25 năm trước, máu của các chiến sĩ Hải quân Việt Nam đă đổ để bảo vệ chủ quyền biển đảo. Sự hy sinh của họ góp phần to lớn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Từ những năm 1980, khi Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển được thông qua, tranh chấp chủ quyền biển đảo trở thành một trong những vấn đề nổi cộm trong quan hệ địa - chính trị toàn cầu. Ở Nam Mỹ, Anh và Argentina, tranh chấp chủ quyền quần đảo Falkland/Malvinas dẫn tới cuộc chiến năm 1982. Ở phía bên kia bán cầu, Biển Đông cũng nổi sóng v́ đây là khu vực có nhiều quốc gia tuyên bố chủ quyền.
Video clip về công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Hải quân nhân dân Việt Nam, trong đó, nổi bật là sự chỉ đạo của Đô đốc Giáp Văn Cương đối với hải quân khẩn trương tiến hành công tác chuẩn bị cho chiến dịch CQ-88, ngăn chặn sự lấn chiếm của Trung Quốc ở Trường Sa.
Đầu năm 1988, Trung Quốc bất ngờ cho quân ra chiếm đóng bất hợp pháp một số băi đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam gồm: đá Chữ Thập, Châu Viên, Gia Ven, Tư Nghĩa, Xu Bi. Đối phó với t́nh h́nh mới, Hải quân Việt Nam đă đưa quân ra trấn giữ các băi đá ngầm: đá Tiên Nữ, đá Lớn, đá Đông, Tốc Tan, Núi Le bước đầu ngăn chặn việc mở rộng chiếm đóng của Trung Quốc.
Căn cứ vào t́nh h́nh xung quanh khu vực quần đảo Trường Sa, Hải quân Việt Nam đă điều động các tàu vận tải thuộc Lữ đoàn 125 cùng lực lượng công binh ra các đảo Cô Lin, Len Đao, Gạc Ma nhằm xây dựng lực lượng trấn giữ đảo khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa.
Tàu vận tải HQ-604 lên đường bảo vệ chủ quyền biển đảo 25 năm trước. Ảnh tư liệu.
Cuộc chiến không cân sức
Trong khi Hải quân Việt Nam chỉ điều động 3 tàu vận tải HQ-604, HQ-505 và HQ-605 không được trang bị vũ khí cùng lực lượng công binh được trang bị thô sơ ra xây dựng đảo, Hải quân Trung Quốc đă điều động lực lượng của 2 hạm đội Nam Hải và Đông Hải xuống khu vực quần đảo Trường Sa.
Số tàu chiến hoạt động thường xuyên tại đây tăng từ 9 lên 12 chiếc bao gồm: một tàu khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo, 3 tàu vận tải hỗ trợ, tàu đo đạc và một tàu kéo cỡ lớn. Rơ ràng tương quan lực lượng giữa 2 bên chệnh lệch nhau quá lớn, trong khi Hải quân Việt Nam chỉ sử dụng các tàu vận tải chở công binh và vật liệu ra xây dựng đảo thuộc chủ quyền hợp pháp của Việt Nam th́ phía Trung Quốc lại sử dụng tàu chiến trang bị vũ khí hạng nặng để tấn công chiếm đóng bất hợp pháp các đảo và băi đá ngầm thuộc chủ quyền Việt Nam.
Dù chỉ được trang bị vũ khí hạng nhẹ và phải chống chọi với những tàu chiến được trang bị vũ khí hạng nặng cùng khoảng 200 binh lính được trang bị đầy đủ, nhưng người lính Hải quân Việt Nam vẫn không hề nao núng và chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng.
Ṿng tṛn bất tử ở Gạc Ma
Nhằm thực hiện việc khẳng định chủ quyền đối với đảo Gạc Ma, sau khi thả neo gần đó, các chiến sĩ công binh trên tàu đă nhanh chóng triển khai tổ cắm cờ khẳng định chủ quyền và triển khai tổ bảo vệ đảo. Thấy vậy, phía Trung Quốc đă cho 2 xuồng đổ bộ chở 8 lính xông lên đảo giật cờ Việt Nam. Hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh bị lê đâm và bị bắn trọng thương, thiếu úy Trần văn Phương bị bắn tử thương, trước khi chết ông hô vang: "Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo, hăy để cho máu ḿnh tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân".
Bất chấp phía Trung Quốc dùng mọi biện pháp uy hiếp nhưng tàu HQ-604 vẫn không chịu rời đảo Gạc Ma. Hai tàu hộ vệ trang bị pháo hạm 100mm cùng một tàu hộ vệ tên lửa đă dồn hỏa lực bắn ch́m tàu HQ-604. Hầu hết cán bộ chiến sĩ trên tàu HQ-604 đă hy sinh hoặc mất tích.
Sau khi ủi lên đảo Cô Lin, cán bộ chiến sĩ tàu HQ-505 đă chiến đấu ngoan cường bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo.
Quyết tử bảo vệ đảo Cô Lin
Biết tàu HQ-604 đă bị phía Trung Quốc bắn ch́m không loại trừ khả năng sẽ tấn công tiếp tàu HQ-505, trước t́nh thế cấp bách, thuyền trưởng Vũ Huy Lễ đă ra lệnh cho tàu nhổ neo ủi băi để khẳng định chủ quyền. Đây được xem là một quyết định táo bạo, con tàu dài gần 100 mét, rộng 38 mét ủi lên đảo biến thành một pháo đài không thể ch́m. Thấy tàu Việt Nam đang ủi băi, các tàu chiến Trung Quốc dồn hỏa lực bắn dữ dội vào tàu HQ-505. Tàu bốc cháy sau khi trườn 2/3 thân tàu lên đá.
