Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) cứ nói ḿnh có quyền cai trị dân v́ đó là “tất yếu của lịch sử”, tính từ “cuộc Cách mạng tháng Tám 1945″ đă đặt đảng vào vị trí “lănh đạo” cho đến hai cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ rồi từ sau 1975 tiếp tục lănh đạo công cuộc “đổi mới”, nhưng tại sao chưa bao giờ đảng dám hỏi xem dân có muốn như thế không?
Chuyện phân tích “đúng, sai” từ biến cố lịch sử mùa Thu 1945 có đúng là “cuộc Cách mạng” do đảng Cộng sản lănh đạo hay chỉ là “cuộc cướp chính quyền từ tay Chính phủ Trần Trọng Kim” cho đến cái gọi là “cuộc chiến tranh giải phóng” ở miền Nam Việt Nam không phải là mục tiêu của người viết.
Bài này chỉ bàn về có hay không chính đáng việc đảng CSVN cứ muốn tiếp tục bám lấy “hào quang quá khứ” c̣n nhiều nghi vấn “đúng-sai” với tư duy và đường lối đă lỗi thời và lạc hậu để giữ cho bằng được “chiếc ghế” cầm quyền trong khi nhân dân và đất nước dứt khoát cần “tắm gội” cho ra con người mới để vươn lên có đủ sức mạnh chống lại những âm mưu thôn tính của Trung Cộng ngày một đến gần ở trên đất liền và ngoài Biển Đông.
Thắc mắc tại sao đảng không dám mở cuộc “trưng cầu dân ư” về “quyền đương nhiên” được lănh đạo đă không được trả lời từ khi ông Hồ Chí Minh, người lập ra đảng c̣n sống.
Sau 68 năm cầm quyền và phạm muôn vàn sai lầm cứ chồng chất lên măi năm sau cao hơn năm trước, nhiều người dân đă muốn đảng thử xét lại xem có c̣n khả năng tiếp tục lănh đạo hay nên kết thúc “vai tṛ lịch sử” của ḿnh để cho dân tự giải quyết lấy vận mệnh chính trị của đất nước bằng các kế hoạch chuyển tiếp dân chủ được ḷng mọi người mà đảng vẫn c̣n chỗ đứng trong lịch sử.
Rất tiếc, cho đến 2013 đảng CSVN đă t́m mọi cách từ chối bằng hành động khủng bố và bỏ tù những ai có ư muốn đảng “thoái vị”.
Đảng coi những “thắc mắc” hay “kiến nghị” của dân là nhằm “chống nhà nước và nhân dân”, là “âm mưu của các thế lực thù địch”, là “diễn biến hoà b́nh” do nước ngoài xúi dục, giật dây, là “mưu đồ của những phần tử cơ hội” trong nước.
Tất cả những ai muốn đảng tự ḿnh xét lại bản thân có c̣n xứng đánh lănh đạo dân tộc hay nên từ bỏ độc quyền, độc đảng để cùng nhân dân xây dựng đất nước trong dân chủ và tự do th́ liền bị Tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng lên án là những người “suy thoái chính trị,tư tưởng, đạo đức”.
Nhưng từ em bé đến người lớn ai cũng biết “đảng” không thể và không được xếp ngang hàng với “nhà nước”. Người dân chống đảng v́ đảng đă cướp mất quyền tự quyết của họ chứ không ai lại tự ḿnh chống ḿnh, hay chống lại Tổ quốc như báo chí của nhà nước và những cán bộ tuyên truyền của đảng vẫn xuyên tạc.
Như vậy th́ có phải là đảng độc tài không? Người Việt Nam nào cũng bảo vậy. Cả người nước ngoài cũng nói thế. Chỉ riêng những người lănh đạo đảng nói ngược lại “nhà nước ta là nhà nước pháp quyền, của dân, do dân và v́ dân”, hay tự phong cho ḿnh được quyền cai trị là do “đ̣i hỏi khách quan tất yếu của cách mạng Việt Nam”.
Chả có ai muốn nghe lối nói “cối chầy” như thế v́ lời đảng hứa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đă bao năm chứng minh toàn là nước bọt, trăm voi không được bát nước xáo.
Cho nên việc đảng tự cho ḿnh là “đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc”, hay “bao nhiêu lợi ích đều v́ dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, như ông Hồ Chí Minh từng nói là hoàn toàn “nước đổ lá khoai” từ bao nhiêu năm rồi.
CHUYỆN NĂM 2013
Từ khi đảng “đổi mới” để sống c̣n năm 1986, mệnh nước và vận dân tưởng như có cơ hội làm lại cuộc đời. Nhưng sau 27 năm, đến 2013, nhân dân tuy đă có nhiều người no cơm ấm áo và có người đă trở nên giầu có th́ một bộ phận lớn nông dân và công nhân vẫn chưa đủ ăn, chưa có đủ khả năng nuôi con học hành thành tài.
Ngược lại, đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là những kẻ có chức có quyền lại giâu sụ, sống sang mà suy thoái đạo đức. Tệ nạn tham nhũng, mua quan, bán chức, chia rẽ, hạ dân từ “làm chủ đất nước” xuống hàng nộ lệ cho quan chức đă làm băng họai xă hội từ giáo dục đến thuần phong mỹ tục.
