Hỏa Lò, nhà tù Côn Đảo, nhà ngục Sơn La Anh, nhà lao Phú Quốc... từng được mệnh danh là "địa ngục" rùng rợn nhất Việt Nam.
 Hỏa Lò 
  Đây chứng tích cách mạng một thời, ngày càng thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước đến khám phá và tìm hiểu.
Thông thường, nhà tù biệt lập với khu dân cư, riêng Hỏa Lò nằm tại trung   tâm Thủ đô Hà Nội. Bên cạnh là tòa Ðại Hình (nay là trụ sở Tòa án nhân   dân tối cao) và Sở Mật Thám (nay là trụ sở Công an thành phố Hà Nội).  Cả  ba nhà-tòa-sở, tạo thành thế chân kiềng, vững chãi. Từ bên trong khu   vực Hỏa Lò rộng tới 12,908m2 có một đường hầm dẫn thẳng sang tầng hầm   của tòa án. 
Tất cả những phạm nhân bị coi là nguy hiểm, khi đem ra xét xử đều phải   đi theo con đường hầm này. Từ đó còn có hai đường hầm nữa thông ra   ngoài, theo 2 ngả khác cháu. Một chạy sang Sở Mật Thám, còn đường kia là   lối thoát bí mật chạy qua khu chợ 19/12 nay là “Chợ Âm Phủ” để nếu  trại  có bất ngờ bị tấn công thì các cai ngục, giám ngục, giám thị, lính   gác... biết đường tẩu thoát.
  
                              |          
                      | Khu di tích Hỏa Lò hiện còn khá nguyên vẹn với nhiều tư liệu quý. Ảnh: nhovehanoi. |          
      
  Theo tư liệu để lại, trong những ngày mở   cửa đón du khách vào tham quan thì riêng hệ thống cửa sắt, khóa được   mang từ Pháp sang. Các phòng giam, phòng tối, xà lim đều chật chội,   thiếu ánh sáng, không khí. Những tên cai ngục khét tiếng, có thâm niên   cai quản nhà tù, sẵn sàng đàn áp, thậm chí cướp đi sinh mạng của tù   nhân, như những tên: Griman (1930-1931), Betsơ (1940), Cagênô   (1941-1942), Clêmăngti (1944, 1945), Miniconi (1947-1950), Tuxtu (1951-   1954)...
  Sau 3 năm thiết kế và khởi công xây   dựng, bắt đầu từ tháng 1/1899, nhà tù Hỏa Lò bắt đầu đảm nhận việc giam   người. Theo thiết kế ban đầu, Hoả Lò chỉ đủ giam 500 tù nhân, nhưng nó   đã nhiều lần được mở rộng để có thêm chỗ giam giữ tù nhân. Những năm   1950 - 1953, Hỏa Lò giam cầm tới 2.000 người tù. Nơi đây hiện lưu giữ   chiếc máy chém đã được thực dân Pháp dùng lưu động, tháng 1/1930 được   vận chuyển lên Yên Bái để hành hình 13 chiến sĩ Việt Nam Quốc dân đảng   bị bắt trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái.
Nhà tù Hỏa Lò đã trở thành trường học Cách mạng, là môi trường rèn luyện   tư tưởng, ý chí đấu tranh cách mạng… Nơi đây còn lưu giữ nhiều tài   liệu, hồ sơ về những tấm gương bất khuất, chiến đấu hy sinh oanh liệt   của nhiều thế hệ các chiến sĩ cộng sản bị địch bắt tù đày.
  
Nhà tù Côn Đảo
  Côn Đảo là quần đảo ngoài khơi thuộc   tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, cách Vũng Tàu 97 hải lý và cách sông Hậu 45 hải   lý. Đây là 1 trong 21 khu du lịch quốc gia Việt Nam được nhiều du khách   đánh giá là thiên đường của nghỉ dưỡng và khám phá thiên nhiên (rừng và   biển). Năm 1783, Côn Đảo bị nhượng cho Pháp và tới năm 1862, một nhà  tù  được Pháp xây dựng trên quần đảo này nhằm giam giữ những người tù  chính  trị Việt Nam với hệ thống chuồng cọp nổi tiếng.
  
