Việt-Long, RFA
Trung Quốc không dấu diếm tham vọng quân sự của họ, nhưng Hoa Kỳ đă có lúc từng hy vọng Trung Quốc chọn một trong hai mục tiêu cho chính sách quân sự ấy: tranh thắng và đương đầu, hay hợp tác đôi bên cùng có lợi. Nhưng mấy năm gần đây, trước một chính sách của Bắc Kinh có nhiều phần nghiêng về phía tranh thắng và đối đầu, Hoa Kỳ đă theo đuổi một chính sách lưỡng diện tế nhị.

Tàu nghiên cứu hải dương Impeccable của Mỹ bị hai tàu Trung Quốc chặn đường ở biển Đông, 2009/WikiCommons photo
Bối cảnh
Một mặt, Washington tỏ ra thân thiện để vuốt ve, khuyến khích Trung Quốc đứng vào địa vị một cường quốc có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Mặt khác, Hoa Kỳ dùng sách lược khéo léo ngăn chặn đà cạnh tranh quân sự và thái độ gây hấn của Bắc Kinh bằng những cuộc đối thoại, thảo luận, thuyết phục, thay v́ đối xử với Bắc Kinh như với kẻ thù. Cùng lúc, Washington không quên tăng cường lực lượng quân sự bằng những kế hoạch tái phối trí, tăng cường vơ trang chưa bao giờ gián đoạn.
Trung Quốc cũng t́m mọi cách hóa giải sách lược ngăn chặn của Mỹ. Bắc Kinh tranh đua với Washington về khả năng quân sự, trước hết là v́ vấn đề Đài Loan, kế đó là vấn đề chủ quyền trên biển Hoa Đông với xứ Nhật Bản không tiện ồn ào phô trương nhưng không yếu kém về quân sự, và kế đó là chủ quyền những túi nhiên liệu khổng lồ ở biển Đông, mà họ gọi là biển Nam Trung Hoa.
Biển Đông được coi như sân trước của ngôi nhà Trung Hoa, nơi đó Bắc Kinh có ưu thế quân sự và chính trị vượt trội trước một khối quốc gia Đông Nam Á chia rẽ mạnh ai nấy sống, dù Philippines kêu la và Việt Nam dường như chỉ biết than thầm. Việt Nam vuốt ve ông láng giềng hung hăn bằng cách nhắc lại thù xưa với Mỹ, cố nhấn ch́m thù mới, cấm dân khuấy động mối căm hờn c̣n nóng bỏng v́ xương máu chiến sĩ ở Hoàng Sa 1974, biên giới phía bắc 1979-1986 và Trường Sa 1988. Vấn đề biển Đông đối với Trung Quốc chỉ c̣n là sự chờ đợi kết quả cuộc đấu tranh ngoại giao với Hoa Kỳ về vấn đề chủ quyền nơi này, trong khi nỗ lực thúc đẩy sự nản ḷng và đoạn tuyệt của Washington với Hà Nội trước chính sách nhu nhược và mờ ám của Việt Nam.
Trong khung cảnh toàn thế giới, trách nhiệm toàn cầu mà Hoa Kỳ tự đứng ra nhận lănh đ̣i hỏi Washington phải duy tŕ một lực lượng quân sự chiếm ưu thế tuyệt đối về phẩm chất và dồi dào về số lượng. Ngân sách quốc pḥng năm 2011 do Tổng thống Obama đề nghị là 665 tỉ đô la, Quốc hội thêm vào và thông qua 680 tỉ, chưa kể 37 tỉ đô la dành cho Iraq và Afghanistan trong dự luật bị Hạ viện hoăn sau khi qua được Thượng Viện. Qua năm 2012 ngân sách cho bộ quốc pḥng Hoa Kỳ là 711 tỉ, chiếm 41% chi phí quốc pḥng của cả thế giới, và tính chung mọi chi phí liên quan đến quốc pḥng của Mỹ th́ con số vượt trên 1 ngàn tỉ mỹ kim. Ngân sách mới được ban hành cho năm nay, trong tinh trạng cắt giảm chi tiêu và ngân sách chung, là 633 tỉ đô la.
