kết và có giá trị kể từ ngày 27.1.1973, tất cả quân đội Đồng Minh triệt thoái khỏi miền Nam Việt Nam. Trường SQTB Thủ Đức dời về tiếp quản căn cứ của Sư Đoàn Hổ Mang Thái Lan ở Long Thành. Những cơ sở trường ốc cũ được chuyển thành Huấn Khu Thủ Đức, tập trung các Trường Huấn Luyện của tất cả các ngành lại một chỗ.
Cuộc đời của người trai thời loạn phải hy sinh tất cả ra chiến trường để bảo vệ cho miền Nam được tự do, mong ước chiến tranh chấm dứt để trở về mái nhà xưa. Mọi người hy vọng Hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở VN (Agre ement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam) nhưng chỉ là một giấc mơ!Sau khi Hiệp định Paris được ký kết và có giá trị kể từ ngày 27.1.1973, tất cả quân đội Đồng Minh triệt thoái khỏi miền Nam Việt Nam. Trường SQTB Thủ Đức dời về tiếp quản căn cứ của Sư Đoàn Hổ Mang Thái Lan ở Long Thành. Những cơ sở trường ốc cũ được chuyển thành Huấn Khu Thủ Đức, tập trung các Trường Huấn Luyện của tất cả các ngành lại một chỗ.
Trong khi đó Liên Xô, khối Cộng sản Đông Âu và Trung Cộng viện trợ tràn ngập quân sự cho Hà Nội. Bộ đội Bắc Việt được trang bị đầy đủ vũ khí, xe tăng tối tân. Bộ đội trẻ phải hy sinh rất cao “sinh Bắc tử Nam“ đánh theo chiến thuật biển người để tiến chiếm miền Nam. Tinh thần Quân Đội VNCH chiến đấu hăng say tái chiếm An Lộc, cổ thành Quảng Trị, dù bị cúp viện trợ thiếu súng đạn nhiên liệu…
Việt Nam Cộng Hòa phải tự vệ chống lại cuộc xâm lăng của CS cho đến biến cố lịch sử 30.4.1975, tan hàng rả đám, Sĩ quan, Công chức VNCH bị tập trung vào các trại cải tạo, nhiều người đã chết trong các trại tập trung ở núi rừng miền Bắc. Số còn lại may mắn sau nhiều năm trong tù đói khổ, thiếu thốn trăm bề sống sót trở về được đi theo diện H.O (Humanitarian Operation) năm 1999 đến Mỹ nhờ sự giúp đỡ, vận động tích cực của Bà Khúc Minh Thơ. Hay những người đi vượt biển được các quốc gia thuộc thế giới tự do cho định cư. Những người còn trẻ đi học tiếp tốt nghiệp đại học, những người lớn tuổi thì con cái có cơ hội làm nên sự nghiệp vẽ vang nơi xứ người, không bị kỳ thị lý lịch. Nhà cầm quyền CSVN trả thù Sĩ quan, Công chức của VNCH đã đành. Nhưng những cựu chiến binh của họ, họ cũng nhẫn tâm bóc lột, lọc lừa… nhiều người mang huân chương đầy ngực đi biểu tình, kêu gọi công lý vì bị cướp đất, cướp nhà nhưng tiếng kêu gào oan ức của họ đi vào hư không! Mình còn nhớ và sẽ nhắc lại khúc quanh lịch sử không phải để khơi dậy nỗi hận thù mà là nhắc lại nỗi thống khổ, đau buồn của cả dân tộc Việt Nam, để thế hệ con cháu của chúng ta mai sau biết được giá trị lịch sử trách nhiệm của mình với dân tộc. Chúng ta cùng đốt nén nhang lòng, tưởng niệm những người đã nằm xuống trong cuộc chiến Việt Nam và với riêng tôi có một nhiệm vu nào đó chưa hoàn thành cùng với tất cả các bạn lính của tôi....11/2018
The Following 2 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
Dáng người nhỏ, da đen sạm, 25 tuổi, độc thân, sinh tại Hà Tây, Quảng Ngãi, thuộc bộ lạc Hả, 8 tuổi lính, từ Bộ Binh qua Biệt Kích rồi Thám Kích Tiền Phong. Đó là những nét đầu tiên tôi ghi nhận nơi Đinh Đó, người toán phó Thám Kích/Lực Lực Đặc Biệt, bị Cộng quân giam giữ suốt 45 ngày nhưng đã can đảm thoát vùng tử địa và hướng dẫn oanh kích sào huyệt Cộng quân gây tổn thất nặng nề cho địch.
Trong không khí yên lặng buổi ban mai đẹp trời, nơi chiếc ghế băng ngoài sân TTHQ/Delta, tôi được Đinh Đó kể lại quãng thời gian 45 ngày chung sống với Cộng quân trong thung lũng tử thần Ashau.
Cuộc đồi thoại không mang tính cách phỏng vấn, mà là một buổi trao đổi tâm tình cởi mở.
Nhảy vào vùng tử địa.
Ashau nằm cách biên giới Lào Việt không đầy 10 cây số và cách thị trấn Huế trên 40 cây số về phía Tây.
Với địa thế núi rừng hiểm trở, mây mù bao phủ quanh năm, tiện đường chuyển vận quân và vũ khí của Cộng quân. Qua nhiều năm CSBV dùng nơi đây làm sào huyệt xuất phát những trận đánh phá nhiều tỉnh thuộc Vùng I Chiến Thuật, nơi Cộng quân cho là bất khả xâm phạm với địa thế lòng chảo, một tiền đồn và một phi trường bỏ hoang còn ghi dấu lại. Nhưng đối với các chiến sĩ Lực Lượng Đặc Biệt và BKQ thì danh từ ‘vùng tử địa’ hay ‘bất khả xâm’ cũng bị xóa bỏ. Chính nơi thung lũng tử thần này, tháng 3/68, các Chiến sĩ Tiểu Đoàn 91 Biệt Kích Dù đã phục kích phá tan đoàn xe Cộng quân gồm 8 chiếc chuyển vũ khí lương thực xâm nhập miền Nam. Đến nay trong khuôn khổ hành quân Delta vẫn còn nối tiếp, các toán Delta và Thám Kích Tiền Phong luôn được tung vào hoạt động trong vùng rừng núi tử thần này.
Trưa ngày 2/4/69, một toán Thám Kích Tiền Phong gồm : Toán Trưởng Nguyễn văn Son, Toán Phó Đinh Đó và hai toán viên Lê Văn Bang cùng Đinh Đức, được trực thăng thả bằng thang giây xuống hoạt động tại vùng thung lũng Ashau. Bốn chiến sĩ được trang bị súng AK, y phục Kaki, đi dép râu, đầu trần giống như Cộng quân. Buổi trưa bầu trời quang đãng không có những lớp mây mù giăng phủ như thường ngày, nhưng khí rừng vẫn xông lên hơi lạnh ẩm ướt. Đứng dưới hố bom. Toán trưởng mở bản đồ để xác nhận lại vị trí và ra lệnh cả toán gióng hướng Bắc 32 độ. Núi rừng âm u, tàn cây che kín chỉ để lọt xuống những khoảng nắng nhỏ, im lặng đến nỗi nghe rõ từng tiếng chim gõ mõ từ xa vọng lại và cả tiếng chân mình khua động lá rừng cùng hơi thở đồng đội. Ở đây núi đồi không cao lắm, chỉ dưới ngàn thước, nhưng đường đi chênh vênh dốc và vướng mắc nhiều rễ cây rất khó di chuyển. Mồ hôi đã thấm lưng áo, nhỏ giọt từ trán xuống, bốn người dừng nghỉ. Rừng chiều xuống, những đám mây giăng trên đầu và sương rừng bắt đầu rơi lạnh. Son ra hiệu cho các bạn tiếp tục lên đường để tìm một vị trí an toàn nghỉ đêm. Màn đêm chụp xuống thật mau, xóa nhòa cảnh vật chung quanh. Bốn người dò dẫm đi gần nhau, vì chỉ một khúc quanh, một hốc núi, một gốc cây là lạc nhau. Son đứng lại và cả toán dừng theo. - ‘Đêm nay nghỉ tạm trong hốc núi này !’.
Son ghé tai nói với Đinh Đó, anh gật đầu đồng ý và cả toán dừng theo.
Đêm rừng huyền bí lạ. Bốn bề yên lặng nghe rõ tiếng côn trùng rên rỉ dưới cỏ, sương rơi trên lá. Những con đom đóm rừng bay vật vờ ma quái. Tiếng vỗ cánh của con chim say ngủ. Khí lạnh từ trong lòng đất và hang đá toát ra khiến mọi người rùng mình vội kéo tấm áo lạnh khoác vào người. Đêm đầu tiên dựa vào nhau mà ngủ cho ấm và để dễ liên lạc. Một người ôm súng canh chừng cho ba người ngủ. Cứ thế thay phiên nhau tới khi những tia nắng đầu tiên lọt qua khe đá dội xuống. Cả bọn tiếp tục lên đường. Cứ ngày đi đêm nghỉ băng qua nhiều đồi núi. Tới ngày thứ ba, cả toán đang đi bỗng trời xám dần, rừng cây lay động mạnh. Những cơn gíó ào ào xoáy lốc giật lá cây trút xuống, những tia chớp loé lên kèm theo tiếng nổ vang động núi rừng. Cơn mưa đổ như trút nước. Bốn người nép mình vào hốc đá vẫn không tránh khỏi ướt sũng. Trận mưa dai dẳng kéo dài suốt đêm. Một đêm giấc ngủ chập chờn với những tiếng động ầm ầm của đất trời và núi rừng.
Hai lần thoát chết trong gang tấc.
Sáng ngày 5/4/69, trận mưa đêm dứt hẳn, nhưng lá cây còn ướt sũng, thỉnh thoảng rùng mình trút nước dưới những cơn gíó ào ào. Một dòng suối róc rách chảy đâu đây, cả toán tiếp tục lên đường. Đổ đồi thật vất vả, ướt và trơn tượt, phải níu vào rễ cây mà đi xuống. Đó dừng lại, chú ý đám cỏ thấp nghiêng rạp hai bên. Anh giơ tay chỉ một nhánh cây non mới bị bẻ gẫy. Dấu người vừa đi qua gần đây, anh nhìn khả nghi lùm cây phía trước, đưa mắt ra hiệu đồng bạn thận trọng. Bỗng một tràng AK từ trên đồi dội xuống, Đó lăn mình vào hốc cây, ria một băng đáp trả. Rồi từng loạt đạn từ bốn phía thi nhau nổ giòn. Địch hình như phát giác được quân số phía toán. Tiếng đạn rít lên từng hồi, tiếng hô xung phong bắt sống, phá tan bầu khí yên tĩnh ban mai núi rừng. Bốn tay súng can đảm chống trả, nhưng không thể cầm chân địch từ bốn phía tràn lên.Vài tên gục ngã, tiếng rên bi thảm.Tíếng súng dưới chân đồi thưa dần, chứng tỏ địch đã cận kề. Phải mở một đường máu liều chết để thoát ra ngoài. Son ra hiệu dồn hoả lực về phía trước để cầm chân địch. Bốn khẩu AK nổ giòn. Cả toán lăn nhanh xuống đồi như những con sóc rừng. Từng loạt đạn vút theo. Hai tiếng hét phía sau: Bang và Đức trúng đạn chúi xuống, một loạt đạn bồi theo. Toán Trưởng Son và Toán Phó Đinh Đó biết là hai toán viên đã bị hạ, nhưng không sao tiếp cứu nổi, vì những loạt đạn vẫn nối tiếp đuổi theo với tiếng hò hét phía sau. Son và Đỏ thoát xuống chân đồi, lẩn vào khu rừng kế cận. Tiếng súng xa dần…
Nắng lên cao, nhưng hai người vẫn không dám dừng chân nghỉ, vì biết địch còn bám sát phía sau.
Gói cơm chiều hôm trước còn dở hai người chia nhau vừa đi vừa ăn. Đỏ hỏi Son :
- Bây giờ tính sao ?
- Chúng ta đã mất hai, còn hai lạc hướng không thể nào tiếp tục như kế hoạch đã định trước.
Máy truyền tin mất, phải tìm một vị trí dựng ‘pano’ báo hiệu phi cơ đến tiếp cứu.
Đó chỉ ngọn núi phía trước, hai người trực chỉ. Phải lên tới dỉnh núi trước khi trời tối mới hy vọng.
Ngọn núi trông xa sườn thoai thoải, nhưng tới gần dốc đứng, lên thật vất vả, vô ý một chút là trượt chân té xuống vực. Gần 5 giờ hai người mới lên tới đỉnh. Sương mù xuống lạnh, giăng giăng trên đỉnh che khuất ánh nắng chiều. Cố lắng nghe tiếng phi cơ từ xa vọng lại, nhưng im vắng bao phủ triền miên núi rừng. Hai người tháo ba lô lấy thức ăn. Gói cơm lạnh ngắt, mùi cá hộp tanh nồng nhưng cố nuốt. Thèm một ngụm cà phê, một điếu thuốc biết chừng nào! Nhưng giữa cảnh núi rừng này, tìm đâu ra. Son giơ ‘bi đông’ nước lên uống một ngụm, dòng nước chưa kịp trôi xuống cổ họng thì anh bị một viên đạn bắn trúng đầu gục xuống. Nhanh như cắt, Đó chụp lấy khẩu AK ria một loạt về phía tên Cộng quân vùa từ dưới bò lên. Tên địch chới với lăn xuống phía dưới. Đỏ vội giựt khẩu AK trên đùi Son rồi biến mất. Anh không kịp mang ba lô theo và biến vào sương chiều đang vây phủ núi rừng. Có tiếng nói lao xao phía trên. Anh nép mình vào hốc đá và thoáng nghĩ “đây là lần thứ hai mình phải bỏ đồng đội ở lại. Thế là mất ba, chỉ còn một mình, chắc khó thoát. Nhưng dù sao cũng phải cố gắng ra khỏi vùng này ngay trong đêm nay”.
Đỏ lần mò trong bóng đêm. Một hòn đá lăn dưới chân, một con đom đóm đêm cũng đủ làm anh giật mình. Thật là một đêm kinh hoàng nhất trong đời quân ngũ. Anh đã từng xông pha nguy hiểm nhiều lần, nhưng chưa bao giờ anh phải chiến đấu đơn độc như lần này, nói đúng hơn là anh phải tự bảo vệ cho mình.
Khi tiếng chim rừng hót vang anh mới biết trời đã sáng. Anh nhớ bao đạn đã tuột mất và khẩu AK đã bắn hết viên đạn cuối cùng.Thật là vô dụng mang theo thêm nặng, anh tìm một hốc đa vùi xuống và lấp lá cây lên. Giờ thì nhẹ nhõm, nhưng mạng sống đành trao cho số mệnh. Lúc này có thể gặp bất cứ ai bạn hay thù.
Người toán phó Thám Kích cứ lầm lũi đi theo bóng mặt trời lên. Người mệt lả, bụng đói vì hết lương thực, mắt mờ đi, tay chân bủn rủn….
45 ngày sống với Cộng quân.
Buổi trưa, Đỏ dừng lại đang lấy tay vục nuớc uống từ một dòng suối chảy qua khe đá ,bỗng có tiếng quát lớn phía sau :
- Giơ tay lên !
Như một cái máy, anh quay lại từ từ đứng lên giơ tay cao. Lúc này không còn thoát được nữa. Hai người mặc Kaki vàng cầm súng AK từ sau hốc đá nhảy vọt ra. Chúng lục soát người anh thấy không tìm được gì quan trọng, liền bắt anh cởi bỏ quần áo, chỉ cho mặc chiếc quần cụt và dùng giây trói tay quặt về phía sau.
Không đầy một phút sau, một toán chừng 20 tên kéo đến. Tất cả đều ăn mặc và trang bị giống như hai tên trước. Tên mang khẩu Colt Trung Cộng - chắc là cấp chỉ huy - lên tiếng hỏi :
- Bắt được có một tên hay sao ?
- Vâng chỉ có một tên thưa đồng chí ! Tên kia đã bị bắn chết trên núi, chỉ còn tên này trốn thoát.
Nghe tên kia trả lời, Đó biết là chúng đã cho một Trung đội theo sát Son và anh trong mấy ngày nay. Tên chỉ huy hỏi anh:
- Mày là lính Biệt Kích Mỹ ?
- Không, tôi là Biệt kích Việt Nam.
- Súng đạn đâu ?
- Tôi đánh mất tất cả.
- Tên mày và chức vụ ?
- Đinh Đó, toán phó Thám Kích.
Hỏi mấy câu vắn tắt rồi hắn hất hàm ra lệnh :
- Thôi giải hắn đi !