Sau khi ủi tàu lên băi, thủy thủ tàu HQ-505 nhanh chóng triển khai đội h́nh vừa dập lửa cứu tàu, bảo vệ đảo không cho xuồng đổ bộ của Trung Quốc tiến lên, đồng thời đưa xuồng đến cứu các chiến sĩ trên tàu HQ-604 bị bắn ch́m ở Gạc Ma (đảo Cô Lin và Gạc Ma chỉ cách nhau 3,5 hải lư khoảng 6,3km).
Tại đá Len Đao, các tàu chiến Trung Quốc đă sử dụng sự áp đảo về hỏa lực dùng pháo hạm 100mm bắn dữ dội vào tàu HQ-605 đang trấn giữ tại đây. Tàu bốc cháy và ch́m vào ngày 15/3/1988, một số thủy thủ đoàn trên tàu bơi về đảo Sinh Tồn, Thượng úy Nguyễn Văn Chương và trung úy Nguyễn Sĩ Minh tổ chức đưa thương binh về tàu HQ-505 đang nằm trên đá Cô Lin.
Quyết định táo bạo của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ đă giúp Hải quân Việt Nam bảo vệ thành công chủ quyền trên đảo Cô Lin, Len Đao cũng như ngăn chặn việc mở rộng chiếm đóng bất hợp pháp của Trung Quốc.
Những ngày tiếp theo, các tàu chiến Trung Quốc liên tục uy hiếp đảo nhưng cán bộ chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam vẫn không hề nao núng quyết tâm bám trụ trên tàu để bảo vệ đảo. Nhớ lại quyết định cho tàu ủi băi, ông Vũ Huy Lễ nay là đại tá về hưu chia sẻ: "Khi đó, toàn bộ hệ thống thông tin liên lạc trên tàu đă bị hư hỏng nặng nên tôi không thể báo cáo t́nh h́nh lên cấp trên. Quyết định cho tàu lao lên đảo được đưa ra trong t́nh thế ngàn cân treo sợi tóc. Sau khi bàn bạc với chính trị viên, thủy thủ trưởng và ngành trưởng hỏa lực, tôi đă đưa ra một quyết định trọng đại nhất trong đời binh nghiệp của ḿnh".
Măi măi nhớ ơn những anh hùng liệt sĩ đă hy sinh v́ chủ quyền biển đảo quốc gia. Ảnh: Người Lao động.
Trả lời báo chí, trầm mặc hồi tưởng gương chiến đấu bi hùng của đồng đội năm xưa, Đại tá Trần Minh Cảnh, nguyên Chủ nhiệm Chính trị Vùng 4 Hải Quân, nói: “Đó là cuộc chiến không cân sức khi Hải quân Trung Quốc với nhiều tàu chiến lớn, vũ khí hạng nặng, c̣n ta chủ yếu giữ đảo bằng ḷng quả cảm và ư chí sắt đá bảo vệ chủ quyền”.
thật là xót thương cho những người đă hy sinh v́ tổ quốc việt nam , nhưng rồi họ được đền đáp những ǵ? khi họ ngă xuống v́ tổ quốc hoặc họ không c̣n nguyên vẹn thân thể, có chăng họ chỉ được bố thí chút thức ăn thừa của bọn cầm đầu lảnh đạo , bọn lảnh đạo lợi dụng ḷng yêu tổ quốc của nhân dân , để đưa nhân dân vào con đường chết thế , và bọn lảnh đạo lợi dụng ḷng yêu nước của nhân dân để rồi vơ vét của cải của nhân dân làm lợi cho bản thân bọn chúng , hảy xem lại những gia đ́nh lảnh đạo việt nam , hiện giờ th́ biết chúng nó hút máu của nhân dân cở nào, tính mỗi đầu người việt nam nợ công là bao nhiểu? ngược lại lảnh đạo việt của cải không thể tính xuể, như vậy của cải nầy từ đâu mà có được ? chúng nó không cướp th́ củng hút máu nhân dân mới có được
Mấy tên Việt Gian MLCĐ chỉ khoái nói về Hoàng Sa 1974; c̣n bây giờ tụi chuột cống bám đít Chệt này, nếu nói về Trường Sa 1988 là đụng chạm mả cha của chúng nó, nên phản đối ngay...
Cập nhật lúc 20:45, 16/03/2013
Hăy c̣n đó Hoàng Sa
(ĐVO) - Phải làm sao để con cháu bây giờ và thế hệ mai sau khi nh́n lên bản đồ đất nước thân yêu th́ luôn luôn được nhắc nhở từ hồn thiêng sông núi rằng: “Hăy c̣n đó Hoàng Sa!”.
Ngày 20/1/1974, lợi dụng cuộc chiến tranh ở Việt Nam đă bước vào giai đoạn cuối, Trung Quốc cho quân chiếm Hoàng Sa.
Năm mươi tám (58) lính Hải quân của VNCH, 58 người con của dân tộc Việt Nam máu đỏ da vàng, đă ngă xuống. Máu của họ nhuộm đỏ một vùng lănh hải thiêng liêng của Tổ Quốc, nhưng đau đớn thay, họ vẫn không bảo vệ được mảnh đất ông cha để lại cho con cháu. Bọn xâm lược đă cướp mất Hoàng Sa cho đến tận bây giờ.
Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam
C̣n nhớ ngày 14/3/1988, khi Trung Quốc dùng nhiều tàu chiến bất ngờ tấn công đánh chiếm Trường Sa trong lúc Hải quân Việt Nam chỉ có ở đó 3 tàu vận tải chở lính công binh ra xây đảo.
