Công ước của Liên Hợp Quốc và Luật Biển ra đời từ  năm  1982, song đến nay, những vụ tranh chấp và cố t́nh vi phạm lănh hải  vẫn  xảy ra giữa nhiều nước trên thế giới khiến đại dương luôn... dậy  sóng.
“Sóng gió” Malvinas
Từ  năm 2000 sản lượng dầu khí tại các mỏ của Anh ở  biển Bắc đă giảm dần  đều, và các công ty dầu khí chính của họ như BP  và Shell đang rời bỏ nơi  đây để t́m kiếm các nguồn trữ lượng khác có  lợi nhuận cao hơn như tại  Trung Đông và Trung Á.
Nước Anh từ vị thế  xuất khẩu đă trở thành nước  nhập khẩu khí đốt. Các chuyên gia đă trù  tính việc dỡ bỏ dần dần các  giàn khoan dầu tại biển Bắc từ nay tới năm  2035.
Nguồn trữ lượng đầy tiềm năng tại vùng  biển bao  quanh Malvinas sẽ đóng vai tṛ thay thế những mỏ dầu cạn kiệt  trên,  nhưng ngoài dầu khí và hải sản phong phú, quần đảo này c̣n là điểm  nút  quan trọng để Anh có thể đ̣i hỏi quyền lợi được thăm ḍ và khai  thác  dầu khí tại Nam Đại Tây Dương, Nam Đại Dương và Nam Cực.
  | 
Tàu tuần tra thuộc Hạm đội IV của Mỹ hiện diện thường xuyên ở vùng biển tranh chấp Malvinas. 
   
  | 
Tuy  nhiên, trên thực tế,  Argentina lại cũng đang khăng khăng cho rằng,  Malvinas là thuộc chủ  quyền của nước này. Các cuộc khẩu chiến giữa Anh  và Argentina vẫn tiếp  tục diễn ra. Trong khi đó, có thể nhận thấy một  phần chiến lược ngoại  giao của Anh trong vấn đề này là cố gắng giành  giật thời gian, nhằm có  thể tiến hành thêm nhiều hoạt động cụ thể để  củng cố chủ quyền thực tế  tại quần đảo đang tranh chấp này.
Hồi  tháng 5.2010, một giàn khoan thăm ḍ dầu khí  của Công ty Ocean Guardian  đă được đưa tới Malvinas và hiện đă bắt đầu  hoạt động tại vùng biển  quanh quần đảo, và theo dự báo, nhiều giàn  khoan tương tự cũng sẽ được  chuyển tới trong thời gian tới.
Trong khi đó,  Mỹ lại tăng cường hiện diện tại khu  vực Nam Đại Tây Dương với Hạm đội  IV mới được tái khởi động và các căn  cứ không – hải quân sử dụng chung  với Anh, như tại Ascención và  Malvinas và tạo lợi thế tại chính Nam Cực  với các căn cứ rải rác của  Lực lượng pḥng thủ bờ biển, các dự án tăng  cường sức mạnh không quân  tại đây và thậm chí đă có một sân bay hoạt  động thường xuyên (Amundsen –  Scott, cho tới nay vẫn được đăng kư là sân  bay khoa học) nằm tại ngay  điểm cực.
Về phần  Argentina, học thuyết quân sự hiện tại của  nước này hoàn toàn mang tính  pḥng thủ, loại bỏ mọi khả năng tấn công  hay răn đe, điều có lợi tới  mức khó tin cho người Anh. Đối với Bộ Quốc  pḥng Argentina, quốc gia này  không có giả thuyết xung đột và không có  kẻ thù trong hay ngoài khu  vực. Argentina đă chấp nhận một thái độ hoàn  toàn mang tính pḥng ngự,  và chỉ đáp trả khi bị một nước khác tấn công  bằng quân sự.
Một  cuộc chiến thầm lặng giữa nội bộ các cường  quốc phương Bắc (cả Nga và  Trung Quốc cũng sẽ sớm nhảy vào cuộc) đang  được triển khai tại Nam Cực,  mặc dù một số nước phương Nam cũng không  muốn chậm chân theo sau các sự  kiện này.