Toán người do tên chỉ huy hướng dẫn đi trước và Đinh Đó được bốn tên áp giải theo sau. Đoàn người theo đường mòn mà đi, hình như chúng đã thông thuộc với những lối đi quanh co này. Trưa hôm đó tới một căn nhà dùng làm trạm giao liên. Đây không có người ở, chỉ dùng làm chỗ dừng chân nghỉ ngơi. Cả bọn ăn cơm và một tên mang đến cho Đó một chến cơm với ít muối. Ăn xong chúng ngồi nói chuyện một lúc rồi tiếp tục lên đường. Khi trời vừa tối tới trạm giao liên thứ hai. Trạm này có chừng một trung đội đang đóng giữ. Sau khi trao đổi vài câu cùng trưởng trạm, chúng nghỉ đêm tại đây… Cứ như thế, tiếp tục ngày đi đêm nghỉ và tiến về hướng đông. Dọc đường anh để ý cứ hai trạm bỏ trống tới một trạm có người, mỗi trạm cách nhau từ 2 tới 3 cây số. Anh được biết trong câu chuyện chúng trao đổi: Đơn vị này thuộc Tiểu Đoàn 50 CSBV và chúng đang áp giải anh về Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn.
Qua ngày thứ ba, anh dược lãnh mỗi ngày nửa lon gạo và một gói muối nhỏ, trong khi chúng lãnh mỗi người 1 lon gạo kèm 1 gói đồ ăn khô. Giờ chúng để anh thong thả hơn vì đây là vùng hoạt động của chúng.
Ban ngày anh được cởi trói, tự nấu lấy cơm dưới sự giám sát của 4 tên. Đêm đến chúng trói lại và nằm cạnh để canh giữ….
Năm ngày qua đã tới Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn của chúng. Nơi đây không một hàng chữ, không một cổng ra vào vì bốn phía đều trống trải. Năm dẫy nhà mỗi dẫy chừng 10 căn cách nhau từ 50 đến 100 mét. Nhà dựng sơ sài bằng cây, lợp lá rừng trông đã cũ. Anh thấy những người lính qua lại còn rất trẻ chừng 15,16 tới 21, 22 tuổi là nhiều. Đứa mặc quần áo, đứa cởi trần, tỏ ra rất thong thả. Có vài người chống nạng hay bó tay chân. Anh thoáng thấy có cả nữ cán bộ, nhưng không biết họ làm nhiệm vụ gì ở đây. Các cô mặc quần đen, áo nâu, chít khăn theo lối người miền Bắc. Nhưng một đặc điểm là bọn này người nào cũng gầy gò da vàng bủng. Anh đoán chừng đây là cơ sở hậu cần Trung đoàn. Những người qua lại đưa mắt tò mò nhìn anh rồi bỏ đi.
Một tên bước tới hỏi :
- Mày là lính ở đâu ?
- Lính Việt Nam Cộng Hòa.
- Đi lính có sướng không ?
- Không đến nỗi khổ cực.
- Quần áo và ăn uống thế nào ?
- Đầy đủ.
- Hút thuốc này ?
Tên cán bộ vừa nói vừa giơ điếu thuốc cuốn theo lối đồng bào Thượng thường dùng.
- Không ! Tôi hút Salem.
- Ồ khá nhỉ !
Hắn thoáng lộ nụ cười với nét mặt nham hiểm và ra lệnh :
- Đưa vào khu 1, không cho tiếp xúc với Bộ đội.
Chúng dẫn anh vào phồng số 1 trong khu đầu tiên.Trong nhà không có giường chiếu, không bàn ghế, chỉ có bóng tối tràn ngập…Anh bị giam tại đây đúng 5 ngày. Chỉ được ra ngoài giờ ăn và lo vệ sinh cá nhân, có người đi theo giám sát. Đỏ đã nghĩ đến cách trốn thoát, nhưng vì bị kiểm soát chặt chẽ và anh cũng chưa định ra vị trí nơi mình bị giam nên chưa thể quyết định được. Qua ngày thứ 6, chúng tiếp tục áp giải anh đi về hướng đông. Anh bỡ ngỡ không hiểu chúng đưa mình đi đâu…
Vào cuối tháng, cả trung đội tới trạm giao liên nằm dưới chân ngọn đồi và xa xa phía bên kia là một con sông chảy ngang qua. Trong khi dừng đợi anh đã nhận ra vị trí nơi đây. Cách một tháng trước anh đã bay qua vùng này khi Toán Thám Kích của anh ngồi trên trực thăng tìm vị trí đổ quân. Đó là dòng sông chia đôi vùng ranh giới giữa Quốc Gia và Cộng Quân, thuộc quận Đức Dục, cách thị xã An Hòa chưa đầy 20 cây số. Trong những cuộc hành quân trước đây những toán Delta và Thám Kích đã quen thuộc địa thế vùng này.
Một tia hy vọng loé trong đầu, anh phải tìm cách trốn thoát. Cần chờ thời gian thuận tiện và lúc địch sơ hở.
Đây là trạm tiếp liên, chúng chờ tiếp tế hơn 10 ngày. Vào một buổi sáng, chúng bắt anh đi vác gạo từ bờ sông về. Chắc gạo được chuyển từ vùng Quốc Gia vào đây. Được tiếp tế rồi chúng vẫn đóng lạí chờ lệnh.
Thoát vùng tử địa.
Trong những đêm nằm tại đây, Đinh Đó để ý thấy bốn tên áp giải càng ngày càng tỏ ra không lưu tâm đến anh như trước. Nhiều lúc trông coi anh qua loa và đêm đến lại nằm cách xa. Hai tuần trôi qua. Vào một đêm tối trời, sau khi một tên trói anh lại và tìm một góc tối nằm ngủ. Anh giả vờ nhắm mắt, rồi một lát sau ngáy gỗ. Về khuya, bốn bề im lặng chỉ còn nghe tiếng côn trùng và tiếng người thở đều đều. Anh mở rộng đôi mắt nhìn vào màn đêm, những bóng đen bất động. Bọn chúng đã ngủ say như chết. Đỏ khẽ cựa mình trút bỏ sợi giây buộc tay lỏng lẻo. Anh tìm một cục đá ném về tên áp giải nằm gần, không có phản ứng gì. Anh từ từ bò về phía trước rất nhẹ và nín thở. Thoát chốc anh đã lẩn vào bóng đêm tiến về phía sông. Con sông không rộng lắm nên chỉ một lúc sau anh đã sang tới bờ bên kia. Thế là yên tâm, vì bên này vào vùng kiểm soát của Quốc Gia. Xa xa có ánh lửa, anh lầm lũi về phía đó. Một ngôi nhà nhỏ có tiếng từ trong vọng ra. Có cả tiếng radio. Anh cố gắng lắng nghe những bài ca và giọng nói quen thuộc Đài Quốc Gia. Anh vững tâm gõ cửa. Tiếng bên trong hỏi vọng ra :
- Ai ngoài đó ?
- Thưa tôi.
- Tôi là ai ?
- Tôi đi lạc đường.
Tiếng dép lẹp xẹp, một người đàn ông chừng ngoài 40 ra mở cửa :
- Mời vào trong.
Ông đưa mắt nhìn bỡ ngỡ vì thấy người anh còn ướt và mặc độc nhất chiếc quần đùi. Anh vội lên tiếng :
- Thưa ông đây là đâu ?
- Vùng Quốc Gia kiểm soát.
- Có Quân đội…
- Không có lính bên kia, chỉ có Quân đội VNCH đóng thôi. Vậy anh là…?
- Thưa ông tôi là lính Cộng Hòa bị bắt, trốn thoát và đi lạc. Tôi đói ông có gì cho ăn…
- Được anh ngồi đợi đó.
Rồi ông xuống bếp lấy cơm và đồ ăn mang lên. Vì đói nên anh ăn rất ngon lành không cần khách sáo.
Anh rất cảm động về thái độ ông đối với mình :
- Chắc anh bị lính bên mặt trận bắt và tìm cách trốn ?
- Dạ vâng.
- Thế giờ anh định về đâu ?
- Tôi sẽ nhờ Chính quyền địa phương giúp trở về đơn vị ở Đức Dục, gần khu Kỹ Nghệ Nông Sơn.
- Thôi để trời sáng, tôi sẽ đưa anh lên trình diện Hội đồng xã, quận Đức Dục gần đây.
- Cám ơn ông nhiều.
Sáng sớm người đàn ông dẫn anh lên trình diện Hội đồng xã. May mắn dọc đường anh gặp một chiếc xe nhà binh, anh nhận ra ngay chiếc xe Toán Delta thường lên Quận. Xe dừng lại đưa anh về căn cứ hành quân Đức Dục.
Cấp chỉ huy và đồng đội rất ngỡ ngàng khi thấy anh trở về. Họ tưởng anh mất tích hay đã chết rồi. Đồng đội hân hoan bao quanh hỏi thăm sức khoẻ và tin tức. Anh cảm động biết bao khi gặp lại mọi người trong tình huynh đệ nồng nàn đầm ấm.
Người Chiến sĩ Thám Kích Tiền Phong ghi công đầu.
Ngay trưa hôm ấy, Đinh Đó ngồi trên trực thăng cùng Thiếu tá Chỉ huy trưởng Trung Tâm Hành Quân Delta đi thám sát khu vực địch đóng quân anh đã ghi nhận đêm trước. Căn cứ địch đóng phía bên kia sông cách làng An Hòa chưa đầy 10 cây số, nằm dưới chân một ngọn đồi. Anh đã nhận ra vị trí. Chiếc HU 1B bay lượn vòng phía trên, rồi lao xuống thấp dần. Dấu vết Cộng quân được xác nhận. Một loạt AK phía dưới vọt lên, hai khẩu đại liên từ trên phi cơ đáp trả giòn vang.
Vài tiếng sau chiều hôm ấy 18/5/69, pháo binh ta đã nã vào vùng địch hàng trăm trái đạn. Tiếp theo là những phi vụ B52 oanh kích rung chuyển núi đồi… Chắn chắn những phi vụ oanh kích và trọng pháo đã gây cho địch tổn thất nặng nề. Đó cũng là nhờ công lao của :
- Toán Phó Đinh Đó.
- Người Chiến sĩ gan dạ Thám Kích Tiền Phong, đã hai lần lọt vào tay Cộng quân (lần trước bị bắt giam 7 ngày trong cuộc hành quân Delta năm 1967, anh cũng trốn thoát)
- Một lần bị thương trong cuộc hành quân Tết Mậu Thân tại Nha Trang.
- Chính tay anh trong đời binh nghiệp đã hạ 30 tên Việt Cộng,
Nhưng anh đã san sẻ vinh dự cho đồng đội và chỉ nhận một số huy chương thật khiêm tốn gồm một Ngôi Sao Bạc - một Chiến Thương Bội Tinh, cùng một số tiền thưởng do Thiếu Tá Phan Văn Huân chỉ huy trưởng/Trung Tâm Hành Quân/Delta trao tặng trong dịp trốn thoát vừa qua.
Tôi nhìn huy hiệu anh mang trước ngực : Chiếc dù mở rộng phía trên đôi cánh chim đại bàng bạt gió, chiếc sọ người dấu tử thần cùng lưỡi lửa biểu hiệu lòng nhiệt thành quả cảm, ba tia sét tượng trưng 3 lối xâm nhập : Không - Thủy - Bộ và hàng chữ dưới cùng Thám Kích Tiên Phong.
Anh nở một nụ cười tươi trong dáng điệu còn mỏi mệt vì đang thời gian nghỉ bồi dưỡng sức khỏe.
Tôi ghi nhớ câu anh nói khi chia tay tạm biệt :
- Nghỉ ngơi sau ít ngày phép, tôi sẽ trở về cùng đồng đội tiếp tục cuộc sống như cũ.
Nghĩa là anh lại đi toán vô rừng, tiếp tục gian khổ và có thể lại bị bắt, thất lạc, mất tích hay ra đi vĩnh viễn… nhưng anh chấp nhận tất cả, vì cuộc sống của những Chiến sĩ Delta hay Thám Kích Tiền Phong Lực Lượng Đặc Biệt luôn là thế. Huy hiệu Anh và các bạn mang trên ngực áo đã nói lên lòng quả cảm và sự hy sinh của tuổi trẻ dâng hiến cho Quê Hương Tổ Quốc.
Phóng Viên Chiến Trường Đinh Quân
Dinh Văn Tiến Hùng
(*) Ghi chú thêm của tác giả Đinh Văn Tiến Hùng, bút hiệu Đinh Quân.
- Và tại nơi đây hơn 1 năm sau, trên ngọn đồi Abia đã xảy ra trận chiến ác liệt giữa Quân đội Hoa Kỳ và Cộng Sản Bắc Việt kéo dài từ 1/7 đến 23/7/70, mà người Mỹ đã gọi là Ngọn đồi Thịt Băm (Hamburger Hill )
- Năm 1987, đạo diễn John Irvin đã dựng thành phim mang cùng tên.
- Rồi mới đây, trong dịp kỷ niệm 40 năm Quốc Hận, cuốn phim Ride The Thunder đã được công chiếu rộng rãi và nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt. Phim dựa theo tác phẩm của Richard Botkin, do đạo diễn Fred Koster thực hiện, nói lên tinh thần chiến đấu can trường của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Đinh Văn Tiến Hùng
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Đặc-Khu Phú-Quốc, ngoài lực lượng Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải, còn có hai Tiểu-Đoàn Địa-Phương-Quân và một Đại-Đội Trinh-Sát.
Lực lượng Việt-Cộng trên một Tiểu-Đoàn, Bộ-Chỉ-Huy đặt tại Bắc Đảo. Khoảng hai Trung-Đội Việt-Cộng hoạt động phía Nam Dương-Đông. Áp lực địch nặng nhất là vùng Bắc Đảo, Cửa Cạn. Việt-Cộng thường pháo kích vào phi trường Dương-Đông và cố ý cô lập đồn Cửa Cạn.
Lực lượng hai bên không chênh lệch. Nhưng áp lực địch rất nặng, vì Lực-Lượng Địa-Phương-Quân của VNCH. chỉ ở thế thủ hoặc đi kích, hành quân lẻ tẻ, thiếu những cuộc hành quân quy mô.
Từ ngày nhậm chức Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải kiêm Đặc-Khu-Trưởng Đặc-Khu Phú-Quốc, Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Văn Thiện giải tán các đồn, cho quân hành quân lục soát phía ngoài, mở rộng vòng đai phòng thủ. Đại-Tá Thiện xử dụng những đơn vị Địa-Phương-Quân để hành quân trên bộ, giữ an ninh phi trường và làng xã.
Khi cuộc rút quân từ miền Trung bắt đầu, Thiếu-Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư-Lệnh Quân-Đoàn IV, chỉ định Đại-Tá Thiện đặc trách lo về vấn đề đồng bào tị nạn.
Về quân sự, Đại-Tá Thiện trực tiếp chỉ huy và báo cáo về Bộ-Tư-Lệnh Quân-Đoàn. Về hành chánh, Quốc-Vụ-Khanh Phan Quang Đán bổ nhiệm một nhân viên hành chánh cao cấp ra Phú-Quốc, giúp Đại-Tá Thiện điều hành. Đại-Tá Thiện phúc trình tình trạng dân, quân tị nạn và nhận lệnh từ Bác sĩ Phan Quang Đán và Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh, phụ tá Quốc-Vụ-Khanh đặc trách đón tiếp đồng bào di cư.
Phía Nam đảo Phú-Quốc, vùng Đất Đỏ, VNCH. đã xây một trại tù để giam giữ tù chính trị. Sau hiệp định Ba-Lê, số tù Cộng-Sản được chuyển đi, trại tù bỏ trống. Đại-Tá Thiện xử dụng những dãy nhà này với hệ thống nước ngọt từ một giếng sâu, do hãng thầu RMK (Raymond - Morrisson - Knudsen) của Mỹ đào từ lâu, với dụng cụ Y-tế và giường ngủ sẵn có, để tiếp người tị nạn.
Vấn đề tiếp tế để lo cho khối người tị nạn một phần do Hải-Quân đài thọ; phần lớn do chính phủ trung ương và cơ quan USAID Hoa-Kỳ đảm nhận.
Mỗi ngày có khoảng ba mươi chuyến bay của Air America, C123 hoặc C130 đáp xuống phi trường Dương-Đông với đầy đủ dụng cụ và thực phẩm.
Với khoảng 60.000 người tị nạn trên một diện tích nhỏ hẹp, an ninh là vấn đề phức tạp và thiết yếu. Tuy vậy, tình trạng các trại rất tốt đẹp nhờ hệ thống kiểm soát chặt chẽ và nhiều biện pháp mạnh được áp dụng. Để giải tỏa bớt tình trạng ứ đọng, Đại-Tá Thiện cấp giấy phép rời Phú-Quốc cho bất cứ ai có thân nhân trong đất liền.
Hải-Quân biệt phái một số Sĩ quan do Hải-Quân Đại-Tá Trần Văn T., Chỉ-Huy-Trưởng Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Saigon, điều động ra Phú-Quốc giúp điều hành và giải quyết những khó khăn tại các trại tỵ nạn.
