Samuel A Bleicher
 Theo: Blog ABS
 
  Đôi lời: Với sự hiểu  biết sâu sắc không chỉ về t́nh h́nh chính trị Trung Quốc, mà c̣n về các  lĩnh vực lịch sử, văn hóa, địa lư, dân tộc học, thậm chí cả triết lư  sống –  một điều hiếm thấy ở một nhà báo phương Tây – tác giả, ông  Samuel Bleicher đă từng làm việc cho Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, cũng như đă  trải qua nhiều năm sống và làm việc ở Trung Quốc. Ông Bleicher hiện là giáo sư liên kết của Đại học Geogertown, có công ty tư vấn riêng mang tên, The Strategic Path LLC.
 Qua bài phân tích này, ông Bleicher đă  chỉ ra rằng, sự thay đổi chế độ ở Trung quốc không thể sớm xảy ra một  cách dễ dàng, khác với các nhận định đơn giản của khá nhiều người, trong  đó có một số kinh tế, chính trị gia, cho rằng, sự sụp đổ ở Trung Quốc  tất yếu sẽ xảy ra một khi nền kinh tế ở nước này bị suy thoái. Ngay cả  khi xung đột xă hội căng thẳng đang diễn ra ở Trung Quốc cũng khó có thể  đủ để châm ng̣i cho một cuộc cách mạng ở nước này.
 Tuy nhiên, điều thú vị chính là ở chỗ,  tác giả đă chỉ ra các kịch bản thay đổi chế độ có khả năng xảy ra, tuỳ  thuộc vào các điều kiện trong và ngoài nước. Trong một thế giới liên kết  chặt chẽ của thời đại toàn cầu hóa mà Trung Quốc đă chấp nhận tham gia  cuộc chơi và đă được hưởng khá nhiều lợi ích từ thế giới bên ngoài, các  yếu tố chính trị, kinh tế, dân chủ và quân sự bên ngoài chắc chắn ảnh  hưởng đến sự thay đổi này. Nhưng quan trọng hơn cả là vận mệnh chính trị  Trung Quốc, giờ đâykhông chỉ là ván cờ giữa các phe phái  trong giới lănh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc, mà người dân Trung quốc  bắt đầu đóng vai tṛ chính trong cuộc chơi và cũng chính họ cuối cùng sẽ  là những người chiến thắng trong ván cờ này.
 ————
 
Foreign Policy in Focus
 Samuel A Bleicher
 13-09-2011
 Có một hợp đồng xă hội được ngầm hiểu,  đặt nền tảng cho mối quan hệ giữa người dân Trung Quốc với chính quyền.  [Theo hợp đồng đó] người dân chấp nhận sự chuyên chế của Đảng Cộng sản  Trung Quốc, với tệ nạn tham nhũng và sự tham gia tối thiểu của công  chúng [trong việc điều hành đất nước], chính quyền cộng sản Trung Quốc  không ngừng cải thiện nhanh đời sống kinh tế. Nhưng hợp đồng xă hội đó  đang có nguy cơ bị phá vỡ, do Trung Quốc đang trên con đường [phát  triển] không bền vững, sẽ dẫn đến sự tŕ trệ hoặc suy giảm kinh tế trong  những thập niên tới.
 Thủ phạm đứng sau sự suy thoái đang đe  dọa Trung Quốc là các giới hạn sinh thái, hiện đứng đầu danh sách này.  Chẳng hạn như, trong quyển sách khi một tỷ người Trung Quốc hành động (Nguyên văn: When A Billion Chinese Jump),Jonathan  Watts liệt kê danh mục các thảm họa sinh thái hiện tại, cũng như các  thảm họa tiềm ẩn: khai thác mỏ than đến cạn kiệt ở các tỉnh miền Tây khô  ráo, đánh bắt cá và hải sản quá mức, thiếu nước và ô nhiễm nước công  nghiệp, khai thác các khu rừng nguyên sinh và đồng cỏ đến mức không thể  phục hồi được, tất cả những điều vừa kể càng làm tăng thêm hiệu ứng do  sự thay đổi khí hậu toàn cầu.