Hội nghị Trung ương 4 và 5 của Khoá đảng XI đă chứng minh những thất bại dây chuyền không c̣n cứu được đă kéo dài từ Đại hội đảng 7 thời Tổng Bí thư Đỗ Mười.
Những căn bệnh truyền nhiễm của tham nhũng trong đảng viên đă tạo nên các “nhóm lợi ích” bao bọc nhau từ Trung ương xuống cơ sở dẫn đến thất bại đầu tiên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Trung ương 6 kết thúc ngày 15/10/2012. Mặc dù được Bộ Chính trị đề nghị xin chịu một h́nh thức kỷ luật cho ḿnh và cho “một đồng chí trong Bộ Chính trị”, không nêu danh tính nhưng ai cũng biết đó là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Ban Chấp hành Trung ương đảng không hội đủ số phiếu trừng phạt ông Dũng, người được Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang sau đó nói ám chỉ là “Đồng chí X” v́ không làm tṛn nhiệm vụ được giao phó, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế và 2 vụ thua lỗ nghiêm trọng hàng ngàn tỷ đồng của hai Tổng công ty Vinashin và Vinalines.
Hậu quả nhăn tiền đem lại sau Hội nghị 6 là đảng viên và nhân dân không c̣n tin vào khả năng lănh đạo của ông Trọng và của đảng v́ Ban Chấp hành Trung ương v́ đảng đă tự tay cắt đứt sự “liên hệ máu thịt” c̣n sót lại giữa dân với đảng.
Những căn bệnh xa dân, khinh dân và không c̣n sợ dân của các “quan cách mạng” đă căng lớn và gay gắt hơn trong mỗi cán bộ đảng viên có chức có quyền so với t́nh trạng của năm 2011.
Thời ấy, Tác giả Đỗ Hoàng Linh đă viết trên báo Công an Nhân dân (số ra ngày 04/02/2011): “Hiện nay, ở nhiều địa phương, ban ngành, những căn bệnh này đă trở nên khá phổ biến và có nguy cơ trầm trọng hơn, thậm chí khá nhiều cán bộ đảng viên c̣n biến thái đến mức lừa phỉnh, trấn áp, dọa nạt, khống chế quần chúng nhân dân, đặc biệt là đối với những ai dám dũng cảm nói thẳng, nói thật, lên án những hành vi quan liêu, tham ô, tham nhũng, hối lộ, lăng phí của những vị lănh đạo có quyền chức. Nhân dân thông qua phương pháp đối chứng, so sánh trước kia và bây giờ, lập pháp và hành pháp, việc này với việc khác, cách xử lư mức độ nặng nhẹ, thông tin xuôi chiều và ngược chiều… cuối cùng họ cũng t́m ra bản chất, kết quả kèm theo lời b́nh luận dân gian và những phương án đáng ra nên làm công khai, hợp lư, công bằng hơn, và: “Cán bộ nào tốt, cán bộ nào xấu, cán bộ nào có lầm lỗi mà có thể sửa đổi, ai làm việc ǵ hay, việc ǵ quấy, dân chúng cũng do cách so sánh đó mà họ biết rơ ràng.”
Bây giờ, hai năm sau, từ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng xuống đến cấp Thành phố, Tỉnh và Huyện, chỗ nào có cán bộ suy thoái, làm hỏng việc của dân th́ cứ việc “nhận lỗi” và “hưá sửa đổi” để tiếp tục tái phạm là xong.
V́ vậy mà ngày nay, cán bộ, đảng viên đă quên mất lời cảnh báo của ông Hồ Chí Minh nói với Bộ Chính trị ngày 20/1/1962: “Quan liêu, lăng phí, tham ô làm hại cho dân. Phải hiểu v́ dân mà chống tham ô lăng phí. Tham ô, lăng phí là một tội đối với nhân dân. Ai cũng phải chống”.
Nhưng không ai muốn chống v́ ai cũng tham nhũng th́ biết chống ai, tha ai?
Cho nên mọi chuyện vẫn được đảng viên dậm chân tại chỗ để mặc cho nước chảy qua cầu miễn sao quyền lợi không sứt mẻ là vui vẻ cà làng.
Bằng chứng sau 7 năm bắt tay vào việc, từ 2007, Ban Chỉ đạo Trung ương pḥng, chống tham nhũng do Thủ tướng Nguyễn tấn Dũng cầm đầu đă không làm nên cơm cháo ǵ.
Đảng lấy lại đặt vào tay Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhưng ít ai tin một sớm một chiều mà Ban Nội Chính, bây giờ do ông Nguyễn Bá Thanh, nguyên Bí thư Thành ủy Đà Năng cầm đầu có thể tháo gỡ hết dây nhợ chằng chịt do các phe phái trong đảng dương ra để bao che cho nhau.
Nhiều người ở Việt Nam dự đoàn phải đợi đến Hội nghị giữa nhiệnm kỳ của đảng dự trù vào tháng 5 mới có thể h́nh dung được đ̣n phép của Bộ Chính trị và của Ban Nội Chính sẽ đối phó với lũ giặc tham nhũng và đội ngũ “Quan cách mạng” như thế nào.