Trong những Chiến hạm chuyển quân và dân ra Phú-Quốc, có một chuyện rất thương tâm xảy ra trên HQ 500.
Từ Qui-Nhơn HQ 500 đón quân và dân về Cam-Ranh. Tại Cam-Ranh HQ 500 được lệnh nhận thêm lính và dân rồi đưa ra Phú-Quốc.
Trong số dân và quân HQ 500 đưa ra Phú-Quốc có Thiếu-Úy Lê Quang Lệ Lan, trưởng nữ của Cựu Tư-Lệnh Hải-Quân Lê Quang Mỹ và một em bé được sinh ra trên Chiến hạm.
Em bé này được Thiếu-Úy Lệ Lan đón vào đời và được Hạm-Trưởng LST Cam-Ranh, Hải-Quân Trung-Tá Lê Quang Lập, đặt tên là Nguyễn-Thị-Cam-Ranh.
Vào đến Phú-Quốc, HQ 500 cặp cầu dầu. Từ cầu này muốn vào bờ phải dùng xuồng hay tàu nhỏ.
Thời gian này, đồng bào trên Chiến hạm quá đông và thiếu thốn mọi thứ. Thiếu-Úy Lệ Lan tình nguyện vào gặp Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải xin tiếp tế.
Suốt thời gian nhận và chuyển thực phẩm, vật dụng, thuốc men từ Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải ra Chiến hạm, Thiếu-Úy Lệ Lan đã tận tụy với đồng bào, nhiều khi quên ăn, quên uống.
Lần cuối cùng, sau khi chất đầy thực phẩm, hai mươi mốt nhân viên Chiến hạm và Thiếu-Úy Lệ Lan từ bờ trở lại HQ 500 bằng LCVP. Khi kéo LCVP lên, giây đứt, hai mươi mốt nhân viên bị hất xuống biển; riêng Thiếu-Úy Lệ Lan bị kẹt, chết giữa những thùng thực phẩm !
Sau đó HQ 500 về Saigon sửa chữa. Công tác sửa chữa chưa hoàn tất, HQ 500 lại được lệnh đưa khoảng vài trăm tội phạm ra Côn-Sơn.
Trên những chuyến xà-lan từ miền Trung vào Phú-Quốc, nhiều tên bất lương lấy Quân phục của vài Binh chủng thiện chiến VNCH. mặc vào rồi cướp của, giết người, xô người xuống biển, v.v...Khi những chuyến xa-lan này đến Phú-Quốc, đơn vị an ninh ở các trại tị nạn được báo cáo.
Sau khi điều tra cặn kẽ, nếu hội đủ bằng chứng, tội phạm được giải giao cho Quân-Cảnh Tư-Pháp điều tra thêm. Tin này loan ra nhanh. Một số lớn đồng bọn đi những chuyến xà-lan sau đón ghe đánh cá vào Rạch-Giá khi xà-lan còn neo ngoài khơi Phú-Quốc.
Trong số những tên thảo khấu bị bắt, có mấy tên được đồng bào nhận diện. Một Đức Cha, khi thuật lại những hành động dã man của hai tên bất lương đối với gia đình của một Đại-Tá Bộ-Binh đã không nén được phẫn nộ, hỏi Đại-Tá Thiện : “Theo sấm truyền cũ, những hành động như vậy giữa con người đối với con người, phải bị tội lăng trì. Đại-Tá biết không ?” Là một con chiên ngoan đạo, Đại-Tá Thiện lặng thinh, suy nghĩ.
Trong thời gian đa số đồng bào bất bình về thái độ trì hoản xử tội mấy tên cướp thì, ngày 19 tháng 4, Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Văn Thiện nhận được công điện từ Bộ-Tổng-Tham-Mưu: Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng-Tham-Mưu-Trưởng Quân-Lực V.N.C.H., bổ nhiệm Đai-Tá Thiện vào chức vụ Tổng-Trấn Phú-Quốc.
Với quyền hạn của một Tổng-Trấn trong thời chiến, Đại-Tá Thiện có quyền kêu án tử hình tội phạm, không cần chờ lệnh tòa án. Nhưng Đại-Tá Thiện lại liên lạc Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân xin ý kiến. Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân không hạn chế quyền hạn của Đại-Tá Thiện.
Vì áp lực của đồng bào và của Đức Cha, Đại-Tá Thiện cử ủy ban điều tra lại vụ hai tên côn đồ và mấy tên thảo khấu trên những chuyến xà-lan khác nhau. Sau khi ủy ban an ninh phúc trình bản điều tra cuối cùng, Đai-Tá Thiện ra lệnh Địa-Phương-Quân thành lập một bán tiểu đội hành quyết, xử tử những tội phạm đó.
Thời gian này, tình hình Quân sự trong Vùng tương đối yên tĩnh. Chỉ có đồn Cửa Cạn bị Việt-Cộng vây khốn suốt mấy hôm, với mục đích khuấy phá chứ không dám chiếm; vì sợ hải pháo và phi cơ oanh tạc.
Trọng trách giải tỏa đồn Cửa Cạn được giao cho Đặc-Khu-Phó (Quận-Trưởng quận An-Thới). Đại-Tá Thiện tăng phái HQ 230 bắn hải pháo yểm trợ, đồng thời biệt phái PCF chạy gần bờ để kiểm soát và yểm trợ bằng đại liên, trung liên và súng cối 81 ly. Nhiều LCM của Căn Cứ Yểm-Trợ An-Thới cũng được tăng cường để, nếu cần, sẽ đổ bộ Địa-Phương-Quân lên.
Không hiểu vì lý do gì, Đặc-Khu-Phó không thực hiện được công tác đã được hoạch định và giao phó. Đại-Tá Thiện thay đổi kế hoạch bằng cách không xử dụng chiến đỉnh mà trưng dụng mười ghe đánh cá loại lớn, tập trung ngoài khơi. Khi được lệnh của Đại-Tá Thiện, quân sẽ được chuyển xuống mười ghe đó, đưa lên các ghềnh đá phía Bắc Đảo, cách đồn Cửa Cạn khoảng hai, ba cây số, đánh thốc xuống.
Nhờ yếu tố bất ngờ, chỉ không tới một Đại-Đội Địa-Phương-Quân, với sự yểm trợ hữu hiệu của hải pháo, đã đẩy lui trên một Tiểu-Đoàn địch về những hang hóc phía Đông Bắc. Địch để lại trên một trăm xác và thương binh.
Ngoài chiến thắng tại đồn Cửa Cạn, tưởng cũng nên đề cập đến cuộc đụng độ giữa Duyên-Đoàn 44 và Khmer Đỏ, trên hòn đảo phía Bắc, trong quần đảo Poulo Dama.
Vào khoảng cuối tháng Tư, Duyên-Đoàn 44 được lệnh chiếm hai đảo Kiến-Vàng và Keo-Ngựa, trong hải phận Việt-Nam. Chỉ-Huy-Trưởng Duyên-Đoàn 44 chỉ huy một đơn vị Hải-Kích thi hành công tác này. Toán quân được chia làm hai cánh.
Cánh A thực hiện kế hoạch và chiếm đảo Keo-Ngựa một cách dễ dàng.
Cánh B đổ bộ nhầm một đảo khác, không thuộc hải phận Việt-Nam. Cánh quân B này “đụng” với lực lượng Khmer Đỏ trấn thủ đảo. Trong cuộc chạm súng, Hải-Quân Thiếu-Úy T. bị kẹt trên đảo.
Nghe báo cáo, cánh A, một mặt xin chiến hạm yểm trợ, một mặt kéo toàn lực lượng đến đảo Kiến-Vàng, tìm cách cứu vị Sĩ quan.
Lực Lượng Hải-Kích đến đảo Kiến-Vàng khoảng 5 giờ sáng. Nhưng Khmer Đỏ dùng trọng pháo 150 ly pháo kích nặng nề xuống bãi, khiến quân V.N.C.H. đến sáng vẫn không đổ bộ được.
HQ 330 đang tuần tiễu quanh vùng, được chỉ thị đến đảo Kiến-Vàng trợ chiến; nhưng HQ 330 không được phản pháo, vì hải phận đó không thuộc chủ quyền của VNCH.
Trưa, Khmer đỏ ngưng pháo kích. Thiếu-Úy T. từ bờ bơi ra Chiến hạm.
Tối 27 tháng 4, Đại-Tá Nguyễn Văn Thiện gọi tất cả chiến hạm biệt phái cho Vùng IV Duyên-Hải về An-Thới.
Sáng 28 tháng 4, chiến hạm USS Dubuque thuộc Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ đột ngột xuất hiện và neo gần An-Thới. Ít ai biết được rằng chính Erich Von Marbod có mặt trên USS Dubuque. Erich Von Marbod xử dụng USS Dubuque như một trạm viễn liên để hướng dẫn Không-Quân VNCH. bay sang Thái-Lan !
Đêm 28 tháng 4, Căn-Cứ Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải hỗn loạn vì tin Đại-Tá Thiện lấy PCF ra chiến hạm Mỹ. Tất cả chiến hạm VNCH. rời bến sau khi thông báo cho phòng hành quân.
Sáng 29 tháng 4, Đại-Tá Thiện cho tất cả Chiến hạm biết rằng Ông đã đi tuần trong đêm qua.
10 giờ sáng cùng ngày, Đại-Tá Thiện liên lạc với Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy, Tham-Mưu-Trưởng Hải-Quân, để hỏi tình hình chiến sự. Phó-Đề-Đốc Thủy bảo Đại-Tá Thiện túc trực trên máy vô tuyến, có biến chuyển nào Ông sẽ cho hay.
11 giờ sáng, Đại-Tá Thiện mất liên lạc với Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Saigon !
Ngày 30 tháng 4, lúc 10 giờ sáng, sau khi nghe lệnh đầu hàng của Tổng Thổng Dương Văn Minh, Đại-Tá Thiện họp tất cả Sĩ quan và Hạm-Trưởng tại phòng ăn Sĩ quan và cho biết ý định của Ông là sẽ ra đi. Điểm hẹn là Poulo-Panjang.
Sau cuộc họp ngắn ngủi đó, tất cả chiến hạm tách bến; chiến đỉnh cũng vội vàng ra đi. Đại-Tá Thiện và gia đình không còn phương tiện nào để rời Bộ-Chỉ-Huy Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải. Đại-Tá Thiện liên lạc vô tuyến với người bạn cùng khóa, Chỉ-Huy-Trưởng Căn-Cứ Tiếp-Vận An-Thới, nhờ giúp đỡ.
Chiếc LCM8 đưa gia đình Chỉ-Huy-Trưởng Căn-Cứ Tiếp-Vận An-Thới ghé đón Đại-Tá Thiện và gia đình Ông tại cầu tàu, trước Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải.
Sau đó, vì đã hứa đi chung với các đơn vị Hải-Quân tại Phú-Quốc, Đại-Tá Thiện sang một ghe Yabuta để đến chiến hạm. Lúc này đoàn tàu gồm :
Đại-Tá Thiện lên HQ 230. Tại đây, vì chưa biết Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Saigon đã di tản, Đại-Tá Thiện dùng hệ thống siêu tần số để liên lạc với Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Saigon, nhưng không gặp được ai cả !
Một số nhân viên trên HQ 230 nổi loạn, muốn đem Chiến hạm về. Vừa khi đó, HQ 230 đến Poulo-Panjang. Tại đảo này có khoảng hai mươi PCF của Hải-Đội 4 Duyên-Phòng. Những người muốn về, dùng PCF trở về; ai muốn đi, ở lại Chiến hạm.
Trên đường rời hải phận Việt-Nam, vì tình trạng kỹ thuật của HQ 331, đoàn tàu phải ghé Singapore. Hải-Quân Singapore, thay vì giúp sửa chữa HQ 331, lại đòi lấy HQ 331 !
Đoàn tàu rời Singapore với thêm nhiều người di tản mới nhập hạm từ Singapore. HQ 330 phải dòng HQ 331.
Trong thời gian hải hành, Thiếu-Úy Xử-Lý Thường-Vụ Hạm-Phó HQ 602 cùng một nhóm người nhập hạm từ Singapore, nổi loạn, giết chết Hạm-Trưởng, Hải-Quân Thiếu-Tá Ngô Minh Dương, rồi đem Chiến hạm trở về !
Đại-Tá Thiện có ý định - và tất cả Hạm-Trưởng cũng đồng ý - là sẽ đưa những chiến hạm này sang Úc-Đại-Lợi. Nhưng, khoảng nửa đường, nghe đài BBC và đài VOA loan báo rằng Úc-Đại-Lợi công nhận chính phủ Cộng-Sản Việt-Nam, tất cả đổi ý, đi Phi-Luật-Tân.
Trên đường hướng về Phi-Luật-Tân, một Chiến hạm Nga bám sát ba chiến hạm HQ 230, HQ 330 và HQ 331. Khi phi cơ Hoa-Kỳ xuất hiện quanh ba Chiến hạm này thì Chiến hạm Nga đổi hướng và mất dạng.
Trong chuyến di tản này, lực lượng Hải-Quân Phú-Quốc đem theo khoảng từ 50% đến 55% gia đình Hải-Quân, từ 10% đến 15% gia đình Địa-Phương-Quân và số còn lại là đồng bào.
Điệp Mỹ Linh
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Vào giữa tháng 4, ông Erich Von Marbod, phụ tá Bộ-Trưởng Quốc-Phòng (Assistant Secretary of Defense) Hoa-Kỳ cùng phụ tá của Ông là ông Richard Lee Armitage, đến Trung-Tâm Hành-Quân Hải-Quân bàn về vấn đề di tản Hải-Quân Việt-Nam. Ông Marbod và ông Armitage yêu cầu Hải-Quân soạn thảo một lệnh hành quân di tản, nhằm mục đích di tản tối đa Lực-Lượng Hải-Quân, gồm tất cả Chiến hạm, Chiến đỉnh, binh sĩ và gia đình.
Hải-Quân được yêu cầu đặt mìn phá những ụ nổi và cơ sở truyền tin của Hải-Quân. Hải-Quân từ chối, vì:
Nếu phải di tản, Hải-Quân sẽ ra đi sau cùng; vì vậy, cơ sở Truyền tin rất cần thiết cho Hải-Quân.
Phá các ụ nổi sẽ gây nhiều tiếng nổ lớn và nhiều đám cháy, khiến đồng bào càng kinh hoàng thêm, tình trạng càng rối ren thêm.
Hải-Quân Đại-Tá Đỗ Kiểm, Tham-Mưu-Phó hành quân, yêu cầu Hoa-Kỳ giúp đỡ thiết thực và nhanh chóng để binh sĩ, gia đình và Chiến cụ Hải-Quân không lọt vào tay Cộng-Sản. Ông Marbod và ông Armitage hứa sẽ lo tất cả nếu lực lượng Hải-Quân ra khỏi bờ 12 hải lý. Điểm tập trung là Côn-Sơn.
Một vấn đề đáng lưu ý là, cho đến giờ phút đó, Hải-Quân Việt-Nam, ông Marbod cũng như ông Armitage vẫn chưa nghĩ đến, hoặc đề cập đến, một giải pháp nào cho Hải-Quân sau khi Hải-Quân rời hải phận Việt-Nam.
Trong thời gian hai vị dân chính cao cấp của Hoa-Kỳ đang bàn tính kế hoạch di chuyển số lượng khổng lồ quân dụng ra khỏi Nam Việt-Nam thì, tại Xuân-Lộc, nhiều đại đơn vị Bắc quân do tướng Việt-Cộng Văn-Tiến-Dũng điều động từ Phan-Rang vào, gặp ngay sự chống cự mãnh liệt của Sư-Đoàn 18 Bộ-Binh VNCH, dưới quyền chỉ huy của Tướng Lê-Minh-Đảo.
Thấy khó phá vỡ phòng tuyến Xuân-Lộc, Tướng Văn Tiến Dũng liên lạc Trung ương Đảng, xin triển hạn ngày kéo quân vào Thủ-Đô Nam Việt-Nam. Nhưng Bộ-Chính-Trị đảng Cộng-Sản lập lại quyết định: Phải tiến chiếm Saigon trước tháng 5 để mừng sinh nhật Hồ Chí Minh, 19 tháng 5!
Ngày 17 tháng 4, trong buổi họp Sĩ quan các cấp tại Câu-lạc-bộ-nổi, Khối Hành-Quân nhấn mạnh rằng kế hoạch di tản được thi hành tốt đẹp. Tuy nhiên, tất cả phải ở lại nhiệm sở cho đến phút chót; nếu phải ra đi thì cùng đi.
Ngày 21 tháng 4, tuyến Xuân-Lộc vỡ! Thủ đô Saigon rúng động! Tiếp theo là sự từ chức của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lên thay. Những biến chuyển đó khiến Hải-Quân phải có những quyết định cấp kỳ.
Ngày 25 tháng 4, Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn cùng đi với một sĩ quan thân tín, Hải-Quân Trung-Tá Trịnh Tiến Hùng, đến cơ quan MAV (Navy Section) - trong khi Mỹ đang thiêu hủy tài liệu - để nhận mật mã liên lạc với Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ.