 Kế đến là do sự điều hành thiếu hữu  hiệu: các quyền sở hữu đáng tin cậy, nền hành chính trung thực, sự giám  sát pháp lư công bằng. Sự điều hành thiếu hữu hiệu kể trên không những  gây khó khăn về mặt xă hội, mà c̣n được coi như là chướng ngại quan  trọng, ngăn cản nền kinh tế tiếp tục phát triển. Những nghiên cứu gần  đây cho rằng, tiến bộ kinh tế tương quan với sự quản lư điều hành tốt,  Mark Whitehouse công bố trên báo Wall Street Journal rằng: “
Trung  Quốc đă đạt được tiến bộ lớn trong việc giúp người dân thoát khỏi thứ  hạng các nước nghèo nhất. Nhưng nếu kinh nghiệm của các nước khác là một  chỉ dấu nào đó, th́ Trung Quốc cần một cuộc cách mạng để trở thành một  quốc gia giàu có“.
 Một sức ép thứ ba lên hệ thống của Trung Quốc là sự lựa chọn kinh tế vĩ mô của chính phủ không bền vững. Theo Strafor, sự mất cân đối trong đầu tư ở Trung Quốc, cấu trúc kinh tế theo kiểu vụ lợi, chắc chắn tạo ra “
một cuộc chạy đua không những giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ hoặc thậm chí giữa Trung Quốc và thế giới” mà là “
một  cuộc đua để xem điều ǵ sẽ đập vỡ Trung quốc trước, sự mất cân bằng nội  tại của chính Trung Quốc hay quyết định của Hoa Kỳ thực hiện biện pháp  vụ lợi hơn đối với mậu dịch quốc tế“.
 Khi một hoặc nhiều sức ép kể trên gây ra  sự tŕ trệ kéo dài hoặc suy thoái kinh tế, chính quyền ĐCSTQ sẽ không  thể đem lại tăng trưởng kinh tế như đă hứa hẹn. Các thảm họa kinh tế và  xă hội sắp xảy ra, gồm sự phụ thuộc vào các nguyên liệu thô nhập khẩu  đắt đỏ ngày nhiều, nhu cầu xuất khẩu bị giảm đáng kể, các vụ bạo loạn do  công nhân nghành xuất khẩu và các sinh viên đại học tốt nghiệp bị thất  nghiệp gần đây, sự sụp đổ trong ngành bất động sản, lạm phát tăng nhanh  và sự khan hiếm thực phẩm ở các vùng thành thị.
 Một cách rơ ràng hay ngầm hiểu, nhiều điều trong các cuộc thảo luận về “
con đường không bền vững”  cho rằng, sự tŕ trệ hoặc suy thoái kinh tế sẽ huỷ diệt chế độ CSTQ,  một khi chế độ này thất bại trong thực hiện được hợp đồng xă hội. Có  nhiều thay đổi chế độ tương tự, từ sự sụp đổ mang tính lịch sử của các  triều đại Trung Quốc và sự sụp đổ của Liên Xô cùng chế độ cộng sản ở các  nước đồng minh Đông Âu, cho đến Cách Mạng màu trong những năm 2000, và  gần đây là các cuộc nổi dậy Mùa Xuân Ả Rập ở Tunisia, Ai cập, Yemen,  Lybia và Syria.
 Tuy nhiên, đặc tính của một nước Trung  Quốc đương đại lại hoàn toàn khác so với những nước đă có sự thay đổi  chế độ vừa kể. Đặc thù của Trung Quốc khiến cho chế độ CSTQ khó có thể  tan ră đột ngột, ngay cả khi phải liên tục đối mặt với khó khăn về kinh  tế. Câu hỏi thực sự là, liệu chế độ này sẽ đáp ứng bằng cách thay đổi  thành một chế độ cởi mở hơn, một chế độ có sự tham gia của quần chúng,  hay một nền chuyên chế ngày càng tàn bạo và bị cô lập. Chỉ có giới lănh  đạo và nhân dân Trung Quốc là những người cuối cùng có thể thực hiện sự  lựa chọn hệ trọng này. Hoa Kỳ và phương Tây cần đi những bước thận trọng  để tránh bị cho là nguyên nhân gây ra sự nguy khốn về kinh tế ở Trung  Quốc.
 
Tác động của các yếu tố kinh tế và văn hóa 
 Mặc dù có những điểm giống nhau có thể  dễ dàng nhận ra, chế độ CSTQ chắc chắn sẽ không sụp đổ giống như chế độ  chuyên chế toàn trị ở Liên Xô hoặc chế độ Mubarak ở Ai Cập. Trung Quốc  thuộc loại khác, do vấn đề dân số và văn hóa, cấu trúc kinh tế và chính  trị hợp thành một thể thống nhất có tính quốc gia, cũng như bản chất của  sự đối kháng quần chúng. Quan niệm cho rằng, khi tăng trưởng kinh tế  chấm dứt sẽ làm cho chế độ CSTQ sụp đổ, đă bỏ qua yếu tố thực tế về xă  hội Trung Quốc.
