| R10 Vô Địch Thiên Hạ 
				 
				Join Date: Dec 2006 
					Posts: 88,250
				 Thanks: 11 
		
			
				Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
			
		
	 Mentioned: 5 Post(s) Tagged: 0 Thread(s) Quoted: 8 Post(s) 
				
				
  
    Rep Power: 109      | 
			
			Các trường học thử mọi  phương kế khác nhau để đảo ngược khuynh hướng “chảy máu chất xám” và vận  động người Việt ở nước ngoài góp phần vào sự nghiệp giáo dục trên quê  hương họ.
  Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam  — Pḥng thí nghiệm công nghệ cao của ông Vơ Văn Tới tương phản với  khung cảnh nghèo đói xung quanh. Bên ngoài, gia súc đi rông trên những  cánh đồng lầy lội chăn thả gia súc và những người dân lấn chiếm đất ở đó  ngụ trong những căn lều gỗ, bán mía đường. Bên trong, ông trưng bày  chiếc máy đo quang phổ cận hồng ngoại, dùng để đo nồng độ ô-xy trong  máu, và một máy chụp CT cắt lớp.
  Sự tương phản đó mô tả ngắn gọn  t́nh h́nh phát triển hiện nay ở Việt Nam: Đó là một quốc gia tương đối  nghèo, GDP đầu người 3.000 USD, đang cố gắng bám theo bước nhảy vọt của  những nước láng giềng châu Á to lớn hơn, để bước chân vào kỷ nguyên nhà  chọc trời và mậu dịch quốc tế. Để làm được điều ấy, họ cần đạt được một  trạng thái dư thừa công nghệ mới – và cùng với đó là những con người đổi  mới.
  Vậy Việt Nam có thể lấy lực lượng căn bản các kỹ sư, nhà khoa học và học giả từ đâu?
  Từ nước ngoài, đặc biệt từ  những người Việt hải ngoại biết tiếng Việt và hiểu văn hóa Việt. Họ, như  ông Vơ, đang tiếp thêm sinh lực cho sự tăng trưởng của đất nước, với  tốc độ tăng trưởng đạt tới mức hai con số vào thời kỳ trước khi xảy ra  suy thoái kinh tế 2008.
  Ông Vơ là một trong số rất  nhiều người đă trở về thành phố quê hương, sau khi rời đất nước vào năm  1968 tại thời kỳ cao điểm của cuộc chiến tranh Việt Nam.
  Nhận bằng tiến sĩ ở Thụy Sĩ,  ông làm nghiên cứu sau tiến sĩ tại một trung tâm kỹ thuật y sinh học hợp  tác giữa trường Harvard và MIT (Học viện Công nghệ Massachusettes –  ND). Hai thập niên sau, ông gia nhập Đại học Tufts. Vốn là một chuyên  gia về thiết bị y tế khoa mắt, ông xây dựng nên chương tŕnh kỹ thuật y  sinh của trường Tufts và giúp họ mở khoa kỹ thuật y sinh vào năm 2003.
  Ông Vơ được công nhận giáo sư  tại Đại học Quốc tế ở Việt Nam, nơi ông thành lập khoa kỹ thuật y sinh  mà giờ đây có khoảng 60 sinh viên. “Bây giờ là thời điểm tốt” – ông Vơ  nói. “Lượng tiêu thụ thiết bị y tế ở đây là cực lớn, trong khi nguồn  cung cấp trong nước th́ gần như không có”. Ông kỳ vọng nhu cầu đối với  số sinh viên tốt nghiệp của ông sẽ ngày càng tăng, mặc dù sẽ phải mất  thời gian để Việt Nam bắt đầu tăng trưởng. Một  thanh niên Việt Nam nói chuyện qua điện thoại di động trong khi đạp xe  qua một chiếc cầu sắt từ thời thực dân cũ ở ngoại vi thành phố Hà Nội  ngày 27-10-2010 Bẫy thu nhập trung b́nh
  Năm 2008, Việt Nam đạt mức thu  nhập đầu người 1.000 USD, nằm ở cực thấp của dải các nước thu nhập trung  b́nh do Ngân hàng Thế giới (WB) xếp hạng. Lượng tài sản mới tạo ra dồn  cả vào khu vực thành thị, nơi số nhà máy và nhà ổ chuột đang ph́nh thêm  ra, tương phản với những ṭa cao ốc xa xỉ. Nhưng nếu các trường đại học  Việt Nam không mau chóng sản sinh ra số lượng đủ kỹ sư và các nhà khoa  học, th́ theo một báo cáo của chính phủ năm 2009, giấc mơ Việt Nam sẽ  sớm tan.
  Các nhà kinh tế gọi đây là “bẫy  thu nhập trung b́nh”. Theo kịch bản này – một kịch bản đă từng rung hồi  chuông báo động ở Thái Lan và Malaysia – các nước nghèo trở nên quá phụ  thuộc vào lao động rẻ và vào việc sử dụng nguồn lực từ nước ngoài. Họ  có thể gặp khó khăn trong việc thực hiện một bước nhảy vọt về phía  trước, tức là tạo ra một lực lượng lao động được giáo dục, có khả năng  nghiên cứu và tự thiết kế sản phẩm của ḿnh.