Thời gian này, vài Hạm-Trưởng đưa gia đình lên Chiến hạm khi chưa có lệnh khiến Thủy thủ đoàn bất mãn. Bộ-Tư-Lệnh cho điều tra. Kết quả, hai Hạm-Trưởng bị cách chức. Một trong hai vị đó là Hạm-Trưởng HQ 800.
Cùng ngày, Hải-Quân Đại-Tá Bùi Kim Nguyệt, Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Quân Biệt-Khu Thủ-Đô, chỉ thị Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Kim Khánh tiếp nhận các kho xăng tại Nhà-Bè; vì tất cả giám đốc đã bỏ đi.
Lúc này, Liên-Đoàn 33 tại Nhà-Bè, do Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Kim Khánh chỉ huy, gồm các đơn vị:
Nhiệm vụ và vùng hoạt động của Liên-Đoàn 33 là tuần tiễu, giữ an ninh các thủy lộ quan trọng như sông Lòng Tàu, sông Soài Rạp và quanh Saigon. Ở phần vụ này, suốt thời gian di tản, những đơn vị kể trên đã tịch thu vũ khí và rượu mạnh trên các thương thuyền từ miền Trung vào.
Ngày 26 tháng 4, Hải-Quân Trung-Tá Dương Hồng Võ được chỉ định làm Hạm-Trưởng HQ 800. Lúc này Hạm-Phó HQ 800 cũng vắng mặt bất hợp pháp. Trung-Tá Võ chỉ định một Đại-Úy tạm thời thay thế Hạm-Phó.
HQ 800 là loại LST lớn hơn và mới hơn các loại LST 500. HQ 800 được trang bị ba giàn “bô-pho” 40 ly đôi bắn tự động và nhiều súng phòng không, chưa kể một số 20 ly. HQ 800 dự trữ 200 ngàn lít xăng máy bay (JP4) và có chỗ đáp an toàn cho hai trực thăng.
Với dự định sẽ đưa bộ chỉ huy xuống HQ 800 để chỉ huy và điều động phản công lại Việt-Cộng, nếu trường hợp Saigon bị tấn công, Tư-Lệnh Hải-Quân ra lệnh bổ sung nhân viên và trang bị HQ 800 một trăm phần trăm. HQ 800 neo tại Nhà-Bè và chỉ nhận lệnh trực tiếp từ Tư-Lệnh Hải-Quân và Tổng-Tham-Mưu-Trưởng chứ không trực thuộc Hạm-Đội.
Lúc này HQ 403 - sau nhiều chuyến chuyển quân và dân từ Phan-Thiết về Vũng-Tàu - được lệnh trở về Saigon.
Sáng 27 tháng 4, trong khi Việt-Cộng tấn công cầu Tân-Cảng, đốt kho hàng PX của Mỹ và đặt súng máy bắn bừa vào dòng người tỵ nạn đang kéo về Saigon thì, tại phi trường Biên-Hòa, ông Richard Armitage đang vận dụng tất cả mọi phương tiện để di chuyển chiến cụ và nhân viên Việt-Nam ra khỏi tầm đạn của Việt-Cộng.
Trưa cùng ngày, ông Armitage từ Biên-Hòa về Saigon bằng trực thăng. Sau đó ông Armitage cùng ông Erich Von Marbod đến Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân. Hai Ông hối thúc Hải-Quân ra đi. Ông Armitage còn lo ngại rằng có thể chính phủ Dương Văn Minh sẽ giữ những Sĩ quan cao cấp Hải-Quân để buộc Hải-Quân phải ở lại.
Chiều 27 tháng 4, tại tư dinh của Đại Tướng Minh, số 3 Trần-Quý-Cáp Saigon, trong phiên hội của Nội Các đang được thành lập, Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, Tư-Lệnh Hải-Quân, tiếp xúc riêng với Tướng Minh để bàn luận về tình hình quân sự. Tướng Minh cho Phó-Đô-Đốc Cang biết tình hình vẫn chưa biến chuyển gì cả, vì “bên kia” chưa chấp nhận tiếp xúc với VNCH Phó-Đô-Đốc Cang đề nghị Tướng Minh nên chuyển Nội Các về Cần-Thơ, bỏ ngõ Saigon và ra lệnh tất cả đại đơn vị rút về Vùng IV Chiến-Thuật; vì hiện tại Tướng Minh không có tư thế nào để thương thuyết. Lực-Lượng Hải-Quân còn nguyên vẹn, Phó-Đô-Đốc Cang sẽ tận dụng tất cả Lực-Lượng Hải-Quân để chận sông Tiền-Giang và Hậu-Giang. Tướng Minh im lặng, không có một quyết định nào cả.
Ngày 28 tháng 4, Phó-Đề-Đốc Đinh Mạnh Hùng cùng ông Richard Armitage bay thám sát tình hình phía Bắc Saigon.
Tình hình lúc này bi đát vô cùng, vì nhiều đơn vị đã rã ngũ, theo đoàn dân di tản, tràn về Saigon bằng đường bộ. Đến cầu Bình-Lợi, thấy một Giang-Đoàn vẫn còn tuần tiễu trong vùng trách nhiệm, Phó-Đề-Đốc Hùng ra lệnh cho Giang-Đoàn đó rút về hậu cứ.
Căn-Cứ Hải-Quân Long-Bình đang chuẩn bị “đón nhận” một cuộc tấn công quy mô của Bắc Quân. Dấu tích cuộc đột kích sáng nay của địch vào Căn-Cứ là xác của tên cảm tử Việt-Cộng còn nằm tênh hênh ngay cổng ra vào.
Sau khi thị sát, Phó-Đề-Đốc Hùng cùng ông Armitage trở về Saigon bằng xe Jeep. Và ông Armitage tường trình những sự việc đã thấy cho ông Van Marbod.
Cũng thời điểm này, tại Bộ-Tư-Lệnh Hạm-Đội, Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn triệu tập một phiên họp gồm hầu hết Hạm-Trưởng để thông báo hạn chế về việc Hải-Quân sẽ tạm trú tại Côn-Sơn, chờ một biến chuyển thuận lợi sẽ quay vào chiến đấu. Đại-Tá Sơn chỉ thị tất cả Hạm-Trưởng mang theo đầy đủ gạo và lương khô, càng nhiều trứng vịt và cá khô càng tốt.
Không ngờ, cũng ngày hôm đó, Đại-Tá Sơn bị thuyên chuyển khỏi chức vụ Tư-Lệnh Hạm-Đội. Người bạn cùng khóa với Ông, Hải-Quân Đại-Tá Phạm Mạnh Khuê, đang là Tham-Mưu-Trưởng Hành-Quân Lưu-Động-Biển, nhận chức Tư-Lệnh Hạm-Đội.
Sự thuyên chuyển Đại-Tá Sơn là do sự hiểu lầm và sự thiếu liên lạc mật thiết giữa Đại-Tá Sơn và Phó-Đô-Đốc Tư-Lệnh Hải-Quân về vấn đề di tản Hạm-Đội tránh pháo kích.
Chiều 28 tháng 4 năm 1975, lúc 5 giờ 15, Tổng Thống Trần Văn Hương bàn giao chức vụ Tổng Thống cho Tướng Dương Văn Minh khi ngoài trời cơn mưa giông đột ngột trút xuống!
6 giờ chiều cùng ngày, Hải-Quân Công-Xưởng hoàn tất mấy vòng rào sắt cho hệ thống phòng thủ Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân và Hải-Quân Công-Xưởng.
6 giờ 20, phi công Việt-Cộng - do Trung-Úy phi công VNCH Nguyễn Thành Trung huấn luyện cấp tốc và hướng dẫn - lấy 5 chiếc phản lực Dragonfly A37 của Không-Quân VNCH bỏ lại Phan-Rang, bay vào, thả bom phi trường Tân-Sơn-Nhất!
Sau khi dội bom, 5 phản lực cơ bay ngang HQ 800. Hạm-Trưởng HQ 800 biết 5 phản lực đó vừa tấn công phi trường Tân-Sơn-Nhất; nhưng Hạm-Trưởng HQ 800 tưởng là một biến cố chính trị nào đó đang diễn ra, cho nên Hạm-Trưởng HQ 800 chỉ ra lệnh nhiệm sở tác chiến chứ không ra lệnh bắn. Nhờ vậy 5 phi cơ đó mới bay thoát.
Tối 28 tháng 4, Phó-Tổng-Thống Nguyễn Văn Huyền, trong Chính phủ Dương Văn Minh, đến thăm Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, rồi cả hai Ông đến thăm Tổng Thống Dương Văn Minh.
Trong lần tiếp xúc này, Phó-Đô-Đốc Cang hỏi Tổng Thống Minh về những biện pháp thích nghi cho tình hình hiện tại. Tổng Thống Minh cho biết không có giải pháp nào cả. Phó-Đô-Đốc Cang hỏi thẳng: “Thưa Tổng Thống, nếu vậy, mỗi Quân Binh chủng phải tự quyết định lấy, phải không?” Tổng Thống Minh chán nản: “Ôi! Toa làm sao đó toa làm!”
Vì lẽ đó, Bộ-Tham-Mưu Hải-Quân họp khẩn. Lúc này Phó-Đô-Đốc Cang có dự định đưa gia đình Hải-Quân ra Phú-Quốc lánh nạn để binh sĩ yên tâm chiến đấu. Nhưng tình hình biến chuyển quá nhanh khiến ý định của Ông không thực hiện được.
Hải-Quân ra đi là một quyết định tập thể, gồm Phó-Đô-Đốc Cang và Tư-Lệnh các đại đơn vị, để bảo toàn Lực-Lượng Hải-Quân. Nhưng Phó-Đô-Đốc Cang cũng biết rằng, nếu quyết định đó sai lầm thì chính Ông phải chịu trách nhiệm trước lịch sử!
Sáng sớm 29 tháng 4, phi trường Tân-Sơn-Nhất bị pháo kích nặng nề. Không-Quân náo loạn. Hầu hết phi cơ A37 và F5 được cất cánh để tránh thiệt hại. Công cuộc di tản nhân viên của Tòa Đại-Sứ Hoa-Kỳ không thể tiếp tục thực hiện bằng phi cơ vận tải mà phải dùng trực thăng.
Ngay khi phi trường bị pháo kích, Tướng Nguyễn Cao Kỳ, nguyên Phó-Tổng-Thống trong chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, đáp trực thăng riêng quan sát. Tướng Kỳ gọi Sư-Đoàn IV Không-Quân tại Cần-Thơ, ra lệnh tăng viện gấp bốn chiến đấu cơ với bom hạng nặng.
Khi bốn chiến đấu cơ đến không phận Saigon, Tướng Kỳ hướng dẫn bốn phi cơ đó phá hủy những giàn hỏa tiễn Việt-Cộng gần đài Radar Phú-Lâm và phía Tân-Cảng.
Sau khi diệt xong các ổ trọng pháo của địch, Tướng Kỳ đáp trực thăng xuống Liên-Giang-Đoàn 33 tại Nhà-Bè lấy xăng. Lúc bấy giờ có cả trăm chiếc trực thăng đậu tại Nhà-Bè. Nhiều trực thăng và phi cơ đủ loại bay lượn trên không phận thủ đô. Tất cả liên lạc, xin chỉ thị của Tướng Kỳ. Tướng Kỳ bảo tất cả phi công bay ra Đệ Thất Hạm-Đội; nếu còn đủ nhiên liệu thì bay sang Thái-Lan.
Trong khi những sự việc kể trên xảy ra trên không phận thủ đô thì Đại-Sứ Hoa-Kỳ tại Việt-Nam, ông Graham Martin, nhận được công văn khẩn của Tổng Thống Dương Văn Minh.
Ngày 28 tháng 4 năm 1975.
Tổng Thống Việt-Nam Cộng-Hòa
Kính gửi : Ông Đại-Sứ Hoa-Kỳ tại Việt-Nam
Tôi trân trọng yêu cầu ông Đại-Sứ chỉ thị cho tất cả nhân viên cơ quan tùy viên quân sự Defense Attaché’s Office rời Việt-Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ kể từ ngày 29 tháng 4 năm 1975 để vấn đề hòa bình cho Việt-Nam được giải quyết sớm hơn.
Trân trọng kính chào ông Đại-Sứ.
Dương Văn Minh
Đại-Sứ Graham Martin phúc đáp:
Kính thưa Tổng Thống,
Tôi vừa nhận được văn thư đề ngày 28 tháng 4 năm 1975 yêu cầu tôi ra lệnh cho nhân viên Defense Attaché’s Office rời Việt-Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Văn thư này gửi đến Ngài để xác nhận là yêu cầu của Ngài đang được thực hiện.
Tôi tin tưởng vào sự giúp đỡ của các cơ quan liên hệ thuộc chính phủ Việt-Nam Cộng-Hòa để sự di chuyển nhân viên D.A.O. được hoàn thành tốt đẹp.
Trân trọng kính chào Tổng Thống.
Graham Martin
Đại-Sứ Hoa-Kỳ
Ngày 29 tháng 4, khoảng 10 giờ sáng, Tướng Nguyễn Cao Kỳ trở về Bộ-Tư-Lệnh Không-Quân và thấy gần 30 sĩ quan cao cấp Không-Quân trong văn phòng Tư-Lệnh Không-Quân.
Tư-Lệnh Không-Quân, Trung Tướng Trần Văn Minh, giải thích với Tướng Kỳ là người Mỹ muốn chuyển vận tất cả phi cơ phản lực sang Phi-Luật-Tân hoặc Thái-Lan. Vì vậy mọi người đang chờ để được sang cơ quan D.A.O. rồi ra đi.
Tướng Kỳ bay đến Bộ-Tổng-Tham-Mưu và thấy chỉ một mình Tướng Đồng Văn Khuyên đang điều động các mặt trận quanh Saigon. Lúc này, cựu Phó-Tổng-Thống Nguyễn Cao Kỳ mới biết Đại-Tướng Cao Văn Viên, Tổng-Tham-Mưu-Trưởng Quân-Lực VNCH, đã rời Việt-Nam ngày hôm qua!
Tướng Kỳ gọi tất cả đơn vị trưởng của những đại đơn vị quanh Saigon, nhưng không gặp ai cả. Tướng Kỳ đi xuống tầng dưới thì gặp Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Sau khi nói cho nhau hay là vợ con của hai Ông đã được di tản từ tuần trước, Tướng Kỳ vừa bước đến trực thăng vừa nói với Tướng Trưởng: “Đi với tôi”. Rồi cả hai Ông cùng một số sĩ quan thân tín của Tướng Kỳ lên trực thăng, bay ra Đệ Thất Hạm-Đội, đáp xuống chiến hạm USS Midway.
10 giờ 47 sáng, Tướng Đồng Văn Khuyên gọi Trung-Tâm hành quân Hải-Quân, hỏi đường sông từ Saigon ra biển còn an ninh hay không? Đại-Tá Đỗ Kiểm cho biết đến giờ phút đó Hải-Quân vẫn còn kiểm soát được sông Lòng Tào. Tướng Khuyên chào vội vàng và cúp máy
Tại Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân, sau khi liên lạc với Đại-Tá V. Không-Quân và được biết Không-Quân vẫn còn kiểm soát phi trường Tân-Sơn-Nhất, Khối Hành-Quân Hải-Quân tiếp xúc với các Hạm-Trưởng. Lệnh di tản dự trù sẽ ban hành khoảng 10 giờ tối 29 tháng 4.
Sau khi hội ý với các Hạm-Trưởng, Đại-Tá Đỗ Kiểm gọi Đại-Tá Ước, Tham-Mưu-Phó hành quân Không-Quân. Đại-Tá Ước cho Đại-Tá Kiểm biết rằng lúc nào Không-Quân không giữ được Tân-Sơn-Nhất thì sẽ cho Hải-Quân hay.
Trong khi đó, tại Bộ-Tư-Lệnh Không-Quân, Trung Tướng Trần Văn Minh cùng vài vị Tướng và các Sĩ quan chờ hoài không thấy Mỹ liên lạc, đành đi bộ sang cơ quan D.A.O. xin được vào danh sách di tản.
Được báo cáo rằng nhóm Sĩ quan Không-Quân Việt-Nam đều mang vũ khí cá nhân, Tướng Homer Smith ra lệnh cho Trung Tá Richard Mitchell tước vũ khí của nhóm Sĩ quan đó và đưa tất cả vào một phòng nhỏ, canh gác cẩn mật trong khi chờ đợi di tản.
Cũng thời điểm này, tại Nhà-Bè, nguyên Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam đầu tiên, Hải-Quân Đại-Tá Lê Quang Mỹ, cùng gia đình đến Căn-Cứ Hải-Quân xin di tản, nhưng lính gác không cho vào ! Sau đó, một Sĩ quan nhận diện được Ông và cấp cho Ông cùng gia đình một LCM để ra tàu lớn.