 Đặc thù của Trung Quốc trước hết là tính  đồng nhất về văn hóa của nước này. Trong số 1,3 tỷ dân th́ 92% là người  Hán, có cùng ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo và các quan điểm triết lư, và  thể chất tương tự, làm giảm thiểu sự chia rẽ. Dân chúng ở các vùng tự  trị Quảng Châu, Nội Mông, Tây Tạng, và Tân Cương có đặc thù ngôn ngữ,  văn hóa, diện mạo, và với nhiều mức độ khác nhau, họ xem ḿnh không phải  người Hoa. Nhưng không một sắc tộc nào trong số 56 dân tộc thiểu số ở  Trung Quốc có đông hơn 1,25% dân số Trung Quốc. Tây Tạng là những người  được quốc tế biết rơ nhất, dân số cũng chưa tới 6 triệu người. Hơn nữa,  thực tế địa lư ràng buộc chặt chẽ giữa các vùng tự trị đó với Trung Quốc  về mặt kinh tế, và chế độ CSTQ đang thúc đẩy các mối liên hệ đó qua  việc di cư người Hán.
 Liên Xô là nước có “kịch bản thay đổi  chế độ” duy nhất gần giống Trung Quốc về mặt qui mô dân số, nhưng ngay  từ đầu, Liên Xô đă là một liên bang, gồm các nước cộng ḥa tách biệt về  ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo và có mức sống khác nhau. Phần lớn những  nước đă từng trải qua sự thay đổi chế độ là những nước nhỏ hơn Trung  Quốc rất nhiều và không đồng nhất về văn hóa. Ai Cập là nước lớn nhất  trong các nước xảy ra cách mạng Mùa Xuân Ả Rập, cũng chỉ có 78 triệu  người, và khoảng 90% dân số theo đạo Hồi. Năm trong mười tám tỉnh ở  Trung Quốc có dân số lớn hơn thế. Nước lớn nhất đă xảy ra Cách Mạng màu  là Ukraine, có dân số dưới 50 triệu người, trong đó có 20% là người sắc  tộc và sử dụng tiếng Nga.
 Văn hóa Trung Hoa đă duy tŕ tính liên  tục bền vững, nhưng cấu trúc kinh tế và xă hội đă thay đổi một cách đột  ngột trong 30 năm qua. Hầu hết các hoạt động kinh tế giờ đây là một phần  của một thể hợp nhất, với các công ty nhà nước và tư nhân trên danh  nghĩa do chính quyền chỉ đạo, hợp tác để mở rộng sản xuất. Khoảng một  nửa dân số sống ở thành thị. Chính sách định hướng xuất khẩu về “
chủ nghĩa xă hội mang màu sắc Trung Quốc”  đă khiến các vùng duyên hải giàu có phụ thuộc nặng nề vào sự thâm nhập  thị trường nước ngoài và nguồn lao động nội địa, cũng như nguyên liệu  thô.
 Khác với các triều đại Trung Quốc trước  đây, nông nghiệp không c̣n là yếu tố chi phối hệ thống kinh tế Trung  Quốc. Nền tài chính của chế độ CSTQ không c̣n phụ thuộc vào thuế của các  sản phẩm nông nghiệp. Thay vào đó, Trung Quốc trợ cấp các vùng nông  thôn bằng ngân quĩ có được từ xuất khẩu. Nguồn dự trữ ngoại tệ dùng để  nhập khẩu thực phẩm trong giai đoạn đói kém và hạn hán. Một cuộc nổi dậy  của nông dân giống như thế đă từng bị các triều đại phong kiến đàn áp,  khó có thể xảy ra để lật đổ chế độ hiện tại.
 Nền kinh tế kế hoạch của Liên Xô không  có sự trao đổi mậu dịch với nước ngoài, các sản phẩm và dịch vụ c̣n  tương đối thô sơ và bị lệch theo hướng có lợi cho Moscow và St.  Petersburg (2 trung tâm quyền lực chính trị của Liên Xô thời bấy giờ –  ND). Các nước cộng ḥa ở châu Âu và các đồng minh Liên Xô đă dự đoán  chính xác rằng, có thể cải thiện nhanh mức sống bằng cách thoát khỏi  Liên Xô và mở cửa giao thương với Tây Âu. [Trong khi đó] không hề có sự  thúc đẩy tương tự ở một vùng nào của Trung Quốc vốn đă được hưởng lợi từ  thương mại quốc tế cũng như đang dựa vào mậu dịch quốc tế. Bất kỳ tỉnh  nào cố tách ra khỏi Trung Quốc sẽ chịu hậu quả nặng nề về mặt kinh tế.