Những người lính Hải quân tàu chiến trong đất liền nghe tin, máu như sôi lên sùng sục. Lúc đó, tôi chỉ là quyền thuyền trưởng một con tàu chiến loại BGM của Mỹ vũ khí trang bị 2 khẩu 37ly 4 ṇng, chỉ biết giậm chân lên sàn tàu kêu trời, bất lực…mà không biết làm sao. Hơn ai hết tôi hiểu, ḿnh với con tàu lạc hậu của ḿnh, không thể đến kịp Trường Sa. Chỉ đến đó, tôi cùng đồng đội mới hiểu hết sâu sắc nỗi ḷng của Trần Hưng Đạo khi viết hịch tướng sỹ có đoạn:
“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đ́a, chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, ăn gan uống máu của quân thù….” mà hồi học tṛ cứ khơi khơi…
Nếu như hồi đó tàu chiến của Hải quân Việt Nam trực chiến ở đó thường xuyên như sau này th́ không bao giờ xảy ra t́nh cảnh đó.
Bài học mà Trung Quốc nhận được là trí tuệ và ḷng dũng cảm của những người lính Hải quân Việt Nam khi “tay không” đối đầu với sức mạnh được trang bị vũ khí đầy đủ là đă như thế nào. Đó chính là sức mạnh vô địch, sức mạnh của ḷng yêu nước căm thù quân xâm lược, thà chết để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng.
Sức mạnh đó ngày nay được trang bị vũ khí hiện đại, tối tân không kém ǵ Trung Quốc th́ sẽ vô cùng đáng suy nghĩ trước khi hành động.
Vậy là, Sáu mươi tư (64) chiến sỹ thuộc lữ đoàn 125 Hải quân Việt Nam đă anh dũng hy sinh để bảo vệ Trường Sa. Máu của họ – những người con của dân tộc Việt Nam cũng đă nhuốm đỏ một vùng lănh hải thiêng liêng của Tổ quốc.
Họ được cả nước tôn vinh, Tổ quốc ghi công xứng đáng. Đó là nghĩa, là t́nh, là trách nhiệm của dân tộc đối với những người đă hy sinh xương máu của ḿnh bảo vệ đất nước.
Nghĩ đến Hoàng Sa, đến 58 người con của dân tộc Việt Nam đă ngă xuống ḷng bỗng dưng đượm buồn, xót xa…Chỉ cần một giọt lệ thôi – lệ của con Người do “non sông Việt Nam, dân tộc Việt Nam đă sinh ra” th́ họ cũng đủ yên ḷng nơi chín suối.
V́ thế những ǵ cần quên như những mất mát, đau thương, tủi nhục… th́ cố quên, c̣n những ǵ cần nhớ th́ phải nhớ. Phải làm sao để con cháu bây giờ và thế hệ mai sau khi nh́n lên bản đồ đất nước thân yêu th́ luôn luôn được nhắc nhở từ hồn thiêng sông núi rằng: “Hăy c̣n đó Hoàng Sa!”.
Lê Ngọc Thống
Bài này cho phokhuya, huonggiang4, minhrau, caocao1 đọc để mở mang trí tuệ
Những tên Việt Gian
rẻ rúng chính tổ quốc ḿnh
truyền nhân bọn Lê Chiêu Thống
bám đít bọn Tàu
xưng thần với Chệt
khát khao theo quân xâm lược
cày xe-tăng về giày mả tổ
tôi
sẽ không tiếc gươm đao
cứa cổ
sẽ không tiếc đạn
nhắm thẳng vào đầu
những kẻ Viet Gian sẵn ḷng làm ô-sin
theo đuôi “kẻ thù truyền kiếp”
mong xóa đất nước của ḿnh
khỏi bản đồ quốc tế
Những tên khốn kiếp "cộng ḥa"
Thích nói lời ..nhân nghĩa
cứ rống vang vang, ai biết thật ḷng ḿnh
cứ chụp mũ cộng quân cho bất kỳ ai nói ngược
rồi sau “hậu trường” hoan hỉ .. lạy cha Tàu
(Sáng tác quá nhanh, sẽ hiệu đính sau)
Last edited by ChuyenTri.VIETGIAN; 03-16-2013 at 19:24.
Thử t́m hiểu những mắt xích bị đứt trong trận Trường Sa 14/3/1988
Trận Trường Sa ngày 14/3/1988 đă xẩy ra cách đây một phần tư thế kỷ, nhưng cho đến nay, để t́m hiểu thêm về trận đánh này người ta vẫn thấy có những khoảng trống khó hiểu. Quân sự của CSVN có ghi chép một số sự kiện về biến cố này, tuy nhiên với thói quen cố hữu cạo sửa, uốn nắn lịch sử cho mục tiêu tuyên truyền và nắm quyền của đảng, những ghi chép này có thể không hoàn toàn trung thực theo như nghĩa “sử” của nó. C̣n đảng CSVN vẫn khoe rằng họ lănh đạo đất nước đi “từ chiến thắng này sang chiến thắng khác” nhưng hai biến cố lớn và quan trọng là Trường Sa 1988 và trận biên giới phía bắc trước đó lại không được khoe ra và hoàn toàn không được một sử sách nào của họ đề cập đến.
Có lẽ h́nh ảnh rơ rệt và duy nhất về trận đánh Trường Sa là video tuyên truyền của Trung Cộng được tung trên mạng internet từ năm 2008. Qua đó, người ta thấy những người lính Việt Nam đang lom khom dưới biển, nước ngập tới lưng. Sau mấy tiếng “tả, tả, tả!….” (đánh, tấn công), các súng lớn súng nhỏ trên tàu chiến Trung Cộng thi nhau xả đạn vào những người lính và ba con tàu của Việt Nam. Tường thuật của 9 chiến sĩ VN sống sót trở về đi vào chi tiết và cận cảnh hơn, làm nổi rơ thêm sự tàn bạo của lính Trung Cộng được ghi lại trong video kể trên.