  Những nước láng giềng thành  công của Việt Nam, như Singapore và Hàn Quốc, đă đầu tư rất mạnh vào hệ  thống trường đại học và vào khoa học để tự kéo họ ra khỏi cái bẫy thu  nhập trung b́nh. Ngày nay, Samsung và LG là hai công ty dẫn đầu thế giới  trong ngành sản xuất điện thoại di động và tivi.
  Theo ông Wolf Rieck, giám đốc  Đại học Việt-Đức, th́ có vẻ như Việt Nam cũng đang đi theo mô h́nh tăng  trưởng kinh tế của Trung Quốc – nhấn mạnh vào giáo dục. “Dường như ở  Việt Nam, có một mối liên hệ giữa chiến lược phát triển kinh tế từ một  mức năng suất thấp, với công nghiệp hóa để đạt tới một nền kinh tế dựa  vào khoa học”.
  Các nhà phân tích cho rằng vấn  đề ở đây là mặc dù Việt Nam có tỷ lệ biết chữ rất cao, 90% dân số, nhưng  các trường đại học của nước này lại đă bỏ phí hàng thập kỷ vào việc dẹp  bỏ dạy dỗ kỹ năng cứng (hard skill, nghĩa là khả năng chuyên môn, sự  thành thạo về chuyên môn – ND) mà ưu tiên khả năng ghi nhớ như vẹt và  học các lư thuyết cộng sản. Các doanh nghiệp đều phàn nàn rằng sinh viên  tốt nghiệp thường cần phải đào tạo lại. Ông Vơ bảo: “Rất thiếu những kỹ  sư có năng lực, có khả năng giải quyết vấn đề”.
  Hai năm về trước, Intel đă học  được một bài như vậy. Khi công ty này xây dựng một nhà máy sản xuất chip  trị giá 1tỷ USD ở ngoại ô TP.HCM, họ tổ chức một cuộc thi căn bản để  sàng lọc ứng viên, nội dung về các chủ đề công nghệ, dành cho 2.000 sinh  viên tốt nghiệp đại học. Chỉ có 90 người dự thi làm được trên 60%, một  nửa số ứng viên trượt bài kiểm tra năng lực Anh ngữ.   Các sinh viên công nghệ thông tin trường Đại học Bách khoa nghe Chủ tịch Microsoft Bill Gates nói chuyện ngày 22-4-2006Đảo ngược ḍng “chảy máu chất xám”
  Việt Nam đang vươn ra những  người Việt ở nước ngoài, t́m cách thuyết phục các học giả trở về quê  hương xứ sở và đào tạo sinh viên về kỹ năng cứng.
  Trường của ông Vơ, Đại học Quốc  tế (IU), hoạt động dưới danh nghĩa một nhóm trường thuộc sở hữu nhà  nước, gọi là Đại học Quốc gia Việt Nam (VNU). Nhà trường cố gắng làm dịu  cơn “chảy máu chất xám” bằng cách mời chào mức lương cao gấp 10 lần các  trường đại học sở tại khác.
  Một số sinh viên của IU có cơ  hội học hai năm tại các đại học ở Mỹ, Anh hay Úc, lối đào tạo nhằm phát  triển các kỹ năng khoa học cứng và tŕnh độ tiếng Anh.
  Trường IU được thành lập năm  2003. Nhà trường tuyên bố rằng họ lấy mô h́nh giáo dục của phương Tây  làm cảm hứng. Hiệu trưởng của IU, ông Hồ Thanh Phong, cho biết, sau vài  chuyến đi nước ngoài để t́m hiểu cách mở trường, “chúng tôi đă học được  từ Mỹ và các nước nói tiếng Anh khác” về làm thế nào điều hành một  trường đại học.
  Giáo dục nơi đây đang trở thành  một ngành kinh doanh lớn. Từ năm 2001 tới năm 2006, số sinh viên được  thu nhận vào các trường đại học tăng từ 900.000 lên 1,6 triệu, theo số  liệu của WB. Và từ nay cho tới năm 2020, Việt Nam hy vọng ít nhất một  trong số các trường học của họ sẽ gia nhập hàng ngũ 200 đại học hàng đầu  thế giới.
  Để làm được điều đó, có rất nhiều chiến lược.
  Chẳng hạn, Việt Nam đang trực  tiếp kêu gọi các chính phủ nước ngoài giúp họ mở trường. Một đại học dựa  trên chương tŕnh của Đức, Đại học Việt Đức ở TP.HCM, đă mở cửa cách  đây hai năm, đón 32 sinh viên. Họ dự định hoàn thành cơ sở hạ tầng vào  trước năm 2016 và hy vọng sẽ đón 12.000 sinh viên nhập học.
  Tại đất nước từng một thời là  quốc gia kiên định với chủ nghĩa cộng sản, đóng chặt cửa với người ngoại  quốc, h́nh thức hợp tác ấy gần giống như sự đột phá. Chẳng hạn, Đại học  Việt Đức là trường đầu tiên thuộc loại h́nh này có bản điều lệ hứa hẹn  một mức độ tự do học thuật giống như ở Đức.
  B́nh luận của độc giả David Brown: Nếu ông Cain thường xuyên viết  bài từ Việt Nam, tôi hy vọng ông sẽ biết một điều là, khác với người  Trung Quốc, người Việt Nam gọi nhau bằng tên, ví dụ Tiến sĩ Tới chứ  không phải Tiến sĩ Vơ! 
  Người dịch: Đỗ Quyên
  Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011 |