 Mặc dù thu nhập trung b́nh ở Trung Quốc  gần bằng những nước đă trải qua cách mạng Mùa xuân Ả Rập và Cách Mạng  màu, hơn 200 triệu người Trung Quốc hiện đang được hưởng đời sống “trung  lưu” thành thị. T́nh trạng kinh tế của họ phụ thuộc vào sản xuất ở các  xí nghiệp, xây dựng, thương mại quốc tế và tài chính. Tỷ lệ thất nghiệp ở  Trung Quốc năm 2008 là 4%, và hầu hết mọi người đều có việc làm v́ lư  do kinh tế lẫn văn hóa. Tỷ lệ thất nghiệp năm 2008 được báo cáo là 30% ở  Lybia, 14% ở Tunisia và 8% ở Ai Cập và đó là con số trước khi xảy ra  khủng hoảng tài chính toàn cầu. Không kể đến xuất khẩu dầu, những nước Ả  Rập này là những nước kém phát triển nhất, năng suất lao động kém hiệu  quả nhất trên thế giới.
Các lực lượng chính trị đối lập
 Giờ đây, chế độ CSTQ thực hiện theo mô  h́nh lănh đạo ở các tập đoàn công ty, với các nhiệm kỳ đă được xác định  rơ, đem lại một mức độ ổn định mà các chế độ cộng sản khác chưa bao giờ  đạt được. Sự quá đáng của Mao và “Bè lũ bốn tên” cảnh báo chống lại bất  cứ điều ǵ dẫn đến sự cai trị của một người. Trung Quốc mong muốn được  quốc tế tôn trọng, với khuynh hướng có tính văn hóa sâu sắc, ủng hộ sự  đồng thuận, ngăn cản bất cứ ư kiến cấp tiến nào, nên chỉ có thể quyết  định được những chuyện nhỏ mà mọi người đồng thuận (*). Chế độ ủy ban  không rơ ràng là sự tương phản của chủ nghĩa “sùng bái cá nhân”, có mặt ở  hầu hết các nước đă trải qua sự thay đổi chế độ đột ngột.
 Mục tiêu của chế độ CSTQ là “một xă hội  hài ḥa” dựa trên “qui luật phát triển khoa học”. Một số ít người Trung  Quốc nghi ngờ giới lănh đạo trung ương muốn cải thiện kinh tế tốt hơn,  bất cứ điều ǵ họ nghĩ tới, đều dẫn đến vấn đề nhân quyền. Một lực lượng  đối lập thống nhất chống lại các ủy ban hoạt động theo phương pháp đồng  thuận th́ khó hơn là chống lại một cá nhân lănh đạo tự khoe khoang, tô  vẽ, rất dễ nh́n thấy.
 Về mặt hành chính, chế độ CSTQ là một  thể chế thống nhất. Quan chức trong các tỉnh thay phiên nhau điều hành  và thường ít có sự liên hệ với hệ thống pháp lư mà họ điều hành. Tương  tự, quân đội cũng hoạt động như một tổ chức quốc gia thống nhất. Các sỹ  quan quân đội cao cấp là đảng viên Đảng Cộng sản, tham gia một cách tích  cực. Sự sắp đặt này nhằm cổ vũ cho sự trung thành đối với thể chế quốc  gia và ngăn chặn các liên minh đối lập hoặc các lực lượng ly khai tiềm  ẩn.
 Do mối liên hệ sâu sắc về chính trị và  kinh tế giữa Trung Quốc với thế giới bên ngoài, hoạt động [của đất nước]  sẽ không thực tế nếu thiếu [sự điều hành của] một chính phủ trung ương  hữu hiệu. Phá vỡ [sự thống nhất quốc gia] sẽ bị nguyền rủa về mặt tâm lư  đối với đa số người dân Trung Quốc, những người được học về một nước  Trung Quốc “yếu đuối” bị các cường quốc đế quốc làm nhục hồi thế kỷ 19.   Bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài cũng sẽ làm cho người dân Trung  Quốc đoàn kết để chống lại.