Trong đó, Australia với yêu cầu khu  đặc quyền 2,5  triệu km2 tại Nam Đại Dương (được Liên Hợp Quốc phê chuẩn  năm 2008) đă  tăng đáng kể chi phí quân sự, mức tăng cao nhất kể từ  Chiến tranh thế  giới thứ Hai. Đằng sau Hiệp ước bảo vệ Nam Cực 1959 –  với mục đích công  khai là bảo tồn lục địa băng giá này như một không  gian thiên nhiên để  phát triển ḥa b́nh là cả một đấu trường nóng bỏng  và khốc liệt.
Vụ GCX nổi danh
Trong  số những vụ tranh chấp trên biển, hồ sơ  “GCX” giữa Guyana và Suriname  đă nổi danh trên trường quốc tế bởi không  chỉ có khẩu chiến, các vụ đấu  súng cũng đă được giải quyết thỏa đáng  sau khi cả hai bên lôi nhau ra  ṭa án quốc tế.
Guyana và Suriname là hai  quốc gia nhỏ bé Nam Mỹ  bên bờ Đại Tây Dương. Do là hai quốc gia liền kề  nên vùng biển, kể cả  thềm lục địa, mà Guyana và Suriname được hưởng theo  quy định của Công  ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 chồng lấn  lên nhau và cần  phải phân định.
Hai bên tuy  chưa tiến hành phân định biên giới  biển nhưng đều cho phép các công ty  dầu khí nước ngoài tiến hành các  hoạt động thăm ḍ tại vùng biển chồng  lấn. Trong số các nhà thầu của  Guyana có Tập đoàn CGX của Canada bắt đầu  tiến hành thăm ḍ địa chấn  tại khu vực tranh chấp từ năm 1999. Tháng  5.2000, Suriname yêu cầu  Guyana chấm dứt toàn bộ các hoạt động thăm ḍ  tại khu vực tranh chấp.
Một trong  những  ḥn đảo tranh chấp nóng bỏng nhất hiện nay đó là đảo Kuril (theo  cách  gọi của Nga) c̣n người Nhật gọi là lănh thổ phương Bắc. Quan hệ  ngoại  giao giữa Nga và Nhật Bản gia tăng căng thẳng sau các chuyến thăm  của  lănh đạo cấp cao Nga tới vùng biển đảo này. Nhật lên án và gọi kế  hoạch  triển khai tên lửa chống tàu ngầm của Nga tại đảo tranh chấp Kuril  là  "vô cùng đáng trách". Trong khi đó, Mátxcơva cho biết, có thể sẽ  điều  một hoặc thậm chí hai tàu đổ bộ Mistral tới Thái B́nh Dương để bảo  vệ  quần đảo Nam Kuril đang tranh chấp này.
  
Đỉnh  điểm của tranh căi giữa hai bên là sự việc  diễn ra ngày 3.6.2000 khi  hai tàu hải giám của lực lượng hải quân  Suriname tiến đến gần tàu khoan  dẫn dầu C.E. Thornton của CGX, yêu cầu  chấm dứt hoạt động và áp giải tàu  này rời khỏi khu vực hoạt động đă  được Guyana cấp phép.
Năm  2004, Guyana đă đơn phương sử dụng cơ chế giải  quyết tranh chấp bắt  buộc theo quy định của Công ước Luật biển năm  1982 để giải quyết vùng  biển chồng lấn với Suriname. Một ṭa trọng tài  gồm 5 luật gia quốc tế  được thành lập để giải quyết tranh chấp theo đề  nghị của Guyana do cả  Guyana và Suriname đều đă là thành viên của công  ước này và không bảo  lưu việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp bắt  buộc.
Guyana  cáo buộc Suriname đă vi phạm một số nghĩa  vụ quốc tế trong sự kiện CGX,  trong đó có việc, Suriname đă sử dụng vũ  lực chống lại sự toàn vẹn lănh  thổ của Guyana và chống lại công dân  cùng các thực thể khác hoạt động  trên vùng biển thuộc chủ quyền và  quyền tài phán của Guyana.
Guyana  cũng yêu cầu ṭa ra phán quyết yêu cầu  Suriname khắc phục những thiệt  hại phát sinh đối với Guyana, trong đó  có cả việc bồi thường, do đă vi  phạm nghĩa vụ quốc tế nói trên.
Ṭa trọng tài  trong phán quyết ngày 17.9.2007 cho  rằng, trong sự kiện CGX, Suriname  đă vi phạm nguyên tắc cấm đe dọa sử  dụng vũ lực theo Công ước Luật Biển,  Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật  pháp quốc tế nói chung.
Quang Minh (tổng hợp)
   DVO