NGƠ CỤT CỦA HIẾN PHÁP
Song song với những khó khăn này, đảng c̣n phải đối phó với Phong trào quần chúng đ̣i đảng phải từ bỏ quyền lănh đạo độc tôn được tiếp tục ghi trong Điều 4 Hiến pháp 1992 sửa đổi.
Cuộc cách mạng bằng tư tưởng và lời nói của hàng chục ngàn người dân thuộc mọi thành phần trong xă hội, kể cả những cán bộ, đảng viên, nông dân và công nhân đă kết nối với nhau từ trong nước ra hải ngọai đứng lên đối lập với đảng CSVN.
Sau 2 tháng lấy ư kiến dân, kết qủa có vẻ như thuận chiều với ư muốn của đảng được tiếp tục toàn quyền lănh đạo mà không phải chia sẻ quyền lực với bất cứ tổ chức hay cá nhân nào, theo báo cáo hôm 13/3/2013 của Ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Theo lời Đại biểu Quốc hội Phan Trung Lư, Trưởng ban biên tập th́ “hầu hết các ư kiến đều đồng t́nh cơ bản với những nội dung chính của dự thảo.”
Về Điều 4 Hiến pháp, ông Phan Trúng Lư nói: “Ban biên tập dự thảo cho rằng quy định như trong điều 4 là phù hợp với ư chí, nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với vai tṛ lănh đạo của Đảng đă được khẳng định trong quá tŕnh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời cũng phù hợp với yêu cầu đổi mới phương thức lănh đạo của Đảng trước t́nh h́nh mới”.
Nhưng “ư chí” và “nguyện vọng của nhân dân” lấy đâu ra hay chỉ là sự tự biên, tự diễn và “tự lấy của người làm của ḿnh” của ông Lư?
Lập luận này giống hệt như các bài viết “bênh đảng” đến tận mang tai của một số cán bộ tuyên truyền cấp Tiến sỹ hay Giáo sư của Quân đội, Công an và Ban Tuyền giáo của Đảng.
Về vấn đề Quân đội phải “tuyệt đối trung thành với đảng hay Tổ quốc và nhân dân” được Ông Lư giải tŕnh: “Ban biên tập dự thảo cho rằng, ở nước ta, lực lượng vũ trang là công cụ của Đảng và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử cũng đă chứng minh rằng lực lượng vũ trang luôn luôn trung thành với Đảng và cũng chỉ đặt dưới sự lănh đạo của Đảng th́ lực lượng vũ trang mới thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ của V́ vậy, quy định của Hiến pháp về nội dung này là phù hợp và cần thiết”.
Quan điểm của Ban biên tập và Điều 70 của Hiến pháp sửa đổi hoàn toàn khác với tất cả 4 Bản Hiến pháp 1946, 1959,1980 và 1992, theo đó “lực lượng vũ trang nhân dân (quan đội) phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân”.
Nhưng ai đă “đảo ngược” bổn phận trung thành của quân đội như đă viết trong Điều 70 sửa đổi là một thắc mắc người dân có quyền được biết không?
Nhiều Trí thức và lăo thành cách mạng của đảng đă chỉ trích sự thay đổi này, nhưng cũng ngạc nhiên là vào ngày 19/2/2013, trong cuộc nói chuyện với các cựu chiến binh của Câu Lạc bộ Thăng Long ở Hà Nội, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang đă không đồng quan điềm với Ban biến tập Hiến pháp.
Ông Sang được trích dẫn nói: “Về vai tṛ của Đảng với quân đội. Tôi cho rằng Đảng ta lập ra quân là để bảo vệ Tổ quốc, nhân dân chứ không phải là lập ra là bảo vệ, trung thành với Đảng, v́ vậy quân đội phải trung thành, bảo vệ Tổ Quốc, nhân dân rồi mới đến Đảng, có như vậy mới đúng chứ. Nay v́ theo tập quán, nhận thức vẫn chưa thực hiện được”.
Tại sao lại “chưa thực hiện được”? Quân đội là của dân, dân là cha mẹ của Quân đội và của đảng nên không có lư do chính đáng để Quân đội ngồi lên đầu Tổ quốc và cha mẹ ḿnh.
Điều này cũng đồng nghĩa với câu hỏi: Dân nào muốn đảng cầm quyền?
Vậy đảng CSVN có dám nhận lời thách đố để cho một tổ chức độc lập thực hiện cuộc trưng cầu ư dân có quốc tế kiểm soát để xem người dân Việt Nam có c̣n muốn đảng cầm quyền nữa hay không?
Hay đảng sẽ căn cứ vào kết qủa lấy ư kiến dân có công an, cán bộ phường khóm đến tận mỗi gia đ́nh lấy chữ kư “đồng ư” để phô trương có đến 90% hoặc cao hơn đă chấp thuận Hiến pháp sửa đổi th́ liệu đảng có c̣n mặt mũi nào để cai trị nữa không?
Phạm Trần