 Hơn nữa, trong một thế giới được trang  bị vũ khí nguyên tử và liên kết với nhau về mặt kinh tế, các nước khác  cũng muốn làm việc với một chế độ trung ương có quyền hành về quân đội,  chính trị và kinh tế. Việc các cường quốc và các tổ chức quốc tế tiếp  tục công nhận chế độ CSTQ sẽ phá hoại các phong trào đối lập và ly  khai. Thời kỳ “các nước trong t́nh trạng chiến tranh” xuất hiện trở lại  (hoặc đưa Đài Loan trở về với Đại Lục) là điều không thể tưởng tượng có  thể xảy ra trong thế kỷ 21.
 Hàng ngàn người biểu t́nh phản đối chính  quyền, các vụ biểu t́nh, nổi loạn và các hành động bạo lực đă xảy ra ở  Trung Quốc hàng năm. Nhưng hầu như tất cả đều phát sinh từ những hành vi  tệ hại ở cấp địa phương hoặc công ty: các kiểu làm ăn suy đồi [về đạo  đức] như: giả mạo thực phẩm, xây dựng trường học bằng hàng dỏm, làm ô  nhiễm môi trường hoặc đối xử tuỳ tiện với những người dân dám thách thức  các quan chức tham nhũng. Các nhóm chống đối thường kêu gọi sự giúp đỡ  của [chính quyền] Bắc Kinh, thỉnh thoảng chính quyền cũng trở thành anh  hùng do thực hiện các hành động sửa sai.
 Chế độ CSTQ tấn công dữ dội vào bất kỳ  tổ chức quốc gia nào mà họ không công nhận, dù là tổ chức tôn giáo (Pháp  Luân công) hay chính trị (Tuyên ngôn 2008). Lo sợ về một cuộc “Cách  mạng hoa nhài” ở Trung Quốc hay các cuộc biểu t́nh nhỏ tổ chức trên mạng  Twitter đă xảy ra trong năm 2011, các bộ phận an ninh Trung Quốc đă  phản ứng bằng cách đánh phủ đầu, kể cả việc bắt giữ và làm biến mất  những người “
gây rối” như họa sĩ nổi tiếng Ngải Vị Vị và 20  luật sư nhân quyền hàng đầu của nước này. Chế độ này cũng bắt đầu kiểm  soát các phương tiện liên lạc điện tử hết sức tinh vi. Những hành động  đó đă vô hiệu hóa bất kỳ mối đe dọa nhỏ nhặt nào có thể tồn tại mà họ  thấy.
 Thời Trung Hoa đương đại chỉ có vài sự  kiện có thể tập trung sự giận dữ ảnh hưởng tới chế độ. Các cuộc bầu cử  có nhiều ứng viên trong nội bộ đảng chỉ xảy ra ở cấp địa phương. Chẳng  có sự thống nhất quan trọng nào có thể so sánh được với các cuộc bầu cử  gian lận ở những nước xảy ra Cách Mạng màu. Bất kỳ sự chống đối đáng kể  nào đối với thể chế quốc gia này đều phải đối mặt với thực tế khó khăn  lớn, khi thiếu một tổ chức hoặc không có những người lănh đạo ở tầm quốc  gia.
 Sự bất b́nh về tai nạn tàu cao tốc gần  Ôn Châu xảy ra gần đây đă lan rộng trong quần chúng và tiếp theo là sự  che đậy bằng cách dập tắt các tin tức có liên quan, cho thấy có khả năng  [xảy ra] một kiểu châm ng̣i khác [cho quần chúng]. Bộ Đường sắt Quốc  gia chịu trách nhiệm trực tiếp về chương tŕnh tàu cao tốc, và v́ vậy sự  căm ghét của công chúng nhắm trực tiếp vào cấp trung ương của chế độ  CSTQ. Chính quyền đă sa thải 3 viên chức cao cấp trong Bộ Đường sắt và  chắc chắn sẽ đền bù thiệt hại cho những người bị thương, nhưng các hành  động như thế không giải quyết được mối lo ngại sâu sắc của người dân về  chính sách, sự minh bạch, và xử lư vấn đề đúng luật. Một thảm họa lớn  như vụ tai nạn ḷ phản ứng hạt nhân Fukushima tan chăy có thể dấy lên sự  chống đối chế độ CSTQ mạnh mẽ và liên tục. Tuy nhiên, mặc dù các dự án  được kiểm soát ở tầm quốc gia, đặc biệt là các nhà máy năng lượng hạt  nhân, sẽ trở nên phổ biến hơn khi Trung Quốc tiến bộ hơn về mặt kỹ  thuật, khả năng một tai nạn lớn có thể làm rung chuyển chế độ CSTQ dường  như rất nhỏ.