Trên một số diễn đàn Anh ngữ thảo luận về biến cố Trường Sa, người ta đă không khỏi ngạc nhiên về những ǵ họ thấy được trong video của Trung Cộng. Không ít người gọi đây là “cuộc tàn sát” chứ không thể nào coi là một trận hải chiến theo đúng nghĩa của nó. Từ đó câu hỏi được đặt ra là: “Tại sao phía VN (lănh đạo VN) lại để những người lính của ḿnh phải chiến đấu trong hoàn cảnh như vậy? Và ai phải chịu trách nhiệm về việc này?”
Đây cũng là câu hỏi được nhiều người VN đặt ra, nhất là vào thời điểm cận kề ngày giỗ của các tử sĩ Trường Sa.
Trước khi thử đi t́m câu trả lời cho câu hỏi vừa kể, thiết tưởng cũng nên biết qua một vài đặc điểm liên quan đến các trận đánh trên biển.
1/ Trên mặt biển mênh mông, ngoại trừ trường hợp thời tiết xấu cản trở tầm nh́n, tầm quan sát trên mặt biển rất xa. Độ xa này tuỳ thuộc theo độ cao của đài chỉ huy chiến hạm. Trong trường hợp thời tiết tốt, tầm quan sát chỉ bị giới hạn bởi độ cong của quả đất (tức là có thể thấy tàu bè khác ở tận chân trời). Ngay cả trường hợp thời tiết xấu hay trong đêm tối th́ qua phương tiện radar và bảng “vận chuyển chiến thuật” có sẵn trên các chiến hạm (ra đời sau thế chiến thứ hai), người ta dễ dàng tính toán được chính xác hướng đi và vận tốc tàu địch. V́ vậy, các trận đánh trên mặt biển (không có tàu ngầm tham chiến) thường th́ cả hai bên đều thấy và theo dơi nhau từ rất xa, và v́ vậy có nhiều thời gian thay đổi vận chuyển (hướng, vận tốc,v.v….), đội h́nh và chuẩn bị khá kỹ lưỡng cho việc nổ súng khi tàu địch trong tầm tác xạ.
2/ Các khẩu hải pháo của chiến hạm phần lớn là súng pḥng không, sơ tốc lớn (sơ tốc: Vận tốc đầu đạn khi ra khỏi ṇng súng) nên có sức công phá mạnh và đạn đạo tương đối thẳng (dễ trúng đích), có nhịp bắn nhanh và tương đối chính xác trong tầm sát hại. Các loại pháo 37 ly, 40 ly được đề cập đến trong trận Trường Sa thuộc loại này. V́ vậy, súng cá nhân với tầm bắn trên 1 cây số và tầm sát thương 200m trở lại không đóng vai tṛ quan trọng trong một trận chiến trên biển.
3/ Các ổ hải pháo trên chiến hạm không xoay tṛn 360 độ được, mà bị giới hạn ở một góc độ nào đó để không hướng và bắn vào đài chỉ huy của chiến hạm ḿnh khi lâm chiến. Do đó, khi tàu neo (hoặc đậu) tùy theo hướng gió và gịng nước, con tàu gần như nằm ở một hướng độ nhất định nào đó. V́ không xoay tṛn 360 độ được, khi tàu neo, một vài ụ súng có thể không hướng về phía chiến hạm địch được.
4/ Do đặc tính về không gian và tầm hoạt động rộng lớn và chiến trường trên biển cũng thường ở rất xa căn cứ, đ̣i hỏi thời gian di chuyển; v́ vậy các chiến hạm thường thực hiện những công tác dài ngày theo kế hoạch đă định trước với loại chiến hạm và các khí tài phù hợp cho nhiệm vụ.
5/ Ngoại trừ đang ở trong cuộc chiến với nước thù địch, mọi quyết định lâm trận với một lực lượng ngoại quốc thường đến từ giới chức cao nhất của quốc gia với một số mục tiêu cụ thể. Thí dụ như tổng thống Mỹ quyết định mở các trận chiến ở Trung Đông, thủ tướng Anh với trận Falkland (1982); hoặc Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu với thủ bút ra lệnh hai điểm cho trận chiến Hoàng Sa.
a/ Ḱm chế và đuổi tàu Trung Cộng ra khỏi lănh hải Việt Nam,
b/ Trong tường hợp bất khả kháng th́ toàn quyền hành động để bảo vệ chủ quyền đất nước.
Với các điểm khá phổ quát liên quan đến trận chiến trên biển vừa liệt kê ở trên, kiểm điểm lại những ǵ đă diễn ra ở trận Trường Sa th́ dường như tất cả đều có sự bất thường nào đó.
“Trung Quốc là bạn hay thù. Chúng đánh ta, ta có đánh trả không?” Cấp trên vẫn im lặng hoặc trả lời không rơ ràng.
Trong một bài viết mới đây trên trạng mạng Việt Study (1), tác giả Lê Ngọc Thống đă rất chính xác khi đặt vấn đề: “Trước một kẻ thù to lớn, hung hăng, hiếu chiến, điều quyết định đầu tiên là Hải quân Việt Nam có dám đánh lại chúng hay không? V́ chỉ khi dám đánh mới nghĩ ra cách đánh để thắng.”
Ở trận Trường Sa 1988 tiền đề này gần như không ai đặt ra. Mắt xích lănh đạo chỉ huy bị đứt ở cấp cao nhất. Trong hồi ức về trận chiến này, dưới bút danh Phạm Trung Trực, một sĩ quan hải quân trong chiến dịch CQ 88 bảo vệ Trường Sa lúc đó đă thuật lại rằng:
“Cuối tháng 2-1988 Hải quân Trung Quốc tăng thêm 4 tàu hộ vệ tên lửa, hộ vệ pháo xuống hoạt động ở khu vực quần đảo Trường Sa.