                              |          
                      | Với chế độ tàn bạo của nhà tù, khoảng 20.000 người Việt Nam đã chết và được chôn cất tại Nghĩa trang Hàng Dương nơi này. Ảnh: dulichvietnam. |          
      
  Chuồng cọp có hai khu, mỗi khu có 60   chuồng và 30 hầm đá, giam giữ trên 400 người. Có thời kỳ các khu chuồng   cọp nhốt cả hàng ngàn người. Cứ năm người bị nhốt vào một chuồng bề   ngang 1,45m, dài 2,5m. Ăn, ngủ, tiểu tiện gì cũng chung một chỗ. Chị em   phải thay phiên nhau kẻ ngồi, người nằm. Đêm ngủ phải thay phiên nhau  kẻ  thức, người ngủ, phải thường xuyên nằm chồng lên nhau như “cá mòi  xếp  hộp”. Người nào đã bị đưa vào chuồng cọp thì xem như cái chết đã  cận kề.  Tù nhân vào đây khoảng ba tháng thường là sẽ chết vì bị xiềng  chân, bị  tra tấn, bị bỏ đói.
Ngoài chuồng cọp, ở đây còn nhiều hình thức giam giữ vô nhân đạo   khác như: giam biệt lập trong chuồng bò. Những trại này vốn được xây   dựng để nuôi heo bò nhưng sau này để sử dụng để làm trại tù, nhưng vẫn   có một phần tiếp tục để nuôi súc vật nhằm ngụy trang cho những kiểu tra   tấn rùng rợn.
  Người ta nói rằng mãi đến năm 1975, khi giải phóng Côn Đảo người dân ở   đây nghe có tiếng kêu dưới hầm phân bò và phát hiện ra có người đang  bị  ngâm ở dưới hầm phân có chiều sâu 3m, chứa phân từ chuồng bò để ngâm   những người tù, khi được cứu người tù đó đã bị giòi ăn đến xương, trên   đường đưa vào đất liền cấp cứu thì chết vì sức yếu. Đây là cách tra  tấn  rùng rợn được phát hiện sau cùng.
Với chế độ tàn bạo của nhà tù, khoảng 20.000 người Việt Nam đã chết và   được chôn cất tại Nghĩa trang Hàng Dương nơi này. Từ đó, Côn Đảo gần như   được định danh là “địa ngục trần gian” hơn là chốn thiên đường nghĩ   dưỡng như vốn có của nó.
Đến ngày 1/5/1975, Côn Đảo được giải phóng, quần đảo này mới được trả về   đúng nghĩa là nơi nghỉ dưỡng và nó trở hấp dẫn, bí ẩn hơn hơn bởi có   thêm sự tồn tại của hệ thống nhà tù, chứng tích một thời kỳ chiến tranh   không thể phai mờ...
Nhà ngục Sơn La Anh
  Di tích lịch sử cách mạng nhà ngục Sơn La nằm trên đồi Khau Cả, tổ 9, phường Tô Hiệu, Thị xã Sơn La.
  
                              |          
                      | Thực dân Pháp từng biến nơi đây   thành địa ngục để giam cầm, đầy ải và thủ tiêu ý chí đấu tranh của những   người Cộng sản Việt Nam. Ảnh: giadinh.net. |          
      
  Đây là nhà ngục do thực dân Pháp xây   dựng năm 1908 với diện tích ban đầu là 500 m2, chủ yếu để giam cầm tù   thường phạm. Năm 1930, để tăng cường đàn áp cách mạng Việt Nam, thực dân   Pháp đã mở rộng thêm 1.500m2 và 1.700m2 vào năm 1940 để giam cầm các   chiến sĩ cách mạng.
  Thực dân Pháp đã biến nơi đây thành địa   ngục để giam cầm, đầy ải và thủ tiêu ý chí đấu tranh của những người   Cộng sản Việt Nam. Nhưng cũng chính tại nơi đây, hơn bao giờ hết khí   tiết của những người chiến sĩ cách mạng.
Nhắc đến Sơn La là người ta thường gắn nó với cụm từ "rừng thiêng nước   độc". Hồi đó, không riêng gì người tù mà cả những người dân nơi đây   thường mắc các căn bệnh như phù thũng, kiết lỵ, thương hàn, sốt rét.   Thực dân Pháp lợi dụng sự khắc nghiệt về thời tiết, dịch bệnh làm vũ khí   để giết dần, giết mòn tù nhân. Tại một lá thư mật gửi Thống sứ Bắc Kỳ   vào đầu năm 1932, Xanh-Pu-Lốp, công sứ Tỉnh Sơn La viết: "Xin Ngài cứ   tiếp tục gửi chính trị phạm lên Sơn La. Bọn này nếu ở Hoả Lò là những   hạng hung hăng khó trị, rồi đây lên tới Sơn La, chỉ trong vòng 6 tháng   thôi, vi trùng sốt rét sẽ làm cho chúng trở nên suy nhược..."
 