11 giờ sáng, Tướng Đồng Văn Khuyên rời Bộ-Tổng-Tham-Mưu.
Không-Quân vẫn còn kiểm soát được phi trường Tân-Sơn-Nhất; nhưng rất nhiều phi cơ trúng đại bác của Việt-Cộng.
12 giờ trưa, được báo cáo nhiều thương thuyền chạy ra, chạy vào sông Lòng Tào và sông Soài Rạp, Hải-Quân Đại-Tá Bùi Kim Nguyệt chỉ thị Liên-Giang-Đoàn 33 mở cửa sông để thương thuyền ra vào tự do.
Cũng thời điểm này, tại Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lái, cả mấy ngàn người thuộc gia đình Hải-Quân di tản từ Vùng I và Vùng II vào, tạm trú trong vòng thành. Dọc các cầu tàu và bờ sông, tàu bè từ các tỉnh miền Trung kéo về neo ngổn ngang. Việt-Cộng phao tin là sẽ pháo kích một ngàn quả đại bác vào Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lái và kho đạn Thành Tuy-Hạ vào lúc 6 giờ chiều 29 tháng 4.
Tin này loan ra khiến Chỉ-Huy-Trưởng Người Nhái, Hải-Quân Trung-Tá Trịnh Hòa Hiệp, ra lệnh hai Tiểu Đội Người Nhái đang tuần tiễu bên kia sông trở về Căn-Cứ; đồng thời Ông cũng chỉ thị những LCU và Trục Vớt đón gia đình Người Nhái và gia đình Hải-Quân thuộc Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lái, đưa ra sông, chờ.
Những biến động dồn dập khiến Hải-Quân quyết định nên di tản vào khoảng 6 giờ chiều - thay vì 10 giờ đêm như đã dự định.
Ông Richard Armitage lại điện thoại về Trung-Tâm Hành- Quân Hải-Quân, thúc hối Hải-Quân ra đi.
Nhận thấy Hải-Quân không phải là một lực lượng chiến đấu thuần túy, bây giờ, Bộ-Tổng-Tham-Mưu và Trung-Tâm hành quân Không-Quân bỏ trống, Hải-Quân không thể ở lại chiến đấu đơn độc. Vì vậy, lệnh di tản được ban hành lúc 2 giờ chiều 29 tháng 4!
Sau khi được thông báo là đến giờ Hải-Quân phải ra đi, rất nhiều binh sĩ ngồi bệt trong sân Trại Bạch-Đằng, ôm đầu, khóc! Một số binh sĩ khác vội vàng chạy đi.
Trung-Tâm Hành-Quân Hải-Quân kêu gọi những ai không muốn ra đi, hãy giúp canh gác phía Công trường Mê-Linh, giúp người ra đi được di tản trong trật tự. Bấy giờ không còn hệ thống chỉ huy nữa mà chỉ còn uy tín cá nhân mới có thể giúp điều động một khối nhân sự khổng lồ của một Quân chủng tan hàng vào giờ phút chót.
rên không, trực thăng bay ngập trời. Trên bờ, đồng bào và quân nhân đổ xô xuống bến Bạch-Đằng và Hải-Quân Công-Xưởng. Trên sông, một số chiến hạm đã vào vị trí và một số khác đang trên đường về. Súng bắt đầu nổ quanh vòng đai Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân.
Toán Nhảy-Dù có bổn phận canh gác kho đạn Thành Tuy-Hạ rời vùng trách nhiệm, sang sông, xin Hải-Quân cho di tản. Hải-Quân yêu cầu toán Nhảy-Dù phối hợp với Quân-Cảnh Hải-Quân lo trật tự phía công trường Mê-Linh, sau đó Hải-Quân sẽ giúp phương tiện cho họ di tản.
Tư-Lệnh Hải-Quân, Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, chỉ thị tất cả Sĩ quan cao cấp : Đến 7 giờ tối, nếu không có biến chuyển nào thay đổi cuộc diện, Hải-Quân sẽ ra đi.
5 giờ chiều 29 tháng 4, Tổng Thống Dương Văn Minh gọi Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang. Phó-Đô-Đốc Cang hỏi Tổng Thống Minh cần gì, Ông sẽ đến. Nhưng Tổng Thống Minh bảo thôi, đưa Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy đến cũng được.
Tại tư dinh, Tổng Thống Minh tỏ ra rất hài lòng về sự đóng góp lớn lao của Hải-Quân trong những cuộc triệt thoái dọc duyên hải. Tổng Thống Minh cũng hết lời khen ngợi tinh thần kỹ luật cao của Hải-Quân. Sau đó, Tổng Thống Minh nói qua về tình hình nghiêm trọng hiện tại và khuyên Phó-Đề-Đốc Thủy nên đưa Hải-Quân rút trong đêm, trước khi Việt-Cộng đủ thì giờ bế sông Lòng Tào. Phó-Đề-Đốc Thủy đề nghị Tổng Thống Minh đi luôn, nhưng Tổng Thống Minh từ chối - như đã từ chối lời đề nghị của của Tướng Charlie Timmes lúc sáng. Tổng Thống Minh bảo: “Thôi, tình thế này moa không đi được! Đời người có chết cũng chỉ chết một lần thôi !” Sau đó, Tổng Thống cuối cùng của chính thể VNCH, Tướng Dương Văn Minh, nhờ Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy đưa Tướng Nguyễn Thanh Hoàng, Đại Tá Nguyễn Hồng Đài - rể của Tổng Thống Minh - và Tướng Mai Hữu Xuân theo Hải-Quân ra đi.
Sau khi từ giã Tổng Thống Minh, đi chưa đến chỗ chiếc Jeep đậu, Phó-Đề-Đốc Thủy đã thấy hai vị Tướng và một vị Đại-Tá ngồi sẵn trên băng sau chiếc Jeep của Ông rồi!
Lúc này, tại Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lái, Trung-Tá Trịnh Hòa Hiệp triệu tập phiên họp khẩn cấp. Vào lúc 6 giờ chiều, buổi họp vừa tan thì Việt-Cộng pháo ngay vào Căn-Cứ Hải-Quân, đúng như tin họ đã loan!
Trên hệ thống truyền tin, Trung-Tá Hiệp điều động những LCU Trục Vớt đưa gia đình binh sĩ về Nhà-Bè, hướng ra biển. Chiếc LCU dành riêng cho Ông và toán Hải-Kích chiến đấu đậu ngay bồn dầu, suýt trúng đạn. Trung-Tá Hiệp ra lệnh chặt giây, tách bến.
Trong cảnh hỗn loạn như vậy Giang-Đoàn 91 Trục-Lôi vẫn bình thản chạy qua, chạy lại giữa sông, phản pháo dữ dội.
Tại đường Cường-Để, từng thác người tuôn vào Hải-Quân Công-Xưởng. Trưởng Khối An-Ninh Hải-Quân, Đại-Tá Chiến-Binh Nguyễn Văn Tấn, đứng nhìn mọi người chạy loạn bằng đôi mắt lạnh lùng từ sau cánh cổng sắt của Hải-Quân Công-Xưởng.
Tại bến Bạch-Đằng, cầu B, ba chiến hạm đậu sát nhau, theo thứ thự, từ trong ra ngoài: HQ 1, HQ 3 và HQ 2.
Vì đậu ngoài cùng, HQ 2 là chiến hạm đầu tiên tách bến, chỉ với một nửa số nhân viên cơ hữu. Phó-Đề-Đốc Nguyễn Hữu Chí, Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Hành-Quân Lưu-Động-Biển, có mặt trên HQ 2.
Sau 7 giờ, chiến hạm đầy người và thấy tình hình không thay đổi, Phó-Đề-Đốc Đinh Mạnh Hùng, Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân hành-quân Lưu-Động-Sông, ra lệnh HQ 3 tách bến. Lúc này trên HQ 3 còn có Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh, cựu Tư-Lệnh Vùng II Duyên-Hải.
Theo lịch trình di tản, HQ 1 được chọn làm Soái Hạm, với cờ Tư-Lệnh trên kỳ đài, để đón Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang và Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy. Nhưng dân chúng tràn lên quá đông, gia đình Phó-Đô-Dốc Cang và gia đình Phó-Đề-Đốc Thủy không thể nhập hạm được.
Lúc này trên HQ 1 có cựu Tư-Lệnh Hải-Quân, Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh và cựu Chỉ-Huy-Trưởng Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang, Phó-Đề-Đốc Nguyễn Thanh Châu. Nhưng lại vắng mặt Hạm-Trưởng, Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Địch Hùng.
Xuất thân khóa 4 Brest, Trung-Tá Hùng có nhiều đức tính mà ít Sĩ quan cao nào áp dụng để chỉ huy. Chính một trong những đức tính ấy đã khiến Ông vắng mặt vào giớ phút chút.
Nguyên nhân sự vắng mặt của Hạm-Trưởng Hùng là, ngày 29 tháng 4, Hạm-Trưởng Hùng tuyên bố trước tất cả nhân viên HQ 1: Nhân viên nào có cấp bậc thấp nhất trên chiến hạm sẽ là người đầu tiên đưa gia đình lên Chiến hạm. Người nào mang cấp bậc cao nhất trên Chiến hạm sẽ đem gia đình lên Chiến hạm sau cùng. Vì lẽ đó, trong khi những Chiến hạm khác đã tuần tự tách bến mà Hạm-Trưởng HQ 1 đi đón gia đình vẫn chưa trở lại được!
Vì không biết Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh có mặt trong số người lúc nhúc trên sàn Chiến hạm, và cũng vì Hạm-Phó HQ 1 không phải là một Sĩ quan Hải-Quân nguyên thủy, Phó-Đề-Đốc Nguyễn Thanh Châu lấy quyền Sĩ quan thâm niên hiện diện, ra lệnh HQ 1 tách bến.
Trong khi đó, tại cầu A, Phó-Đô-Đốc Cang cùng gia đình và Phó-Đề-Đốc Thủy cùng gia đình - sau khi không thể lên được HQ 1, cả hai Ông và gia đình phải sang HQ 601 - thì bị kẹt trên cầu tàu; vì Hạm-Trưởng HQ 601, Hải-Quân Đại-Úy Trần Văn Chánh, không cho lên tàu.
Một lúc sau, nhận diện được hai vị Sĩ quan cao cấp Hải-Quân, Đại-Úy Chánh cho Phó-Đô-Đốc Cang và gia đình cùng Phó-Đề-Đốc Thủy và gia đình nhập hạm.
Tối 29 tháng 4, lúc 10 giờ, HQ 11 không thể rời bến, vì HQ 504 đậu bên ngoài không chịu đi. Tuy hệ thống chỉ huy đã tan rã, nhưng quanh đài chỉ huy của HQ 504 lính gác cẩn mật, không ai tiếp xúc được với Hạm-Trưởng - một Sĩ quan từ Trường Võ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt nhập học và tốt nghiệp khóa 11 Sĩ quan Hải-Quân Nha-Trang. Cuối cùng, một sự giàn xếp êm đẹp với thủy thủ đoàn của HQ 504 và chính những thủy thủ này tháo giây, giúp HQ 11 vận chuyển.
Vừa khi đó, Hải-Quân Đại-Tá Trịnh Xuân Phong lái xe Jeep xuống bến tàu, tự xưng là Tư-Lệnh Hạm-Đội, ra lệnh tất cả chiến hạm ở lại!
Từ HQ 11, Hải-Quân Đại-Tá Đỗ Kiểm khuyến cáo Đại-Tá Phong nên rút lui trước khi những điều đáng tiếc có thể xảy ra. Đại-Tá Phong lặng lẽ lên xe, lái đi.
Đại-Tá Kiểm xử dụng đài-chỉ-huy HQ 11 như một trung tâm hành quân lưu động để điều động tất cả Chiến hạm.
11 giờ đêm, giữa lúc kho xăng Nhà-Bè trúng đại bác, nổ tung, gây một đám cháy ngất trời thì trên hệ thống truyền tin của hầu hết Chiến hạm người ta nghe tiếng Hải-Quân Đại-Tá Trần Bình Phú, Tham-Mưu-Phó nhân viên, từ trung tâm truyền tin Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân, tự xưng là Tham-Mưu-Phó Hành-Quân Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân, ra lệnh cho tất cả Chiến hạm không di chuyển, chờ lệnh!
Đại-Tá Kiểm bảo Đại-Tá Phú im đi và Đại-Tá Kiểm ra lệnh đoàn tàu tiếp tục di chuyển theo kế hoạch đã định và không nhận lệnh bất cứ từ ai khác.
Trong khi kho xăng Nhà-Bè trúng đạn và phực cháy, Chỉ-Huy-Trưởng căn cứ Hải-Quân Nhà-Bè, Đại-Tá Cơ-Khí Lê Kim Sa họp tất cả Sĩ quan; nhưng đến quá nửa đêm vẫn không quyết định được gì cả.
Tiếp đến, Trưởng Khối An-Ninh Hải-Quân, Đại-Tá Chiến-Binh Nguyễn Văn Tấn, lên máy vô tuyến, tự nhận là Tư-Lệnh Hải-Quân, ra lệnh tất cả Chiến hạm ở lại.
Đại-Tá Đỗ Kiểm lại lên tiếng cản ngăn Đại-Tá Phú. Nhưng điều tai hại là Đại-Tá Phú và Đại-Tá Tấn xử dụng máy của Trung-tâm Truyền tin Hải-Quân, có làn sóng mạnh, những đài xa như Poulo Obi hoặc Phú-Quốc nghe được; trong khi Đại-Tá Kiểm dùng máy của HQ 11 yếu hơn, vì vậy, chỉ những Chiến hạm gần mới nhận được lệnh của Đại-Tá Kiểm. Đại-Tá Kiểm cũng liên lạc được với nhiều đơn vị sông và hẹn gặp nhau tại Côn-Sơn.
Hạm-Đội lầm lủi tiến và vô số Chiến đỉnh, Giang đỉnh chạy hai bên. Nhiều loạt súng của nhiều nhóm Quân nhân căm phẫn từ trên bờ bắn lên tàu. Sau khi tắt hết đèn để khỏi lộ mục tiêu, tất cả Chiến hạm được chỉ thị phải vớt đồng bào và quân bạn trên các ghe thuyền. Chiến đỉnh và giang đỉnh được khuyến khích cố chạy ra đến biển, sẽ được tiếp cứu sau.
Những Chiến hạm ngoài khơi Vũng-Tàu được lệnh tập họp tại Côn-Sơn, chờ Hạm-Đội ra. Nhưng HQ 505 lại tách rời, chạy ra đảo Poulo Dama, mang theo hơn 2.000 người và hai trực thăng.
Thấy HQ 505 tách rời và không liên lạc vô tuyến với những Chiến hạm khác, nhiều Sĩ quan và đoàn viên nghi ngờ Hạm-Trưởng. Tất cả âm thầm đặt kế hoạch đối phó trong trường hợp Hạm-Trưởng quay tàu về. Trong khi đó, một nhóm khác lại muốn đem Chiến hạm về lại Saigon. Tình hình nội bộ rất căng thẳng.
Lúc này, trên tần số truyền tin, không biết “phe” nào đã gọi đích danh nhiều Hạm-Trưởng, bảo đừng đi, hãy ở lại với Chính phủ mới để được trọng vọng!
Từ HQ 3, Phó-Đề-Đốc Đinh Mạnh Hùng bắt được liên lạc vô tuyến với Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang và Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy từ HQ 601 của Đại-Úy Trần Văn Chánh. Đại-Úy Chánh được chỉ thị đưa Phó-Đô-Đốc Cang và Phó-Đề-Đốc Thủy sang HQ 3.
Từ giây phút đó, HQ 3 trở thành Soái-Hạm. Phó-Đề-Đốc Hùng phụ tá Phó-Đô-Đốc Cang chỉ huy Hạm-Đội. Hạm-Đội Việt-Nam được chia thành nhiều nhóm nhỏ; mỗi nhóm do một Sĩ quan thâm niên hiện diện chỉ huy.
Trên đường ra biển, vì một máy bất khiển dụng, HQ 1 lủi vào bờ, mắc cạn! HQ 1 kêu cứu trên tất cả tần số truyền tin nhưng không một Chiến hạm nào trả lời! Khi được báo cáo có hai vị Tướng Bộ-Binh và cựu Tư-Lệnh Lâm Ngươn Tánh trên Chiến hạm, Phó-Đề-Đốc Châu mời Đề-Đốc Tánh lên đài chỉ huy và nhờ Đề-Đốc Tánh cố đem Chiến hạm ra. Tất cả cơ khí viên được huy động xuống hầm máy để sửa chữa.
Vừa khi đó HQ 801 trờ tới. Hạm-Trưởng HQ 801, Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Phú Bá, cho Chiến hạm vào kéo HQ 1. Sau đó, Phó-Đề-Đốc Châu rời HQ 1, sang HQ 801.
Bằng vào nỗ lực vượt bực của các Cơ khí viên và sự trợ lực hữu hiệu của HQ 801, HQ 1 được kéo ra. Sau đó, HQ 1 vừa chạy, các Cơ khí viên vừa sửa chữa. Khi ra đến biển, hai máy của HQ 1 đều tốt cả.