Trong khi đó, để theo đuổi vị trí một cường quốc đại dương và trước hết chiếm ưu thế tuyệt đối trong các cuộc tranh chấp lănh hải ở châu Á, Trung Quốc cũng gấp rút đổ tiền vào quốc pḥng từ nhiều năm trước đó. Theo số liệu đáng tin cậy của Viện nghiên cứu hoà b́nh quốc tế Stockholm, chi phí quốc pḥng năm 2012 của Trung Quốc được công bố là 105 tỉ, tăng 11,2% so với năm trước, nhưng trên thực tế là 228 tỉ đô la, vượt ngưỡng 20% chi phí quốc pḥng của Hoa Kỳ, chiếm 8,2% chi phí quốc pḥng toàn thế giới, . Điều đáng lưu ư cho Đông Nam Á: Trung Quốc tuyên bố sự gia tăng chi phí quốc pḥng này là v́ t́nh trạng “các nước láng giềng không thân thiện”! Trong khi đó Bắc Kinh không ngớt tuyên truyền để Hà Nội rao giảng lại với người dân Việt cái gọi là “quan hệ 16 chữ vàng”. Không nói tới Hoa Kỳ, nhưng ai cũng hiểu “láng giềng không thân thiện” ở khu vực Thái B́nh Dương phía nam Trung Quốc c̣n là sự hiện diện của các lực lượng Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương trong mối liên minh có hiệp ước an ninh chung với Philippines, Nhật Bản, Thái Lan...
Trước ư đồ rơ rệt trong ván bài lật ngửa này, Hoa Kỳ phải làm ǵ? Trung Quốc sẽ dừng lại ở đâu trên con đường phát triển lực lượng quân sự ? Washington mong muốn Bắc Kinh dừng lại nơi nào?
Quan niệm chiến lược của Trung Quốc
Từ 1990 dưới thời Đặng Tiểu B́nh, Trung Quốc không c̣n cần đến chiến lược chiến tranh tiêu hao, hay tiêu thổ kháng chiến, của Mao Trạch Đông. Chiến lược chiến thuật của Bắc Kinh cho đến khi ấy chỉ dựa vào ưu thế quân số và hoả lực bộ binh, tỏ ra hữu hiệu ở những vùng ven biên giới với những nước nhỏ, là những chiến trường có cơ sở tiếp vận ngay trong nội địa sát cạnh.
Ưu thế này được chứng tỏ trong những trận bộ chiến từ 1979 đến 1986 ở biên giới Việt-Trung. Trên không và trên biển, hải quân Trung Quốc chỉ đủ khả năng ức hiếp những nước đang bị nội chiến bó tay, như Việt Nam Cộng Hoà với quần đảo Hoàng Sa, và những láng giềng đồng minh yếu kém, như CHXHCN Việt Nam với một đảo quan trọng ở quần đảo Trường Sa.
Nhung khi chứng kiến trên truyền h́nh quốc tế cuộc tấn công thần kỳ của Hoa Kỳ và đồng minh mở màn chiến tranh vùng Vịnh hôm 2 tháng 8 năm 1990, Chủ tịch Đặng Tiểu B́nh cùng Bộ chính trị và Quân Uỷ Trung ương hội họp khẩn cấp, ra chỉ thị dồn hết mọi nỗ lực đẩy mạnh công cuộc hiện đại hoá Quân đội Nhân dân Trung Hoa, theo chiến lược “Địa phương chiến” và “Tốc chiến tốc thắng”.
Trung Quốc từ đó chú trọng "hiện đại hoá" quân lực song song với sức mạnh của nền chính trị độc đoán và nền kinh tế phát triển nhanh chóng diễn tiến đúng “kế hoạch kinh tế 70 năm cho Trung Quốc” của Đặng Tiểu B́nh. Chính phủ và quân đội Trung Quốc bằng mọi cách phải hoàn thành những sứ mạng được giao phó theo chiến lược chuyển hóa an ninh quốc pḥng này. Bạch thư quốc pḥng năm 2004 và 2006 của Bắc Kinh mô tả con đường hiện đại hóa Quân đội Nhân dân Trung Hoa như “Cuộc cách mạng quân sự với đặc tính Trung Hoa”, chia làm ba giai đoạn:
Giai đoạn I: Giảm thiểu quân số và hiện đại hoá hệ thống pḥng thủ, nỗ lực tăng tiến kỹ nghệ quân sự. Công cuộc cải tổ quân sự nhằm gia tăng tính sẵn sàng chiến đấu của quân đội với những đơn vị quân sự chọn lọc, được huấn luyện đến mức cao nhất, tham dự những cuộc tập trận sát thực tế nhất, bao gồm cả những cuộc tập trận chung với Liên Bang Nga và các nước khác.
