Nina Phạm đă tâm sự hết cả một quá tŕnh cô chăm sóc cho người đần tiên đem Ebola vào Hoa Kỳ. Cô cũng bị hoảng loạn va hoang mang trong suốt thời kỳ. Ngoài ra cô c̣n bị ảnh hưởng sức khỏe đáng kể, chính v́ thế cô muốn bệnh việc và các công ty có trách nhiệm hơn với những y tá. Cùng vietbf.com khám phá vụ việc.
Nina Phạm sau khi được chữa trị tại Bethesda, Maryland cuối tháng 10 năm ngoái. (Alex Wong/Getty Images)
DALLAS – Kể từ ngày sống sót sau khi bị Ebola vào tháng 10 năm ngoái, nữ y tá Nina Phạm đă thường xuyên bị ác mộng, đau đớn khắp ḿnh mẩy và bị rụng tóc. Luật sư của Nina nói như vậy hôm thứ Haim nhân dịp thông báo chính thức về đơn kiện của cô nhắm vào bệnh viện mà cô từng làm việc và bị lây Ebola.
Luật sư nói rằng Nina Pham c̣n bị người khác không dám đến gần v́ họ biết cô là “y tá bị Ebola.”
Trước khi luật sư lên tiếng, trong một cuộc phỏng vấn của một nhật báo được đăng hôm Chủ Nhật, nữ y tá 26 tuổi gốc Việt nói rằng một bệnh viện ở Dallas, nơi cô từng làm việc, và công ty mẹ của bệnh viện này đă không chịu lo cho cô, khi cô bị nhiễm Ebola trong lúc chăm sóc cho người đầu tiên ở Mỹ được chẩn đoán mắc phải căn bệnh gây chết người này.
Nina Phạm nói với báo The Dallas Morning News rằng cô đă nộp đơn ở Dallas County để kiện Texas Health Resources. Nina cho biết cô tiếp tục bị đau nhức ḿnh mẩy và mất ngủ, sau khi bị lây bệnh từ một bệnh nhân được cô chăm sóc trong mùa thu năm ngoái, tại bệnh viện Texas Health Presbyterian Hospital Dallas.
Nina cáo buộc rằng t́nh trạng thiếu huấn luyện và thiếu trang bị của bệnh viện, cũng như những vụ vi phạm quyền riêng tư của cô, đă biến cô thành “một biểu tượng của sự lơ là của công ty – một nạn nhân của chuyện một hệ thống bệnh viện không chịu chuẩn bị để đối phó với một cuộc khủng hoảng y tế đă được biết và sắp xảy ra.”
Cô cũng nói với nhật báo rằng Texas Health Resources lơ là cẩu thả, v́ công ty không chịu phát triển các chính sách, và không chịu huấn luyện các nhân viên của ḿnh, để điều trị cho những người nhiễm bệnh Ebola. Cô cũng nói với tờ báo rằng công ty không có trang phục bảo vệ thích hợp cho những người chữa bệnh cho Thomas Eric Duncan. Ông này đă qua đời sau khi trở thành người đầu tiên ở Mỹ được chẩn đoán mắc bệnh Ebola, phát xuất từ một đợt bùng phát ở Tây Phi.
Ông Duncan nhiễm bệnh trong một chuyến đi thăm Liberia quê hương của ông. Ông qua đời vào mùa thu năm ngoái, cách mấy ngày trước khi Nina Phạm được xét nghiệm dương tính với chứng bệnh này.
Theo Nina nói với tờ báo, cô rất sợ hăi khi Duncan được xét nghiệm dương tính với Ebola, giữa lúc t́nh trạng hoảng loạn và khiếp hăi lan ra khắp bệnh viện.
Cô nói với Dallas News Morning, “Tuy ở bên cạnh ông Duncan, nhưng tôi là người cuối cùng được biết ông được xét nghiệm dương tính. Người ta cứ nghĩ rằng y tá chăm sóc trực tiếp sẽ là người đầu tiên biết chuyện ấy chứ.”
Luật sư Charla Aldous của Nina nói với tờ báo rằng Texas Health Resources “đă sử dụng Nina như là một con tốt trong quan hệ tiếp xúc với công chúng.”
Theo Morning News cho biết, phát ngôn viên Wendell Watson của Texas Health Resources đă từ chối đề cập những chi tiết cụ thể của những điều Nina cáo buộc.
Ông Watson nói, “Nina Phạm đă can đảm phục vụ Texas Health Dallas trong một thời gian khó khăn nhất. Chúng tôi tiếp tục hỗ trợ cô ấy, và ước mong điều tốt nhất đến với cô. Chúng tôi vẫn cảm thấy lạc quan rằng cuộc đối thoại xây dựng có thể giải quyết được vấn đề này.”
Trong đơn kiện, Nina không nói rơ số tiền đ̣i tiền bồi thường là bao nhiêu, để bù đắp cho t́nh trạng đau đớn thể xác và nỗi khổ sở tinh thần, các khoản chi phí y tế, và chuyện mất đi các khoản lợi tức trong tương lai.
Nhưng Nina nói rằng cô muốn “làm cho các bệnh viện và các công ty lớn ư thức được rằng các y tá và các nhân viên chăm sóc y tế, đặc biệt những người ở vị trí tiền tuyến, đều là quan trọng. Và chúng tôi không muốn các y tá bắt đầu biến thành các bệnh nhân.”
Nina Phạm và một y tá khác làm việc tại Texas Health Presbyterian là Amber Vinson, cả hai đều đă bị nhiễm bệnh sau khi chăm sóc cho ông Duncan. Cả hai đều đă b́nh phục. Ban đầu Nina được điều trị tại Texas. Cô được cho về trong tháng 10 năm ngoái, từ một bệnh viện trực thuộc Các Viện Y Tế Quốc Gia ở gần Washington, D.C.