Khuya 29 tháng 4, nhận thấy thời gian ấn định cho Mỹ triệt thoái khỏi Việt-Nam vừa đủ, Tướng Việt-Cộng Văn Tiến Dũng xin chỉ thị Hà-Nội để tấn công Saigon.
Ngay sau khi thỉnh cầu được chấp thuận, Tướng Văn Tiến Dũng ra lệnh những đơn vị Pháo-Binh ngưng pháo kích vào Thủ đô để Sư-Đoàn 324 Bắc quân tiến vào!
Trong khi Sư-Đoàn 324 Bắc quân tiến vào Saigon thì ngoài biển khơi, nhiều Hạm-Trưởng nghe tiếng Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh, Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn - từ HQ 3 - và Phó-Đề-Đốc Nguyễn Thanh Châu - từ HQ 801 - điều động trên máy vô tuyến. Càng về sáng thì chỉ còn một mình Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh chỉ huy Hạm-Đội.
30 tháng 4, khoảng 3 giờ sáng, cựu Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng III Sông Ngòi, Hải-Quân Đại-Tá Trịnh Quang Xuân, từ một PBR, lên HQ 502.
Lúc này HQ 406 chỉ còn chạy được một máy. Sau khi ra đến Vũng-Tàu, HQ 406 phải cặp vào HQ 800, sớt người sang. Sau đó, Phó-Đề-Đốc Minh ra lệnh tháo ống cho HQ 406 chìm.
Nhiều ghe thuyền và tàu nhỏ vây quanh mấy chiến hạm Hoa-Kỳ, nhưng không ai được lên tàu.
5 giờ 30 sáng, Lữ-Đoàn Thiết-Kỵ 203 Việt-Cộng tiến vào Tân-Cảng, tìm đường về Thủ đô.
Tổng Thống Dương Văn Minh phái Tổng Trưởng Thông-Tin Lý Quý Chung đến Camp David nhiều lần để tìm hiểu những yêu sách của phái bộ Việt-Cộng. Tổng Thống Minh cũng liên lạc với Thượng-Tọa Thích Trí Quang, nhưng Thượng-Tọa cũng tỏ vẻ bi quan, không thể giúp Tổng Thống Minh.
Ông Lý Quý Chung trình với Tổng Thống Minh rằng Việt-Cộng buộc phải đầu hàng để tránh đổ máu. Cả ông Chung và Thượng-Tọa Thích Trí Quang đều khuyên Tổng Thống Minh nên đầu hàng.
Đây không phải là lần đầu tiên Tổng Thống Dương Văn Minh nghe nói đến giải pháp đầu hàng. Trong mấy ngày qua, Pierre Prochand, một nhân viên tin cẩn của Đại-Sứ Pháp, và ngay cả Đại-Sứ Pháp, Mérillon, cũng đã cố thuyết phục Tổng Thống Minh nên chấp nhận điều kiện của Việt-Cộng!
Trong khi tại Saigon, Tổng Thống Minh bị thuyết phục phải đầu hàng thì, ngoài khơi, HQ 17 được chỉ thị ra Phú-Quốc cứu một xà-lan đầy người. Nhưng vì biết tại Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân chẳng còn ai và cũng vì gia đình còn kẹt lại Saigon, Hạm-Trưởng HQ 17 không thi hành lệnh!
HQ 403 không thể đi xa vì thiếu nhớt, được Đại-Úy Xuân và Trung-Úy Tý đem về.
HQ 601 được chính Hạm-Trưởng Trần Văn Chánh đem về. Cùng về với HQ 601 còn có Hạm-Trưởng HQ 801.
HQ 502 chạy chậm vì chỉ còn một máy, vừa chạy vừa sửa. Nhiều người tình nguyện đứng xếp hàng từ đài-chỉ-huy xuống hầm lái để chuyền khẩu lệnh.
Liên-Đoàn Người Nhái chạy đến Nhà Bè thì dừng, chờ Trung-Tá Trịnh-Hòa-Hiệp. Lúc đó, Chỉ-Huy-Trưởng Người Nhái và toán Hải-Kích Chiến-Đấu lội qua nhiều con lạch và chạy bộ đến Nhà Bè, được một nhân viên đưa một hors-bord vào đón, đưa lên LCU. Từ LCU, Trung-Tá Hiệp điều động toán LCU ra biển. Ra đến biển, toán Người Nhái, tổng cộng khoảng 60 người, một số là học viên khóa 8, thấy HQ 502 vừa ra tới cửa sông, vội cập vào, xin nhập hạm.
Trong khi HQ 502 ì ạch tiến, bỗng một L19 bay đến và lượn vòng quanh chiến hạm. Đến vòng thứ ba, L19 sà thấp hơn, cách mũi tàu khoảng 50 thước và phi công phụ nhảy ra. Lập tức nhiều phao nổi được vất xuống. Biển tương đối êm, nhưng những lượn sóng do HQ 502 tạo nên đã đùa người phi công phụ về phía sau chiến hạm.
Biết không thể nào ông phi công phụ bơi theo chiến hạm được, Người Nhái Nguyễn Văn Kiệt chụp con dao cá nhân, mang vội đôi chân nhái, vòng vào người một áo phao và mang theo một phao nữa cho nạn nhân, rồi ông Kiệt nhảy xuống biển.
Sau khi vớt được ông phi công phụ, ông Kiệt cố bơi theo tàu. Nhưng vì nước bị bánh lái tàu đẩy mạnh ra sau khiến ông Kiệt bơi theo rất khó khăn.
Trong khi ông Kiệt gặp khó khăn trên triền sóng thì trên không trung, chiếc L19 đảo lại một vòng nữa và phi công nhảy ra. Thân người của ông phi công vừa chạm mặt nước liền bị hất nhẹ lên rồi chìm lỉm!
Thấy bạn gặp nạn, ông phi công phụ van nài ông Kiệt hãy bỏ ông ấy ra, đến cứu giùm người bạn. Nhưng, ông Kiệt lượng sức mình. Ông Kiệt chưa biết có thể đem được người phi công phụ lên Chiến hạm hay không thì làm thế nào ông Kiệt dám vớt ông phi công nữa!
Cuối cùng, HQ 502 quay lại, vớt ông Kiệt và ông phi công phụ trong tiếng reo hò của hơn 3.000 người trên Chiến hạm.
Trong thời gian này, Phó-Đề-Đốc Nghiêm Văn Phú, nguyên Tư-Lệnh Lực-Lượng Tuần-Thám kiêm Tư-Lệnh Đặc-Nhiệm 212, từ một PBR, liên lạc truyền tin với các Chiến hạm để tìm gia đình! Khi biết gia đình ở trên HQ 502, Phó-Đề-Đốc Phú lên gặp. Sau đó, Phó-Đề-Đốc Phú lầm lủi trở xuống PBR, quay lại sông Soài Rạp, chờ những đơn vị Hải-Quân từ Vàm-Cỏ-Đông và Vàm-Cỏ-Tây ra.
Cũng thời điểm này, tại Saigon, Tổng-Tham-Mưu-Trưởng VNCH, Trung Tướng Vĩnh Lộc, tiếp Đại-Tướng Pháp - Vanuxem - tại tòa nhà chính Bộ-Tổng-Tham-Mưu. Trong cuộc tiếp xúc ngắn ngủi này, Đại-Tướng Vanuxem cho Trung-Tướng Vĩnh Lộc hay rằng Tổng Thống Dương Văn Minh đang soạn văn bản ra lệnh quân đội VNCH buông súng đầu hàng!
Quá thất vọng, Tướng Vĩnh Lộc, Trung Tướng Trần Văn Trung - Tổng-Giám-Đốc Nha Chiến-Tranh Chính-trị - và Đại-Tá Nguyễn Ngọc Nhận dùng xe có bảng sao dành cho Tổng-Tham-Mưu-Trưởng đến Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân tìm phương tiện di tản!
Đại-Tá Nguyễn Văn Tấn, “Tân Tư-Lệnh Hải-Quân”, đích thân đưa Tướng Vĩnh Lộc, Tướng Trung và Đại-Tá Nhận xuống một LCM Giang-Cảnh để ra biển.
Trong khi LCM Giang-Cảnh đưa Trung Tướng Tổng-Tham-Mưu-Trưởng cuối cùng của Quân-Lực VNCH rời bến Bạch-Đằng thì, từ xa lộ Biên-Hòa, Sư-Đoàn 324 Việt-Cộng tiến vào Thủ đô.
Đến ngã tư Hàng-Xanh, Sư-Đoàn 324 Việt-Cộng gặp sự kháng cự của Thủy-Quân Lục-Chiến. Khi kéo quân qua Thị-Nghè, Sư-Đoàn 324 lại gặp sự ngăn chận của Sinh viên Sĩ quan Hải-Quân và Thủy-Quân Lục-Chiến tại các yếu điểm ở sở thú.
10 giờ 20, sau khi lệnh đầu hàng được truyền đi trên đài phát thanh, Tổng Thống cuối cùng của chính thể VNCH, Đại Tướng Dương Văn Minh, nói với ký giả Pháp, Jean Louis Arnaud: “Hãy nói hộ với Đại-Sứ Mérillon rằng tôi đã làm tất cả những gì mà chính phủ Pháp đòi hỏi nơi tôi!”
Trưa 30 tháng 4, lúc Sư-Đoàn 324 Việt-Cộng trương cờ Mặt-Trận Giải-Phóng Miền Nam lên kỳ đài dinh Độc-Lập cũng là lúc Hạm-Đội Hải-Quân vào đội hình, trực chỉ Côn-Sơn.
Chiều 30 tháng 4, HQ 2 được chỉ thị quay lại Phú-Quốc cứu người trên chiếc xà-lan mà HQ 17 từ chối lúc sáng.
Đến Phú-Quốc, lúc sắp cặp vào, vì thấy quá nhiều người và biết trong số đó có một số tù phạm, Hạm-Trưởng HQ 2, Hải-Quân Trung-Tá Đinh Mạnh Hùng ra lệnh Chiến hạm tách ra, chạy thẳng!
Tối 30 tháng 4, HQ 615 đón Trung Tướng Vĩnh Lộc, Trung Tướng Trần Văn Trung và những người rời Saigon lúc sáng, từ LCM Giang-Cảnh.
Sáng 1 tháng 5, HQ 615 bị hết dầu trong hải phận Vũng-Tàu. Lúc này Hạm-Đội đã đi xa. HQ 615 kêu cứu bằng bạch văn chứ không bằng ám từ truyền tin nữa! Đại-Tá Nguyễn Ngọc Nhận hoàn toàn mất bình tĩnh, cứ ôm con khóc và tỏ ý muốn tự tử!
HQ 17 vừa mới đến nhập đoàn với Hạm-Đội lại được lệnh quay lui cứu HQ 615. Đến nơi, HQ 17 vớt khoảng 300 người từ HQ 615 và hơn 200 người trên HQ 470. Sau đó, cả HQ 470 và HQ 615 đều bị đánh chìm!
Khi đến Côn-Sơn, từ hệ thống truyền tin của HQ 1, Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh tìm Hải-Quân Đại-Tá Phan Phi Phụng và chỉ định Đại-Tá Phụng làm Hạm-Trưởng HQ 1.
Lúc này HQ 801 cũng vừa đến Côn-Sơn. Vợ của Hạm-Trưởng HQ 801 không muốn di tản. Hạm-Trưởng HQ 801 muốn đem chiến hạm trở về Saigon. Nhưng nhờ sự giàn xếp của nhiều người, Hạm-Trưởng HQ 801, Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Phú Bá, nhận HQ 471 để đưa vợ con và những người không muốn ra đi, trở về Saigon. Hải-Quân Đại-Tá Bùi Cửu Viên được chỉ định làm Hạm-Trưởng HQ 801.
Riêng HQ 505 - sau khi vớt thêm hơn 200 người và giàn xếp cho số nhân viên muốn trở về được xuống ghe về - quay lại Côn-Sơn. Vô tình, Hạm-Trưởng HQ 505 bắt được liên lạc vô tuyến trên đài siêu tần số của những người vừa tiếp thu Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Saigon. Nhóm người này bảo Hạm-Trưởng HQ 505 đem Chiến hạm về. Nhưng Hạm-Trưởng HQ 505 đã liên lạc được với Tiếp-Liệu-Hạm Vega, thuộc Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ, và được Vega tiếp tế nước ngọt, thực phẩm. Sau đó, một Chiến hạm khác, cũng thuộc Đệ Thất Hạm-Đội, hộ tống HQ 505 đi Subic Bay.
Điệp Mỹ Linh
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Trước năm 1975, là một phóng viên chiến trường, tôi có dịp theo bước chân hành quân của các chiến sĩ miền Nam Việt Nam khắp bốn vùng chiến thuật. Hơn mười lăm năm làm báo, tôi đã viết nhiều về sự can đảm và hào hùng của người lính miền Nam, những kẻ đã hy sinh quá nhiều cho người khác được ấm no, hạnh phúc. Dù hôm nay, chung cuộc như thế nào, trong lòng tôi, những hình ảnh oai hùng và sự hy sinh cao cả của các anh, vẫn không bao giờ phai lạt. Cuốn sách này như một đóa hồng nhỏ gửi đến tất cả chiến sĩ QLVNCH để tri ân và để tưởng niệm những chiến sĩ đã đi vào lòng đất mẹ.
Kiều Mỹ Duyên
Cuốn sách này hoàn tất với sự giúp đở của thầy Trần Bích Lan, anh Tạ Tỵ, anh Nguyễn Hòa, chuyên viên về Đông Dương tại Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ, cùng tất cả quý vị quen biết, bạn bè, những nhân vật trong truyện, đã bổ túc nhiều dữ kiện và cho mượn hình ảnh. Đặc biệt, nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh cho phép dùng những bức ảnh nghệ thuật của anh. Xin cám ơn tất cả với lòng chân thành.
Kiều Mỹ Duyên
Chinh Chiến Điêu Linh
Ngày 15 tháng giêng năm 1972, tại bãi đáp trực thăng Ba Gi, cách thị xã Qui Nhơn 12 cây số về hướng Tây Bắc, Tư Lệnh Quân Đoàn II/Quân Khu II, Trung Tướng Ngô Dzu trả lời cuộc phỏng vấn của báo chí trong và ngoài nước một cách khẳng định là Cộng quân sẽ đánh lớn tại Quân Khu II.
Tướng Ngô Dzu cũng cho biết, hiện nay Trung Đoàn 21 thuộc Sư Đoàn 2 Sao Vàng của Bắc Việt đang thiết lập các căn cứ trong vùng thung lũng An Lão, nằm về phía Bắc của Qui Nhơn. Và cũng theo tin tình báo mới đây thì Bộ Chỉ Huy Quân Khu 5 của Cộng quân được ghi nhận đã xuất hiện trong quận Hoài An, tỉnh Bình Định, làm cho tình hình của vùng này trở nên nghiêm trọng.
Trung Tướng Ngô Dzu còn cho biết thêm, quân số của Cộng quân xâm nhập vào Quân Khu II đã lên đến 60 ngàn người, ông cũng tiên đoán chừng một tháng nữa, địch quân sẽ di chuyển các cơ sở đến vùng Tam Biên, sẽ dùng chiến thuật "công đồn đả viện" để đánh Cao Nguyên và biến Kontum thành một Điện Biên Phủ.
Một cố vấn dân sự cao cấp Mỹ của Quân Khu II, ông John Paul Vann tin rằng Cộng quân sẵn sàng hy sinh 10 ngàn quân để chiếm cho được vùng Cao Nguyên. Cuộc chiến sẽ trải rộng từ thành phố Kontum đến Pleiku và Bình Định. Ông cũng tiên đoán là chiến xa của Cộng quân sẽ tấn công vào Benhet và Tân Cảnh đầu tiên.
Cùng lúc với Tướng Trần Nam Trung của Bắc Việt đọc nhật lệnh kêu gọi Cộng quân đánh lớn, đánh mạnh khắp nơi, thì báo Washington Star của Mỹ, số ra ngày 10 tháng 4 năm 1972 loan tin sư đoàn cuối cùng của Bắc Việt đã lên đường tiến vào miền Nam để tăng cường cho 120 ngàn Cộng quân đang rải dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh.
Những tin tức chiến sự như vậy là một hứa hẹn những tháng ngày đầy máu và nước mắt cho cuộc sống đang yên vui bình lặng của người dân miền Nam.
Rồi những gì mọi người chờ đợi cũng sẽ đến. Mùa xuân đến và mùa xuân đã qua. Khi những tia nắng của một sớm mai hè vừa đủ ấm để ửng hồng đôi má của người con gái Cao Nguyên thì tiếng súng bắt đầu nổ.
