Hơn 600 năm trước, nhà Nho Chu Văn An đă một thời làm rạng danh cho giới sĩ phu, nêu cao khí tiết thanh cao và thể hiện tinh thần chính trực “uy vũ bất năng khuất”. Sự nghiệp của Chu Văn An là sự nghiệp của một nhà giáo, khi c̣n ở quê th́ ông mở trường dạy học, khi làm quan th́ làm Tư Nghiệp Quốc Tử Giám, dạy thái tử và đào tạo nhiều học tṛ thành những người giữ trọng trách quốc gia, khi từ quan lại trở về quê dạy học. Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, Chu Văn An luôn được xem là biểu tượng của người thầy mẫu mực.

Tượng thờ Chu Văn An trong Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội. DR
|
Đọc sách Thánh hiền không phải để t́m kiếm công danh
Chu Văn An tên thật là Chu An, tên chữ là Linh Triệt, sau về ẩn cư th́ xưng hiệu là Tiều Ẩn. Khi ông mất, được vua phong tước Văn Trinh Công, nên người đời sau mới gọi là Chu Văn An. Ông sinh ra tại làng Văn Thôn, xă Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay thuộc xóm Văn, xă Thanh Liệt, huyện Thanh Tŕ, Hà Nội). Sử sách không chép rơ ông sinh năm nào, nhưng theo thần tích tại đ́nh làng Thanh Liệt, nơi thờ ông làm Thành Hoàng, th́ ông sinh năm Nhâm Th́n 1292 và mất năm Canh Tuất 1370.
Chu An là người chính trực, không màng danh lợi. Ông đỗ Thái học sinh (tức Tiến sĩ), nhưng không ra làm quan mà ở lại quê nhà mở trường dạy học. Ông có công lớn trong việc truyền bá giáo dục tư tưởng Khổng Giáo ở Việt Nam. Học tṛ của Chu An lên đến vài ngàn người, xa gần đều biết tiếng. Đến mức mà vua Trần Minh Tông vời ông ra làm Tư nghiệp Quốc tử giám (tức Hiệu trưởng).
Chu An là thầy dạy của hai vị hoàng tử mà sau này đều trở thành vua là Trần Hiến Tông và Trần Dụ Tông. Minh Tông làm vua từ năm 1314 đến năm 1329 th́ nhường ngôi cho con trai và lên làm thái thượng hoàng đến khi mất vào năm 1357. Kế nhiệm Minh Tông là vua Hiến Tông, trị v́ từ năm 1329 đến năm 1341 th́ mất. Sau đó, em trai Hiến Tông là Dụ Tông lên ngôi, trị v́ từ năm 1341 đến năm 1369.
Như vậy, Chu An làm Tư nghiệp Quốc tử giám trải ba triều: Minh Tông, Hiến Tông và Dụ Tông. Thế nhưng, đến năm 1357, sau khi thượng hoàng Minh Tông băng hà, th́ vua Dụ Tông được nắm trọn đại quyền nên bắt đầu lao vào cuộc ăn chơi, nghe lời xúc xiểm của đám nịnh thần, triều đ́nh trở nên thối nát. Trong khi chính sự suy đồi, t́nh thế nhiễu nhương, Chu An đă nhiều lần can gián vua và cũng là học tṛ của ḿnh. Cuối cùng ông đă hiên ngang dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần mà sử sách gọi là “Thất trảm sớ”. Sớ này ngày nay đă thất lạc nên không biết rơ chính xác tên của 7 tên nịnh thần mà Chu An xin chém. Nhưng qua việc vua Dụ Tông từ chối lời đề nghị của thầy ḿnh là Chu An, cũng đủ thấy thế lực và ảnh hưởng của 7 tên nịnh thần ấy lớn dường nào.
Thỉnh cầu không được vua chấp nhận, quan Tư nghiệp Chu An lập tức cáo quan về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương), lấy hiệu là Tiều ẩn, dạy học, viết sách cho tới cuối đời. Bên cạnh việc dạy học để truyền bá đạo Thánh hiền, Chu An c̣n sáng tác nhiều sách vở trong đó có Tứ Thư Thuyết Ước, Tiều Ẩn Thi Tập và Quốc Ngữ Thi Tập, nhưng đều bị người Tàu thời Minh cướp lấy mang về Kim Lăng cả. Ông c̣n soạn một cuốn sách thuốc có tên là Y Học Yếu Giải Tập Chu Di Biên.
Đóng góp to lớn cho nền giáo dục nước nhà
Thời đại Chu An là giai đoạn hậu chiến tranh chống quân ngoại xâm Nguyên-Mông. Sau chiến tranh, th́ việc dùng văn trị để định quốc an bang là điều tất yếu. Thế nhưng câu hỏi đặt ra là phải dùng ǵ đây giữa ba tôn giáo khi ấy là: Nho, Phật, Lăo?
