Sau khi điều trị giai đoạn cấp ở bệnh viện, bệnh nhân thường được điều trị củng cố tiếp tục tại gia đ́nh. V́ thế, việc chăm sóc bệnh nhân tại nhà đóng vai tṛ rất quan trọng trong quá tŕnh điều trị củng cố.
Lứa tuổi nào cũng thể mắc bệnh, nữ nhiều hơn nam 2 lần. Thiếu niên cũng mắc nhưng cách thể hiện có phần khác người lớn. Người cao tuổi dễ bị trầm cảm và thường bị bỏ quên.
Trầm cảm là trạng thái buồn rầu, chán nản, không c̣n hứng thú ǵ trong cuộc sống, ngủ không ngon, ăn nhạt miệng, làm việc không xong tới chót, mặc cảm thua kém, khi rầu rĩ lâu ngày hay nghĩ đến cái chết. Ngoài ra, bệnh nhân hay kèm lo lắng, nặng đầu đau mỏi vai gáy, ép ngực hồi hộp, tay chân lạnh…
Trầm cảm là rối loạn tâm thần hay gặp (3% nam giới và 9% nữ giới), bệnh tiến triển kéo dài và rất hay tái phát. Việc điều trị củng cố bằng thuốc chống trầm cảm đóng vai tṛ quan trọng để chống tái phát.
Thái độ của các thành viên trong gia đ́nh đối với bệnh nhân
Sức khỏe và đời sống cho biết, bệnh nhân cần được sự đồng cảm giúp đỡ của mọi thành viên trong gia đ́nh. Mọi người cần biết rằng trầm cảm là một bệnh chứ không phải là lười nhác hoặc giả vờ.
Thời gian điều trị bệnh, bệnh nhân rất hay than phiền về các rối loạn cơ thể của ḿnh như mất ngủ, đau đầu, đau bụng, đánh trống ngực, chóng mặt… Ngoài ra bệnh nhân c̣n hay than phiền giảm trí nhớ, khó tập trung, luôn bi quan, chán nản. Chính những điều than phiền của bệnh nhân khiến những người trong gia đ́nh rất khó chịu.
(Ảnh minh họa)
Dần dần họ mất đi sự cảm thông với bệnh nhân, tỏ ra khó chịu khi bệnh nhân kêu ca. Nhiều khi, họ quay ra chế giễu bệnh nhân, cho là bệnh nhân lười nhác không có ư chí phấn đấu, khắc phục khó khăn. Khi đó bệnh nhân sẽ dần cảm thấy ḿnh mất chỗ dựa về tinh thần. Họ không dám thổ lộ với mọi người về bệnh tật.
Bệnh nhân giấu ḿnh sống khép kín, ngại tiếp xúc với xung quanh. Họ cảm thấy cô đơn ngay trong chính gia đ́nh ḿnh.Nhưng trái lại, các thành viên trong gia đ́nh của bệnh nhân cũng tránh thái độ quá sốt sắng, lo lắng về bệnh tật của bệnh nhân.
Nhiều ông bố, bà mẹ v́ thương con và thiếu hiểu biết nên khi thấy con ḿnh kêu đau đầu, đánh trống ngực… đă lo lắng, vội vàng chạy t́m bác sĩ để khám xét. Làm như vậy không có lợi mà có thể khiến bệnh nhân lo lắng thêm, cho là bệnh của ḿnh là quá nặng và khó chữa.
Các thành viên trong gia đ́nh cần hiểu rằng trầm cảm là một bệnh tâm thần hay gặp, có nhiều triệu chứng cơ thể như đau đầu, mất ngủ, mệt mỏi, chán ăn… Nhưng trầm cảm không phải là bệnh nan y, có thể chữa khỏi hoàn toàn bằng thuốc chống trầm cảm. Nh́n chung, nếu được điều trị đúng, các triệu chứng hầu như hết sau 4-6 tuần.
Chăm sóc bệnh nhân
Chán ăn: Cho bệnh nhân ăn những thức ăn dễ tiêu, giàu năng lượng, hợp khẩu vị với bệnh nhân.Nếu có thể th́ cho bệnh nhân ăn theo chế độ tự chọn trong thời gian đầu điều trị.
Mất ngủ: Nếu bệnh nhân bị mất ngủ, không nên cho bệnh nhân ngủ trưa. Không cho bệnh nhân đi ngủ quá sớm. Tránh để bệnh nhân nằm trên giường suốt ngày, v́ như thế sẽ làm mất ngủ nặng thêm. Yêu cầu bệnh nhân đi lại, vận động trong ngày, nhưng tránh vận động nhiều vào buổi tối (v́ sẽ gây khó ngủ).
Mệt mỏi: Bệnh nhân trầm cảm hay mệt mỏi suốt ngày, đặc biệt buổi sáng họ luôn than phiền về điều này. Tuy nhiên chúng ta vẫn phải động viên bệnh nhân tập vận động. Bắt đầu là việc ngồi dậy, đứng lên, đi lại nhẹ nhàng trong nhà.
Khi đă quen có thể yêu cầu bệnh nhân làm các công việc đơn giản, nhẹ nhàng như nhặt rau, nấu cơm, quét nhà. Cũng nên yêu cầu bệnh nhân tập các môn thể thao trước đây bệnh nhân yêu thích như cầu lông, bóng bàn, bơi lội…
Chú ư, trí nhớ kém: Có thể đọc cho bệnh nhân nghe những mẩu truyện ngắn, những bài thơ hay mà bệnh nhân yêu thích. Sau đó, yêu cầu bệnh nhân đọc các bài báo, xem tivi, nghe đài… thời lượng nên tăng dần để tránh làm bệnh nhân mệt mỏi, chán nản.
Thuốc uống: Dùng thuốc chống trầm cảm theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ. Lúc đầu bệnh nhân có thể cảm thấy một số tác dụng phụ như khô miệng, đắng miệng, đầy bụng, mệt mỏi… giải thích cho bệnh nhân đó là điều b́nh thường và tiếp tục uống thuốc.
V́ các tác dụng phụ này, bệnh nhân hay tự ư bỏ thuốc. Mặt khác, bệnh nhân hay quên nên không uống thuốc đúng chỉ dẫn, do vậy người nhà phải cho bệnh nhân uống thuốc hằng ngày.
Phải kiểm tra xem bệnh nhân có uống thuốc thật không (hay giấu thuốc rồi vứt đi), uống có đủ liều không (hay bớt thuốc lại). Tốt nhất là giao việc quản lư thuốc cho một thành viên nhất định trong gia đ́nh. Chỉ thay thế bằng người khác khi trong t́nh huống bất khả kháng.
Tái khám: Nên giữ liên lạc thường xuyên với bác sĩ, báo cho bác sĩ biết về t́nh trạng của bệnh nhân. Sau 1-2 tháng điều trị, bệnh nhân đă ổn định nên sinh ra tâm lí chủ quan, cho rằng ḿnh đă khỏi bệnh. V́ vậy họ không đến khám bệnh nữa và bỏ điều trị củng cố.
Điều này rất nguy hiểm v́ bệnh nhân không được điều trị củng cố đầy đủ nên bệnh rất dễ tái phát. Khi bệnh tái phát, thường phải mất nhiều công sức điều trị hơn và thời gian điều trị củng cố cũng phải kéo dài hơn trước rất nhiều.
VietSN© sưu tập