T́nh h́nh trở nên hết sức căng thẳng. Bộ Tư Lệnh hải quân liên tục báo cáo lên trên xin ư kiến chỉ đạo. Một trong những nội dung đề nghị cấp trên giải đáp ngay: Trung Quốc là bạn hay thù. Chúng đánh ta, ta có đánh trả không?
Cấp trên vẫn im lặng hoặc trả lời không rơ ràng.“
Với thái độ vô trách nhiệm này của hàng lănh đạo (tức Bộ Chính Trị), các cấp kế tiếp chẳng ai thấy cần thiết phải làm ǵ thêm, chưa nói đến việc “phải nghĩ ra cách đánh để thắng”. Lănh đạo như vậy là đă tệ rồi, nhưng thực tế th́ c̣n tệ hơn nhiều. Trên trang mạng AnhBaSam gần đây có đăng vài gịng tin ngắn về lệnh của cấp bộ chỉ huy kế tiếp (tức bộ quốc pḥng) trong trận Trường Sa như sau:
“Bộ trưởng Quốc Pḥng lúc đó là Lê Đức Anh đă ra lệnh cho các chiến sĩ của ta không được nổ súng bắn vào quân TQ tấn công chiếm đảo v́ sợ “bị khiêu khích”. Chỉ một nhóm chiến sĩ đă cưỡng lệnh này và bắn vào kẻ xâm lược.“
Với mệnh lệnh rất rơ ràng và cụ thể như vậy, có lẽ bộ tư lệnh hải quân bị ở vào thế mắc kẹt. V́ vậy, tuy có quyết tâm cao như thành lập bộ chỉ huy tiền phương để giải quyết mọi t́nh huống, chuyển các phương án chiến đấu phù hợp với t́nh h́nh từ “sẵn sàng chiến đấu” vào cuối tháng 10/1987 sang sẵn sàng “chiến đấu cao” vào đầu tháng 3/1988, đưa người và phương tiện ra đảo xây dựng công sự, nhận định xác đáng về vị trí chiến lược của đảo Gạc Ma, v.v… nhưng lại hoàn toàn không có một lực lượng nào để ngăn chặn sự lấn chiếm trong khi Trung Cộng này càng gia tăng cường độ gây hấn; cũng như để yểm trợ và bảo vệ cho các chiến sĩ của ḿnh đang làm nhiệm vụ xác lập chủ quyền đất nước. Cuối cùng, để đối đầu với lực lượng thật hùng hậu của địch, phía hải quân VN chỉ đưa đến chiến trường 3 tàu vận tải với lệnh: ngăn chặn sự lấn chiếm của Trung Quốc bằng cách nhanh chóng xây dựng các cơ sở vật chất trên một số đảo. Điều này cho thấy mệnh lệnh ở trên đă giới hạn quan niệm hành quân của hải quân rất nhiều, dù rằng các cấp chỉ huy hải quân chắc chắn đều biết rơ những đặc điểm chiến đấu trên biển như đă nêu ở trên để có thể thực hiện một phương án tối ưu nào đó, vừa bảo vệ được tối đa các ḥn đảo, vừa hạn chế thiệt hại đến mức tối thiểu.
Cũng có thể là do nhân sự và phương tiện chiến đấu hạn chế, nhưng nhiều phần đây có lẽ là cách để các chiến sĩ của ta không có cách nào bắn vào quân Trung cộng tấn công chiếm đảo, để không trái lệnh của bộ trưởng quốc pḥng. Bắn vào quân Trung Quốc là điều rất dễ xẩy ra nếu hải quân có một lực lượng chiến đấu đúng nghĩa ở trên mặt biển, v́ dù ở thế yếu hơn các chiến sĩ hải quân chắc chắn không cam chịu nhục nhă trước sự gây hấn và lấn chiếm của quân xâm lược.
Cũng v́ những mệnh lệnh như trên mà các chiến sĩ ở chiến trường đă hoàn toàn bị bất ngờ khi bị địch bắn xối xả vào lúc tàu đang neo đậu và một phần binh sĩ đang ở dưới biển. Cần nêu ra một vài chi tiết ở đây để có thể thể nhận thấy rằng các chiến sĩ hải quân có khả năng rất cao trong t́nh thế nguy nan lúc đó. Với quân số tổng cộng tại chỗ của cả HQ 604, 605, và 505 là khoảng hơn 80 người; nhân số này thực ra chưa đủ, hoặc chỉ tṛm trèm với cấp số nhân sự cho một dương vận hạm như HQ 505 hoạt động b́nh thường. Khi súng nổ một số lớn binh sĩ đang ở dưới nước, nhân số c̣n lại trên tàu hẳn là rất ít ỏi; thế nhưng trong t́nh huống đó họ đă thực hiện cùng một lúc 3 nhiệm sở trong ṿng 28 phút của trận chiến: Nhiệm sở neo (nhổ neo), nhiệm sở tác chiến (chống trả sự tấn công của Trung Quốc), nhiệm sở vận chuyển và ủi băi. Chính báo cáo của Trung Quốc cho biết họ có 6 người bị tử thương, 21 bị thương, nên có thể tin rằng những thiệt hại này do HQ 505 gây ra cho địch, v́ tại chiến trường lúc đó chỉ có chiến hạm này có loại pháo 40 ly và 20 ly, là loại súng có nhịp bắn nhanh, chính xác và tầm sát hại lớn.