Theo tài liệu bắt được trong mình của một Chuẩn Úy Việt Cộng tên Khổng Thanh Hiền thì lệnh tấn công tại mặt trận Tam Biên được ấn định vào ngày 13 tháng 3 năm 1972. Đó cũng là ngày mà lực lượng Dù đụng độ ác liệt với các đơn vị của Sư Đoàn Thép 320 Cộng quân chung quanh căn cứ hỏa lực 5. Sư Đoàn Thép là sư đoàn đã từng chiến thắng tại Điện Biên Phủ trước đây và hiện là một trong những đơn vị nòng cốt của Bắc Việt. Lần ra quân này, chỉ sau 3 ngày đụng trận với một vài đơn vị của Lữ Đoàn II Dù, Sư Đoàn Thép đã phải để lại nhiều tổn thất. Một trong những xác Cộng quân bỏ lại chiến trường, có xác của Chuẩn Úy Khổng Thanh Hiền thuộc Tiểu Đoàn Phòng Không của Trung Đoàn 64, Sư Đoàn 320. Những tài liệu tịch thu được trên mình của sĩ quan này là do Tướng Phạm Ngọc Mậu ký ngày 20 tháng 10 năm 1971. Các nguồn tin tình báo của Quân Khu II cho rằng Tướng Phạm Ngọc Mậu đã thay thế Tướng Hoàng Minh Thảo, chỉ huy mặt trận Cao Nguyên Trung Phần mà Hà Nội gọi là Mặt Trận B3.
Đúng như sự dự đoán của những giới chức thẩm quyền của Quân Khu II, Tân Cảnh là nơi đầu tiên mà chiến trận bùng nổ. Cuộc chiến diễn ra khốc liệt không thua gì cuộc chiến tại vùng Trị Thiên, chỉ khác nhau về mặt địa thế: một bên là đồng bằng, một bên là rừng núi, và điều này ảnh hưởng phần nào đến sự yểm trợ của chiến xa và không lực.
Vào lúc 6 giờ 30 chiều ngày 23 tháng 4 năm 1972, Nông Trường 2 Cộng quân được yểm trợ bởi nhiều chiến xa T54 đã ào ạt tấn công vào căn cứ hỏa lực Tân Cảnh, nơi trú đóng của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Đoàn 22 Bộ Binh do Đại Tá Lê Đức Đạt làm Tư Lệnh, và đây cũng là bản doanh của Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 42 Bộ Binh do Trung Tá Nguyễn Thông làm Trung Đoàn Trưởng. Thoạt tiên Cộng quân dội xuống Tân Cảnh cả ngàn quả đạn đại bác 82 ly và hỏa tiễn 122 ly. Trận mưa pháo kéo dài hơn 3 tiếng đồng hồ.
Lúc 22 giờ 30 phút cùng ngày, Trung Tâm Hành Quân của căn cứ Tân Cảnh bị hư hại hoàn toàn vì một hỏa tiễn điều khiển chống chiến xa của Cộng quân chui ngay vào cửa hầm. Hầu hết những người trong Bộ Tham Mưu của Đại Tá Đạt và trong Ban Chỉ Huy của Trung Tá Thông đều bị thương. Chỉ có Đại Tá Đạt và Trung Tá Thông là thoát nạn vì đã rời hầm chỉ huy trước đó để đi đôn đốc binh sĩ của mình. Trung Tâm Hành Quân phải dời qua một hầm kế bên.
Đến 23 giờ, cánh quân tiền phương của Cộng quân được phát hiện cách quận Dakto chừng một cây số về hướng Tây với sự yểm trợ của 3 chiếc T54. Lập tức phi cơ AC130 cất cánh từ phi trường Nha Trang bay đến oanh kích và bắn cháy ngay 3 chiến xa này khi còn cách Dakto chừng 500 mét, nhưng không ngăn được bước tiến của toán tiền phương địch. Đúng nửa đêm, Cộng quân ào ạt tấn công tiền đồn Tân Cảnh.
Sau khi đạo quân tiền phương với quân số chừng một trung đoàn tấn công vào Tân Cảnh, một trung đoàn Cộng quân thứ hai xuất hiện cách Tân Cảnh 3 cây số về hướng Tây Bắc, kéo ra Quốc Lộ 14 và cắt đoạn đường Dakto-Tân Cảnh ra làm bốn đoạn, khiến cho sự liên lạc giữa hai nơi chỉ còn qua máy vô tuyến mà thôi.
Ngay sau khi phát giác sự xuất hiện của cánh quân thứ hai này, mặc dầu thời tiết được loan báo là xấu, các toán Skyraider thuộc Phi Đoàn 530 của Không Đoàn 72 Chiến Thuật và các khu trục A37 của Không Đoàn 62 Chiến Thuật biệt phái cho Pleiku đã nhất loạt cất cánh từ phi trường Cù Hanh để bay lên oanh kích cánh quân này.
Khoảng 2 giờ 30 sáng, vừa pháo kích vừa xung phong, hai trung đoàn Cộng quân cố gắng tràn ngập căn cứ Tân Cảnh, nhưng gặp phải sự kháng cự quá ư mãnh liệt của các chiến sĩ Trung Đoàn 42, nên trận chiến kéo dài cho đến lúc trời sáng, Tân Cảnh vẫn còn đứng vững. Trời vừa sáng thì thời tiết trở thành bất lợi cho những người đang tử thủ trong Tân Cảnh. Sương mù xuống thấp làm cho Không Quân bị bó tay, không thể yểm trợ được.
Vào lúc 7 giờ sáng ngày 24 tháng 3, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II hoàn toàn mất liên lạc vô tuyến với căn cứ hỏa lực Tân Cảnh. Cả Bộ Tham Mưu của Tướng Ngô Dzu như ngồi trên lửa. Không ai dám mở lời tiên đoán số phận của Tân Cảnh như thế nào. Đích thân Tướng Dzu gọi cho các đơn vị yểm trợ như Không Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh... để hỏi, không ai biết số phận của Tân Cảnh bây giờ ra sao.
Cho đến 10 giờ sáng, một sĩ quan Truyền Tin la lên: "Liên lạc được rồi". Tướng Dzu chụp lấy máy hỏi dồn. Đại Tá Đạt báo cáo đã đẩy lui được địch quân. Mọi người trong Trung Tâm Hành Quân đều thở phào và nét mặt người nào cũng lộ vẻ phấn khởi. Cũng vào lúc này, thời tiết đã trở nên quang đãng hơn, các phi cơ chiến đấu của Không Đoàn 72 Chiến Thuật bắt đầu cất cánh và mấy chiếc trực thăng tiếp tế đạn dược đã lọt được màn lưới lửa phòng không của địch, đáp an toàn xuống căn cứ Tân Cảnh.
Mặc dù vẫn còn đứng vững trước đợt tấn công thứ nhất, nhưng với sự tăng cường thêm một sư đoàn thứ hai của địch quân từ căn cứ hậu cần 609 nằm bên kia biên giới tiến qua, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đã cho căn cứ Tân Cảnh và một số các căn cứ hỏa lực khác dọc theo dòng sông Poko ở phía Tây Quốc Lộ 14 di tản chiến thuật, rút về lập một phòng tuyến mới ở ngang căn cứ Bravo, cách Kontum 20 cây số về phía Bắc.
Cùng với kế hoạch di tản chiến thuật một số các căn cứ hỏa lực ở mạn Bắc thành phố Kontum, Tướng Ngô Dzu đã thành lập một ủy ban có tên là Ủy Ban Di Tản Đồng Bào Kontum và Pleiku. Ủy ban này do Đại Tá Hồ Hồng Nam, Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị của Quân Đoàn II làm chủ tịch. Phương tiện di tản sẽ bằng máy bay C130 của Hoa Kỳ và C123 của Việt Nam Cộng Hoà. Một nguồn tin cho biết bệnh tim của Tướng Ngô Dzu bị tái phát, nhưng ông bất chấp, dồn nỗ lực vào hai việc là di tản đồng bào ra khỏi vùng lửa đạn và tái chiếm các căn cứ mà quân ta đã di tản chiến thuật trong những ngày vừa qua.
Người dân của hai thành phố Pleiku và Kontum đã sống trong lo sợ phập phồng từ những ngày trước Tết Nguyên Đán vì những tin tức chiến sự ngày càng nặng nề. Cơn ác mộng đó cứ chập chờn trong mọi sinh hoạt của người dân Tây Nguyên cho đến hôm nay, chiến trận đã thực sự bùng nổ.
Tôi đến Pleiku trong những ngày thành phố này đang di tản. Thành phố có lệnh giới nghiêm lúc 7 giờ tối, nhưng mới 5 giờ chiều trên các đường phố đã không thấy bóng dáng một người dân. Chỉ có những chiếc xe nhà binh chạy hết tốc lực. Những người ngồi trên xe, ai cũng mặc áo giáp, đội nón sắt cẩn thận. Trong thành phố, nhà nào cũng làm hầm nấp pháo kích. Đa số đều làm hầm nổi. Gia đình của các quân nhân, công chức được lệnh di tản khỏi Pleiku để cho người chiến sĩ rảnh tay chiến đấu. Các công chức chuẩn bị nhận súng khi có lệnh.
Vẻ kinh hoàng hiện trên nét mặt mọi người. Nỗi lo âu chồng chất bởi nhiều vấn đề. Di tản: đến đâu, ăn đâu, ở đâu? Nhà cửa, tài sản để lại, ai trông coi? Lâu mau mới về? Bà vợ của một giáo sư buồn rầu tâm sự với tôi:
- Tôi bụng mang dạ chửa. Cả tuần lễ nay tôi lo quá, chẳng ăn uống gì được. Nhà nào cũng làm hầm, nhưng ăn thua gì cô. Chồng tôi nhất định ở lại đây. Tôi và các cháu tính về Sài Gòn, nhưng giá máy bay đắt quá, cả gia đình phải mấy chục ngàn tiền vé, tiền đâu mà đi!
Giá vé máy bay Pleiku-Sài Gòn ngày thường là 3,800 đồng. Nhưng lúc này giá chợ đen khoảng 10 ngàn một vé. Nếu muốn mua giá chính thức thì phải chờ hơn nửa tháng. Súng đạn đã nổ sát một bên rồi, có ai kiên nhẫn chờ hơn nửa tháng nữa mới rời thành phố?
Một khu chợ trời thành hình dọc theo đường Hoàng Diệu. Đồ đạc bán rất nhiều và rất rẻ. Người bán nhiều hơn người mua. Những nhu yếu phẩm như gạo, nước mắm, dầu hôi... giá tăng lên vùn vụt. Những người nghèo dành dụm được ít vàng phải đem bán để lấy tiền di chuyển. Vàng xuống giá rất nhanh. Các tiệm vàng đều bán ra mà không mua vào. Vàng y giá 20 ngàn đồng một lượng, trong khi gạo 20 ngàn một tạ. Ai cũng cố bán ti vi, tủ lạnh, radio... để bọc tiền mà chạy. Nhưng ai dám bỏ tiền ra mua mấy thứ đó lúc này. Có người treo bảng bán cả nhà, bán thật rẻ mà đã 3 tuần nay không có một người nào hỏi đến.
Lệnh di tản được ban ra. Dân Kontum di tản về Pleiku. Các trường học ở Pleiku được trưng dụng để làm trại tiếp cư. Trong khi đó, gia đình quân nhân, công chức ở Pleiku lại di tản đi nơi khác. Tôi nêu lên sự thắc mắc này, một giới chức thẩm quyền ở Pleiku giải thích: dân Kontum tạm thời di tản về đây để chờ lập cầu không vận chuyển đi các nơi khác như Nha Trang, Sài Gòn...
Hôm qua, ngày 27 tháng 4, quân đội của ta tiếp tế từ Qui Nhơn lên Pleiku 400 tấn gạo. Người dân Pleiku mỗi ngày tiêu thụ 30 ngàn tấn. Tỉnh Pleiku chưa có kế hoạch nào về việc phân phối số gạo nói trên. Cho tới hôm nay, kho gạo an toàn của Pleiku chưa hề đụng tới. Kho gạo này có thể nuôi toàn thể dân Pleiku trong vòng một tháng.
Gạo và những nhu yếu phẩm khác vẫn tăng giá vùn vụt. Mua được một ký gạo là một chuyện rất khó khăn, vì trong hoàn cảnh này, có tiền chưa chắc đã mua được. Tất cả tiệm ăn trong thành phố đều đóng cửa. Khoảng 50 phóng viên Việt Nam và ngoại quốc đang có mặt ở đây phải ăn hủ tiếu hoặc phở thay cơm và bánh mì.
Những gia đình giàu có vội vàng ra đi. Những người khác lần lượt tiếp nối. Và thành phố Pleiku ngày càng hoang vắng.
Sau khi bắt lại liên lạc vô tuyến với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, suốt ngày hôm đó tại căn cứ Tân Cảnh, các chiến sĩ của Trung Đoàn 42 Bộ Binh đã anh dũng đẩy lui nhiều đợt xung phong mãnh liệt của Cộng quân có quân số đông gấp ba lần và được yểm trợ bởi 60 chiến xa T54 cùng với một trung đoàn pháo. Cuộc chiến đấu hào hùng này đã kéo dài suốt 24 tiếng đồng hồ không ngừng một giây phút. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II theo dõi những diễn tiến tại Tân Cảnh cho đến 19 giờ 45 phút ngày 24 tháng 4 thì một lần nữa mất liên lạc với căn cứ này. Và theo tin của một số binh sĩ và đồng bào vừa thoát khỏi quận Dakto thì Cộng quân đã tràn vào căn cứ Tân Cảnh vào lúc tối ngày 24.
Trong lúc đó, tại quận Dakto, Trung Tá Lò Văn Bảo chỉ huy lực lượng Địa Phương Quân vẫn tiếp tục kháng cự với Cộng quân, mặc dù đã có lệnh di tản chiến thuật khỏi nơi này. Trung Tá Bảo gốc người Thái vùng Bắc Việt, ông gọi máy vô tuyến về Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu nói rằng ông sẽ quyết chiến với địch quân, chết chứ không lùi bước. Rồi sau đó cũng như Đại Tá Đạt, người ta không biết số phận của Trung Tá Bảo như thế nào vì mọi liên lạc đều bị gián đoạn.
Chờ hai ngày ở phi trường Pleiku dưới trời nắng cháy và cát bụi, đến ngày thứ ba tôi mới được theo máy bay quan sát lên Kontum. Máy bay bay giữa những cụm mây trắng, bên dưới là núi rừng trùng trùng điệp điệp. Pleiku cách Kontum chừng 45 cây số đường bộ.
Sau khi Tân Cảnh và Dakto di tản chiến thuật, thành phố Kontum ngày càng chịu áp lực nặng nề của Cộng quân. Con đường duy nhất nối liền Kontum và Pleiku đã bị cắt đứt. Phi trường Kontum bị pháo kích vào mỗi ngày. Phương tiện còn lại duy nhất là máy bay quân sự.
Hôm trước đến Phòng Báo Chí của Quân Đoàn để xin phương tiện, gặp mấy người từ Kontum về, một anh nói với tôi:
- Cô nên mặc áo giáp, đội nón sắt vì trên Kontum Việt Cộng pháo kích dữ lắm, pháo như mưa. Xuống máy bay là phải chạy tìm chỗ nấp liền. Nên kiếm cái ba lô để mang theo thức ăn. Các tiệm ăn trên Kontum đều đóng cửa hết.
Tôi nghĩ chết sống có số. Với tôi, nhiều khi mang áo giáp, đội nón sắt rồi nặng quá chạy không nổi thì cũng chết. Ngày đầu chờ máy bay, tôi còn mang theo bánh mì và một bộ quần áo. Nhưng chờ đợi mãi, đến ngày thứ ba, khi leo lên máy bay, tôi chỉ mang cái máy ảnh, ít thuốc cần thiết và băng cá nhân. Người nữ phóng viên chiến trường không cần mang son phấn nên hành trang cũng nhẹ bớt phần nào.
Có những đoạn máy bay bay thật thấp. Tiếng người phi công nói qua ống nghe:
- Cô nhìn xuống mặt đường, có mấy chiếc xe đò bị Việt Cộng giựt mìn còn xác nằm bên đường đó.
Con đường ngoằn ngoèo bên dưới thật vắng, không có bóng một chiếc xe nào đang di chuyển. Thỉnh thoảng thấy một vài chiếc xe hàng bị lật. Trước đây vài ngày, nghe nói có nhiều xe hàng liều mạng chở người tị nạn từ Kontum về Pleiku, giữa đường bị Việt Cộng giựt mìn hoặc từ trên núi bắn B40 xuống.
Máy bay bay ngang một làng nào đó. Khắp làng không thấy bóng dáng một người dân. Tôi hỏi người phi công:
- Sao không thấy một người dân nào cả? Đây cách Kontum chừng bao nhiêu cây số và đang ở về hướng nào?
Người phi công chấm một dấu đỏ trên bản đồ ghi dấu vị trí hiện tại của máy bay và đưa tấm bản đồ về phía tôi:
- Dân đã được di tản rồi. Cô không nhìn thấy những hố bom B52 dưới kia sao? Còn cách Kontum 20 cây số về hướng Nam.