Giai đoạn II: tiến tới tŕnh độ hành quân phối hợp quân binh chủng hải lục không quân. Trung Quốc nhiều lần nhấn mạnh nhu cầu “thông đạt hóa”, mà Hoa Kỳ gọi là C4ISR (command, control, communications, computers, intelligence, reconnaisance, and surveillance) gồm các công tác chỉ huy, kiểm soát, liên lạc, computer, t́nh báo, thám sát và giám sát.
Bạch thư quốc pḥng 2004 của Bắc Kinh lặp lại chính xác những mũi nhọn chiến lược mà Ngũ Giác Đài dồn nỗ lực phát triển, bao gồm kỹ thuật vệ tinh và công cụ cảm nhận trên không, máy bay tự hành viễn khiển, cùng chiến tranh không gian ảo, hay không gian mạng.
Giai đoạn III: duy tŕ và phát triển lực lượng hạt nhân ngăn đe, thách đố quyền thống lănh quân sự của Hoa Kỳ ở bất kỳ nơi nào có thể thách đố. Quyết tranh đoạt ưu thế trong cuộc đối đầu quân sự để Hoa Kỳ không c̣n tự tin có thể chiến thắng dễ dàng và nhanh chóng, Trung Quốc nhắm khai thác những yếu huyệt khó bảo vệ của lực lượng quân sự Mỹ, sử dụng các h́nh thái chiến tranh không gian và không gian ảo, tấn công hàng không mẫu hạm, chống sức mạnh không lực. Điển h́nh, những phi đạn chống vệ tinh và phi đạn cao tốc chống chiến hạm mới đây của Bắc Kinh cho thấy quyết tâm san bằng khoảng cách về ưu thế không gian, không quân và hải quân của Washington.
Tăng tiến năng lực quân sự c̣n là con chủ bài để đe dọa Đài Loan đến nơi đến chốn và ngăn đe hay phản kích hữu hiệu một cuộc can thiệp quân sự của Mỹ. Tuy nhiên Trung Quốc tự thấy chưa đủ sức yểm trợ và bảo vệ an toàn cho các lực lượng nhảy dù và đổ bộ, là điều kiện tối hậu cho một trận tấn công chiếm giữ vĩnh viễn hải đảo này. Cuộc tấn công sẽ trở thành thảm họa khi hạm đội 7 tung lực lượng ra giúp Đài Loan.
V́ thế, thay cho lực lượng đổ bộ, hằng ngàn phi đạn ngắn tầm được bố trí ở duyên hải tỉnh Phúc Kiến, đặt trọn quần đảo Đài Loan dưới tầm băo lửa diệt vong, cùng với cuộc tấn công bao vây cô lập kinh tế Đài Loan bằng cách ngăn trở các phương tiện vận chuyển hàng không, hàng hải thương mại, không cho dễ dàng tiếp cận đảo quốc.
Tuy nhiên sau thời Giang Trạch Dân, giới lănh đạo Trung Quốc từ thời Hồ Cẩm Đào muốn dùng chính trị và kinh tế hơn là quân sự cho vấn đề Đài Loan, v́ đà phát triển quân lực không theo kịp Hoa Kỳ. Dù công cuộc kiến tạo lực lượng quân sự cân bằng với Hoa Kỳ vẫn là chiến lược chủ đạo, nhưng viễn ảnh cân bằng c̣n quá xa vời, nên công tác thiết lập ưu thế quân sự tuyệt đối trong khu vực Đông Á- Đông Nam Á đă được quan tâm không kém. Trung Quốc quyết tâm phát triển quân lực để bảo vệ lănh hải đầy tham lận mà họ đă giành chiếm và đơn phương độc đoán vạch ranh giới, bao trùm gần hết biển Đông và phần lớn biển Hoa đông đối diện Nhật Bản. Nhu cầu độc chiếm nguồn nhiên liệu và các thủy lộ huyết mạch đến Trung Quốc là nhu cầu căn bản cho công cuộc phát triển kinh tế và quân sự, hướng đến mục tiêu thách đố Hoa Kỳ.