  Năm 1952, khi thực dân Pháp rút khỏi Sơn   La, đã ném bom nhằm xóa đi dấu vết tội ác của chúng. Lần 2, vào năm   1965, đế quốc Mỹ đã đánh phá thị xã Sơn La phá hủy một phần của nhà   ngục. Năm 1980, Bảo tàng Sơn La tiến hành phục chế lại lần thứ nhất: san   lấp  hố bom, xây dựng lại một số đoạn tường rào bao quanh; lần thứ 2,   vào năm 1994, phục chế lại 2 tháp canh, nhà bếp, trại giam lớn, gia cố   lại hầm ngầm, xây dựng các bức tường của các phòng giam theo dấu vết  của  các nền móng cũ.
  Nhà ngục Sơn La nay trở thành một di   tích lịch sử nổi tiếng, nơi giáo dục truyền thống cho các thế hệ. Hàng   năm Bảo tàng Sơn La đã đón tiếp hàng trăm ngàn lượt khách là các em học   sinh, nhân dân các dân tộc trong tỉnh, sinh viên, khách ngoại tỉnh và   quốc tế tới thăm.
  
Nhà lao Phú Quốc 
Di tích lịch sử nhà lao Phú Quốc hay còn gọi là nhà lao Cây Dừa tọa   lạc tại thị trấn An Thới, huyện Phú Quốc. Nhà lao này được xây dựng từ   thời Pháp, thuộc xóm Cây Dừa trước đây nên mới có tên gọi như vậy.
  
                              |          
                      | Tính đến tháng 10/2008, người ta đã tìm được tổng cộng 1.028 bộ hài cốt liệt sĩ tại nhà lao Phú Quốc. Ảnh: phuquocquetoi. |          
      
  Trại giam Tù binh chiến tranh Phú Quốc   có tất cả là 12 khu (năm 1972) được đánh số từ khu 1 đến khu 12. Riêng   khu 13, 14 được xây dựng thêm vào cuối năm 1972. Mỗi khu trại giam có   khả năng chứa khoảng 3.000 tù nhân. Năm 1972, có khoảng 12 x 3.000 =   36.000 tù nhân. Mỗi khu trại giam lại được chia làm nhiều phân khu.   Thường thì có 4 phân khu. Một phân khu chứa được 950 tù binh. Riêng phân   khu B2 dành riêng để giam giữ các sĩ quan. Tù binh có cấp bậc lớn nhất   là thượng tá. Trại giam Tù binh chiến tranh Phú Quốc do 3 tiểu đoàn  quân  cảnh (7, 8, 12) canh giữ.
  Ngoài ra, Phú Quốc cũng có một trại giam   tù hình sự, giam giữ những tù nhân thường phạm bị kết án 10 năm trở   lên, ở thị trấn Dương Đông, mặt tây của đảo.
 
  Trong chiến tranh Việt Nam, tù binh   chiến tranh tại Trại giam tù binh Phú Quốc đã phải chịu những hình phạt,   tra tấn như đóng đinh vào tay, chân, đầu; đốt dây kẽm cháy đỏ đâm vào   da thịt, đục răng, trùm bao bố chế nước sôi hoặc đổ lửa than, ném vào   chảo nước sôi, thiêu sống, chôn sống... Trong thời gian tồn tại không   đầy 6 năm (từ tháng 6/1967 đến 3/1973), trại giam tù binh Phú Quốc có   hơn 4.000 người chết, hàng chục ngàn người bị thương tật tàn phế. 
 
  Tính đến tháng 10/2008, người ta đã tìm   được tổng cộng 1.028 bộ hài cốt liệt sĩ tại nhà lao Cây Dừa. Hầu hết  đều  là liệt sĩ vô danh, không rõ họ tên, tuổi, quê quán, không rõ ngày  hy  sinh, do quá trình bị địch bắt giam, tù đày tra tấn đến chết ở đâu  thì  vùi xác tại đó. Theo một số tư liệu lịch sử, hiện nay, dưới lòng  đất  vùng nhà lao Cây Dừa còn có gần 3.000 bộ hài cốt liệt sĩ chưa được  tìm  thấy. Nơi được xác định nhiều hài cốt liệt sĩ nằm lại là ngọn đồi  phía  Tây Nam nhà lao. Tại đây, người ta đã cho xây dựng Khu tưởng niệm  hoành  tráng, đồ sộ...
 
  Khu di tích ngày nay nằm trên khu vực   chính nhà lao cũ, có nhà trưng bày hiện vật xây hai tầng và khu trưng   bày ngoài trời những hiện vật nguyên gốc và hầu như nguyên vị trí. Nhà   lao Cây Dừa được công nhận là di tích lịch sử năm 1996 và bắt đầu mở cửa   đón du khách đến tham quan. Mỗi năm khu di tích đón hơn 10.000 lượt   khách.
 
Chia sẻ qua:  
  
  
 			Theo Đất Việt