Hai người xạ thủ đại liên nói đùa với tôi:
- Nếu thấy Việt Cộng, tụi tôi nhường súng cho cô bắn.
Tôi nhìn xuống bên dưới, có 3 chiếc xe mang cờ Công giáo, chiếc đi giữa chở một cái hòm, hình như là một đám tang. Về sau tôi được biết người chết là một thanh niên, một trong những người đang ngồi ở phi trường đợi máy bay để rời Kontum, rồi bị pháo kích mà chết.
Hôm đến Phòng Báo Chí của Quân Đoàn II, gặp Đại Úy Vượng, ông khuyên:
- Cô lên Kontum thì nên chuẩn bị sẵn cho một cuộc chạy bộ. Hãy mang giày nào cho dễ chạy. Trên đó không có xe cho cô di chuyển. Có mượn được xe cũng không có xăng. Xuống phi trường, cô phải chạy bộ vào thành phố, chỉ chừng 3 cây số thôi. Tại Kontum, bây giờ, một giọt xăng quý như một giọt máu.
Vậy là tối hôm đó tôi tìm mua một đôi giày ba ta để chuẩn bị cho một cuộc chạy bộ từ phi trường vào thành phố. Nhưng rồi cũng may, trực thăng hạ cánh cách toà hành chánh tỉnh chừng một cây số. Thế là tôi chỉ đi bộ vào phố chứ khỏi chạy bộ. Lúc đó Việt Cộng đang pháo vào phi trường. Những đoàn người trên đường ra phi trường phải dừng lại. Một người trong nhóm đó thở dài:
- Trời ơi, Việt Cộng pháo vào phi trường mãi. Không biết bà con của mình đợi ở đó có sao không!
Tôi đến đây nhằm ngày Chủ Nhật, chỉ có con đường ra phi trường là còn có người di chuyển. Hằng ngàn người, đa số là vợ con của quân nhân và công chức tụ tập trước MACV để xin máy bay di chuyển. Phải có giấy của Đại Tá Tỉnh Trưởng ký trước, rồi đến xin giấy của Đại Tá Mỹ ở MACV. Bao giờ cầm được giấy lên máy bay mới biết chắc mình được đi. Giấy được đi phải là giấy ưu tiên một. Đối với máy bay Mỹ, mọi người giữ được kỷ luật như vậy, còn với máy bay Việt Nam, dân cứ ào lên, ào lên. Không có cách gì để giữ cho được trật tự.
Cách đây vài hôm ở phi trường Cù Hanh, hơn 10 ngàn người tràn lên một chiếc máy bay. An Ninh, Quân Cảnh không thể nào ngăn cản được. Một ông Trung Tá rút súng bắn dọa một phát, viên đạn vô tình lại trúng vào cánh máy bay sao đó mà máy bay không cất cánh được. Và người ta lại kiên nhẫn ăn, ngủ ngay tại phi trường để chờ. Tội nhất là những đứa bé sơ sanh, phải dầm mưa dãi nắng và chịu đói khát, đau ốm đã bao nhiêu lâu rồi. Vấn đề tiếp tế cho Kontum ngày càng trở nên khó khăn, tất cả chỉ còn trông chờ vào Chinook. Những nhu yếu phẩm cần thiết làm sao có đủ cho đồng bào tị nạn chạy về từ Dakto, Tân Cảnh
Tôi đến toà hành chánh tỉnh Kontum vào lúc 10 giờ sáng. Quân nhân, công chức tụ họp từ từng dưới lên cả trên lầu. Họ chia ra từng nhóm, người nào cũng nói về chuyện di tản. Họ đến đây để xin giấy di chuyển cho gia đình. Tôi đang đứng ở cầu thang hỏi thăm mấy người ở đây thì Đại Tá Nguyễn Bá Thìn, Tỉnh Trưởng Kontum đi ra, thấy tôi ông chào hỏi và nói:
- Bây giờ tôi đi thăm các trại tạm cư, cô có đi không? Cô nên viết để kêu gọi giúp đở cho hoàn cảnh này.
Tôi lên xe của Trung Tá Đổ, Tiểu Khu Phó, hướng về các trại tạm cư. Trường học và các cô nhi viện được trưng dụng để làm trại tiếp cư. Chúng tôi ghé lại một trường học. Trên sân trường, người Thượng nằm, ngồi dưới các gốc cây, họ vừa chạy về từ Dakto, Tân Cảnh. Nét mặt người nào cũng có vẻ ngơ ngác trông thật tội nghiệp.
Trong khi Đại Tá Thìn hỏi thăm những cán bộ Bình Định Nông Thôn về vấn đề phân phát gạo cho đồng bào tị nạn, thì tôi đi chụp hình và tìm những người Thượng biết nói tiếng Việt để hỏi thăm. Mấy người này đến từ làng Konkring. Tôi nghe tiếng Đại Tá Thìn hỏi:
- Ty Y Tế có rắc thuốc không?
Gần 10 năm làm báo, đây là lần đầu tiên tôi thấy một ông Đại Tá Tỉnh Trưởng đi kiểm soát nhà cầu của một trại tị nạn. Vấn đề giữ được vệ sinh ở trại này thật là khó khăn. Cán bộ thì ít, người tị nạn thì đông. Tất cả nhân lực đang dồn vào chiến trận, vào việc di tản dân Kontum đi nơi khác và tiếp cư dân nơi khác về Kontum. Mỗi người được lãnh 500 gram gạo một ngày, nhưng không dám ăn hết, để dành lại một ít phòng hờ ngày mai không được phát gạo nữa. Thời chiến chinh, ai mà biết được những gì sẽ đến trong ngày mai.
Vào lúc 16 giờ ngày 29 tháng 4, một phi cơ quan sát trong lúc bay trên không phận Dakto, bỗng nhiên thấy ánh sáng của một tấm kiếng từ dưới đất chiếu lên. Phi công liền xuống thấp để quan sát thì thấy một đám đông đang tụ họp quanh khu chợ Dakto và ra dấu hiệu cấp cứu. Khi phi cơ xuống thấp hơn nữa, thấy đám đông đó là khoảng 200 binh sĩ của ta.
Những người này đang làm dấu hiệu cho phi cơ đáp xuống. Phi công định đáp xuống một bãi trống phía Tây của chợ, nhưng địch biết được ý định đó nên bắn lên máy bay như mưa và đồng thời mở đợt tấn công vào đám binh sĩ của ta đang bị vây.
Được tin báo của máy bay quan sát, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II tin rằng nhóm 200 binh sĩ đang bị vây khổn ở chợ Dakto gồm có Bộ Tham Mưu của Đại Tá Đạt và binh sĩ của Trung
Đoàn 42 Bộ Binh trên đường di tản khỏi căn cứ Tân Cảnh. Vì vậy, cuộc giải vây cho nhóm 200 người đang cầm cự với địch đã được thực hiện với ưu tiên một.
Ngày hôm sau, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đưa được Đại Tá Lê Đức Đạt, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh cùng với 200 binh sĩ từ chợ Dakto về căn cứ của Quân Đoàn. Cùng đi với Đại Tá Đạt, có Trung Tá Nghiêm Kế, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 22 Công Binh Chiến Đấu, một đơn vị yểm trợ của Sư Đoàn 22.
Ký nhi viện Vincent cũng là một trong những trại tạm cư. Chúng tôi đến thăm vào buổi trưa, các dì phước đều mặc áo màu xanh, lúp màu xanh và đang làm việc rất bận rộn. Có mấy dì phước ngồi ghi tên những người mới đến vào danh sách. Người tị nạn ở đây đa số là người Thượng từ các buôn ở mạn Bắc của Kontum chạy về.
Tôi ngồi xuống bên cạnh một dì phước rất trẻ, nói được tiếng Barna. Sinh hoạt chung với họ rồi nói được tiếng của họ. Ký nhi viện này ở bên cạnh trường trung học Quenot của cha Trường. Trường học thật khang trang đẹp đẽ. Những cây phượng trong sân nở hoa đỏ rực. Xác hoa phượng phủ đầy các lối đi.
Đại Tá Thìn hỏi các dì phước:
- Vấn đề vệ sinh ở đây làm cho các sơ vất vả lắm phải không?
Một dì phước trả lời:
- Người Thượng họ tắm cả ngày, tắm nhiều hơn mình nữa, nhưng họ không có quần áo để thay. Có một bộ đồ là họ mặc cho đến khi rách, chứ không giặt giũ gì cả. Mà muốn giặt cũng không có đồ để thay.
Tôi hỏi dì phước:
- Thưa sơ, trại này hiện có bao nhiêu người?
- Đã tiếp nhận hai ngày nay là 950 người. Số người mới đến còn đang lập danh sách.
Một dì phước quay lại hỏi tôi:
- Cô có nghe tin gì về Konkring không? Có mấy sơ ở Konkring cũng thuộc về Vincent de Paul, ở đây chúng tôi không được tin tức gì hết, chắc bị Việt Cộng bắt giữ lại hết rồi.
Các dì phước ở đây nhắc đến những người ở Konkring một cách quan tâm và thương mến.
Buổi loạn ly bom đạn đâu có tránh ai, Việt Cộng đâu có chừa ai.
Rời trại tạm cư ở ký nhi viện Vincent, chúng tôi đến thăm một trại tạm cư khác tại một trường trung học. Chúng tôi đến lúc đồng bào đang ăn cơm. Thức ăn thật đơn giản: rau luộc và một món mặn. Vợ chồng, con cái ngồi bẹp xuống nền của lớp học. Họ ăn một cách ngon lành, nhưng trên mặt vẫn còn những nét sợ hãi vì đoạn đường họ đã vượt qua và những hiểm nguy họ đã gặp.
Tôi hỏi một người đàn bà ngồi gần cửa:
- Chị chạy mấy ngày mới tới đây?
Người đàn bà đặt chén cơm xuống, nhìn tôi rồi trả lời:
- Đi 4 ngày trong rừng, mới ló đầu ra là gặp ngay Việt Cộng. Chạy đến chảy máu chân cũng không hay. Về tới đây mới biết mình còn sống.
Một ông cụ ngồi nhìn chén cơm mà không ăn, nước mắt rưng rưng:
- Mấy đứa con tôi thất lạc hết rồi. Không biết chúng còn sống hay đã chết. Ngày nào tôi cũng đi tìm chúng nó. Có ai thấy chỉ dùm tôi.
Tỉnh Kontum có khoảng 50 ngàn dân, gồm 30 ngàn người ở thành phố và 20 ngàn người rải rác các quận chung quanh. Người Thượng ở trong những làng mạc xa xôi hẻo lánh. Trong khi dân Kontum di tản về Pleiku hoặc Sài Gòn, dân ở các làng, các quận lại đổ về Kontum tị nạn. Những gia đình giàu có đã đi hết rồi, bây giờ còn lại đa số là gia đình của quân nhân và công chức. Phía bên Mỹ thông báo rằng, đến ngày 1 tháng 5, họ không cấp phương tiện để di tản đồng bào nữa.
Ngày 29 tháng 4, một vị thượng tọa dẫn 5 ngàn tín đồ đi bộ từ Kontum về Pleiku. Đoàn người ngày đi đêm nghỉ, cuối cùng cũng về tới Biển Hồ. Nhà cầm quyền Kontum lo lắng rất nhiều về việc di tản, nhưng không đủ phương tiện. Tướng Ngô Dzu cũng rất khổ tâm về việc này. Một ngày chỉ có 4 chiếc Chinook tiếp tế.
Sự tiếp tế nhỏ giọt nên cũng đến ngày thành phố Kontum không có điện vì thiếu dầu, một số dân trong các làng đói vì thiếu gạo. Bây giờ Kontum đã bị cô lập, cuộc sống của những người còn lại ở đây chỉ mong vào sự tiếp tế của máy bay mỗi ngày.
Thành phố Kontum chỉ mới hoang vắng, nhưng vẫn còn nguyên vẹn. Nguyên vẹn với nét đẹp của một thành phố miền Cao Nguyên. Dòng sông Dabla vẫn lặng lờ uốn khúc quanh co, và trên bờ, màu hoa phượng vĩ vẫn rực rỡ trong khói lửa chiến tranh đang bao trùm thành phố.
Buổi sáng tôi ra phi trường để gửi bài về toà soạn thì chợt bắt gặp một tà áo xanh, màu áo xanh đồng phục của những nữ tiếp viên hàng không Air Việt Nam. Người con gái có đôi mắt to và đen, nét mặt buồn như muốn khóc. Nàng có vẻ lạc lõng giữa một rừng người đang chờ di tản ở phi trường và hình như đang tìm kiếm một người nào đó. Khi đi ngang qua chỗ Đại Úy Hoà và tôi đang đứng nói chuyện với nhau, người con gái dừng lại ấp úng hỏi vị sĩ quan:
- Thưa Đại Úy, Đại Úy có thể cho tôi biết trong số thương binh mà Đại Úy đã di tản về các bệnh viện có Thiếu Úy Nguyễn... không?
Đại Úy Hoà, Quân Y, nhìn người con gái một lát rồi chậm rãi trả lời:
- Tôi làm sao nhớ hết được. Nếu cô cho tôi thêm số quân, đơn vị của người đó, tôi sẽ tìm dùm cho cô. Chừng nào cô mới có chuyến bay trở lại đây?
Người nữ tiếp viên có vẻ mừng rỡ:
- Thiếu Úy Nguyễn..., thuộc Trung Đoàn 42, tôi không nhớ số quân của anh ấy. Sau khi Tân
Cảnh di tản, tôi không được tin tức gì của anh ấy nữa. Tôi tình nguyện bay đường Sài Gòn-Kontum mỗi ngày hai chuyến, sáng và chiều, để lên đây mong kiếm được tin tức của anh. Nhưng mỗi lần máy bay hạ cánh có một tiếng đồng hồ, nên tôi chỉ luẩn quẩn hỏi thăm ở trong phi trường này mà thôi.
Đại Úy Hoà hứa với người nữ tiếp viên hàng không:
- Tôi sẽ hỏi phòng hành quân dùm cô. Đồng thời tôi sẽ dò xem danh sách của thương binh. Trưa nay, lúc máy bay của cô đáp xuống, tôi sẽ ra đây trả lời cho cô. Hiện nay, những người sống sót của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Đoàn 22 và Bộ Chỉ Huy của Trung Đoàn 42 đóng ở Tân Cảnh đã về đây hết, tôi cũng sẽ hỏi thăm dùm cô.
Sau khi người nữ tiếp viên trở lại máy bay về Sài Gòn, Đại Úy Hoà làm đúng lời hứa, đã đi nhiều nơi để dò thăm tin tức. Nhưng tên của người sĩ quan này không có trong danh sách những thương binh, cũng không có mặt trong số những người về từ Tân Cảnh. Vậy chỉ còn một là thất lạc trong rừng, hai là bị lọt vào tay địch, ba là đã chết mất xác.
Tôi thấy Đại Úy Hòa có vẻ ái ngại khi đến giờ phải ra phi trường gặp lại người nữ tiếp viên hồi sáng. Các phi trường Kontum và Pleiku bị pháo mỗi ngày, nhưng nàng vẫn tình nguyện bay lên đây ngày hai chuyến, với hy vọng có chút tin tức hay được gặp lại người yêu.
Buổi trưa tôi từ chối không đi cùng Đại Úy Hoà ra phi trường. Tôi sợ phải nhìn thấy những giọt nước mắt và nét tuyệt vọng trên khuôn mặt hiền lành của người con gái đó. Tôi sợ một câu trả lời từ miệng mình thốt ra là một sự thật phũ phàng dập tắt hết mọi niềm hy vọng. Tình yêu của người con gái đó quá đẹp và quá hiếm trong những ngày ly loạn như hôm nay.
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following User Says Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Chú đoán ông ấy ở khoảng 18 hay 20 . Theo chú nhớ mang mang là có 22 hoặc 27 khóa . Sau năm 1968 thì được gọi khóa 1/ 68 ...2/ 68 cứ thế liên tục đến năm 75 . Mỗi khóa đều có tên riêng sau này . Khóa của chú đeo khăn vàng . khóa kiến thiết 9/73 . Dân Thủ đức đa số là Tổng động viên nhiều hơn là Tình nguyện như võ bị đà lạt . Chương trình học kém hơn đà lạt ( đa lạt học 4 năm ) gái mê nhiều hơn :haf ppy:
Mấy năm trước chú có về họp mặt khóa này Bolsa nhưng người còn người mất ( chung tiểu đoàn 4 phân chia làm 4 đại đội , lâu quá rồi cũng chẳng nhận ra ai chỉ có nhớ kỷ niệm phần nào ở lquân trường rồi đường ai nấy đi làm nhiệm vụ đời trai trong thời chinh chiến
:haf ppy:
Khóa 23 trở về trước Đại Lễ trắng, các khóa sau màu kem
The Following 4 Users Say Thank You to cha12 ba For This Useful Post:
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.