Lực bất ṭng tâm?
Tuy nhiên, cùng lúc, từ nội địa, những bất ổn ngày càng gia tăng về số lượng và cường độ. Không chỉ Tây Tạng, Tân Cương, Tứ Xuyên luôn luôn sôi động v́ vấn đề sắc tộc, tự trị, mà Vân Nam, Trùng Khánh, Quư Châu cũng căng thẳng với những đ̣i hỏi của nông dân nghèo đói, trước cảnh xa hoa của những đô thị “chủ lực kinh tế” ở vùng duyên hải miền đông. Nền kinh tế mất đà thăng tiến vào lúc chu kỳ phát triển dường như đă hết giai đoạn khả quan. Người dân nghèo đ̣i hỏi công bằng kinh tế và tăng phúc lợi, nhu cầu phải thoà măn cho một giai cấp trung lưu đông đảo bằng dân số của Hoa Kỳ, sự bất quân b́nh về mọi mặt giữa thành thị-thôn quê, giữa các vùng duyên hải với vùng sơn cước, thị trường tài chính tham ô nặng đầy nợ xấu, dân số lăo hoá… Lực lượng quân sự hay cảnh sát sẽ càng làm rối thêm t́nh h́nh nội địa nếu đem ra sử dụng giữ an ninh trật tự, nên Bắc Kinh phải dành những ngân khoản lớn lao cho các vấn đề xă hội chính trị nội địa.
Nhưng dù không thể dành hết mọi tài nguyên cho quân đội, Bắc Kinh vẫn t́m mọi cách để dành ưu tiên hiện đại hóa và phát triển quân sự, và một khi ưu thế quân sự ở Đông Á- Đông Nam Á nghiêng về Trung Quốc th́ t́nh thế an ninh quốc pḥng nơi này sẽ biến đổi măi măi. May thay Hoa Kỳ vẫn có thể ứng phó với đà bành trướng khu vực của Trung Quốc bằng những biện pháp không làm quan hệ song phương quá căng thẳng hay đổ vỡ. Hoa Kỳ tỏ ra muốn trông chờ ở sức mạnh quân sự của Trung Quốc trong những viễn ảnh lạc quan hơn là tranh đua cao thấp.
Một lực lượng quân sự thiện chiến, có khả năng phối trí nhanh, hoạt động hữu hiệu, có thể trở thành hữu ích cho nỗ lực của các cường quốc trong việc hợp tác ổn định an ninh trật tự thế giới, chống và diệt khủng bố, nếu Bắc Kinh muốn đứng ngang hàng với khối NATO và chọn vai tṛ cường quốc có trách nhiệm với quốc tế. Vai tṛ của Bắc Kinh trong vấn đề Bắc Hàn chứng minh điều đó.
Trong mối hy vọng đầy lạc quan đó, Washington vẫn phải theo dơi chặt chẽ tiến tŕnh hiện đại hoá quân sự của Bắc Kinh, và trong những giả thuyết bi quan nhất, chiến lược đối phó với Trung Quốc phải thay đổi. Vài ví dụ, như những dấu hiệu dành ngân sách dồi dào nhất cho quốc pḥng, những lời lẽ cường điệu vô trách nhiệm trong cuộc giành chiếm lănh thổ lănh hải độc đoán, những lời tuyên truyền kích động nhân dân chống lại những “kẻ thù” mà dù không nói ra cụ thể ai cũng hiểu đó là người Mỹ. Những dấu hiệu báo động khác chưa xảy đến nhưng có thể dự đoán bao gồm nhưng không hạn chế trong những sự kiện như sự xuất hiện và lớn mạnh của một lực lượng lớn cho chiến tranh sinh hoá, nỗ lực kiến tạo lực lượng hạt nhân để cân bằng và chiếm ưu thế so với Mỹ, sự thay đổi quan niệm chiến lựoc hạt nhân từ “không đánh trước” sang “tiên hạ thủ vi cường”, hay những thương vụ vũ khí lớn lao cả về số lượng lẫn chủng loại, phẩm chất. Quan trọng nhất là một liên minh quân sự quốc tế mới dựa trên quân lực Trung Quốc liên kết với một số cường quốc quân sự, kinh tế khác, là biểu hiện chắc chắn tham vọng tranh thắng đă trở thành chiến lược cụ thể của Bắc Kinh trong việc thách đố địa vị siêu cường hàng đầu của Hoa Kỳ.