Nên nhớ rằng, khi Phật giáo được các vua đầu nhà Trần coi trọng và thịnh hành, th́ Nho giáo đóng vai tṛ thứ yếu. Ban đầu chỉ có nhà chùa là nơi dạy chữ Nho và sách sử. Tuy nhiên, ở thời đại Chu An, Nho học bắt đầu từng bước lớn mạnh. Nhiều nhà Nho và thái học sinh không làm quan, về mở trường dạy sách Nho như trường hợp của Chu An. Hệ thống trường lớp tại các địa phương được h́nh thành. Đó là những tiền đề quan trọng để Nho Giáo dần tiến lên vai tṛ độc tôn trong hệ tư tưởng giáo dục và chính trị thời Hậu Lê thế kỷ 15.
Và đương nhiên Chu An có công không nhỏ trong công cuộc phát triển Nho Giáo này bởi trong hệ thống trường lớp như đă nói, th́ ta biết rằng trường của Chu An là nổi tiếng và có đến hàng ngàn học tṛ, và bởi mấy chục năm lèo lái con tàu giáo dục của quốc gia trên cương vị lănh đạo Quốc Tử Giám. Trước tác Tứ Thư Thuyết Ước của Chu An rất có thể được xem là một trong những diễn dịch, b́nh luận và giải thích Nho Giáo sớm nhất của Việt Nam. Thầy Chu An đào đạo đến hai thái tử và đều trở thành vua nhà Trần. Học tṛ của ông cũng có người làm quan cao như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát giữ đến chức hành khiển (tể tướng).
Với công đức đó, khi ông mất, vua Trần Nghệ Tông đă đặt tên thụy là Văn Trinh, truy tặng tước Công (tước lớn nhất trong năm tước mà người ngoài hoàng tộc có thể được phong dưới thời phong kiến), ban hiệu là Khang Tiết Tiên Sinh và được đem vào thờ trong Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử. Danh sĩ nổi tiếng thế kỷ 19 là Ngô Thế Vinh trong bài văn bia ở đền thờ Chu Văn An đă giải thích hai chữ “Văn Trinh” như sau: “Văn, đức chi biểu dă; Trinh, đức chi chính cố dă”, tức: Văn là cái vẻ đẹp bên ngoài của đức, Trinh là sự bền vững bên trong của đức, nghĩa là ngoại mạo và tâm hồn Chu An đều đẹp cả. Qua đó mới thấy vua nhà Trần ngưỡng vọng Chu An đến mức độ nào.
Vạn Thế Sư Biểu
Các sử gia phong kiến Việt Nam thời hậu Chu An đều không tiết lời ca tụng đức độ của ông, và luôn xem ông là Biểu tượng mẫu mực của người thầy giáo Việt :
- Sử gia Ngô Sĩ Liên nhận định về Chu An trong Đại Việt Sử Kư Toàn Thư như sau: “Người hiền được dùng ở đời thường lo vua không thi hành điều sở học của ḿnh. Vua th́ dùng người hiền mà hay lo người hiền không theo ư muốn của ḿnh. Cho nên, vua tôi gặp nhau, từ xưa đă là rất khó.
Nho gia nước Việt ta được dùng rất nhiều, nhưng kẻ th́ chỉ nghĩ đến công danh, kẻ th́ lo làm giàu, kẻ chỉ xu phụ, kẻ chỉ cốt ăn lộc giữ thân, ít ai chịu để tâm đến đạo đức, lo nghĩ việc giúp vua nêu đức tốt để cho dân được nhờ. Tô Hiến Thành thời Lư và Chu Văn Trinh đời Trần có lẽ cũng gần được. Nhưng Hiến Thành gặp được vua sáng nên công danh sự nghiệp được thấy ngay đương thời, c̣n Chu Văn Trinh đời Trần không gặp được vua anh minh nên chính học của Ông phải đến đời sau mới thấy được.
Văn Trinh thờ vua thẳng thắn mà can ngăn, xuất xử th́ làm theo nghĩa lư, đào tạo người tài th́ công khanh đều ở cửa nhà ông mà ra, tiết tháo của ông cao thượng đến thiên tử cũng không bắt làm bề tôi được. Huống chi, tư thế đường hoàng mà đạo làm thầy được nghiêm, giọng nói lẫm liệt mà bọn nịnh hót phải sợ. Ngàn năm về sau, nghe phong độ của ông, há kẻ điêu ngoa lại không thành liêm chính, kẻ yếu hèn lại không biết tự lập hay sao?”.