Với những phân tích vừa kể, không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, chính thái độ vô trách nhiệm của cấp lănh đạo cao nhất, rồi sau đó mệnh lệnh không được bắn vào quân xâm lược là nguyên nhân dẫn đến việc không có một phương án hành quân để bảo vệ các chiến sĩ VN và chống trả lại địch hữu hiệu. Đồng thời cũng đặt các chiến sĩ tại mặt trận vào một t́nh thế hoàn toàn bất ngờ trước sự hiếu chiến và tàn bạo của kẻ thù. Với những mệnh lệnh không rơ ràng đó của cấp trên, có thể khiến các chiến sĩ tại mặt trận cho rằng tuy xẩy ra sự giành giật các ḥn đảo qua lại, nhưng sẽ không có nổ súng (v́ ḿnh không được phép bắn vào địch). Như vậy, đă rất rơ ràng ai là người chôn vùi các chiến sĩ Trường Sa.
Thái độ này của giới lănh đạo CSVN càng thể hiện rơ sau này qua việc bỏ trống sự kiện Trường Sa trong sử sách, cấm các phương tiện truyền thông nhắc nhở, cấm các buổi tổ chức tưởng niệm, thậm chí chữ “anh hùng” trên bia một anh hùng Trần Văn Phương cũng bị đục bỏ. Năm ngoái blogger Mai Thanh Hải đă nghẹn ngào v́ khóc cho các chiến sĩ Trường Sa mà cũng bị cấm, c̣n giáo sư Hà Văn Thịnh th́ uất nghẹn:
“Tháng ba
Sao tôi chẳng được quyền kể về các anh?
Lỡ gọi tên có thể là tù tội
Anh dũng hiên ngang bị vùi trong bóng tối
Việt Nam ơi, nhức mỏi đến bao giờ?”
(Trích bài thơ ’Tháng 3, ngày 14, Việt Nam ơi’ )
Lê Vĩnh Thu
Sao Mai
Người từ cơi chết trở về viết th́ không thể dối trá được.
Thử t́m hiểu những mắt xích bị đứt trong trận Trường Sa 14/3/1988
Trận Trường Sa ngày 14/3/1988 đă xẩy ra cách đây một phần tư thế kỷ, nhưng cho đến nay, để t́m hiểu thêm về trận đánh này người ta vẫn thấy có những khoảng trống khó hiểu. Quân sự của CSVN có ghi chép một số sự kiện về biến cố này, tuy nhiên với thói quen cố hữu cạo sửa, uốn nắn lịch sử cho mục tiêu tuyên truyền và nắm quyền của đảng, những ghi chép này có thể không hoàn toàn trung thực theo như nghĩa “sử” của nó. C̣n đảng CSVN vẫn khoe rằng họ lănh đạo đất nước đi “từ chiến thắng này sang chiến thắng khác” nhưng hai biến cố lớn và quan trọng là Trường Sa 1988 và trận biên giới phía bắc trước đó lại không được khoe ra và hoàn toàn không được một sử sách nào của họ đề cập đến.
Có lẽ h́nh ảnh rơ rệt và duy nhất về trận đánh Trường Sa là video tuyên truyền của Trung Cộng được tung trên mạng internet từ năm 2008. Qua đó, người ta thấy những người lính Việt Nam đang lom khom dưới biển, nước ngập tới lưng. Sau mấy tiếng “tả, tả, tả!….” (đánh, tấn công), các súng lớn súng nhỏ trên tàu chiến Trung Cộng thi nhau xả đạn vào những người lính và ba con tàu của Việt Nam. Tường thuật của 9 chiến sĩ VN sống sót trở về đi vào chi tiết và cận cảnh hơn, làm nổi rơ thêm sự tàn bạo của lính Trung Cộng được ghi lại trong video kể trên.
Trên một số diễn đàn Anh ngữ thảo luận về biến cố Trường Sa, người ta đă không khỏi ngạc nhiên về những ǵ họ thấy được trong video của Trung Cộng. Không ít người gọi đây là “cuộc tàn sát” chứ không thể nào coi là một trận hải chiến theo đúng nghĩa của nó. Từ đó câu hỏi được đặt ra là: “Tại sao phía VN (lănh đạo VN) lại để những người lính của ḿnh phải chiến đấu trong hoàn cảnh như vậy? Và ai phải chịu trách nhiệm về việc này?”
Đây cũng là câu hỏi được nhiều người VN đặt ra, nhất là vào thời điểm cận kề ngày giỗ của các tử sĩ Trường Sa.
Trước khi thử đi t́m câu trả lời cho câu hỏi vừa kể, thiết tưởng cũng nên biết qua một vài đặc điểm liên quan đến các trận đánh trên biển.
1/ Trên mặt biển mênh mông, ngoại trừ trường hợp thời tiết xấu cản trở tầm nh́n, tầm quan sát trên mặt biển rất xa. Độ xa này tuỳ thuộc theo độ cao của đài chỉ huy chiến hạm. Trong trường hợp thời tiết tốt, tầm quan sát chỉ bị giới hạn bởi độ cong của quả đất (tức là có thể thấy tàu bè khác ở tận chân trời). Ngay cả trường hợp thời tiết xấu hay trong đêm tối th́ qua phương tiện radar và bảng “vận chuyển chiến thuật” có sẵn trên các chiến hạm (ra đời sau thế chiến thứ hai), người ta dễ dàng tính toán được chính xác hướng đi và vận tốc tàu địch. V́ vậy, các trận đánh trên mặt biển (không có tàu ngầm tham chiến) thường th́ cả hai bên đều thấy và theo dơi nhau từ rất xa, và v́ vậy có nhiều thời gian thay đổi vận chuyển (hướng, vận tốc,v.v….), đội h́nh và chuẩn bị khá kỹ lưỡng cho việc nổ súng khi tàu địch trong tầm tác xạ.