Những dấu hiệu đó, nếu xảy ra, sẽ cho thấy quan niệm chiến lược thực sự của Trung Quốc, sau cùng đưa đến khả năng quân sự không những vượt quá những điều kiện để chiếm giữ Đài Loan mà c̣n lạc hướng đối với vai tṛ “cường quốc có quyền lợi và trách nhiệm” trên bàn cờ quốc tế.
Chiến lược của Hoa Kỳ
Muốn đối phó chiến lược của Trung Quố, Hoa Kỳ phải đầu tư rộng răi để mạnh mẽ gia tăng sức mạnh quốc pḥng. Chiều hướng ấy phải được duy tŕ trong thời gian lâu dài sắp tới, dù dưới t́nh trạng phát triển kinh tế ra sao. Lực lượng quốc pḥng Hoa Kỳ phải đủ khả năng thực hiện những kế hoạch ngăn chặn ngắn hạn và trung hạn của chiến lược lưỡng diện đối với Trung Quốc.
Về phương diện quân sự, ngân khoản dồi dào cần được dành cho vũ khí và khí cụ tối tân ưu việt của không quân và hải quân. Một tỉ lệ cao của ngân sách quốc pḥng phải được dành cho những chiến đấu cơ tối tân chiếm ưu thế không trung tuyệt đối, những phi đội pháo đài bay chiến luợc, những hạm đội hàng không mẫu hạm và chiến hạm thế hệ mới, những máy bay tự hành viễn khiển (UAV) hoạt động tầm xa dài ngày, những tàu ngầm hạt nhân tấn công, và những phương tiện hay khí cụ C4ISR dưới nhiều h́nh thức cơ sở như chiến hạm, tàu ngầm, phi cơ, ngầm dưới mặt đất… cùng lúc phối hợp và thi hành những công tác chỉ huy, kiểm soát, liên lạc, computers, t́nh báo, thám sát và giám sát.
Cùng lúc, quân lực Mỹ c̣n phải tiếp tục tài trợ và duy tŕ vững chắc những khả năng cần thiết chính yếu khác để chiến đấu trong cuộc chiến chống khủng bố không bao giờ ngưng nghỉ. Thêm vào đó lại c̣n các chiến dịch quốc tế ǵn giữ hoà b́nh của Liên Hiệp Quốc, trong đó quân đội Mỹ dự phần, và thường là lănh đạo, với những cuộc chiến “cổ điển” trên những vùng sôi động của thế giới. Song song, Washington c̣n phải duy tŕ lực lượng ngăn đe hạt nhân và không hạt nhân, phải thi hành những kế hoạch pḥng vệ chống lại mối đe doạ triền miên về hiểm hoạ vũ khí tàn sát quy mô, bao gồm nhưng không hạn chế trong các khí cụ hạt nhân, sinh hoá học…
Tất cả những nhiệm vụ này đều phải được dành đủ ngân sách để hoàn thành tuyệt đối đúng, song song với nhau, không thể buông bỏ hay giảm nhẹ một nhiệm vụ nào v́ dành ưu tiên cho nhiệm vụ khác.
Đến nay, thêm với hậu quả kinh tế suy trầm, thương mại thâm hụt, một số hiện tượng về điều hành quản lư vụng về những cuộc chiến kéo dài ở một số địa bàn hoạt động trên thế giới cùng phí tổn lâu năm cho những nơi ấy đă hạn chế tài nguyên dành cho chiến lược “rào cản” ngăn chặn sự lớn mạnh nhanh chóng của lực lượng quân sự Trung Quốc. Chính quyền Hoa Kỳ, cả hành pháp và lập pháp, trong hiện tại và tương lai phải bảo đảm có đủ tài chính cho một hàng rào tinh tế chống lại Trung Quốc. Chiến lược này tinh vi ở chỗ có thể hạn chế hữu hiệu sự phát triển quân lực của Bắc Kinh mà vẫn phù hợp với phần hành “tiếp xúc thân thiện” với Trung Quốc, đồng thời phải nằm trong phạm vi khả năng tài chính của ngân sách bị cắt giảm từng năm kể từ 2013.
Vậy Hoa Kỳ làm cách nào ứng phó với quân lực Trung Quốc hiện đại hoá?