Ta thấy rằng, một sử gia nổi tiếng là khắc khe trong đánh giá lịch sử, nổi tiếng là kỹ lưỡng, kén chọn từng chữ từng lời như Ngô Sĩ Liên cũng đă dành bấy nhiêu câu khen ngợi đủ thấy Chu An được kính trọng đến thế nào.
- Trong Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận, sử gia Lê Tung thế kỷ 15 th́ ca tụng Thất Trảm Sớ của Chu An là: “Thất trảm chi sớ, nghĩa động càn khôn”, tức là: Bài sớ xin chém bảy tên nịnh thần, nghĩa khí động tới trời đất.
- Phan Huy Chú-một học giả lừng danh triều Nguyễn ca ngợi Chu An rằng:”Học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt ta trước sau chỉ có ḿnh ông, các ông khác không thể so sánh được”.
- Vua Tự Đức trong Việt Sử tổng vịnh viết về Chu An như sau:
Thượng tường sơn đẩu thế gian sư,
Tâm dự nhân quai nhất khứ trừ.
Thất trảm sớ thành thiên địa giám,
Trực thanh bất cộng hữu Trần suy.
Nghĩa là:
Gian tà đâu để tung hoành,
Khí cao vằng vặc lưu danh sáng ngời.
Sớ dâng chứng với đất trời,
Không đang tâm sống cảnh đời suy vi.
Đức độ khiến được cả quỷ thần
Đức độ của Chu An không chỉ được các bậc túc Nho ca ngợi, mà dân gian cũng dành niềm kính ngưỡng. Một trong những minh chứng cho sự kính ngưỡng đó là câu chuyện dân gian mang màu sắc dă sử về sự tích Đầm Mực được sử sách chép lại như sau:
Tương truyền khi ông mở trường dạy học, rất đông học tṛ t́m đến thụ nghiệp. Trong số học tṛ có một thanh niên, mặt mũi sáng sủa hôm nào cũng đến thật sớm. Ông khen là chăm chỉ nhưng hỏi th́ ngập ngừng không nói quê quán ở đâu. Ông cho người đi theo thấy người đó đi đến đầm Đại (nằm giữa các làng Đại Từ, Tứ Kỳ, Huỳnh Cung) th́ biến mất nên ngờ là thủy thần.
Năm đó, trời đại hạn, dân chúng khổ sở lắm. Một hôm, thầy Chu mới mở lời nhờ người học tṛ nọ làm mưa cứu dân. Người học tṛ ấy tuân lời thầy mới ra đứng giữa sân, lấy nghiên mực, ngửa mặt lên khấn, lấy bút thấm mực văi ra bốn phương. Lúc hết mực tung bút và nghiên lên trời. Lập tức, mây đen kéo đến, sấm chớp ầm ầm, trời đổ một trận mưa thật lớn. Người học tṛ đội mưa đi về, ra đến cửa th́ biến mất. Sáng hôm sau, không thấy y trở lại học, Chu An cho người đến đầm Đại t́m th́ thấy một con thuồng luồng thật to chết nổi trên mặt nước. Ông thương xót, sai học tṛ vớt xác mang về mai táng tử tế.
Dân làng thấy vậy lập đền thờ, nay vẫn c̣n. Chỗ nghiên mực ném lên rơi xuống nay thành đầm nước lúc nào cũng đen, gọi là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai, sau này là một làng văn học nổi tiếng (quê hương Ngô Thời Sĩ, Ngô Thời Nhiệm triều Hậu Lê). Trong đền thờ c̣n một đôi câu đối ghi lại sự tích này như sau:
Mặc nghiễn khởi tường vân, nhất bút lực hồi thiên tự thuận, Chu đ́nh lưu hóa vũ, thiên trù vọng thiếp địa phồn khô
(Mây lành từ nghiên mực bay lên, một ngọn bút ra công trời thuận theo lẽ phải,
Mưa tốt giữa sân son đổ xuống, ngh́n cánh đồng dội nước, đất đang khô cũng trổ mùa).
Niềm tôn kính của người xưa đối với thầy Chu Văn An là vậy. Thế ở thời đại chúng ta ngày nay th́ sao? Tấm gương đạo đức của thầy Chu có c̣n giá trị hay không? Sau đây, Phó giáo sư-Tiến sĩ Sử học Hà Minh Hồng sẽ minh thị đôi điều về những vấn đề này. Sử gia Hà Minh Hồng hiện là Trưởng Khoa Lịch sử của Trường Đại học Khoa học Xă hội và Nhân văn - Đại Học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh.
(c̣n tiếp...)
Lê Phước, rfi