2/ Các khẩu hải pháo của chiến hạm phần lớn là súng pḥng không, sơ tốc lớn (sơ tốc: Vận tốc đầu đạn khi ra khỏi ṇng súng) nên có sức công phá mạnh và đạn đạo tương đối thẳng (dễ trúng đích), có nhịp bắn nhanh và tương đối chính xác trong tầm sát hại. Các loại pháo 37 ly, 40 ly được đề cập đến trong trận Trường Sa thuộc loại này. V́ vậy, súng cá nhân với tầm bắn trên 1 cây số và tầm sát thương 200m trở lại không đóng vai tṛ quan trọng trong một trận chiến trên biển.
3/ Các ổ hải pháo trên chiến hạm không xoay tṛn 360 độ được, mà bị giới hạn ở một góc độ nào đó để không hướng và bắn vào đài chỉ huy của chiến hạm ḿnh khi lâm chiến. Do đó, khi tàu neo (hoặc đậu) tùy theo hướng gió và gịng nước, con tàu gần như nằm ở một hướng độ nhất định nào đó. V́ không xoay tṛn 360 độ được, khi tàu neo, một vài ụ súng có thể không hướng về phía chiến hạm địch được.
4/ Do đặc tính về không gian và tầm hoạt động rộng lớn và chiến trường trên biển cũng thường ở rất xa căn cứ, đ̣i hỏi thời gian di chuyển; v́ vậy các chiến hạm thường thực hiện những công tác dài ngày theo kế hoạch đă định trước với loại chiến hạm và các khí tài phù hợp cho nhiệm vụ.
5/ Ngoại trừ đang ở trong cuộc chiến với nước thù địch, mọi quyết định lâm trận với một lực lượng ngoại quốc thường đến từ giới chức cao nhất của quốc gia với một số mục tiêu cụ thể. Thí dụ như tổng thống Mỹ quyết định mở các trận chiến ở Trung Đông, thủ tướng Anh với trận Falkland (1982); hoặc Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu với thủ bút ra lệnh hai điểm cho trận chiến Hoàng Sa.
a/ Ḱm chế và đuổi tàu Trung Cộng ra khỏi lănh hải Việt Nam,
b/ Trong tường hợp bất khả kháng th́ toàn quyền hành động để bảo vệ chủ quyền đất nước.
Với các điểm khá phổ quát liên quan đến trận chiến trên biển vừa liệt kê ở trên, kiểm điểm lại những ǵ đă diễn ra ở trận Trường Sa th́ dường như tất cả đều có sự bất thường nào đó.
“Trung Quốc là bạn hay thù. Chúng đánh ta, ta có đánh trả không?” Cấp trên vẫn im lặng hoặc trả lời không rơ ràng.
Trong một bài viết mới đây trên trạng mạng Việt Study (1), tác giả Lê Ngọc Thống đă rất chính xác khi đặt vấn đề: “Trước một kẻ thù to lớn, hung hăng, hiếu chiến, điều quyết định đầu tiên là Hải quân Việt Nam có dám đánh lại chúng hay không? V́ chỉ khi dám đánh mới nghĩ ra cách đánh để thắng.”
Ở trận Trường Sa 1988 tiền đề này gần như không ai đặt ra. Mắt xích lănh đạo chỉ huy bị đứt ở cấp cao nhất. Trong hồi ức về trận chiến này, dưới bút danh Phạm Trung Trực, một sĩ quan hải quân trong chiến dịch CQ 88 bảo vệ Trường Sa lúc đó đă thuật lại rằng:
“Cuối tháng 2-1988 Hải quân Trung Quốc tăng thêm 4 tàu hộ vệ tên lửa, hộ vệ pháo xuống hoạt động ở khu vực quần đảo Trường Sa.
T́nh h́nh trở nên hết sức căng thẳng. Bộ Tư Lệnh hải quân liên tục báo cáo lên trên xin ư kiến chỉ đạo. Một trong những nội dung đề nghị cấp trên giải đáp ngay: Trung Quốc là bạn hay thù. Chúng đánh ta, ta có đánh trả không?
Cấp trên vẫn im lặng hoặc trả lời không rơ ràng.“
Với thái độ vô trách nhiệm này của hàng lănh đạo (tức Bộ Chính Trị), các cấp kế tiếp chẳng ai thấy cần thiết phải làm ǵ thêm, chưa nói đến việc “phải nghĩ ra cách đánh để thắng”. Lănh đạo như vậy là đă tệ rồi, nhưng thực tế th́ c̣n tệ hơn nhiều. Trên trang mạng AnhBaSam gần đây có đăng vài gịng tin ngắn về lệnh của cấp bộ chỉ huy kế tiếp (tức bộ quốc pḥng) trong trận Trường Sa như sau:
“Bộ trưởng Quốc Pḥng lúc đó là Lê Đức Anh đă ra lệnh cho các chiến sĩ của ta không được nổ súng bắn vào quân TQ tấn công chiếm đảo v́ sợ “bị khiêu khích”. Chỉ một nhóm chiến sĩ đă cưỡng lệnh này và bắn vào kẻ xâm lược.“
Với mệnh lệnh rất rơ ràng và cụ thể như vậy, có lẽ bộ tư lệnh hải quân bị ở vào thế mắc kẹt. V́ vậy, tuy có quyết tâm cao như thành lập bộ chỉ huy tiền phương để giải quyết mọi t́nh huống, chuyển các phương án chiến đấu phù hợp với t́nh h́nh từ “sẵn sàng chiến đấu” vào cuối tháng 10/1987 sang sẵn sàng “chiến đấu cao” vào đầu tháng 3/1988, đưa người và phương tiện ra đảo xây dựng công sự, nhận định xác đáng về vị trí chiến lược của đảo Gạc Ma, v.v… nhưng lại hoàn toàn không có một lực lượng nào để ngăn chặn sự lấn chiếm trong khi Trung Cộng này càng gia tăng cường độ gây hấn; cũng như để yểm trợ và bảo vệ cho các chiến sĩ của ḿnh đang làm nhiệm vụ xác lập chủ quyền đất nước. Cuối cùng, để đối đầu với lực lượng thật hùng hậu của địch, phía hải quân VN chỉ đưa đến chiến trường 3 tàu vận tải với lệnh: ngăn chặn sự lấn chiếm của Trung Quốc bằng cách nhanh chóng xây dựng các cơ sở vật chất trên một số đảo. Điều này cho thấy mệnh lệnh ở trên đă giới hạn quan niệm hành quân của hải quân rất nhiều, dù rằng các cấp chỉ huy hải quân chắc chắn đều biết rơ những đặc điểm chiến đấu trên biển như đă nêu ở trên để có thể thực hiện một phương án tối ưu nào đó, vừa bảo vệ được tối đa các ḥn đảo, vừa hạn chế thiệt hại đến mức tối thiểu.
Cũng có thể là do nhân sự và phương tiện chiến đấu hạn chế, nhưng nhiều phần đây có lẽ là cách để các chiến sĩ của ta không có cách nào bắn vào quân Trung cộng tấn công chiếm đảo, để không trái lệnh của bộ trưởng quốc pḥng. Bắn vào quân Trung Quốc là điều rất dễ xẩy ra nếu hải quân có một lực lượng chiến đấu đúng nghĩa ở trên mặt biển, v́ dù ở thế yếu hơn các chiến sĩ hải quân chắc chắn không cam chịu nhục nhă trước sự gây hấn và lấn chiếm của quân xâm lược.
Cũng v́ những mệnh lệnh như trên mà các chiến sĩ ở chiến trường đă hoàn toàn bị bất ngờ khi bị địch bắn xối xả vào lúc tàu đang neo đậu và một phần binh sĩ đang ở dưới biển. Cần nêu ra một vài chi tiết ở đây để có thể thể nhận thấy rằng các chiến sĩ hải quân có khả năng rất cao trong t́nh thế nguy nan lúc đó. Với quân số tổng cộng tại chỗ của cả HQ 604, 605, và 505 là khoảng hơn 80 người; nhân số này thực ra chưa đủ, hoặc chỉ tṛm trèm với cấp số nhân sự cho một dương vận hạm như HQ 505 hoạt động b́nh thường. Khi súng nổ một số lớn binh sĩ đang ở dưới nước, nhân số c̣n lại trên tàu hẳn là rất ít ỏi; thế nhưng trong t́nh huống đó họ đă thực hiện cùng một lúc 3 nhiệm sở trong ṿng 28 phút của trận chiến: Nhiệm sở neo (nhổ neo), nhiệm sở tác chiến (chống trả sự tấn công của Trung Quốc), nhiệm sở vận chuyển và ủi băi. Chính báo cáo của Trung Quốc cho biết họ có 6 người bị tử thương, 21 bị thương, nên có thể tin rằng những thiệt hại này do HQ 505 gây ra cho địch, v́ tại chiến trường lúc đó chỉ có chiến hạm này có loại pháo 40 ly và 20 ly, là loại súng có nhịp bắn nhanh, chính xác và tầm sát hại lớn.
Với những phân tích vừa kể, không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, chính thái độ vô trách nhiệm của cấp lănh đạo cao nhất, rồi sau đó mệnh lệnh không được bắn vào quân xâm lược là nguyên nhân dẫn đến việc không có một phương án hành quân để bảo vệ các chiến sĩ VN và chống trả lại địch hữu hiệu. Đồng thời cũng đặt các chiến sĩ tại mặt trận vào một t́nh thế hoàn toàn bất ngờ trước sự hiếu chiến và tàn bạo của kẻ thù. Với những mệnh lệnh không rơ ràng đó của cấp trên, có thể khiến các chiến sĩ tại mặt trận cho rằng tuy xẩy ra sự giành giật các ḥn đảo qua lại, nhưng sẽ không có nổ súng (v́ ḿnh không được phép bắn vào địch). Như vậy, đă rất rơ ràng ai là người chôn vùi các chiến sĩ Trường Sa.
Thái độ này của giới lănh đạo CSVN càng thể hiện rơ sau này qua việc bỏ trống sự kiện Trường Sa trong sử sách, cấm các phương tiện truyền thông nhắc nhở, cấm các buổi tổ chức tưởng niệm, thậm chí chữ “anh hùng” trên bia một anh hùng Trần Văn Phương cũng bị đục bỏ. Năm ngoái blogger Mai Thanh Hải đă nghẹn ngào v́ khóc cho các chiến sĩ Trường Sa mà cũng bị cấm, c̣n giáo sư Hà Văn Thịnh th́ uất nghẹn:
“Tháng ba
Sao tôi chẳng được quyền kể về các anh?
Lỡ gọi tên có thể là tù tội
Anh dũng hiên ngang bị vùi trong bóng tối
Việt Nam ơi, nhức mỏi đến bao giờ?”
(Trích bài thơ ’Tháng 3, ngày 14, Việt Nam ơi’ )
Lê Vĩnh Thu
Sao Mai
Người từ cơi chết trở về viết th́ không thể dối trá được.
Bài này mang từ trang đất việt sang viết không trung thực chỉ hàm ư chỉ trích và chê bai , không có ư đóng góp hữu ích . Bài viết của tôi post ở trên mang tính xây dưng. Tại sao chỉ chuyên bơi móc một cuộc chiến đau thương của dân tộc VN , nh́n lại xem những người CSVN họ có đem vấn đề cuộc chiến HS ra để moi móc nói xấu như bài viết này đang làm không?
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.